PDA

View Full Version : Suy tư và Cầu nguyện trong cuộc sống đời thường



Van_Lung
15-06-2008, 06:20 PM
Suy tư và Cầu nguyện trong cuộc sống đời thường

1. TÂM SỰ VỚI CHÚA



Nhắc đến cuộc đời của thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars. người ta không thể quên âu chuyện sau đây về một nông dân xứ Ars. Mỗi ngày trước khi ra đồng anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới rar đồng, khi trở về anh cũng ghé vào nhà thờ cầu nguyện như vậy. Trong xứ ai ai cũng nể và khính phục. Một hôm có người hỏi:

- Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế?.

Anh nông dân trả lời:

Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi.

"Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi" câu trả lời của anh nông dân xứ Ars diễn tả được gốc rễ của việc cầu nguyện. Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa. Máy móc tự độngcó thể làm hơn con người, cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng, vì lúc cầu nguyện con người nối liền sự kết hợp với Thiên Chúa".

Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô là cầu nguyện, không cầu nguyện, dù có làm phép lạ ta cũng đừng tin. Các tông đồ đã thưa với Chúa Giêsu rằng:" Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện" VÀ Chúa Giêsu đáp:" Khi các con cầu nguyện hãy nói: Lạy Cha chúng con ở trên trời. Xin làm cho danh cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xia Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày. Và tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con. Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ". Thật vậy, nếu các con tha loỗi cho người ta thì Cha các con ở trên ttrời cũng sẽ tha thứ cho các con. Nhưng nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng sẽ không tha lỗi cho các con".

Trong vài phút suy niệm này chúng ta hãy chú ý tới tinh thần phải có khi cầu nguyện. trong đoạn Phúc ÂM vừa đọc trên đây, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ lời kinh lạy Cha như những lời dạy nói về tinh thần phải có khi cầu nguyện, đó là tinh thần tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình và tinh t hần đơn sơ khiêm tốn, nhằm gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng. Khi anh cầu nguyện, thì đừng nhiều lời như kẻ ngoại giáo, vì họ nghĩ rằng nói nhiều thì được nhiều". Vì suốt ngày rao giảng Tin mừng nên mỗi khi đêm về, quì gối trước Chúa Giêsu Thánh thể, Thánh Phanxico có những lúc quá mệt mỏi phải ngủ gật trên bàn thờ, lúc ấy Ngài cầu nguyện với Chúa một caách đơn sơ như sau:" Lạy Chúa nếu linh hồn con khong 6tỉnh thức được với Xhhúa, thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa ".

Cầu nguyện là tâm sự với Chúa là Cha chứ không phải làm bài. Giờ cầu nguyện là giờ của quả tim chứ không phải là giờ của lý luận. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta không cô độc lẻ loi một mình. Thánh Phaolo tông đồ giải bày như sau: " Chúng ta không biết phải cầu nguyện như thế nào cho phải, nhưng Chúa Thánh thần cầu nguyện cho chúng ta với những lời kêu vang không thể diễn tả được".

Nhờ bí tích rữa tội mà ta đã lãnh nhận, mỗi người Kitô sẽ được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô và được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần để phát triển đời sống con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nếu ta không phải là người cầu nguyện thì không ai tin ta làm việc vì Chúa. Nếu muốn biết công việc tông đồ của ai thế nào thì hãy xem người đó có cầu nguyện hay không và cầu nguyện ra sao.

Lạy Chúa, xin hãy thương ban cho chúng con được tràn đầy Chúa Thánh Thần để canh tân chính mình và anh chị em trong môi trường chúng con sống. Xin Chúa sống trong con cho gắng bó với Chúa để con ở luôn trong Chúa. Xin đốt nóng tim con trong Thánh Thần siêu vời để con ở trong Chúa mãi mãi.

Van_Lung
15-06-2008, 06:21 PM
2. TÔN TRỌNG PHẪM GIÁ CON NGƯỜI


Người đã từng điều khiển bệnh viện phá thai lớn nhất thế giới vừa mới đến Phi Luật Tân. Ông đến đây không phải để cổ vỏ cho hành vi phá thai mà để tham dự một hội nghị quốc tế bàn về hậu quả khủng khiếp của việc phá thai.

Trong thời gian làm giám đốc bệnh viện chuyên phá thai, Bác sĩ Bernad Nafanson đã từng tham gia thực hiện khoảng bảy mươi lăm ngàn vụ phá thai. Trong cuộc phỏng vấn dành cho tờ báo xuất bản tại Phi Luật Tân, Bác sĩ Bernad Nafanson thú nhận ông đã bắt đầu lao vào tội ác này từ năm 1964 và nạn nhân đầu tiên của ông chính là đứa con gái của ông với một người bạn gái. Ông cho biết rằng tại New York Hoa kỳ, tính cho tới năm 1993 là năm ông quyết định từ bỏ tội ác, bệnh viện của ông phải chịu trách nhiệm về tất cả bảy mươi ngàn vụ phá thai. Ông cũng nói rằng ông là người đầu tiên thúc đẩy việc hợp thức hoá hành động phá thai tại Hoa Kỳ hồi năm 1968. Bác sĩ Bernad Nafanson nói như sau:" Là một người vô thần không biết kinh sợ Thiên Chúa là gì, tôi không hề cảm thấy áy náy trong lương tâm, tôi chỉ muốn giúp đở những người đàn bà bất đắc dĩ phải mang thai".

Quyết định trở lại đạo Công giáo của Bác sĩ Bernad Nafanson đã đến trong một biến cố xảy ra tại Montreal, Canada. Lúc đó, một người đàn bà đã nhờ ông giúp phá thai. Thai nhi đã hầu như gần chết bởi tay của người cha. Bác sĩ Bernad Nafanson kể lại:

Khi tôi thấy người đàn bà này, tôi bắt đầu có cái nhìn khác về sự sống. Tôi bỗng nhận ra rằng đuợc sống là một điều kỳ diệu biết chừng nào, cần phải dành cho các thai nhi không được sinh ra đặc ân được vui hưởng cuộc sống".

Hiện nay, bác sĩ Bernad Nafanson là thành viên của một nhóm người Mỹ đang tranh đấu để bãi bỏ luật cho phép phá thai. Ông nói rằng bệnh viện do ông điều khiển tại New York gồm có ba mươi lăm bác sĩ, tám mươi lăm y tá, mỗi ngày họ thực hiện một trăm hai mươi vụ phá thai với giá một trăm hai mươi lăm Mỹ Kim một vụ. Mỗi năm, bệnh viện này thu nhập từ sáu đến bảy triệu mỹ kim.

Sau đây là lời khuyên mà ông dành cho tất cả những ai đang tham gia vào hành động phá thai. Họ cần phải nghiên cứu kỹ càng hơn sinh thái học, hình thể học và những động thái của thai nhi để nhận thức rằng đây là một con người. Đây là một thành phần trong cộng đồng của Chúa, cần phải được bảo vệ bằng bất cứ giá nào. Giết thai nhi là một xúc phạm đến Chúa và gia đình nhân loại.

Kinh nghiệm trên đây của bác sĩ Bernad Nafanson gợi lên câu nói thời danh của văn hào Nga Doctoievski:" Nếu không có Thiên chúa thì con người có thể phạm bất cứ tội ác nào". Như viên bác sĩ đã thú nhận chính vì vô thần, nghĩa là không hề biết kính sợ thiên Chúa là gì cho nên ông mới xem nhẹ hành động sát hại thai nhi. Bất cứ một hành vi tội ác nào cũng đều bắt đầu bằng sự chối bỏ Thiên Chúa. Những trang đầu tiên của Thánh kinh cho ta thấy rõ diễn tiến ấy. Ông bà nguyên tổ loài người đã khởi đầu hành trinh tội lỗi bằng hành động chối bỏ và loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Như thế, tội lỗi , theo định nghĩa, là một hành vi chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa cho nên khi chối bỏ và chà đạp con người, con người cũng chối bỏ và chà đạp chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng mà con người không thể không xúc phạm khi xúc phạm đến con người .

Mùa chay là trường dạy bác ái. Giáo hội mời gọi chúng ta đào sâu ý thức về phẫm giá con người. Tôn trọng phẫm giá của chính mình là tôn trọng tiếng nói của lương tâm mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong đáy thẫm tâm hồn. Tôn trọng phẫm giá của tha nhân là biết nhận ra và tôn trọng hình ảnh của Thiên Chúa trong mỗi người từ lúc còn trong lòng mẹ cho tới khi chết.

Lạy Chúa Giêsu, để mạc khải cho chúng con Thiên Chúa Cha, Chúa đã tự đồng hoá với mỗi một con người, nhất là kẻ bé mọn nhất trong xã hội. Xin cho chúng con luôn biết nhận ra và yêu mến Chúa trong mỗi một tha nhân.

Van_Lung
15-06-2008, 06:22 PM
3. SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN


Một tác giả Mỹ đã ghi lại một câu chuyện về niềm tin như sau:

Tại một vùng bên Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt nẻ vàng úa. Ngày nào người dân trong vùng cũng ngước mắt nhìn lên trên trời với niềm mong đợi sẽ có một tín hiệu tốt, nhưng đất vẫn khô cằn, mưa vẫn không chịu rơi.

Một ngày chủ nhật nọ, tất cả các mục sư tại các nhà trong vùng kêu gọi mọi người đến tham dự một buỗi cầu ngyện chung tại quảng trường thành phố để xin trời đổ mưa. Mọi người được yêu cầu đừng mang theo bất cứ điều gì ngoài niềm tin của mình. Vào giữa trưa một ngày thứ bảy, tất cả mọi cư dân trong vùng đều tập trung tại quảng trường. Tất cả đều tin tưởng sức mạnh của lời cầu ngyện. Họ đến đó tràn trề hy vọng. Các vị mục sư rất cảm động khi nhìn thấy đám đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của họ. Từng đám đông đứng sát bên nhau, nắm tay nhau liên kết với nhau tron gcùng một niềm tin và hy vọng. những bài Thánh ca được cất lên một cách sốt sắng. Mọi người đều tin tưởng và chờ đợi phép lạ. khi buổi cầu nguyện vừa kết thúc, như có một lệnh thần diệu nào đó, những giọt mưa nhỏ đã bắt đầu rơi, những tiếng reo hò cũng bắt đầu vang lên. Mọi người đều phấn khởi trước phép lạ tỏ tường. Cầm trong tay bất cứ đồ vật gì, người ta cũng giơlên để biểu lộ niềm hân hoan. Nhưng từ xa nhìn về đám đông người ta chỉ nhìn thấy một biểu tượng đáng chú ý, đó là hình ảnh một cậu bé trai chín tuổi cầm dù giương lên cao. Em là người duy nhất mang theo dù để chuẩn bị đón mưa.

Thánh Augustino đã nói như sau: " Có đức tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy những gì chúng ta tin".

Trong câu chuyện trên đây, mọi người tham gia buổi cầu nguyện xin trời đổ mưa đều là những người có lòng tin nhưng người duy nhất nhận được phần thưởng của lòng tin là em bé trai cầm theo chiếc dù để trú mưa. Lắm khi trong cuộc sống đức tin, chúng ta tưởng mình tin, nhưng kỳ thực chúng ta chưa dám thể hiện những cử chỉ đích thực của lòng tin. Đúng hơn, niềm tin của chúng ta chưa đủ mạnh đựoc thể hiện bằng những hành động cụ thể đòi hỏi nhiều hy sinh và từ bỏ. Một em bé cầm dù giữa đám đông, đó là hnình ảnh của những đòi hỏi của đức tin.
Sống đức tin đích thực là dám sẳn sàng ngoi lên giữa đám đông để sống thực cho những đòi hỏi của đức tin. Sống đức tin đích thực là sẳn sàng lội ngược dòng để cố gắng thực thi những giá trị của Tin mừng.

Mùa chay là trường đào luyện của đức tin. Với những cố gắng chay tịnh hy sinh từng ngày, chúng ta được mời gọi đi vào một đức tin trưởng thành hơn. Sức mạnh của đức tin không dựa vào những biểu dương của số đông mà ở sự gặp gở của cá biệt thâm sâu của tâm hồn mỗi người, của Chúa. Đó là sức mạnh mà Chúa Giêsu đã nói đến khi Ngài mượn hình ảnh của hạt cải để nói về lòng tin: " Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, các con có thể chuyển núi dời non".

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con đức tin. Không có ơn Chúa, chúng con không làm được việc gì. Xin Chúa gia tăng lòng tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra muôn ơn lành của Chúa và đáp trả một cách quảng đại bằng những cố gắng sống cho đến cùng niền tin của chúng con.

Van_Lung
15-06-2008, 06:22 PM
4. SỐNG ĐỜI CẦU NGUYỆN


Một ngày kia, các tu sĩ hỏi thầy Serovin:
- Làm sao mà thầy có thể bảo những người thợ kia làm việc chăm chỉ đến thế mà không cần trông chừng họ, trong khi mắt chúng con không rời họ mà họ vẫn đánh lừa chúng con?
Thầy Serovin trả lời:
- Tôi cũng không rỏ. Tôi chỉ biết rằng vào mỗi buổi sáng, trước khi tới xưởng, tôi cầu nguyện cho họ. Tôi đến với họ bằng quả tim yêu thương. Khi tôi bước vào xưởng, tôi yêu thương họ với tình yêu thương dạt dào của lòng tôi. Tôi phân công cho họ rồi ra về với quyết định là sẽ cầu nguyện cho họ trong suốt thời gian họ làm việc. trong phòng tôi, tôi đặt mình trước nhan Chúa và cầu nguyện: " Lạy Chúa, xin thương nhớ đến Nicola, cậu còn nhỏ, mới hai mươi tuổi, cậu để lại con đầu lòng và vợ ở dưới quê. Chúa nghĩ xem câu ta đau khổ biết mấy khi phải xa lìa vợ con như thế. Xin chúa gìn giữ gia đình Nicola khỏi mọi tai biến" . Rồi tôi cầu nguyện cho những người thợ khác nữa. tôi sống như vậy đó, tôi cầu nguyện cho mỗi một người thợ, người này rồi đến người khác. Cuối ngày, tôi đến trao đổi với họ vài câu chuyện. Chúng tôi cầu nguyện chung với nhau và họ ra về nghỉ ngơi. Phần tôi, trở lại tu viện với nhiệm vụ còn lại của một đan sĩ.
Lời cầu nguyện luôn đi đôi với công việc bổn phận hàng ngày. Các cộng đoàn tu trì thường tổ chức làm sao để luôn bất cứ giờ nào cũng có một tu sĩ cầu nguyện trước nhan Chúa thay cho những tu sĩ khác đang chu toàn bổn phận nơi khác.
Trong đời sống từng cá nhân, chúng ta tổ chức thế nào để tâm hồn luôn hướng về Chúa, làm sao cho moọi việc hàng ngày được đưa vào trong mọi lời cầu nguyện. Tác giả tập sách Đưòng Hy Vọng đã khuyên các con tinh thần của mình sống đời cầu nguyện như sau: " Con hãy cầu nguyện luôn, không ngừng". Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn sống bởi lời Chúa,Thánh Thể, Thánh Kinh, Thánh Nguyện. Nếu không, con sẽ không có sự sống thần linh. Lời cầu nguyện của con phải phổ cập, quả tim con phaỉ chứa đựng cả thế gian. Nhưng đừng vì nó mà quên những thực thể trong con và chung quanh con. Đặc biệt, với tâm hồn tận hiến, đáng lẽ trong căn cước phải khai nghề nghiệp là cầu nguyện. Các nghề khác thế gian đều làm cả. Thế gian đòi hỏi con làm đại lý và nài xin con "hãy cầu nguyện cho tôi".
Như thầy đan sĩ Serovin được nhắc tới ở trên, chúng ta cần cầu nguyện luôn, cầu nguyện cho tất cả mọi người, nhất là những ai ta gặp hàng ngày, những ai có liên hệ đến ta.
Cần phải cầu nguyện luôn, cầu nguyện với hết lòng tin tưởng. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ: " hãy xin thì sẽ được, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Nào ai trong các người khi thấy con mình xin bánh mà lại đưa cho nó hòn đá ư, hay là nó xin con cá mà lại cho nó con rắn ư?. Vậy, nếu các con dù là kẻ xấu còn lấy của tốt mà cho con cái, phương chi Cha các các con ở trên trời sẽ không ban những sự tốt lành cho những kẻ khấn cầu Ngài hay sao?" (Mt 7,7-12).
Thử hỏi còn có lời nào có sức khuyến khích chúng ta cầu nguyện hơn những lời trên của Chúa Giêsu?.
Thiên Chúa là Cha tràn đầy yêu thương đối với mọi con cái của Ngài. Chúng ta không cầu nguyện vì chúng ta không nhìn nhận, không tin tưởng vào người Cha cao cả là Thiên Chúa. Tin mà không cầu nguyện là chưa tin thật sự. Tác giả tập sách Đường hy vọng đã nhận định như sau:" Con ngạc nhiên vì sao nhiều người mất ơn cứu rỗi, mất đức tin, phản bội giáo hội. trong bao nhiêu lý do luôn luôn có một lý do chính là họ đã bỏ cầu nguyện từ lâu rồi. Một người thánh mà không cầu nguyện là thánh giả. Con đợi xem họ sẽ sụp đỗ không mấy hồi".

Lạy Chúa, xin thương củng cố đức tin nơi con để con được sống kết hiệp với Chúa luôn mãi trong mọi giây phút cuộc đời. Với Chúa cùng tiến bước, con sẽ không còn sợ điều chi nữa. Xin chúa hãy đến ngự trong con cho con luôn sống tinh thần cầu nguyện và trung thành thực thi thánh ý Chúa mọi nơi mọi lúc.

Van_Lung
15-06-2008, 06:23 PM
5. NỀN TẢNG ĐÍCH THỰC CỦA GIA ĐÌNH


Một người con nuôi đã ghi lại câu chuyện do người mẹ nuôi của mình kể lại như sau:

Tháng 11/1947, trời lạnh như cắt, đây là mùa đông lạnh nhất từ môt trăm năm qua. Khi ba má đến nhà ga thì chiếc xe lửa đã dừng lại, phun ra những đám khói khổng lồ. Sau khi lên tàu, ba má khó có thể ngồi yên vì hồi hộp quá. Ba má chẵng để ý nhiều tới cái lạnh. cảnh vật trông thật đẹp, dường như cả miền đều đóng băng trắng xoá. Sau cùng, ba má tới nơi và đón xe buýt đến một toà nhà vĩ đại. bà giám đốc đang chờ ba má, cho uống trà để ấm người lên, rồi dẫn ba má đi thăm các em bé. Có rất nhiều trẻ sơ sinh, trẻ trai, trẻ gái, vài đứa tóc vàng, vài đứa tóc đen, có những đứa mắt xanh và những đứa khác mắt nâu như mắt của con. Ba má nhìn quanh một lúc lâu, có rất nhiều, rất nhiều đứa trong bọn các con rất đẹp. Ba con và má không biết làm sao để chọn. bỗng ba má bước tới một căn phòng mới, ở đó, trong chiếc nôi thứ hai ba má nhìn thấy con. Con đang sụt sịt mũi ngước nhìn ba má như đang chờ đợi ba má từ lâu, và ba má cũng đang chờ đợi con. Ba má cho rằng con là đứa con đẹp nhất trong nhà với làn da màu nâu đáng yêu và với mái tóc đen dày. người ta nói với ba má tên con là Susan và con được bốn tháng tuổi. bà giám đốc hỏi ba má:

- Đứa trẻ này được không?

Ba má đáp:

- Vâng, đây là đứa bé chúng tôi mong muốn.

Ba má quấn con cho ấm và đưa con ra ga. Trên xe lửa, nhiều người lại gần hỏi ba má:

- Ồ, cháu bé đẹp quá! Cháu là con của ông bà phải không?

Ba má đáp:

- Vâng, chúng tôi vừa tuyển chọn cháu.

Mọi người trầm trồ:

Ồ, ông bà chọn được cháu bé có cái nhìn tuyệt vời.

Ba má liền đáp:

- Vâng, chúng tôi đã chọn thế đấy.

Nghe mẹ nuôi tôi kể như thế, trong tôi dậy lên một tâm tình rất đặc biệt. tôi đã được ba má chọn chứ không ohải của trời cho như những đứa con do cha mẹ chúng sinh ra. nhiều năm nay, mỗi lần bước len xe lửa, tôi lại nghĩ đến cặp vợ chồng đang thì thầm với nhau trong toa xe, họ đang tới một nơi nào đó để tiếp nhận một đứa trẻ sơ sinh riêng cho họ. Theo tôi,"ba má đã chọn con" phải là những từ ngữ ngọt ngào nhất trong bất cứ ngôn ngữ nào.

Không thiếu những cha mẹ sát hại đứa con ruột thịt của mình. Không thiếu những cha mẹ mà con cái ra đời một cách bất đắc dĩ. Không thiếu những cha mẹ mà con cái là một gánh nặng. Nếu cha mẹ không chọn con cái mình bằng tất cả tình yêu thương thì máu mủ ruột thịt vẫn chưa phải là nền tảng đích thực của quan hệ giữa cha mẹ và con cái.

Trong phần mở đầu thư gởi giáo đoàn Êphêsô, thánh Phaolo đã nói về quan hệ giữa Thiên Chúa và chúng ta như sau: " Chúc tụng Thien Chúa là thân phụ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Chúa Kitô, từ cỏi trời người đã thi ân giáng phúc cho chúng ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Chúa Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước Thánh nhan Người ta trở nên tinh tuyền, thánh thiện nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền đinh cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa Giêsu Kitô để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời". Quả thật, chúng ta là con cái Thien Chúa. Tron gThánh Thần, như thánh Phaolo đã khẳng định, chúng ta được quyền gọi Người là Cha bằng tất cả thân thương trìu mến. Đây phải là niềm xác tín nền tảng của người tín hữu Kitô chúng ta, Người yêu thương chúng ta như con ruột thịt của Người. Mỗi chúng ta, dù thấp hèn bé mọn đến đâu cũng đều có một chỗ đứng ư việt trong trái tim của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn ý thức được phẩm giá cao trọng của chúng con và biết nhận ra phẩm giá ấy trong mỗi người anh em chúng con.

Van_Lung
15-06-2008, 06:23 PM
6. CUỘC SỐNG VĨNH CỮU


Trong mười một mẫu gương phục vụ nổi tiếng nhất trong Giáo Hội trong năm 2001, tạp chí Inside Vatican trong điện Vatican đã đề cao cha Micheal Giorgie, vị linh mục dòng Phanxicô đã hy sinh trong cuộc khủng bố ngày 11/ 9/2001 tại Hoa Kỳ. tạp chí Inside Vatican. Trong điện Vatican, đã đề cao cha Micheal Giorgie, vị linh mục trong dòng Phanxico đã hy sinh trong cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 tại Hoa kỳ.

Cha Giorgie sinh ra tron một gia đình di dân gốc Ái Nhĩ Lan. Là thành viên của đội cứu hoả New York, cha săn sóc tinh thần cho nhân viên cứu hoả. Một trong những nhiệm vụ của cha là an ủi và nâng đở tinh thần cho các gia đình của những nhân viên qua đời. Mỗi ngày, cha chứng kiến những nỗi đau khổ của không biết bao nhiêu người. Cha không chì an ủi và nâng đở các nhân viên cứu hoả, tất cả những ai quen biết cha đều chứng kiến cảnh cha chia sớt tiền của cho những người vô gia cư. Và các bạn của cha sẽ không bao giờ quên được hình ảnh của vị linh mục ngồi bên cạnh gường bệnh của em bé. Người ta lại càng thấy rỏ tấm gương hy sinh quảng đại ấy chiếu sáng trong cuộc khủng bố ngày 11/9/2001. khi những nhân viên cứu hỏa ùa vào toà nhà thương mại thế giới đang bốc cháy, họ biết rỏ mình đang đương đầu với chính cái chết, cha Giorgie cũng ý thức được diều đó, nhưng ngài vẫn đang cùng với họ len lỏi vào toà nhà đang sụp đổ. Cha ban bí tích xức dầu bệnh nhân cho những người đang hấp hối. Là người của niềm tin, cha tin ở ơn cứu rỗi muôn đời và cha liều mạng sống để mang lại ơn cứu rỗi ấy cho những ai đang đối diện với sự chết. Vị linh mục đã tháo bỏ chiếc mũ bảo vệ đội tren đầu để cử hành nghi thức cuối cùng cho một người lính cứu hoả bị một người phụ nữ từ trên một cửa sổ của toà nhà thương mai quốc tế nhảy xuống đè chết. trong khi ngài cử hành nghi thức thì một khối gạch rơi xuống trúng đầu , ngài chết tại chỗ.

Cha Micheal Giorgie đã trả giá cuối cùng là chính sự sống của ngài. Cha hy sinh mạng sống của cha cho các nhân viên mà cha hằng yêu thương và gọi là con cái của cha. Năm người lính cứu hoả đã mang cha vào trong một nhà thờ gần bên và đặc cha dưới chân bàn thờ trong y phục của một người linh cứu hoả. Họ khóc cha một lúc rồi trở lại hiện trường để cứu thêm những người dân khác. Giấy chứng tử của cha mang số 1, bởi vì thi thể của cha là thi thể đầu tiên được mang ra khỏi nơi đổ nát. Tại New York, người ta nói rằng cha phải là người chết số một, bởi vì cha là người hướng dẫn bao nhiêu người khác vào cổng thiên đàng.

Biến cố ngày 11/9/2001 sẽ mãi mãi được ghi khắc trong tâm khảm của mọi người trên khắp thế giới. Bên kia bao nhiêu cái chết và bao nhiêu thương tích là hình ảnh của vô số những bậc anh hùng. Nhiều người sẽ bị lãng quên nhưng một số sẽ mãi mãi tồn tại như những cột trụ của chiến thắng và khải hoàn với sự hy sinh quên mình. Giữa khối vụn vở và cát bụi trổ sinh những bông hoa của sự hy sinh quên mình. Trong thân phận bụi tro, con người phải trở về bụi tro. Nhưng bên kia tro bụi là sự sống mà sự hiến than vô vị lợi làm cho trở nên vĩnh cửu.
Mùa chay, chúng ta không chỉ suy nghỉ về than phận mong manh bất toàn của kiếp người. Niềm tin nướng cái nhìn của chúng ta về sự sống vĩnh cữu. Nơi đó, chân lý về con người luôn được ngời sáng. Con người chỉ tìm gặp lại bản than bằng sự hiến thân vô vị lợi.

Lạy Chúa,trong khi mưu tìm sự sống giữa những thực tại chóng qua ở đời này. Xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cữu.

Van_Lung
15-06-2008, 06:24 PM
7. CỐ GẮNG VÀ THÀNH CÔNG


Hôm ấy, hai bố con ông Đại cuốc đất làm cỏ vườn rau sau nhà. Ông cuốc phải một tảng đá bị chôn vùi dưới đất. ông bố nói:

-Cần phải đẩy tảng đà này đi dể khỏi choáng chỗ những luống rau.

Đại nhanh nhẩu đáp với tất cả thiện chí muốn giup bố:

-Con sẽ đẩy tảng đá cho.

Cậu bé dùng hết sức lực, vừa đẩy ,vừa nâng, lưng mồ hôi nhễ nhãi nhưng tảng đá vẫn không nhúc nhích được một li nào.

Chấp nhận sự bất lực của mình, cậu bé vừa thở hổn hển vừa thú nhận:

- Ba ơi, con không thể nào đẩy tảng đá đi được.

BA cậu nhìn cậu mỉm cười khích lệ:

- Con có thể làm được nếu con dung tất cả phương pháp con có trong tay.

Đại lại cố gắng hết sức, chân tay mệt rã rời. với hai hàng nước mắt chảy dài trên gò má, cậu kêu lên:

- Con không thể nào đẩy hòn đá được. Con đã cố gắng hết sức rồi đó.
Ba cậu âu yếm hỏi them:

Có thật con đã làm hết mọi cách rôi không?

Đại gật đầu, nhưng ba cậu lắc đầu nói:

- Chưa,con chưa thật sự làm hết cách, còn có một điều nữa con vẫn chưa làm, nếu con làm điều đó chắc hẳn con sẽ thành công.

Cậu bé ngạc nhiên hỏi them:

- Con còn quên điều gì nữa thưa ba?

- Ba ở ngay bên cạnh con đây, con có thể xin ba phụ giup mộttay nhưng con đã không xin, vì con nghĩ con có thể làm được một mình.

Đai khiêm tốn nói:

Vậy, xin ba giúp con một tay với.

Rồi hai bố con chung sức đẩy và chẵng mấy chốc tảng đá lớn đã được lăn ra khỏi những luống rau. Đại sung sướng reo lên:

Ba ơi, chúng ta đã thành công .

Cũng một cách tương tự trong đời sống thiêng liêng, thử hỏi đâu là hiệu lực của sức cố gắng con người trên con đường thiện? Chúng ta có thể tự cứu rỗi mình mà không còn cần ơn hộ giúp của Thiên Chúa chăng?

Trên thực tế, nhiều lúc chúng ta có cảm giác là mình phải gánh vác hết mọi gánh nặng của cuộc sống, là phải một minh đối phó, đương đầu với mọi khó khăn, thử thách. Nhưng không hẳn như thế, đối với những người có lòng tin, chúng ta đều biết rằng chúng ta không sống cô đơn cô độcvà Thiên Chúa cũng không tạo dựng con người để rồi bỏ rơi họ một mình chiến đấu với song to gió lớn giữa biển cả mênh mông là cuộc sống thế trần. Ngài luôn ở bên cạnh và sẳn sang giơ tay nâng đở, hộ giup. Vì tôn trọng tự do của mỗi người nên Ngài chỉ đợi chúng ta ngước mắt nhìn lên Ngài và cầu xin Ngài trợ giup cho, nhưng vì thiếu long tin nên nhiều khi chúng ta quen lãng sự hiện diện của Ngài trong đời sống chúng ta.

Chúng ta dễ nghĩ rằng những thành công tốt đẹp là hoa trái của sức riêng mình và hoàn toàn thuộc về chúng ta, nhưng phải công nhận đó là kết quả của ơn Chúa phù trợ và sức cố gắng của con người nữa. CHính Thiên Chúa là Đấng khởi sự mọi công việc và đồng thời cũng là Đấng hoàn tất mọi công việc ấy. Ngài chhỉ muốn con người cộng tác hết sức lực mìnhcho dù sự đóng góp ấy thật bé nhỏ đi nữa. Ngài muốn chúng ta nỗ lực cố gắng với tất cả khả năng sẳn có, khác nào như mọi sự tuỳ thuộc vào chúng ta, đồngthời Ngài cũng muốn chúng ta khiêm tốn đặc hết tin tưởng và trông cậy vào sự trợ giúp của Ngài, bởi vì thực sự mọi việc đều tuỳ thuộc nơi Ngài.
Phúc Âm thuật lại mẻ cá lạ lùng của các tông đồ sau một đêm vất vả mà chẳng bắt được con cá nào, nhưng với lòng tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giêsu và vâng theo lời Ngài phán bảo, không chút nghi ngờ do dự, họ thả lưới và đã được một mẻ cà lạ lùng, suýt rách cả lưới nữa. Các tông đồ chỉ cần thả lưới và chính Chúa Giêsu đã làm cho cá vào đầy lưới của các ông.

Lạy Chúa Giêsu,Chúa đã phán bảo các môn đệ Chúa rằng: "Không có Ta, các con chẵng làm được việc gì". Vâng lệnh Chúa, con biết rỏ con yếu đuối vô tài, bất lực đến độ nào rồi. Con cũng không dám hứa với Chúa điều gì cả, sự thất trung không giữ lấy được một lời hứa nào hết. Nhưng trong mọi việc và bất cứ lúc nào, con vẫn có thể dâng hiến Chúa tất cả sự cố gắng của con, cả khi con sai lầm và bất trung đi nữa. Nhưng mỗi ngày con vẫn có thể bắt dầu lại cộng tác với Chúa hết sức mình và con tin chắc Chúa sẽ hoàn tất mọi công việc tốt lành mà chính Chúa đã khởi sự trong con.

Van_Lung
15-06-2008, 06:25 PM
8. TIẾN VÀO SA MẠC



Ông vua kia có hai người đầy tớ, cà hai đều là người giỏi giang và sẵn sàng mau mắn thi hành mệnh lệnh cũng như những ước muốn của nhà vua. Sau nhiều năm trung thành phục vụ, một hôm nhà vua quyết định thưởng công cho họ. Nhà vua gọi người đầy tớ thứ nhất và nói:

Vì lòng tín trung phục vụ và mau mắn vâng lời của ngươi, ta muốn thưởng công cho ngươi, từ giờ phút này, ngươi không còn là nô lệ của ta nữa. Đây ta tặng cho ngươi một kho tàng lớn để ngươi có thể sống thoải mái như người tự do.

Với tâm hồn tràn đầy vui sướng, người đầy tớ thứ nhất cúi đầu sát đất cảm tạ nhà vua rồi ra đi với giấc mộng ôm ấp từ bao nhiêu năm bây giờ đã thành sự thật. Nhà vua gọi người đầy tớ thứ hai tới và nói:

Để thưởng công tấm lòng quảng đại phục vụ và mau mắn vâng phục của ngươi, ta sẽ nâng ngươi từ hạng tôi tớ lên hàng bạn hữu, từ nay trở đi ngươi sẽ ở lại cung điện của ta như một viên tướng và cố vấn của ta.

Người đầy tớ thứ hai cũng cúi đầu sát đất, cảm tạ nhà vua, lòng đầy vui mừng sung sướng. Vừa bước chân ra khỏi cung điện, người đầy tớ thứ hai gặp người đầy tớ thứ nhất đang đứng chờ sẵn và hỏi xem thân phận bạn mình thế nào. Vừa nghe xong đầu đuôi sự việc, người đầy tớ thứ nhất đùng đùng nổi giận, trở lại phản đối với vua. Thấy vậy, nhà vua liền hỏi:

Có điều gì làm phiền lòng ngươi chăng? Ta có đối xử bất công với ngươi đâu? Không phải là ngươi đã ra đi đầy phấn khởi vui mừng đó ư?

Người đầy tớ thứ nhất phát biểu thêm:

Tâu chúa thượng, tại sao chúa thượng hậu đãi với người kia như vậy, trong khi những công việc của kẻ hạ thần này có thua kém gì người ấy trong những năm qua đâu?

Nhà vua thản nhiên đáp:

Ngươi có lý, công việc của các ngươi hoàn toàn giống nhau chẳng có gì khác nhau cả. Tuy nhiên, ngươi đã vâng phục ta chỉ vì sợ hãi, sợ quyền bính và sợ hình phạt của ta. Vì thế, ta đã giải thoát ngươi khỏi cảnh nô lệ, sợ hãi như lòng ngươi mong muốn. Trái lại, bạn của ngươi đã luôn vâng phục để làm vui lòng ta. Thế nên ta đã muốn giữ người ấy lại trong tình bạn nghĩa thiết của ta lâu hơn nữa.Thiên Chúa cũng đối xử với mỗi người chúng ta như vậy, bời vì Ngài không phải là ông chủ nghiêm khắc, nhưng là người Cha nhân từ, đại lượng và giàu tình thương. Ngài tôn trọng quyền tự do chọn lựa của mỗi người và không ép buộc một ai cả. Ngài tạo dựng và cất nhắc chúng ta lên hàng con cái Ngài. Thế nhưng, chúng ta có thể chọn sống như người con hiếu thảo, đầy lòng yêu thương biết ơn, hoặc như người con bất hiếu, vô ơn, tệ bạc. Chúng ta có thể sống như tôi tớ thi hành trách nhiệm bên ngoài, sự cưỡng bách bên trong, hoặc với tâm tình tín trung như bạn hữu. Người đời chỉ có thể nhìn thấy những hành động bên ngoài nhưng Thiên Chúa thấy tỏ tường tận bên trong, và những gì có đầy trong lòng cũng sẽ tràn ra bên ngoài khó có thể che giấu được.

Trong Phúc âm nhiều lần Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh cáo những hình thức giữ đạo bên ngoài nhưng không sống theo tinh thần của đạo, những hình thức tuân giữ luật theo từng nét chữ rất nghiêm khắc nhưng lại làm chết ngạt lòng bác ái chân thực là tinh thần sống động của luật.

Chúa Giêsu mời gọi mỗi người cùng tiến vào sa mạc với Ngài để trở về nội tâm, trở về với lòng mình để nhìn nhận và khám phá con người thực với những tâm tình sâu xa bên trong. Cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa sẽ giúp chúng ta khám phá ra thực tại của mình. Tinh thần chay tịnh sẽ giúp ta can đảm cởi bỏ con người cũ, con người của nô lệ và sợ hãi để mặc lấy tâm tình mến yêu của bạn hữu. Tình yêu huỷ diệt mọi thứ lo sợ, ở đâu có tình yêu chân thực ở đó sẽ không còn lo sợ nữa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán bảo các môn đệ với những lời tâm huyết trong bữa Tiệc ly: "Thầy không gọi các con là tôi tớ, vì đầy tớ đâu biết việc chủ mình làm, nhưng Thầy gọi các con là bạn hữu, vì Thầy đã tỏ cho các con am tường những điều Thầy đã nghe nơi Cha Thầy". Cám ơn Chúa vì sự tuyển chọn và mời gọi cao cả này, mặc dù chúng con thất trung bất kính. Xin tình yêu Chúa hoán cải và đổi mới tâm can chúng con để chúng con chỉ sống cho tình yêu và hoạt động vì tình yêu Chúa mà thôi.

Van_Lung
15-06-2008, 06:25 PM
9.CHÙM SAO THẬP GIÁ


Vào một buổi tối đẹp trời trong sáng, một thi sĩ đưc mắt nhìn lên bầu trời đầy sao sáng lấp lánh, ông ta có cảm nghĩ về những vì sao đó như những cát bụi được Thiên Chúa ném vung vãi trên không trung khi Ngài tạo dựng trời đất muôn vật. Ông tự nhủ:

"Những ngôi sao xem như cái nào cũng giống cái nào, nhưng dĩ nhiên không thể nào Thiên Chúa lại tạo dựng nên chúng một cách vô tình được. Trên mặt đất này có biết bao nhiêu tạo vật, mỗi loài đều có một vẻ đẹp riêng của nó. Nếu trái đất là nhà của loài người thì bầu trời là ngai của Chúa, làm sao Ngài không thể làm cho Ngài một cái ngai tuyệt đẹp được?"

Thế rồi nhà thi sĩ chăm chú quan sát thật kỹ lưỡng từng vì sao và bắt đầu kẻ những đường thẳng vô hình trong trí tưởng tượng từ ngôi sao này tới vì sao khác. Bỗng chốc, trên bầu trời hiện ra những chùm sao với muôn hình vạn dạng thật là ly kỳ, tuyệt diệu. Nào là hình con ngựa, con chim, con sư tử, con cá.v.v… và xem ra có cả hình một cán cân đong đưa giữa bầu trời mênh mông vô tận. Mỗi vì sao có một vị trí quan trọng của nó, giống như những mẫu chữ cái ABC của Thiên Chúa vậy. xem như những chùm ngôi sao trên bầu trời muốn bảo tôi phải trở nên dũng mãnh như những con voi rừng và phải sống ngay thẳng liêm chính như cán cân luôn giữ thăng bằng, phải hôn ngoan như loài rắn và đơn sơ như những con chim bồ câu vậy. v.v…

Thế nhưng tôi tự hỏi: Tại sao trên bầu trời lại không có biểu tượng của thập giá? Phải chăng Thiên Chúa đã quên biểu tượng quan trọng ấy rồi ư?

Thế rồi nhà thi sĩ lên đường đi vòng quanh thế giới tìm kiếm biểu hiện của thập giá. Cuối cùng, người ấy đã tìm thấy một chùm sao trên bầu trời ở miền nam Úc Đại Lợi xếp gọn gàng theo hình thập tự và được gọi là chùm sao thập giá của Nam cực. Bấy giờ nhà thi sĩ vui mừng thốt lên:" Đây là chùm sao thập tự được tạo dựng để luôn nhắc nhở nhân loại về tình thương vô biên của Thiên Chúa đã được thể hiện qua thập giá cứu độ của Chúa Kitô". Có lẽ vì thế nên Thiên Chúa đã đặt cho chùm sao đó một nơi riêng không lẫn lộn giữa những vì sao khác, bởi vì tình yêu của Chúa không phải là thứ tình yêu phô trương, khoe khoang hoặc muốn áp đặt. Tình thương của Chúa được ban tặng cách nhưng không cho những ai khao khát tìm kiếm và hoạt động trong khiêm tốn âm thầm.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là ngôi sao sáng chỉ lối dẫn đường trên bầu trời cao. Xin Mẹ hãy chiếu toả trên chúng con ánh sáng thập giá Chúa Giêsu, Con MẸ, và dadỵ chúng con bước đi ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày như Con Mẹ đã chịu chết và sống lại. Xin Mẹ dạy chng1 con biết chiến đấu tron cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn, như Con Mẹ đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời và mọi khổ đau của thập giá. Xin Mẹ biến đổi mọi đau khỗ và mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày thành cơ Hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn. Xin Mẹ dạy chuúng con biết rằng chúng con không thể trở nên hoàn thiện nếu không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ như con Mẹ là mặt trời toả sáng tình yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn. Xin Mẹ lấy niềm vui của Ngài mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối giây yêu thương. Bình an và hiệp nhất giữa chúng con. ước gì từ nay không gì có thể làm cho chúng phải khỗ đau và thất vọng, chỉ vì chúng con quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.

Van_Lung
15-06-2008, 06:26 PM
10. BÁC ÁI VÀ QUẢNG ĐẠI


Tối hôm ấy, một người lữ hành lỡ bước tới gõ cửa một tu viện xin trọ qua đêm. Người lữ hành thân thưa với thầy coi cổng:


- Thưa thầy, con từ xa tới đây, con không có gì hơn ngoài chùm nho tươi mới hái này, xin được biếu tặng thầy đền ơn.
Thầy coi cổng nhân từ dẫn người lữ hành vào căn phòng thường dùng cho khách trọ. Thầy vui vẻ nhận cùm nho tươi rồi đem chùm nho tới trình cha bề trên và thưa:

- Thưa cha, một người lữ hành đem tặng con chùm nho này, là bề trên, xin cha hãy nhận lấy quà tặng này.

Nhận lấy chùm nho và cũng không hề nếm thử một trái nho nào, cha bề trên liền đem tới phòng vị tu sĩ cao niên nhất trong nhà:

- Thưa cha, cha là người cao niên đáng kính nhất, cha đã yếu sức vì hàng ngày ăn chay cầu nguyện luôn, cha cần được bồi dưỡng thêm, xin cha hãy nhận lấy chùm nho này là phần của cha.

vị tu sĩ cao niên nhất thân hình gầy còm ốm yếu, râu tóc bạc phơ, lại ôm chùm nho tới phòng tập sinh duy nhất, trẻ tuổi nhất trong nhà và nói:

- Cha đã già yếu lắm rồi, gần đất xa trời chẳng còn sống được mấy hôm nữa, con còn trẻ, con cần được bổ dưỡng thêm gân cốt vì đường đời con còn dài, con hãy nhận lầy chùm nho này là phần của con đó.

Cậu tập sinh trẻ tuổi liền vội vã đem chùm nho tới cho tu sĩ đau bệnh nặng nhất và nói:

- Thưa cha, cha đau bệnh, cha cần được bồi dưỡng để sớm bình phục, xin cha nhận lấy chùm nho tươi này là phần của cha.

Chẳng biết đầu đuôi sự việc chùm nho thế nào, vị tu sĩ đau bệnh lại chậm rãi lê bước ôm chùm nho đến gõ cửa phòng người khách trọ và nói:

- Anh em tặng cha chùm nho này, nhưng chắc hẳn là con đi đường mệt mỏi yếu sức lắm, trong nhà này chúng tôi rất hiếu khách, vậy xin con hãy nhận lấy chùm nho này để lấy sức vá tiếp tục cuộc hành trình của con.

Như thế, cuối cùng chùm nho đã trở lại với người lữ hành, không những không bị mất mát một trái nho nào nhưng lại càng thêm nặng trĩu đậm đà vì tình bác ái huynh đệ giữa các tu sĩ và cả tấm lòng quảng đại của người lữ hành nữa.

Lạy Trinh Nữ Maria là Mẹ tình yêu
Vì Mẹ đã cưu mang và ban tặng Chúa Giêsu là nguồn tình yêu cho nhân loại, xin Mẹ ban cho chúng con ánh sáng của lòng tin yêu để chúng con biết nhận ra Chúa Giêsu hôm nay và mỗi ngày nơi khuôn mặt đau khổ của tất cả những người bị thử thách, những kẻ đói không chỉ vì thiếu ăn mà vì thiếu lời Chúa, nhưng kẻ khát không chỉ vì thiếu nước nhưng còn vì thiếu an bình, sự thật, công bình và tình thương, những kẻ vô gia cư không chỉ tìm kiếm một mái nhà nhưng còn mong mỏi kiếm tìm trái tim hiểu biết và yêu thương, những kẻ bệnh hoạn và hấp hối không chỉ trong thân xác nhưng cả trong tinh thần.

Lạy Mẹ là Nữ Vương trung tín, xin Mẹ giúp con đừng bao giờ mỏi mệt thực thi lời hứa đầy hy vọng của Chúa Giêsu Con yêu dấu Mẹ: "Điều gì các con làm cho người bé mọn nhất trong anh em là các con làm cho chính Ta vậy".

Van_Lung
15-06-2008, 06:28 PM
11. MẪU GƯƠNG PHỤC VỤ


Vào khoảng năm 280 giữa thời hoàng đế Rôma, những người tín hữu Kitô bị bách hại rất ác nghiệt, họ thường phải ẩn trốn trong các nghĩa trang ngoài thành phố được gọi là Hang toại đạo để tham dự thánh lễ và lãnh nhận mình Chúa Giêsu. Một hôm, sau khi kết thúc thánh lễ, vị linh mục nói với các tín hữu hiện có mặt:

- Cha còn giữ đây một tấm bánh thánh lớn. hôm qua, một số tín hữu anh chị em của chúng ta bị bắt giam tại hí trường, họ đã bị tuyên án tử hình bằng cách vật lộn với sư tử, cần phải đem bánh thánh tới cho họ để họ được lãnh nhận sức mạnh của Chúa Kitô, can đảm tuyên xưng đcứ tin và trung thành với Chúa đến cùng, nhưng làm thế nào có thể đến với họ được vì ban đêm trời tối trên đường có thể gặp nhiều nguy hiểm tới tính mạng, vả lại làm sao có thể vào tận trong ngục tù được vì các cổng đều được canh chừng rất cẩn mật.

Vị linh mục vừa nói xong, một cậu bé mới lên mười tuổi đứng dậy giơ tay tình nguỵên, cậu nói:

- Những nẻo đường Rôma con đều biết rõ, con chỉ là một đứa bé chẳng ai để ý tới con, cả các lính canh cũng đã không sợ cho con qua cổng.

Vị linh mục hỏi thêm:

- Con tên gì?

- Dạ thưa con là Tachisio.

Cả cộng đoàn có mặt trong thánh lễ hôm đó chấp nhận ý kiến của cậu. Vị linh mục kính cẩn gói bánh thánh trong tấm khăn trắng và đặt vào tay cậu bé. Tachisio bước ra khỏi Hang toại đạo với cái áo choàng màu đen trên vai, cái mũ trùm đầu và hai bàn tay ôm chặt bánh thánh trên ngực.

Hôm ấy là một đêm tối trời không có mặt trăng soi sáng. Cậu bé lần mò bước đi theo bờ tường dẫn tới nhà tù. Bỗng chốc, tại một khúc quẹo, một nhóm thanh niên du đãng nặc mùi rượu say mèm đang đứng rình chực sẵn để cướp của giết người. Tachisio định đổi hướng để tránh mặt nhưng đã quá muộn, chúng đã trông thấy cậu bé rồi, chúng lên tiếng quát hỏi:

- Thằng bé kia, đi đâu giữa đêm tối vậy? Có tiền bạc hay vật gì quí giá mà phải che giấu dưới áo choàng như thế? Mau lên, đem tới đây cho tụi tao, nếu không sẽ phải thiệt mạng.

Tachisio thành thật đáp:

- Em không có của gì quí giá cả, tiền bạc cũng không có một xu, em đang trên đường về nhà thôi, xin các cậu để cho em đi.
Bọn du đãng ngi ngờ nên nói thêm:

- Mau lên, để cho tụi tao xem cái gì mày giữ kỹ trong tay trước đã.

Một thanh niên trong bọn ấy đến gần Tachisio muốn giật lấy gói đồ trong tay cậu nhưng Tachisio nhất quyết chống cự. Thấy vậy, cả bọn chúng liền xông tới giơ tay đấm đá Tachisio. Một thanh niên hung dữ hơn nhặt hòn đá bên đường ném trúng thái dương, Tachisio ngã quị trên mặt đất rồi tắt thở, hai bàn tay vẫn ôm chặt lấy bánh thánh trên ngực. Bọn thanh niên xông tới lột áo choàng và giật lấy gói nhỏ trên tay Tachisio, bấy giờ một thanh niên tưng hửng và không khỏi ngạc nhiên nói:

- Cậu bé thật có lý, nó chẳng đem theo bảo vật gì đáng giá cả, nhưng không biết tại sao mà nó lại thà chịu chết còn hơn là đem nộp mẩu bánh nhỏ này.

Lạy Mẹ Maria là mẫu gương tông đồ phục vụ, sau ngày cưu mang Con Chúa, Mẹ đã vội vã lên đường phục vụ không quản ngại hy sinh gian khổ để đem tình yêu Chúa đến cho tha nhân. Xin mẹ cầu khẩn Chúa tràn ngập tâm hồn chúng con bằgn Thần khí và sức sống của Chúa để chúng con cũng toả lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin bánh hằng sống là chính thân thể Con yêu dấu Mẹ mà chúng con được hạnh phúc lãnh nhận hàng ngày xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu toả sức sống của Chúa. Xin Ngài hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con luôn rao giảng về Chúa và tình thương vô biên của Ngài không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá và bằng trái tim đầy tình yêu Chúa.

Van_Lung
15-06-2008, 06:29 PM
12. CHIẾC LA BÀN


Một cậu bé tình cờ bắt được một con chim bồ câu xinh đẹp, hai cánh có lông màu dài xam xám bóng loáng như màu ngọc quí, ngực nó màu trắng như tuyết và trên đầu có lớp lông màu xanh lá mạ óng ả. Cậu bé đặt chim vào trong cái chuồng nhỏ bằng gỗ trên cây trong khi cậu bé và mẹ nó ở trong một túp lều ở bên bờ sông. Mỗi buổi sáng, chim bồ câu đến đậu bên cửa sổ để được cậu bé tặng cho những mẩu bánh mì hoặc mấy hạt bắp khô.

Một hôm, có chiếc thuyền lớn của dân du mục người Ả Rập tấp vào bờ sông. Ông thuyền trưởng ra lệnh cho quân lính tha cho nhà hai mẹ con nghèo khổ nhưng phải bắt cho được con chim bồ câu hoạ hiếm ấy. Họ bắt chim bỏ vào lồng rổi trẩy sang tận bở biển bên kia. Ngày ngày, cậu bé khóc thương con chim yêu quí cảu nó. Mẹ nó dỗ dành hứa sẽ mua con chim khác cho, nhưng cậu bé chỉ muốn được lại con chim bồ câu xinh đẹp của nó thôi.

Chim bồ câu được đem tận nước Thỗ Nhĩ Kỳ và dâng tặng cho vua. Nhà vua vui mừng thấy con chim hiếm có và đặt nó vào trong cái chuồng thật lớn ngay giữa khu vườn xinh đẹp trên một cái hồ với đủ loại cá màu, lương thực dư thừa, nhưng con chim lúc nào cũng ủ rũ đpậ cánh vào lồng muốn thoát vì nhớ ông chủ nhỏ bé của nó nơi phương trời xa.

Cuối cùng, nhà vua động lòng thương mở cửa chuồng cho con chim được tư do bay đi. Lập tức, chim cất cánh bay thẳng qua biển trở về đậu trên cửa sổ của cậu bé. Cậu bé nhận ra chim xinh đẹp của mình và lập tức mở cửa cho nó vào. Cậu bé ẵm chim trên tay, nâng niu âu yếm rồi chạy đến khoe với mẹ:

- Mẹ ơi, con chim bồ câu của con đã trở về. Làm sao chim có thể định hướng trở về và có thể bay qua biển xa như vậy?
Mẹ cậu vui mừng nói:

- Loài chim hiếm có này có cái địa bàn trong trái tim nó.

Thật vậy, ai biết yêu và biết mình được yêu thương sẽ luôn tìm được đường để trở về với người yêu của mình.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã luôn ghi nhớ các sự việc và suy gẫm lời của Con Mẹ trong lòng như hơi thở và như nhịp đập của trái tim Mẹ. Xin Mẹ đổ tràn tình yêu Chúa trong con như điạ bàn định hướng tất cả cuộc sống con, cả những khi con phải dứt khoát từ bỏ con đường cũ cảu con người hư hèn tội lỗi để bước đi theo ánh sáng và sự thúc đẩy của tình yêu Chúa, đó là những khi con đói cơm bánh mà Chúa lại gửi đến cho con một người cần của ăn để con không ngần ngại chia sẻ miếng bánh, chén cơm duy nhất con có, những khi con khát mà Chúa lại gửi đến cho con một người cần nước uống, khi con lạnh mà Chúa lại gửi đến cho con một người cần sưởi ấm ; khi con bị tổn thương, chán nản, mà Chúa lại gửi đến cho con một người cần được an ủi khích lệ, khi con đã nghèo khổ mà Chúa lại gửi đến cho con một người bệnh tật nghèo cùng túng cực hơn, khi con mệt mỏi không còn một chút thì giờ rảnh rỗi nghỉ ngơi để con vẫn còn sẵn sàng đón nhận một người cần đựơc giúp đỡ, khi thập giá gần như đè nặng đôi vai để con biết quên mình đón nhận cơ Hội ghé vai nâng đỡ gánh nặng của anh chị em con, khi con ốm nặng cần được quan tâm săn sóc để con can đảm chỗi dậy săn sóc cho ai đó cần được đỡ đần trông nom, khi con thất vọng chỉ muốn tưởng nghĩ đến bản thân con, xin địa bàn tình yêu Chúa luôn nhắc nhở con hướng lòng trí con về những anh chị em thân quen cũng như xa lạ.
Lạy Mẹ yêu dấu, con tin rằng chính qua sự bền tâm cao hứng như thế, cuối cùng con sẽ tìm được đường và vững cánh trở về với Chúa là nguồn tình yêu và là hạnh phúc duy nhất của đời con.

Van_Lung
15-06-2008, 06:30 PM
13.MẦU NHIỆM CỦA TỘI LỖI


Dư luận tại Hoa Kỳ cũng như thế giới đã xúc động theo dõi phiên toà xét xử bà Andrea Yates về tội dìm chết năm đứa con trong bồn tắm. Trong các phiên xử khác, những tranh tụng tại toà xoay quanh việc xét xử bị cáo có phạm tội giết người hay không. Lý do là vì ngay từ đầu bà Andrea Yates đã thú nhận với cảnh sát rằng chính tay bà đã lần lượt dìm chết năm đứa con trong bồn tắm. Trong khi công tố viên cố gắng chứng minh rằng bà Andrea Yates đã giết con một cách có tính toán và tính toán từ lâu, thì bên bị cáo, các luật sư của bà lại cố gắng biện minh rằng Andrea Yates giết con chỉ vì muốn con có một cuộc sống tốt hơn mà thôi. Riêng một số chuyên gia tâm lý thì cho rằng bà Andrea Yates giết con vì mắc chứng bệnh mà họ gọi là trầm uất hậu sản, nghĩa là xuống tinh thần sau khi sinh. Qủa thật, ngay sau khi sinh đứa con trai đầu lòng vào năm 1994, bà Andrea Yates đã bắt đầu lo ngại không biết đứa con mình sẽ ra sao. Không những thế, bà còn lo sợ trước những ám ảnh thường hiện về trong mộng khiến bà tưởng tượng một ngày nào đó bà sẽ cầm dao đâm một người nào đó không rõ mặt rõ tên.

Là một nữ y tá sinh ra và lớn lên tại Houston, bang Texas, bà Andrea Yates đã phải nghỉ làm tại bệnh viện sau khi sinh đứa con đầu lòng. Vừa lo ngại vừa thường xuyên sống trong ác mộng, bà vẫn cố gắng chiều chồng để sinh hạ thêm ba trai một gái trong thời gian sáu năm tiếp theo. Sau khi sinh đứa con thứ tư vào năm 1999, bà Andrea Yates đã bắt đầu trải qua những ngày tháng kinh hoàng trong ác mộng. Trong những cơn ác mộng ấy, bà thấy mình là thủ phạm nhúng tay vào những vụ giết người vô tội. Cuối cùng, để thoát khỏi những cơn ác mộng bà đã tự tử bằng cách nuốt một hơi năm mươi viên thuốc ngủ.

Được cứu sống, bà lại tự tử một lần nữa. Vào mùa hè năm 1999, bà tâm sự với viên bác sĩ của bà như sau : « Tôi cảm thấy như nghe có tiếng nói thúc giục tôi giết người. Tôi rất sợ sẽ có ngày tôi làm hại người khác. Vì vậy, tôi chỉ còn cách là tự tử để tôi chết thì chẳng còn làm hại ai được nữa ».

Đến lúc đứa con thứ năm ra đời, thì bệnh trạng của bà thêm trầm trọng. Ngày 20/ 6/ 2001, bà quyết định giết năm đứa con của mình vì cho rằng bản thân của bà không xứng đáng là một người mẹ, khiến năm đứa con nếu lớn lên không thể nào có được một tương lai tốt đẹp. Và cách tốt nhất để xã hội có thể trừng phạt bà là bà ra tay giết năm đứa con của bà.

Trong phiên xử hôm thứ tư ngày 14/ 3/ 2002, một bác sĩ trị liệu đã làm chứng trước toà rằng bà Andrea Yates cho biết bà không dám nói với ai về tiếng nói thúc giục bà giết người, vì sợ rằng nếu bà nói ra satan sẽ nghe thấy và sẽ khiến bà sát hại con cái bà.

Hiện nay, người ta chưa biết số phận của bà Andrea Yates sẽ như thế nào. Nhiều người cảm thương hơn là lên án bà. Diễn tiến của hành động giết con nơi bà cho thấy đây chỉ là một thảm kịch trong đó kẻ giết người chỉ là một nạn nhân, nạn nhân của một cơn bệnh và nhất là nạn nhân của một tiếng nói thúc giục mình giết người. Tựu trung đó cũng là thảm kịch của thân phận con người được Thánh Phaolô diễn tả bằng một câu nói bất hủ : « Điều thiện tôi muốn, tôi không làm. Còn điều ác tôi không muốn làm, tôi lại làm ».

Qua câu nói trên, Thánh Phaolô muốn khẳng định một mầu nhiệm, đó là mầu nhiệm của sự tội. Tội là một mầu nhiệm. Nó vừa nói lên sự hướng thiện của con người lại vừa bày tỏ sự yếu đuối nơi con người. Nơi mỗi người luôn diễn ra cuộc chiến liên lỉ giữa thiện và ác, giữa ân sủng và tội lỗi, giữa ánh sáng và sức mạnh của tăm tối. Nếu có một tiếng nói của lương tâm không ngừng thúc đẩy con người làm điều thiện thì tiếng nói lôi kéo con người vào tội ác cũng mãnh liệt không kém.

Mùa Chay, mùa của giao chiến giữa ân sủng và tội lỗi, giữa ánh sáng và bóng tối, các tín hữu Kitô được mời gọi ý thức rằng sống là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Còn sống là còn chiến đấu, nhưng trong cuộc chiến ấy họ tin rằng họ sẽ chiến thắng vì Đấng mà họ tin tưởng đã xác quyết với họ : « Đừng sợ, Ta thắng thế gian ». Qủa thật, Người đã chiến thắng tội lỗi và sự dữ và Người cũng đã chia sẻ sức mạnh của Người cho các môn đệ của Người. Với Người, trong Người và nhờ Người, họ cũng có thể chiến thắng được satan và tội lỗi.

Lạy Chúa, với những hy sinh, chay tịnh và hãm mình mà chúng con đang thực hành trong mùa Chay này, xin Chúa gia tăng lòng tín thác của chúng con, xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có ơn Chúa chúng con mới có thể chiến thắng được ma quỉ, con người tội lỗi yếu hèn của chúng con

Van_Lung
15-06-2008, 06:31 PM
14.THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG TỐT LÀNH


Hai người đàn ông cùng bắt đầu một cuộc hành trình. Họ đem theo một con lừa để chở hành lý, một ngọn đuốc để soi đường khi đêm xuống và một con gà để làm bạn với chú lừa. Trong hai người đàn ông, một người thì rất sùng đạo, người còn lại thì theo chủ nghĩa hoài nghi. Trên cuộc hành trình hai người chỉ nói về Thiên Chúa. Người thứ nhất nói :

- Trong mọi sự, Thiên Chúa luôn là Đấng tốt lành.

Người thứ hai nói :

- Rồi chúng ta hãy xem lời ông nói có ứng nghiệm trong cuộc hành trình này.

Họ bắt đầu khởi hành. Chẳng bao lâu đã đến một thành phố. Màn đêm buông xuống,họ đi tới đi lui để tim chỗ trọ qua đêm nhưng chẳng ai thèm để ý đến họ và chẳng có ai nhường chỗ cho họ nghỉ lại qua đêm. Cuối cùng, họ lại tiếp tục đi. Một lúc sau, hai người đã ra khỏi thành phố. Đến một nơi vắng vẻ họ quyết định dừng lại nghỉ đêm tại đó. Liền sau đó, người theo chủ nghĩa hoài nghi nói với bạn đồng hành của mình một cách mỉa mai :

- Ô, Thiên Chúa anh nói thì luôn tốt lành mới để cho chúng ta ở ngoài như thế này.

Người bạn thứ hai trả lời :

- Thiên Chúa đã quyết định đây là chỗ nghỉ đêm tốt nhất cho chúng ta.

Đêm đó, họ cùng nhau ngủ trên một cây cao làm mốc ngăn cách nội và ngoại thành bên cạnh con đường chính dẫn vào thành phố. Họ buộc con lừa ở một nơi xa họ một đoạn, sau đó cũng để con gà bên cạnh con lừa. Họ leo lên cây và ngủ. Khi họ vừa leo lên cây đã nghe tiếng ồn ào ghê rợn. Một lúc sau họ nhận ra đó chính là tiếng của con sư tử, nó đang bắt lấy con lừa của họ và lôi đi. Ngay lập tức, chẳng có ai bảo ai, hai người cùng leo cao hơn nữa để cùng nhau tránh sư tử. Hai người chưa hoàn hồn thì người theo chủ nghĩa hoài nghi hỏi bạn đồng hành của mình trong sự bực tức :

- Này anh bạn, thiên Chúa vẫn còn là Đấng tốt lành đấy chứ ? Bây giờ thì con lừa của chúng ta đã bị nộp cho sư tử rồi.

Người bạn thứ hai trả lời :

- Nếu sư tử không bắt con lừa thì chắc hẳn nó đã tấn công chúng ta rồi. Thiên Chúa luôn là Đấng tốt lành nên chọn điều tốt nhất cho chúng ta.

Sau đó họ quyết định đi ngủ không tranh luận gì nữa. Khi hai người đồng ý im lặng thì họ nghe tiếng kêu của con gà. Nhìn xuống đã thấy con mèo rừng đang cắp con gà của họ và cấu xé. Người theo chủ nghĩa hoài nghi chưa kịp lên tiếng thì người bạn đã nói :

- Tiếng kêu của con gà lại một lần nữa cho chúng ta biết chúng ta vẫn được an toàn. Thiên Chúa thật là Đấng tốt lành.

Vài phút sau đó, một cơn gió mạnh thổi đến dập tắt ngọn đuốc. Hai người chẳng biết làm gì chỉ nằm im trong bóng đêm dầy đặc. Người theo chủ nghĩa hoài nghi lại tiếp tục chế giễu :

- A ha, một lần nữa, sự biểu lộ sự tốt lành của Thiên Chúa lại lộ rõ. Có lẽ sự tốt lành ấy sẽ liên tục hành hạ chúng ta, tước khỏi chúng ta mọi sự.

Người thứ hai đáp lại bằng sự thinh lặng. Rồi cả hai cùng chìm vào giấc ngủ lúc nào cũng không hay biết. Sáng hôm sau, hai người trở lại thành phố để tìm mua thức ăn. Chẳng mấy chốc, họ nhận ra đêm qua một toán cướp đông đảo và hùng mạnh đã đột nhập vào thành phố và cướp đoạt hết tất cả của cải của dân chúng trong thành. Nghe biết điều đó, người bạn thứ hai nói :

<!--[if !supportLists]-->-<!--[endif]-->Cuối cùng, mọi sự đã sáng tỏ và đã chứng minh được Thiên Chúa tốt lành. Nếu đêm qua chúng ta tìm được một chỗ trọ trong thành thì có lẽ chúng ta sẽ chẳng còn sống cho tới lúc này. Và nếu ngọn đuốc của chúng ta không bị tắt thì có lẽ toán cướp đã nhận ra chúng ta và cũng chẳng để cho chúng ta yên.

Thiên Chúa mãi mãi là tốt lành. Đó là sự xác tín của những người theo đạo. Ước gì đó không phải là một lời tuyên xưng ngoài miệng của mỗi người chúng ta, của mỗi tín hữu Kitô, mà nó phải là một lời tâm niệm, một động lực để chúng ta vượt qua những gian nan thử thách của cuộc sống vì biết rằng trong mọi hoàn cảnh và qua từng biến cố của cuộc đời, Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta và Ngài vẫn chọn cho chúng ta phần tốt nhất.

Mùa Chay là thời gian để thanh luyện. Chúng ta thanh luyện con mắt, thanh luyện miệng lưỡi, quả tim, khối óc và toàn bộ con người của chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa, để chúng ta nhận ra sự hoàn hảo và tình thương quan phòng của Ngài. Chỉ khi chúng ta bị cuốn hút bởi sự tốt lành thánh thiện của Thiên Chúa, con người và cuộc sống của chúng ta mới thực sự được tỏ tường sự hoàn thiện của Thiên Chúa qua những việc làm, lời nói và cả việc làm của chúng ta.

Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần xuống trên chúng con để chúng con được thanh luyện và đổi mới, nhờ đó chúng con biết nhận ra Chúa và sự lành thánh của Ngài trong mọi biến cố của cuộc đời, để luôn ngợi ca và loan truyền sự công minh của Chúa cho mọi người.

Van_Lung
15-06-2008, 06:32 PM
15. BÁC ÁI THEO TINH THẦN PHÚC ÂM


Có một người phong cùi quần áo rách nát hằng ngày ngồi xin bố thí bên vệ đường. Thỉnh thoảng cũng có những người qua đường mủi lòng để rơi một vài đồng xu vào trong cái mũ lá đặt bên chân người ấy. Có điều lạ là người ăn xin đó không hề tỏ dấu hiệu biết ơn nào, không một lời nói cũng không một nụ cười, hoặc một cái gật đầu.

Một hôm có người thường xuyên đi ngang qua lối đó thấy vậy liền dừng lại và không khỏi ngạc nhiên lên tiếng hỏi người phong cùi xin bố thí :

Tại sao ông không một lời hoặc một cử chỉ biết ơn nào đối với những người tỏ lòng trắc ẩn bố thí cho ông ?

Người phong cùi thản nhiên đáp :

Nhưng tại sao tôi phải cám ơn họ ? Thiên Chúa đã muốn dùng tôi như cơ hội tốt đẹp để họ có dịp làm việc thiện,làm một cử chỉ nhân từ, một hành động bác ái. Có lẽ tốt hơn là họ phải cám ơn Chúa vì sự bất hạnh khốn cùng của tôi để nhờ đó mà họ được công nghiệm đáng được vào Nước Trời.

Nghe vậy, vị khách qua đường mỉm cười mỉa mai bỏ đi trong lòng thầm nghĩ người ấy hoặc là mất trí hoặc là vô ơn,nhưng câu trả lời của người phong cùi cứ văng vẳng bên tai làm cho vị khách qua đường phải hồi tâm suy nghĩ. Sau cùng, người ấy tự nhủ : »Xét cho kỹ thì người phong cùi hẳn có lý. Thực ra, bất kỳ việc tốt gì chúng ta làm cho người khác,tức là làm cho chính mình vậy ». Từ ngày đó trở đi, mỗi lần đi ngang qua người phong cùi ăn xin bên vệ đường, người ấy luôn rút trong túi ra hai đồng tiền, một đồng để làm phúc bác ái cho người phong cùi, còn một đồng để tỏ lòng biết ơn người ấy.

Có lẽ nhiều lúc chúng ta cũng vội vàng và dễ dàng xét đoán cách nông cạn và sai lầm về việc làm của những người khác. Lời nói của người phong cùi nghe như lời nói của kẻ vô ơn, tệ bạc, nhưng lại là lời thức tỉnh lòng ích kỷ tự nhiên của con người và nhắc nhở chúng ta có bổn phận phải quan tâm đến những người chung quanh chúng ta. Lắm khi chúng ta nghĩ rằng thực thi đức bác ái chỉ là một lời khuyên bảo tốt, một việc làm thêm có thể làm hoặc cũng có thể bỏ qua. Trái lại, theo tinh thần Phúc âm Chúa Kitô thì thực thi đức bác ái là một bổn phận nồng cốt trong đời sống người tín hữu. Trong Phúc âm Chúa Giêsu quả quyết với dân chúng : « Các con phải thương yêu nhau như Thầy yêu thương các con ». Hơn thế nữa, lòng bác ái thương người là một vinh dự của các môn đệ Chúa, bởi vì »Hễ điều gì các con làm cho một trong những người hèn mọn là các con làm cho chính Thầy vậy » (Mt 26,45).

Lòng bác ái theo tinh thần Phúc Âm còn nhẹ hơn cán cân công bằng của người thế trần : mắt đền mắt, răng thế răng ; trái lại « Cần phải yêu thương cả thù địch và làm điều tốt cho những người thù ghét các con nữa, có như thế những người khác mới nhận biết các con là môn đệ của thầy được ». Chúa giêsu dạy chúng ta cần phải nhắm cao và nhìn xa thấy rộng hơn trên con đường của đức bác ái. Có lần Chúa Giêsu nói với người đã mời Ngài dùng bữa rằng : « Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em hay bà con hoạc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông. Và như thế, ông được đáp lễ rồi. Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật và què quặt đui mù. Họ sẽ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày kẻ lành sống lại ».

Tình thương nhưng không và vô vị lợi của Chúa Giêsu được thể hiện ngay từ giây phút đầu tiên của mầu nhiệm cứu độ. Tin mừng Đấng cứu thế giáng trần đã không được loan báo cho những người giàu sang, quyền cao, chức trọng, nhưng trước tiên là cho các mục đồng, những tâm hồn đơn thành luôn rộng mở tâm hồn đón nhận tình thương của Chúa . Họ không có gì để đáp đền tình thương Chúa ngoài việc hiến dâng cho Ngài sự khó nghèo của họ. Giữa đêm khuya giá lạnh họ đã tới sưởi ấm cho Ngài bằng tấm lòng khiêm tốn biết ơn của họ.

Lạy Chúa Giêsu là thái tử hoà bình, là vua tình thương, xin ban cho con quả tim quảng đại như Chúa, luôn vươn lên cao, vượt qua mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình của Chúa. Xin ban cho con trái tim đủ lớn để con biết khiêm tốn đến với người con không ưa và để tỏ lòng biết ơn với tất cả những người vô ơn nữa.

Van_Lung
15-06-2008, 06:33 PM
16.TÂM HỒN KHÓ NGHÈO


Tại tu viện kia có hai thầy dòng nổi tiếng là nhân đức, nhất là về lòng khiêm tốn và kiên nhẫn. Hai thầy chung sống trong một căn nhà nhỏ bé, lo việc cầu nguyện, chăm sóc vườn rau và những cây ăn trái. Hai thầy chuyên cần làm việc, đào mương dẫn nước nên vườn tược lúc nào cũng xanh tươi và cành cây nặng trĩu những trái cây ngon ngọt, đủ chia sẻ với các thầy trong những nhà khác nữa. Cũng không thiếu cho những khóm hoa lúc nào cũng tươi nở muôn màu sắc dành để dâng tiến Chúa trong nhà nguyện của họ.

Tiếng thơm nhân đức của hai thầy đã đến tai cha bề trên đã cao niên. Một hôm, cha quyết định tới thăm hai thầy để có dịp chứng kiến tận mắt những nhân đức thánh thiện của hai thầy. Vừa trông thấy dáng cha bề trên, hai thầy vội vàng ra cửa đón tiếp cách thân tình. Sau mấy phút cầu nguyện trước nhà nguyện, cha bề trên ngỏ ý muốn đi thăm ruộng vườn của hai thầy. Hai thầy vui vẻ dẫn đưa cha bề trên đi xem khắp cả vườn và chỉ cho người thấy từng loại cây ăn trái, từng luống rau, từng bụi hoa. Vừa đi cha bề trên vừa nhăn nhó tỏ vẻ khó chịu, trách khéo là vườn quá đẹp đối với những kẻ tu hành. Hơn thế nữa, cha bề trên lại dung cây gậy chống trên tay, đập phá những cây bắp cải, những cây rau xà lách và những bụi hoa gần hai bên lối đi. Trước cử chỉ khác lạ xem như điên rồ của cha bề trên, hai thầy vẫn giữ thinh lặng, không một lời phản ứng chống lại.

Xem vườn tược xong thì cũng đã tới gần giờ cơm trưa nên hai thầy đến quì trước mặt cha bề trên lúc đó đang ngồi nghỉ mệt dưới bóng cây, mồ hôi nhễ nhại và thưa:

- Kính thưa cha, nếu cha cho phép, chúng con sẽ đi thu nhặt những lá rau còn lại không bị hư nát để dọn bữa ăn thanh đạm mời cha dùng với chúng con.

Tai vừa nghe những lời đó, mắt cha bề trên như sáng lên và ngài đã nhận ra nhân đức cao quí của hai thầy, ngài mở rộng vòng tay ôm lấy hai thầy và vui vẻ đáp:

- Cảm tạ Thiên Chúa vì thực sự Thần Khí Chúa đang ngự giữa chúng con nơi đây.

Như lửa thử vàng, nhân đức con người cũng phải được thanh luyện bằng gian khổ, thử thách và vui vẻ chấp nhận những điều trái ý riêng mình. Trong bài giảng trên núi về Tám mối phúc thật, Chúa Giêsu nói với dân chúng: " Phúc thay người có tâm hồn nghèo khó. Phúc thay người hiền lành. Phúc thay người có lòng xót thương. Phúc thay người bị bách hại vì sự công chính. Các con hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho các con ở trên trời thật lớn lao".

Những lời trên đây đồng thời cũng phát hoạ cho chúng ta thấy chân dung của Chúa Giêsu, Ngài là Đấng nhân từ rộng lòng xót thương, không nỡ bẻ gẫy cây nứa đã bị giập, hoặcdập tắt ngọn đèn leo loét sáng. Ngài là Đấng bị bách hại, khủng bố, bất công, nhưng vẫn không hung hăng tự vệ, như con chiên hiền lành vô tội bị dẫn tới lò xén lông. Hơn ai hết, chính Ngài là Đấng có tâm hồn nghèo khó và thực sự sống khó nghèo từ khi chào đời trong hang đá Belemth cho tới khi tắt thở nhục nhã trên thập giá.

Tinh thần khó nghèo của Chúa Giêsu không chỉ là chấp nhận cảnh sống khó nghèo về mặt vật chất vì thiếu thốn mà thôi, nhưng là tự chọn lấy cho mình sự yếu đuối của đứa trẻ hơn là quyền cao chức trọng, là chấp nhận bất công bách hại hơn là dung sức mạnh để tự vệ, là chấp nhận triệt để sự vâng lời thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha hơn là hành động theo ý riêng mình.

Hơn thế nữa, Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ để trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn vâng lời hạ mình cho đến chết và chết trên cây thập tự. Qua mầu nhiệm nhập thể giáng trần, Chúa Giêsu tiếp tục mời gọi mọi người tiến bước theo gương Ngài sống tinh thần khó nghèo từ bỏ và hiền lành khiêm tốn như chính Ngài đã sống.

Lạy Chúa Giêsu, Con chỉ biết dâng lên Chúa lời kinh khiêm hạ. Xin Chúa ban cho con sự hiền lành và tính mềm dẻo để con ý thức được mình yếu đuối cần được người khác giup đỡ hơn là gây phiền hà, hoặc có thái độ khinh khi người khác. Xin ban cho con một tấm lòng khiêm tốn để con không trở nên cứng cỏi trước những lời chỉ dạy, những lời phê bình hoặc cả đến những lời kết án khắc khe nữa.

Van_Lung
15-06-2008, 06:34 PM
17. ĐÀO LUYỆN NHÂN CÁCH


Một người Ấn Độ tên là Sanda sau khi trở lại với đức tin Kitô đã quyết tâm trở thành một nhà truyền giáo.

Một buổi chiều nọ, Sanda cùng với một nhà sư phật giáo leo lên một ngọn núi cao trên dãy Hy Mã Lạp Sơn để đến thăm một thiền viện. Trời càng về chiều càng lạnh, nhà sư cảnh cáo rằng họ có thể chết cứng nếu không về đến tu viện trước khi mặt trời lặn. Giữa lúc hai người đang cố gắng băng qua một lối đi nhỏ nằm bên vực họ nghe có tiếng người kêu cứu. Nhìn xuống vực sâu, họ thấy có một người đàn ông nằm bất động, nhà sư lại cảnh cáo Sanda:

- Cứ tiếp tục đi, số phận của người này đã được an bài rồi. Chúng ta phải đi gấp kẻo cũng chết theo.

Nhưng Sanda trả lời nhà sư:

- Theo truyền thống Kitô giáo của chúng tôi thì tôi hiểu rằng Chúa đã mang tôi tới đây để cứu giúp người anh em này, tôi không thể bỏ mặc anh ta như thế.

Nhà sư nhìn Sanda lắc đầu rồi tiếp tục đi.

Tuyết đã phủ hết lối đi. Còn lại một mình, Sanda bắt đầu leo xuống vực để cứu vớt người đàn ông bị tai nạn. Anh băng bó vết thương, lấy chăn cuốn chặt người bị thương vào lưng của mình rồi từng bước leo lên. Cuối cùng, anh cũng thấy được ánh sáng chiếu ra từ tu viện. Kéo lê từng bước vì mỏi mệt, nhưng anh vẫn cương quyết tiến về tu vịên. Thình lình, khi gần đến tu viện,chân anh chạm phải một vật cứng chặn cả lối đi. Anh cúi xuống lấy tay cào tuyết để xem vật cản là gì. Anh đau đớn vô cùng khi khám phá ra rằng vật cản ấy chính là thi thể của nhà sư. Nhà sư đã chết ngay trước cửa của tu viện. Quì trước nhà sư, anh nhớ lại một đoạn Tin mừng theo thánh Luca:" Ai cứu mạng sống mình sẽ mất nó. Còn ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ tìm lại được nó". Sanda hiểu được điều Chúa Giêsu muốn nói và anh rất vui mừng vì đã quyết định mất mạng mình vì người khác.

Về sau, Sanda trở thành một vị linh sư nổi tiếng khi các đệ tử hỏi ông:

- Thưa thầy, đâu là điều nặng nhọc nhất trong cuộc sống?

Ông trả lời:

- Điều nặng nhọc nhất trong cuộc sống là không có một gánh nặng để vác.

Điều nặng nhọc nhất trong cuộc sống chính là không có một gánh nặng để vác. Khi nói lời này hẳn ông Sanda đã nghĩ tới người đàn ông bị nạn mà ông đã cứu vớt. Khi Chúa Giêsu kêu mời chúng ta hãy vác lấy thập giá mỗi ngày và bước đi theo Ngài, Ngài muốn nói đến những gánh nặng hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Những gánh nặng ấy là những lao nhọc vất vả để có được chén cơm manh áo từng ngày, nhưng nặng hơn cả vẫn là gánh nặng mà người khác chồng chất lên vai chúng ta.

Qủa thật, sự hiện diện của người khác có thể là một gánh nặng cho chúng ta. Sự hiện diện ấy có khi nặng nề đến độ một triết gia hiện sinh của Pháp đã gọi là hoả ngục. Tuy nhiên, chúng ta không thể sống mà không có người khác. Sự hiện diện của người khác là một điều kiện cần thiết để chúng ta sống cho ra người. Sống mà loại trừ người khác là tự huỷ. Người khác, do đó, rất có thể là một gánh nặng nhưng là một gánh nặng cần thiết để giup chúng ta đạt được sự sung mãn nhân cách.

Mùa Chay là trường đào luyện nhân cách. Những việc làm đạo đức như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình là điều cần thiết để giúp chúng ta trau luyện nhân cách. Nhưng nếu không có bác ái đi kèm thì tất cả những thực hành ấy đều là vô ích. Linh hồn của mùa Chay là bác ái, chúng ta được mời gọi xác định và củng cố quan hệ của chúng ta với người khác. Người khác mà chúng ta sống với khi gặp gỡ mỗi ngày có thể là gánh nặng cho chúng ta nhưng là gánh nặng cần thiết để giup chúng ta dẹp bỏ được con người ích kỷ của chúng ta.

Lạy Chúa,với những người đang đau khổ chung quanh chúng con, xin ban cho chúng con tâm hồn nhạy cảm. Với những người đang là gánh nặng cho chúng con, xin cho chúng con luôn biết nhìn vào họ như một thách đố để giúp chúng con thắng vượt được con người mù quáng và ích kỷ của chúng con, hầu được mỗi ngày một lớn lên trong quảng đại và yêu thương.

Van_Lung
15-06-2008, 06:35 PM
18.THƯỚC ĐO NHÂN CÁCH


Một người hành khất đã tâm sự như sau:

Tôi là một kẻ ăn xin, và bạn biết không, tôi thích làm một người ăn xin. Trong bao nhiêu năm qua, tôi đã quan sát và biết được cách bạn cư xử và sử dụng tiền bạc như thế nào. Lúc đầu khi tôi biết Chúa đã chọn cho tôi con đường ăn xin này tôi không thể vui được, nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã cho tôi nhìn vào thế giới bằng chính cài nhìn của Ngài khi tôi trung thành với con đường ăn xin của tôi. Con đường của tôi là để làm cho con đường của bạn được sáng hơn dù bạn có muốn hay không.

Mỗi khi bạn đi qua lại trên đường, Chúa cho tôi được nhìn thấy bạn trong chính con người thật của bạn.

Bạn là một trong vô số người đi qua lại trên con đường trước mặt tôi. Tôi đang đứng tựa vào tường, tôi vẫn đứng một chỗ mỗi ngày. Từ bao nhiêu tuần lễ qua tôi chưa hề tắm gội, từ xa bạn đã có thể ngửi được mùi hôi thối toát ra từ người tôi. Bạn đang đi về hướng tôi, tay bạn cầm cặp giấy sang trọng, bạn thấy tôi đứng đó cho nên một cách kín đáo bạn tìm cách rẽ đi lối khác, nhưng rồi khi tới ngã tư bỗng nhiên bạn lại hối hận và quay trở lại về hướng tôi và kín đáo trao vào tay tôi vài đồng xu nhỏ. Tôi đã cầu xin Chúa soi sáng cho bạn để bạn nghe được tiếng nói lương tâm của bạn, và quả thật Ngài đã nhậm lời tôi.

Bạn là một người phụ nữ, bạn đã không có được một buổi sáng bình an lắm, bạn đã la hét chồng con, bạn đã không tìm ra được xâu chìa khoá trong cái xách tay của bạn, bạn đã trễ giờ, thế là bạn chạy tất tả xuống phố. Hôm đó, bạn quên hẳn sự có mặt của tôi, mặc dù từ đàng xa bạn đã ngửi thấy mùi hôi thối nơi con người tôi. Mũi bạn khó chịu, bạn đưa mắt nhìn sang chỗ khác và cằn nhằn trong miệng. Khi tôi chìa tay ra, bạn thò tay vào ví rồi nói: " Tôi trễ mất rồi, chốc nữa tôi sẽ quay lại". Thế là bạn đi. Phần tôi, tôi cầu xin Chúa soi sáng bạn để bạn biết lấy tình người mà cư xử với tôi và tôi tin chắc là bạn sẽ trở lại tìm tôi.

Bạn cũng có thể là một trong vô số những người qua lại trước mặt tôi. Bạn có nhiều đồng xu nhỏ trong túi, bạn trông thấy tôi mỗi ngày. Lẽ ra thì bạn không nên bố thí cho tôi vì bạn biết là tôi sẽ dùng tiền đó để mua rượu nhưng bạn vẫn dừng lại bố thí cho tôi và nói: "Bác đi mua cà phê hay bánh trái mà ăn nghe, đừng uống rượu nữa". Bạn lại đi và tôi thầm cám ơn vì bạn đã đối xử tử tế với tôi.

Tất cả các bạn, các bạn đều có mọi sự các bạn muốn, nhưng các bạn vẫn còn nhận thấy một điều các bạn luôn cần đó là trao ban cho người khác trước khi họ ngửa tay xin. Như vậy, dù bạn làm nghề gì, mỗi khi bạn xuống đường tôi vẫn biết bạn là ai, trong giây phút ấy tôi nhìn thấy bạn như chính Chúa trông thấy bạn trong mỗi giây phút của cuộc sống bạn. Bạn hãy giữ ý tứ. Tôi có mặt ở đây là để làm cho con đường của bạn được sáng them. Bạn có biết bạn đang đi về đâu không?

Mỗi một tha nhân là tấm gương phản chiếu con người của chúng ta. Chúng ta vui hay buồn, quảng đại hay ích kỷ, cảm thông hay điêu ngoa, chân thành hay dối trá, điều đó điều được biểu lộ trên gương mặt của chúng ta mỗi khi chúng ta gặp người khác. Mỗi một người khác đều bắt buộc chúng ta thể hiện con người thật của chúng ta. Tha nhân quả thật là trường dạy cho chúng ta sống cho ra người. Tha nhân mời gọi chúng ta sống quảng đại, bác ái, yêu thương. Tha nhân là thước đo nhân cách của chúng ta.

Trong thông điệp đầu tay của Ngài, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gọi con người là Đường đi của Giáo Hội. Mỗi một tín hữu Kitô cũng có thể nói như thế về tha nhân mình sống với hay gặp gỡ mỗi ngày. Qủa thật, mỗi một tha nhân là một thách đố trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận tha nhân, con đường của chúng ta sẽ sáng lên; trái lại, nếu chúng ta chối bỏ tha nhân chúng ta sẽ bước đi trong tăm tối.

Lạy Chúa, chúa đã tự đồng hoá với mỗi tha nhân, nhất là những kẻ nghèo hèn bé mọn nhất trong xã hội. Xin cho chúng con luôn biết nhận ra và yêu mến Chúa trong mỗi một tha nhân.

Van_Lung
15-06-2008, 06:36 PM
19.SỐNG ĐÍCH THỰC


Trong cuốn sách có tựa đề Bảy thói quen của những con người có tài năng cao, tác giả Steve Corvey đã kể lại kinh nghiệm mà chính ông đã có được trong một chuyến xe điện ngầm tại New York vào một buổi sáng chủ nhật.

Tác giả kể lại rằng trên chuyến xe điện ngầm mọi người đang ngồi yên lặng, một số đang đọc báo, một số ngủ gà ngủ gật, một số khác thì nhắm mắt để chiêm niệm. Quả là một khung cảnh tĩnh lặng an bình. Thế rồi, đến một trạm dừng, một người đàn ông cùng với một đàn con bước lên xe. Mấy đứa nhỏ bắt đầu la lối cãi cọ nhau. Chúng ném đồ chơi vào người nhau, có đứa giật cả những tờ báo của người khác. Bầu không khí tĩnh lặng bỗng trở nên ồn ào khó chịu. "Đây là những đứa trẻ mất dạy", có lẽ người hành khách nào cũng nghĩ thầm trong bụng như thế nhưng không ai dám lên tiếng, và điều làm cho hành khách khó chịu hơn là người cha vẫn ngồi bất động.

Tác giả Steve Corvey không thể tưởng tượng được rằng người cha có vẻ tỏ ra bất động như thế để cho các con của ông muốn làm gì thì làm.Cuối cùng, với tất cả bình tĩnh và tự chủ, ông đến gần bên người đàn ông và nói:

- Thưa ông, các con của ông quả thật đang quấy rầy người khác. Ông có thể bảo chúng ngồi yên một chút được không?

Người đàn ông đưa mắt nhìn tác giả Steve Corvey như thể đây là lần đầu tiên ông hồi tỉnh sau một cơn ngủ dài rồi nói:

- Ồ, ông có lý, tôi xin lỗi. Lẽ ra tôi phải lên tiếng bảo các con của tôi ngồi yên. Chúng tôi vừa mới rời bệnh viện, người mẹ của chúng vừa mới qua đời được một tiếng đồng hồ. Tôi không biết phải làm gì và tôi nghĩ chắc các con tôi cũng không biết phải cư xử như thế nào.

Tác giả Steve Corvey ghi lại như sau:

"Bạn có biết lúc đó tôi nghĩ gì không? Thình lình tôi thấy mọi sự đều thay đổi, vì tôi thấy khác nên tôi cũng cảm nghĩ khác và tôi cũng đã cư xử khác. Cơn giận của tôi bỗng biến mất, tôi không còn phải nghĩ đến chuyện kiểm soát cách cư xử và thái độ của tôi nữa. Trái tim tôi tràn ngập nỗi đau của người đàn ông vừa mất vợ, những nỗi xúc động của cảm thương và đồng cảm tuôn trào. Tôi hỏi người đàn ông: "Vợ ông vừa mới qua đời ư? Ồ, tôi xin lỗi. Liệu tôi có thể làm gì được để giúp ông không?".

Không có gì thay đổi trên chuyến xe điện ngầm ấy, mọi sự đều như cũ, cũng vẫn những con người đó, cũng vẫn những đứa trẻ ồn ào đó. Nếu có thay đổi chăng thì đó là cách nhìn sự vật và cùng với cách nhìn ấy, cách cư xử cũng thay đổi.

Hình thức cao độ nhất của tình yêu là cùng chia sẻ chân thành một số phận. Chúng ta biểu lộ tình yêu không chỉ khi chúng ta ban tặng mà bằng cả khi đón nhận, trao đổi, tương trợ, đối thoại và hiệp nhất với người khác. Đây là cách thế thể hiện tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ yêu thương con người từ trời cao, Ngài đã hoá than làm người, Ngài đã trở nên giống loài người chúng ta trong tất cả mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã biết thế nào là đói, Ngài đã biết thế nào là khóc. Qủa thật, Chúa Giêsu đã làm người và đã chỉ cho chúng ta cách sống cho ra người. Sống đích thực là có thể quên mình. Làm người thực sự là có thể đặt mình vào hoàn toàn trong đời sống con người và chấp nhận trao đổi.

Mùa Chay chúng ta có dịp chiêm niệm mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Giêsu. Trên thập giá Ngài đã thực sự sống trọn thân phận con người. Sự cảm thong và lòng thương xót đã được Thiên Chúa thể hiện một cách trọn vẹn qua cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Trong mầu nhiệm này, chúng ta được mời gọi để lấy sự cảm thông và tha thứ mà đối xử với nhau.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đau với niềm đau của người khác, biết khắc khoải với nỗi khắc khoải của người khác ngõ hầu được tham dự một cách thâm sâu vào mầu nhiệm tử nạn của Chúa.

Van_Lung
15-06-2008, 06:37 PM
20.QUYỀN LỰC VÀ VINH QUANG


Trong quyển tiểu thuyết có tựa đề Quyền lực và vinh quang, nhà văn Graham Kline đã mô tả một linh mục sống dưới thời bách hại tại Mêhicô. Một bên là sự rình rập của cảnh sát, một bên là gánh nặng mục vụ đối với giáo dân, cuối cùng vị linh mục đã ngã gục, ông đã bắt đầu uống rượu và trở thành nghiện ngập. Sau đó, ông bị bắt giữ, kết án tử hình và giam giữ để chờ ngày hành quyết.

Buổi sáng ngày hành quyết, vị linh mục thức dậy trên tay còn cầm một chai rượu trống không, ông cố gắng đọc kinh ăn năn tội nhưng tâm trí rối loạn đến nỗi không còn nhớ nỗi một một tiếng nào trong lời kinh. Thình lình ông thấy cái bóng mình in trên tường của phòng giam, ông ngồi bất động và dán chặt đôi mắt vào đó, ông chợt nhận ra sự điên dại của mình khi nghĩ rằng ông đủ can đảm để ở lại và phục vụ đoàn chiên của mình, lẽ ra ông đã phải lẩn trốn. Thật là một sự điên rồ và tai hại. Những giọt nước mắt bắt đầu lăn trên gò má ông. Ông không khóc vì sợ chết, ông chỉ khóc vì nghĩ rằng mình về với Chúa với hai bàn tay trắng.

Tác giả Graham Kline đã viết về tâm trạng của vị linh mục như sau: "Dường như trong lúc đó ông thấy rằng nên thánh là một điều dễ dàng, chỉ cần một chút tự chủ và can đảm. Ông cảm thấy mình như một người đã thể hiện hạnh phúc chỉ vài giây đồng hồ. Ông biết rằng cuối cùng chỉ có một điều đáng kể trong cuộc đời là nên thánh.

Trong một lá thư để lại, thánh Phêrô Clave, người đã phục vụ những người nô lệ da đen tại Châu Mỹ La Tinh hồi thế kỷ thứ mười bảy đã thuật lại như sau:

"Hôm qua, lễ Chúa Ba Ngôi, một số đông người nô lệ da đen bị rượt bắt dọc theo những dòng sông bên Phi Châu đã được chở bằng thuyền đến. Chúng tôi đã vội vàng chạy ra, mang theo cam, chanh, bánh ngọt và đủ thứ. Chúng tôi đã phải cố gắng len lỏi qua đám đông để tìm đến với những người bệnh hoạn. Nhiều người trong họ nằm la liệt trên đất, thậm chí trên bùn, họ không có được một mảnh áo che thân. Chúng tôi liền cởi áo xuống, đi đến một cửa hàng, chở tất cả gỗ đang có rồi xếp thành một chỗ khô ráo và mang tất cả những bệnh nhân đến đó. Chúng tôi đọc được lòng biết ơn trong ánh mắt của họ. Với cách thế ấy chúng tôi đã nói chuyện với họ, nói không bằng lời mà bằng hành động. Bất cứ một hình thức liên lạc nào khác cũng đều vô ích. Rồi sau đó chúng tôi ngồi hay quì xuống bên cạnh họ rồi lau mặt hoặc thân thể họ."

Thánh Phêrô Clave không phải là một vị tử đạo, Ngài cũng chẵng dành suốt đời đọc kinh cầu nguyện hay sám hối, Ngài cũng chẵng có những thị kiến hay viết những cuốn sách cao siêu, Ngài chỉ là một con người bình thường. Chính vì thế mà Ngài là một vị thánh. Ngài đã cư xử một cách rất người, Ngài chứng tỏ cho mọi người thấy rằng nên thánh quả là một điều dể dàng. Ngài cũng muốn nói rằng nên thánh là diều duy nhất đáng kể trong cuộc đời.

Mùa chay, sống lại bốn mươi năm lang thang trong sa mạc của dân Do Thái, chúng ta được nhắc nhở rằng sống đạo là một hành trình mà điểm đến là nên thánh. Như vị linh mục trong tác phẫm Quyền Lực Và Vinh Quang đã nhận ra, chỉ cần một chút tự chủ và can đảm cũng đủ nên thánh.

Lạy Chúa, chúng con vẫn chưa định được cuộc hành trình của chúng con. Bao nhiêu lần chúng con đã vấp ngã, bao nhiêu lần chúng con đã muốn buông xuôi bỏ cuộc, xin Chúa tha thứ và nâng đở để chúng con biết chỗi dậy và bước theo Chúa. Giữa cuộc hành trình đầy chông gai và thử thách, xin Chúa ban ơn them can đảm cho chúng con.

Van_Lung
15-06-2008, 06:38 PM
21.CUỘC LỮ HÀNH TRIỀN MIÊN


Thomas Merton là một trong những tác giả tu đức nổi tiếng nhất trong thế kỷ hai mươi. Năm lên mười sáu tuổi, Thomas Merton mồ côi. Năm lên hai mưoi tuổi, anh gia nhập đảng cộng sản Mỹ. Năm hai mươi ba tuổi, anh trở lại công giáo. Năm hai mươi bốn tuổi, anh trở thành ký giả của tờ New York thời báo. Năm hai mươi sáu tuổi, anh thu góp tất cả tài sản vào một cái túi nhỏ tìm đến bang Kentuckyvà trở thành một vị tu sĩ Trappis tại đan viện Giếcsêmani. Trong cuốn sách tự thuật có tựa đề Ngọn Núi Bảy Tầng Thomas Merton đã kể lại những buổi đầu tiên ttrong cuộc trở lại của anh. Thomas Merton ghi lại rằng vừa tốt nghiệp trung học đã một mình du lịch sang Âu Châu và tại đây anh đã lao vào cuộc sống truỵ lạc, nhưng một đêm nọ, ngồi một mình trong phòng anh bỗng nhận ra con người tội lỗi của mình.

Thomas Merton viết như sau:

" Trong một thoáng, mọi sự hiện ra trước mắt tôi. Tôi bỗng nhận ra một cách sâu sắc nỗi khốn khổ và sự đồi bại của tâm hồn tôi. Tôi sợ hãi trước điều tôi vừa thấy và linh hồn tôi khao khát muốn thoát ra khỏi tình trạng ấy một cáh mãnh liệt và cấp ách hơn bao giờ hết".

Thomas Merton cho biết lần đầu tiên trong cuộc đời anh đã cầu nguyện và cầu nguyện thật sự. Anh cầu nguyện với một Thiên Chúa mà anh chưa từng biết. Anh xin Ngài từ trời cao hãy đoái nhìn đến anh và giải thoát anh khỏi sức mạnh của sự dữ đang giam hãm linh hồn và thể xác anh trong vòng nô lệ.

Câu chuyện của Thomas Merton trên đây minh hoạ cho sự đổi dời mà chúng ta thường nghe đọc và suy niệm trong mùa chay này, đó là sự đổi dời của người con hoang đàng đựơc ghi lại trong Tin mừng của thánh Luca.

Điều gì đã khiến cho con người đổi dời?

Nhiều năm trước đây, các lý thuyết gia về chính trị chú ý đến nhữgn bước cần thiết để làm một cuộc cách mạng. Bước đầu tiên là phải tạo ra tâm lý bất mãn trong quần chúng, bởi vì quần chúng sẽ chỉ chấp nhận thái độ khi nào họ bất mãn với tình trạng hiện tại. điều này cũng đúng cho các cá nhân. Con người chỉ nghỉ đến chuyện đổi dời khi họ không hài lòng với cuộc sống hiện tại. Đây là trường hợp của người con hoang đàng và Thomas Merton.

Nói cách khác, bước đầu tiên trong sự hoán cải là cần phải bất mãn với cuộc sống hiện tại của mình. Bất mãn ở đây có nghĩa là khao khat sống tốt đẹp hơn.

Bước thứ hai trong tiến trình đổi dời là một biến cố có sức bật mạnh. Với Thomas Merton biến cố ấy chính là kinh nghiệm trải qua trong phòng khách sạn khi anh ngồi đối diện với chính mình.

Bước thứ ba trong tiến trình đổi dời là cần phải làm một bước cụ thể trong cuộc sống mới. Thomas Merton đã làm được diều đó. Tuy không phải là một người công giáo, anh đã đi tới nhà thờ, quì gối và đọc kinh lạy cha. Sau khi cầu nguyện, anh ra khỏi nhà thờ và đến ngồi trên một chiếc ghế đá. Anh cảm nhận được sự bình an mà anh chưa từng biết đến. nhưng dĩ nhiên, cuộc trở lại của anh đã không dừng ở lại đó. từ một con người ngoại đạo trở thành một tín hữu, từ một tín hữu trở thành một tu sĩ chiêm niệm, cuộc sống đối với anh từ nay đã trở thành một cuộc hành trình triền miên.

Sống đạo là một cuộc lữ hành không bao giờ chấm dứt. Đây là cảm nghiệm mà cuộc hành trình mùa chay gợi lên cho chúng ta. Sống lại kinh nghiệm bốn mươi năm lang thang trong sa mạc của người Do thái, chúng ta được mời gọi tiến bước không ngừng, tiến bước từ tình trạng tội lỗi đến ân sủng, tiến bước từ nguội lạnh dến nhiệt thành, tiến bước từ tầm thường đến mẫu mực. Không ai làm tín hữu một lần cho tất cả mà phải không ngừng trở thành một tín hữu.

Lạy Chúa,với tâm tình hoán cải của người con hoang đàng, chúng con quyết tâm trở về với Chúa. Xin Chúa đừng để chúng con tự mãn với một ít việc lành phúc đức mà chúng con đã có thể thực hành trong mùa chay này. Xin cho chúng con được ra khỏi bản thân để mọi ngày được tiến tới trên bước dường theo Chúa.

Van_Lung
15-06-2008, 06:39 PM
22.DẤU CHỈ CỦA TÌNH YÊU


Trong vở kịch có tựa đề Một con người của bốn mùa, tác giả đã mô tả cảnh vua Henri VIII cố gằng thuyết phục thủ tướng của ông là Thánh Thomas Moore hãy đồng ý với quyết định ly dị của ông và cưới nàng Pauline làm vợ. Vua Henri nói như sau:

- Thomas, khanh hãy hiểu cho rằng trẫm đang có nguy cơ mất linh hồn. Thật ra giữa trẫm và vợ trẫm chẳng bao giờ có hôn phối cả, bởi vì nàng là quả phụ của anh trẫm.

Nhưng thánh Thomas Moore trả lời:

- Tâu bệ hạ, thần không có thẩm quyền để can thiệp vào vấn đề này. Thần nghĩ vấn đề thuộc thẩm quyền của Toà Thánh…

Nhưng vua Henri VIII ngắt lời Thomas:

- Thomas ơi, phải chăng người ta cần có một vị Giáo hoàng để nói cho mình biết khi nào mình đã phạm tội? Thomas, đây là một tội! Trẫm nhìn nhận điều đó, trẫm hối hận và Chúa đã trừng phạt trẫm, trẫm không có con trai. Thomas ơi, hết đứa con trai này đến đứa con trai khác, tất cả đều chết từ lúc mới sinh hay chỉ một tháng sau. Trẫm không bao giờ thấy bàn tay của Chúa tỏ tường như thế. Trẫm có một đứa con gái, đây là một đứa con ngoan, nhưng trẫm lại chẳng có con trai. Nhiệm vụ của trẫm là gạt bỏ hoàng hậu và xin các vị Giáo hoàng đừng xen vào giữa trẫm và nhiệm vụ của trẫm.

Rồi ông nài nỉ thánh Thomas Moore một lần nữa như sau:

- Tại sao khanh không thấy điều đó khi mọi người đều thấy?

Một cách bình tĩnh, thánh nhân trả lời:

- Thế thì tại sao bệ hạ lại cần sự ủng hộ của hạ thần?

Vua Henri nói từng tiếng như sau:

- Bởi vì khanh là một con người lương thiện và ai cũng biết rõ sự lương thiện của khanh. Khanh nhìn xem, có những người phò trẫm là bởi vì trẫm đang đội triều Thiên trên đầu, có những người đi theo trẫm chỉ vì họ là những con gấu với răng nhọn, còn trẫm là một con sư tử, có cả một đám đông đi theo trẫm, chỉ vì họ để cho đám đông lôi cuốn, nhưng khanh thì khác.

Những lời trên đây của một người nắm quyền sinh sát trên tay không chỉ là những lời đường mật mà đã vẽ ra cho thánh Thomas Moore một thập giá đang chờ đợi ở phái trước. Thánh nhân có thể khước từ thập giá ấy và sống trong phú quí và danh vọng, hoặc là thách thức nhà vua và chọn lấy cái chết. Nhưng cuối cùng ngài đã ôm lấy thập giá, ngài đã chọn con đường thập giá của Chúa Giêsu.

Cũng giống như chiếc ghế điện tại những nơi còn duy trì án tử hình, thập giá quả là một điều chướng kỳ. Chúa Giêsu đã bị treo trên ấy và chúng ta được kêu mời ôm lấy nó. Thật không gì ngu xuẩn bằng khi đặt trọng tâm của cuộc sống vào thập giá ấy, nhưng Chúa Giêsu lại dùng biểu tượng của nhục nhã khủng khiếp đó để nói lên tư cách của người môn đệ của Ngài: " Ai không vác thập giá và đi theo Ta không đáng làm môn đệ Ta".

Thập giá không phải là một món đồ trang sức mà là một thách đố giữa sống và chết, giữa tình yêu và hận thù, giữa hy sinh và ích kỷ, giữa hạnh phúc và khổ đau.


Thập giá là dấu chỉ của tình yêu. Chúa Giêsu đã nói: " Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu". Thập giá là một lời mời gọi sống yêu thương. Chúa Giêsu đã nói: "Hãy yêu thương như chính Thầy đã yêu thương các con". Thập giá là một mạc khải về tình yêu đích thực. Yêu là đau khổ, yêu là hy sinh. Thời đại của chúng ta là thời đại của giảm đau. Người ta dùng thuốc giảm đau để làm giảm bớt cơn đau trong thân xác đã đành, người t acòn tìm đủ mọi cách để tránh hy sinh. Nhưng thập giá của Chúa Giêsu soi rọi cho chúng ta thấy rằng một cuộc sống không có thập giá là một cuộc sống vô nghĩa và không đáng sống.

Lạy Chúa Giêsu, , xin cho chúng con biết can đảm bước theo con đường thập giá của Chúa. Xin cho chúng con biết dâng lên Chúa những hy sinh trong suốt tuần này để được kết hiệp với Chúa trong mầu nhiệm khổ nạn hầu được tham dự vào sự sống lại của Chúa.

Van_Lung
15-06-2008, 06:41 PM
23.TÌNH PHỤ TỬ



Năm 1989, một trận động đất được ghi nhận với 8.2 trên địa-chấn-kế đã hầu như san bằng Armenia trong vòng 4 phút đồng hồ, và đã giết hại trên 30 ngàn người.

Trong cơn giao động như thế, một người đàn ông vội vàng bỏ vợ một mình ở nhà, chạy thẳng đến trường nơi con ông học, hiện chỉ còn là một đống gạch vụn ngổn ngang. Sau một phút chết đứng, người đàn ông nhớ lại lời hứa đã từng nói với con: bất cứ điều gì có thể xảy ra,ba luôn luôn ở bên cạnh con,nước mắt bắt đầu lăn trên gò má ông. Cả ngôi trường giờ này chỉ còn là một đống gạch vụn, và con ông đã bị chôn vùi trong đó. Người đàn ông nhớ lại lời cam kết của ông đối với đứa con, ông cố gắng nhớ lại chỗ ông từng đưa con vào lớp mỗi sáng và ông bắt đầu đào xới


Trong khi người đàn ông làm một công việc tưởng chừng như vô vọng thì nhiều bậc phụ huynh khác cũng chạy đến, họ chỉ biết nhìn vào đống gạch vụn và than khóc, như để tỏ lộ sự bình tĩnh và sáng suốt của mình, ai cũng khuyên người đàn ông đừng mất thì giờ vô ích vì chắc chắn không còn hy vọng sống sót nào và có thể gây thêm nguy hại nếu trận động đất chưa ngưng nghỉ hẳn


Dù vậy, ông không chút nản lòng,người đàn ông lại tiếp tục đào. Tám tiếng đồng hồ, mười hai tiếng đồng hồ, hai mươi bốn tiếng đồng hồ, rồi cuối cùng ở ba mươi sáu tiếng đồng hồ, người đàn ông bỗng nghe được có tiếng động. Ông gọi tên đứa con, và lạ lùng thay ông nghe vọng lại tiếng "Ba ơi" thân thương từ miệng của chính đứa con. Sau khi được cứu ra khỏi đống gạch vụn, cậu con vui mừng kể lễ: "con đã nói với các bạn con là nếu chúng ta còn sống thì ba tôi sẽ đến cứu. Ba đã hứa là ba luôn luôn ở bên cạnh con."
Cậu bé cho biết còn một số bạn bè còn sống, khi người cha gọi đứa con ra khỏi đống gạch vụn, nó thưa: "con phải để cho các bạn ra trước, bởi vì dầu thế nào đi nữa, ba vẫn luôn luôn ở bên cạnh con"


Câu chuyện của tình phụ tử trên đây không phải là quí hiếm trong lịch sử nhân loại và trong cuộc sống thường ngày của con người, dù ở đâu, dù thuộc thời đại nào. Chúa Giêsu không ngừng đề cao tình phụ tử ấy và Ngài dùng chính tình phụ tử của con người để nói về tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với con người. Con người quả thật là hình ảnh của Thiên Chúa. Chỉ có tình cảm và biểu lộ tình cảm của con người mới có thể phản ảnh được tình yêu của Thiên Chúa.


Khi dạy về sự cầu nguyện, Chúa Giêsu nói: "có cha mẹ nào khi con cái xin bánh lại cho nó hòn đá hay con rắn sao" (Lc 11,11-12). Nhưng để nói lên lòng nhân từ và tha thứ vô biên của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh của một người cha ngày ngày ra trước cổng ngóng trông người con hoang đàng trở về. Thiên Chúa cần những hình ảnh như thể để nói lên tình yêu của Ngài đối với con người. Thiên Chúa cần những biểu lộ yêu thương của con người để bày tỏ tình yêu thương của Ngài. Phải chăng đó không phải là lý do tại sao Ngài đã nâng hôn nhân tự nhiên của con người lên hàng Bí Tích, nghĩa là biến thành dấu chỉ của chính tình yêu của Ngài đối với con người.Một đôi vợ chồng yêu thương đầm ấm đó là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Nói cách khác, mỗi một nghĩa cử yêu thương của con người là một dấu chỉ của tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Trái tim của Thiên Chúa rung lên từng nhịp xuyên qua mỗi một hành động yêu thương của con người.


Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con theo và giống hình ảnh của Chúa. Xin cho chúng con luôn ý thức về phẩm giá cao trọng ấy và không ngừng thể hiện hình ảnh ấy qua cuộc sống yêu thương của chúng con. Xin cho chúng con luôn thầm tín rằng: chúng con phải sống như thế nào để trở nên tình yêu của Chúa với tất cả mọi người xung quanh chúng con. Amen

Van_Lung
15-06-2008, 06:42 PM
24.HIẾN DÂNG TRỌN VẸN


Hôm ấy, tại công trường thành phố lớn kia, dân chúng tụ họp đông đảo để xem cuộc đấu giá một chiếc đàn vĩ cầm cũ kỹ, mặt đàn bị méo mó và trầy trụa. Người bán đấu giá thầm nghĩ là chẳng bõ công để tiêu phí nhiều thì giờ về cây đàn violon, tức là cây đàn vĩ cầm cũ kỹ này. Vừa giơ cây đàn vĩ cầm cũ lên ông vừa nói:

- Tôi phải ra giá cho người bạn thân yêu của tôi bao nhiêu đây?

Ông ta lớn tiếng hơn:

-Ai sẽ bắt đầu ra giá giùm tôi? Một đôla, một đôla thôi. Ai sẽ trả hai đôla nào? Hai đôla, ba đôla. Ai sẽ trả ba đôla? Ba đôla lần thứ nhất, ba đôla lần thứ hai… Tiếp tục vẫn chỉ được ba đô mà thôi.

Kế đó, từ cái phòng ở phía sau, một người đàn ông có bộ tóc bạc tiến tới và cầm cây đàn vĩ cầm lên tay. Sau khi phủi bụi bám đầy trên cây đàn và so lại những sợi dây đàn, ông chơi một giai điệu thanh trong và ngọt ngào. Tiếng đàn ngưng lại và người bán đấu giá lên tiếng với giọng nói nhẹ nhàng, trầm trầm:

- Tôi sẽ ra giá cho cây đàn cũ kia bao nhiêu đây?

Vừa nói ông vừa giơ cây đàn vĩ cầm lên cao:

Một ngàn đô, một ngàn đô. Ai sẽ trả hai? Hai ngàn đô. Ai sẽ trả ba? Ba ngàn đô lần thứ nhất, ba ngàn đô lần thứ hai.

Rồi nhất quyết ông nói:

- Thôi !

Đám đông hò reo, nhưng cũng giữa đám đông có mấy người la lên

- Chúng tôi chẳng hiểu gì cả. Cái gì đã thay đổi giá trị cây đàn vĩ cầm cũ kỹ kia?

Người bán đấu giá đáp:

- Đó là ngón đàn của người bậc thầy.

Thật vậy, họ đã không nhận ra rằng trong đám đông cuộc bán đấu giá ấy có một ông già là tay chơi đàn vĩ cầm rất lão luyện. Cây đàn vĩ cầm không thay đổi điều gì cả, vẫn là cây đàn cũ kỹ, nhưng chính năng khiếu của đôi tay người nhạc công bậc thầy đã có thể làm phát sinh những âm thanh tuyệt vời và đã làm cho cây đàn có giá trị hơn trước cả ngàn đồng.

Mỗi người chúng ta có thể ví như cây đàn vĩ cầm trên đây. Tự nó chẳng có giá trị là bao nhiêu và cũng không thể tự mình phát ra âm thanh hay tiếng nhạc nào cả, nhưng phải có ngón tay của người nghệ sĩ biết gảy vào những dây đàn đó. Người nghệ sĩ càng lão luyện thì tiếng nhạc càng du dương thanh thoát.

Cũng vậy, là thụ tạo, con người chỉ là dụng cụ trong tay Chúa mà thôi. Nhưng nếu chúng ta biết ngoan ngoãn để Chúa sử dụng theo ý Ngài muốn, để cho Ngài tự đôla hành động, được toàn quyền chủ trị và an bày từng ngày, từng giây phút, Ngài sẽ biến đổi tất cả cuộc sống chúng ta thành bài ca tuyệt diệu và đời sống chúng ta sẽ mặc lấy giá trị rất cao trọng. Vấn đề căn bản là chúng ta biết dâng hiến và phó thác trọn vẹn trong tay Chúa với lòng tin. Có nhiều cách dâng hiến, có người dâng hiến một tay trong khi tay kia sẵn sàng lấy lại điều mình đã hiến dâng. Người khác biết quảng đại hiến dâng cho dù phải rướm máu. Cũng có người sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn cho tới khi được tan biến trong người mình hiến dâng. Còn Thiên Chúa, Ngài ưa thích người hiến dâng trong vui vẻ, bởi vì chính khi hiến dâng trọn vẹn là lúc được nhận lãnh trọn đầy.

Đức tin chính là sự hiến dâng trọn vẹn giữa tình yêu và cho tình yêu Chúa mà tôi. Càng xác tín mình được Chúa yêu thương chúng ta sẽ càng mau mắn quảng đại hết tình đáp trả tình yêu Chúa. Điều quan trọng không phải là hiểu biết được chiều cao, chiều sâu và chiều rộng của tình yêu Chúa, nhưng là rộng mở tâm hồn để được Chúa đổ tràn sự sung mãn tình thương của Ngài, để rồi tình yêu Chúa sẽ biến đổi và sẽ thực hiện những điều cao cả mà tự sức riêng chúng ta không thể nào làm được.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ông thợ gốm tài giỏi. Con chỉ ước ao được làm nắm đất sét trong tay Chúa để được Chúa uốn nắn con như Chúa ưa thích. Chúa quá biết rõ, Chúa đòi hỏi con sự từ bỏ mình, nhưng bản tính yếu hèn làm con nhiều lúc kiêu căng chống cự lại thánh ý Chúa. Xin Chúa ban cho con lòng khiêm tốn chân thành để con không bao giờ cản trở chương trình tốt đẹp mà Chúa muốn thực hiện trong đời sống con.

Lạy Chúa, xin giúp con luôn chỉ biết tìm kiếm và yêu mến những gì Chúa ưa thích mà thôi.

Van_Lung
15-06-2008, 06:43 PM
25.ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA


Một cậu con trai vừa tròn mười ba tuổi đã quyết định đến gặp một võ sĩ để xin thầy luyện cho cậu môn võ Judo, nhưng điều đáng tiếc đã xảy ra, trong một tai nạn cậu đã bị cụt mất cánh tay bên trái, vậy mà một võ sĩ Nhật nọ đã đồng ý nhận cậu làm đệ tử. Cậu con trai rất đỗi vui mừng và ra sức luyện tập, tuân thủ nghiêm ngặt những điều thầy chỉ dạy và anh ta thực hành rất nhuẫn nhuyễn những bài học thầy mình đã truyền.

Thời gian trôi qua, cậu theo thầy đã lâu nhưng cậu thắc mắc tại sao thầy chỉ dạy cho cậu một thế võ, một đường quyền duy nhất và ngày nào cậu cũng chỉ luyện tập có thế thôi, cậu bèn xin thầy truyền thêm cho cậu một vài thế võ nữa, vài đường quyền mà cậu thấy người khác diễn rất đẹp mắt. Võ sư trả lời:

- Con chỉ cần biết đường quyền ấy mà thôi và đó là đường quyền duy nhất cần thiết cho con, nên con phải học biết và tập luyện cho nhuần nhuyễn.

Mặc dù không thích thú gì với lời giải thích của thầy nhưng cậu tin tưởng vào thầy dạy và tiếp tục luyện tập mỗi ngày một trở nên điêu luyện hơn. Vài tháng sau đó, võ sĩ cho cậu tham gia một trận đấu võ. Cậu cảm thấy ngạc nhiên vì mình đã thắng hai trận đấu đầu tiên cách dễ dàng. Trận đấu thứ ba chắc chắn sẽ khó khăn hơn và thử thách cậu nhiều hơn, nhưng rồi cậu cũng đã nhanh chóng khống chế được đối thủ thứ ba của mình. Trọng tài đã thổi còi chấm dứt trận đấu trước sự ngạc nhiên của biết bao người, bởi cậu đã thắng được những đối thủ của mình là những võ sĩ có thân hình cường tráng và mạnh khoẻ hơn, giàu kinh nghiệm hơn trong trường thi đấu. Cậu đã đoạt giải vô địch trong trận đấu.

Trên đường trở về nhà, cậu hỏi võ sư của mình:

- Thưa thầy, tại sao con thắng một cách dễ dàng như vậy với chỉ bằng một đường quyền duy nhất.

Võ sư trả lời:

- Con đã thắng được nhờ hai lý do: thứ nhất là vì con đã thành thạo và nhuần nhuyễn đường quyền khó nhất trong võ đạo Judo, thứ hai là vì đường quyền đó làm cho đối thủ của con phải bối rối vì không bao giờ chụp được cánh tay trái của con.

Cậu con trai đã thành công mỹ mãn bởi anh đã trung thành với người thầy dày dạn kinh nghiệm và hoàn toàn tin tưởng vào lời thầy dạy, cho dù có những lúc anh cảm thấy nhàm chán với việc tập luyện một đường quyền duy nhất. Thầy của anh cũng giúp anh gặt hái được thành công mỹ mãn là vì ông đã hiểu được ưu khuyết điểm của thế cõ cũng như của chính người học trò thân tín của mình. Sống tron cuộc đời, ai trong chúng ta cũng có những vị thầy để hướng dẫn chúng ta gặt được những hoa trái của thành công và ngay cả những thầy dạy cho chúng ta biết thế nào là thất bại.

Mỗi tín hữu Kitô chúng ta cũng có một vị thầy cao cả và muôn thuở là Chúa Giêsu Kitô, Người đã chiến thắng và sẽ giúp chúng ta đạt tới sự toàn thắng. Có thể nói mùa Phục sinh đến với chúng ta hằng nămlà thời gian chúng ta sống trong niềm vui chiến thắng. Chiến thắng cao cả nhất là chiến thắng sự chết. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, vượt qua cái chết để bước vào vinh quang phục sinh. Con đường đó Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy tiếp bước để gặt hái được những hoa thơm trái ngọt của sự sống vĩnh hằng. Nhưng để được như thế, trước hết mỗi chúng t a phải biết làm theo những gì Người đã dạy chúng ta, vì chúng ta tin rằng Người thấu hiểu tất cả chúng ta và từng người chúng ta nhiều hơn cả những gì chúng ta biết về mình. Người biết con đường nào sẽ đưa chúng ta đến thành công và hạnh phúc viên mãn.

Với niềm tin tưởng đó chúng ta sẽ dễ dàng vượt qua những gì là gian nan, thử thách của cuộc sống cũng như những gì là nhàm chán của cuộc đời với ý thức rằng chỉ có Chúa tồn tại muôn đời và muôn đời toàn thắng. Hãy cùng đồng hành với Người để đi qua các giai đoạn của cuộc sống. Như thế chắc chắn chúng ta sẽ luôn cảm nhận được bình an, hạnh phúc với niềm vui nội tâm sâu xa.

Cầu chúc quí vị và các bạn luôn cảm nghiệm được niềm vui thánh này không chỉ trong mùa phục sinh, mà trong suốt cuộc đời của bạn dọc trên cuộc lữ hành trần thế.

Van_Lung
15-06-2008, 06:44 PM
26.HÌNH ẢNH CỦA THẬP GIÁ


Tương truyền ở Châu Phi, một ông vua nọ có một người bạn đồng trang lứa rất thân và cùng lớn lên tại một mảnh đất. Người bạn của vua này có một thói quen là luôn tìm kiếm trong tất cả những hoàn cảnh, những biến cố điều hữu ích mà ông ta luôn khẳng định là tất cả những hoàn cành đó là rất tốt, ngay cả khi những điều xảy ra mà người khác coi là tệ hại nhất.

Ngày nọ, nhà vua cùng với ông tiến hành một cuộc săn bắn mong sẽ khám phá thêm những điều mới mẻ. Ông ta có bổn phận chuẩn bị và nạp đạn vào súng cho vị vua là bạn của mình. Do một sự bất cẩn nào đó chẳng may ông ta đã làm sai một công đoạn mà ông không hay biết, khi chuẩn bị xong ông trao lại khẩu súng cho vua, nhưng khi vừa nhận khẩu súng từ tay ông vị vua đã bắn vào ngón tay cái của mình. Ngón tay đã lìa khỏi bàn tay của vua. Trước biến cố không hay xảy ra đột ngột như thế nhưng ông bạn vẫn bình thản nói:

- Tốt thôi !

Nhà vua bực tức và hô hoán:

- Chẳng thể nào tốt được. Lính đâu? Bắt hắn nhốt vào ngục cho ta.

Thế là nhà vua hạ lệnh cho quân lính bắt giam người bạn của mình vào ngục. Khoảng một năm sau, nhà vua đi săn ở một khu rừng nguyên sinh. Khu rừng vắng vẻ đến tột độ, tưởng chừng như chưa có ai đặt chân đến. Đang cẩn thận bước đi và rất đổi vui mừng vì vừa khám phá ra một nơi săn bắn mới đột nhiên nhà vua bị một bọn chuyên ăn thịt người bắt giữ và đem về khu làng của họ. Họ cột hai tay vua lại rồi đặt trên đống củi. Sau đó họ dựng một cái sảo và cột chặt nhà vua vào đó cho đứng thẳng trên đống củi để chuẩn bị thiêu sống ngài. Lúc ấy, một gã trong bọn ăn thịt người đã phát hiện ra nhà vua thiếu mất một ngón tay cái, vì bọn người này rất tin dị đoan, họ không bao giờ ăn thịt một người khuyết tật hay bị khiếm khuyết một cơ phận trong thân thể, nên bọn họ đã trả tự do cho nhà vua.

Trên đường về, ngẫm nghĩ lại sự kiện mình đã bị cụt ngón tay cái, nhà vua cảm thấy xót xa cho người bạn thân vì do bất cẩn đã làm mình cụt tay. Vừa về tới hoàng cung, nhà vua liền trở vào ngục và sai quân lính thả người bạn của mình đang bị nhốt trong ngục gần một năm trời. Nhà vua kể lại cho ông bạn nghe biến cố vừa xảy ra cho mình, và xin lỗi người bạn của mình vì đã đối xử tàn tệ với ông trong thời gian qua. Ông bạn nhìn nhà vua và nói:

- Tốt thôi !

Nhà vua bực tức nói:

- Không, làm sao mà tốt được, có gì là tốt khi ta đã bắt giam ngươi vào ngục.

Ông bạn bình tĩnh trả lời:

- Vì ở trong nhà tù mà tôi mới được ở lại đây với bệ hạ.

Chính thói quen tốt lành nơi ông bạn của nhà vua đã làm cho ông luôn có cái nhìn lạc quan với những biến cố xảy ra cho ông, trong những giây phút khó khăn nhất và trong những hoàn cảnh tối tệ nhất. Và đây cũng phải là tinh thần của mỗi Kitô hữu chúng ta khi chúng ta thực sự sống trong niềm vui của Chúa Kitô Phục sinh. Đó cũng là cái nhìn của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu Kitô khi bước vào trần gian. Dưới cái nhìn của Người, thập giá đã trở thành công cụ đem lại niềm vui. Niềm vui có sức cứu độ và giải phóng con người trọn vẹn, để qua đó chúng ta mới nhận ra những giá trị của những đau khổ và những hy sinh chúng ta phải vượt qua hàng ngày, vì yêu thương và để sống yêu thương.

Thật ra, qua kinh nghiệm của cuộc sống, chúng ta thấy bóng dáng của cuộc sống trải dài trong cuộc đời của chúng ta dưới nhiều hình thức. Chính qua những đau khổ và qua những gian nan của cuộc sống mà chúng ta nhìn ra đó là hình ảnh của thập giá, chúng ta nhìn thấy mình như được lớn lên, được trưởng thành hơn bởi có ai mà có thể hưởng niềm vui và hạnh phúc khi chưa một lần dám hy sinh, chưa một lần dám từ bỏ, dám chấp nhận những đau thương đâu. Vì thế, chúng ta vẫn cảm thấy một niềm vui sâu xa trong chính những chặng đường thời gian của cuộc sống mà chúng ta đã trải qua.

Qua Chúa Giêsu, thập giá đã trở thành Thánh Giá bởi Chúa đã trở thành biểu hiện của một tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Vì thế, Người không ở mãi trên thập giá mà Người đã phục sinh sau khi đã treo mình trên thập giá.

Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, xin giúp chúng con từng bước tiến vào con đường của tình yêu Chúa để chúng con biết dùng chính những hy sinh hàng ngày biểu tỏ tình yêu của Chúa cho anh chị em chung quanh.

Van_Lung
15-06-2008, 06:45 PM
27.BIỂU TƯỢNG CỦA KITO GIÁO


Susaco Endo là một văn sĩ công giáo nổi tiếng của Nhật Bản qua đời hồi năm 1996.Trong một xứ sở mà số tín hữu công giáo chiếm không quá 1% dân số, Susaco Endo đã được rửa tội năm lên mười một tuổi và được một người mẹ đạo đức dạy dỗ. Điều đáng chú ý hơn nữa là mặc dù nội dung của các tác phẩm của ông xoay quanh các chủ đề Kitô Giáo, ông vẫn là một trong những văn sĩ được nhiều người đọc nhất tại Nhật Bản.

Lớn lên như một tín hữu công giáo trong thời hậu chiến tranh, Endo luôn cảm thấy bị vong thân. Các bạn học thường trêu chọc ông vì niềm tin tôn giáo mà họ xem như ngoại lai. Sau chiến tranh, Endo sang Pháp với hy vọng tiếp tục nghiên cứu về những văn sĩ công giáo nổi tiếng, nhưng ông đã không được nước Pháp đón tiếp nồng hậu lắm chỉ vì ông là một người Nhật. Phong trào bài Nhật vẫn còn mạnh ở Âu châu sau thời đệ nhị thế chiến.

Bị khước từ trên quê hương, bị ruồng bỏ tại nơi mà Endo đã từng xem như quê hương thiêng liêng của ông. Endo trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin trầm trọng. Ông liền rời Pháp sang quê hương của Chúa Giêsu. Sau nhiều năm sống tại Thánh địa, Endo mới khám phá ra rằng chính Chúa Giêsu cũng đã từng bị khước từ và ruồng bỏ. Hơn nữa, cuộc đời của Chúa Giêsu được định nghĩa như một cuộc ruồng bỏ. Những người đồng hương chế nhạo Ngài, gia đình Ngài đôi khi đặt nghi vấn về sức khoẻ tinh thần của Ngài, những người bạn thân tín nhất phản bội Ngài, và giữa Ngài và Baraba - một kẻ trộm cướp, những người đồng bào của Ngài đã cọn Baraba. Bản thân Ngài, Chúa Giêsu cũng chọn đứng về phía những người bị đẩy ra bên lề xã hội như những người phong cùi, các cô gái điếm, những người thu thuế, những kẻ tội lỗi.

Văn sĩ Endo đã xem khám phá mới này như một mạc khải. Trước kia ông đã nhìn Kitô giáo như một niềm tin chiến thắng và chinh phục, ông đã thán phục khi nghiên cứu về đế quốc La Mã và những công trình nghệ thuật Kitô giáo. Nhưng giờ đây, sau khi đã đến sống tại quê hương của Chúa Giêsu, ông mới nhận ra chân dung đích thực của Ngài. Từ đó chủ đề của hầu hết các tác phẩm của ông đều tập trung vào sự ruồng bỏ và khổ đau.

Theo ông, người Nhật Bản mới thấy được khía cạnh khải hoàn của Kitô giáo. Các du khách Nhật Bản ngây ngất trước những ngôi thánh đường nguy nga như đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, vương cung thánh đường Charles bên Pháp, hay đan viện Wesmingter bên Anh. Họ thưởng thức các bản nhạc nổi tiếng của những nhạc sĩ công giáo nhưng họ đã không bao giờ thấy được một sứ điệp khác của Kitô giáo. Đó là lịch sử của một Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận yếu đuối, bất lực của con người. Và không riêng gì người Nhật Bản, mà bất cứ ai chưa nhận ra sứ điệp ấy sẽ chẳng bao giờ có thể đi vào mầu nhiệm của Chúa Kitô và Kitô giáo.

Kitô giáo có hai biểu tượng vĩ đại nhất để cống hiến cho thế giới là thập giá và ngôi mộ trống. Một ngôi mộ trống mà không có thập giá sẽ đánh mất trọng tâm của Kitô giáo. Như văn sĩ Endo đã ghi nhận trong khi các tôn giáo khác trình bày một Thiên Chúa quyền năng, thì Kitô giáo lại giới thiệu một Thiên Chúa làm người đau khổ và chết. Người tôi tớ đau khổ đã không đau khổ một cách vô nghĩa. Ngài đã gánh chịu tất cả mọi đớn đau vì chúng ta. Trong suốt cuộc sống dương thế của Ngài, Chúa Giêsu đã vác trên vai mọi sỉ nhục, ruồng rẫy, thất bại và mọi tội nhân.

Một ngôi mộ trống mà không có thập giá sẽ đánh mất sứ điệp trong tâm của Kitô giáo, nhưng một thập giá mà không có ngôi mộ trống cũng chỉ là một thảm kịch của đau thương. Có biết bao người thiện chí đã sống, đã yêu thương và đã chết. Duy chỉ có một người đã trở về sau khi chết vời lời hứa sẽ vĩnh viễn chiến thắng sự chết và canh tân mọi sự. Chúng ta tôn thờ một Chúa Kitô chịu chết trên thập giá. Đó là ý nghĩa của lời tuyên xưng sau truyền phép: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa kại đến".

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết đón nhận mọi hy sinh và đau khổ dể mỗi ngày được thanh luyện và trở nên mới mẻ trong sự phục sinh của Chúa.

Van_Lung
18-06-2008, 01:54 PM
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con tinh thần của Chúa: nhỏ bé và nhân hậu. Ðể mọi hành động, mọi việc làm của chúng con đều xuất phát từ tấm lòng khiêm cung và tràn đầy yêu thương. Amen.

xoicucnong
18-06-2008, 03:11 PM
Thank sờ kiều!!! Đọc xong em muốn mù mắt rồi nè...ko biết đâu, bắt đền đi!!!