AugustineTuanBao
10-03-2011, 11:38 AM
Hôn Nhân và Bí Tích
Hôn nhân là hình thức chung sống suốt đời giữa một người nam và một người nữ trên căn bản tình yêu. Cả hai chấp nhận hình thức này, để dễ dàng cho đi và nhận lãnh tình yêu, giúp nhau vui sống trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Trong hôn nhân, cả hai cùng cộng tác tích cực vào sứ mạng sáng tạo của Tạo Hóa trong việc sinh sản con cái là kết quả của tình yêu hai người, đồng thời giúp nhau chu toàn trách nhiệm quốc gia và Giáo Hội (GH) trao phó trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái.
Có thể nói, hôn nhân là thể chế cổ kính nhất trong nền văn hóa nhân loại.
Xưa như trái đất nhưng vẫn mới như mặt trời. Mới mỗi ngày. Hôn nhân không phải là "sản phẩm" của riêng Kitô giáo mà là di sản của toàn thể nhân loại! Trong cuốn Giáo Lý Công Giáo (GLCG) ban hành ngày 11. 10. 1992, GH đã khẳng định: Hôn nhân nằm ngay trong bản tính tự nhiên của con người (1603).
Kinh Thánh cũng bắt đầu bằng việc sáng tạo một người nam và một người nữ (St 1) và kết thúc bằng một tiệc cưới Chiên Con (Kh 19, 7. 9). Như thế có thể nói, từ trang đầu tới trang cuối, Kinh Thánh vừa đề cập tới hôn nhân
và con người vừa đề cập tới mầu nhiệm tình yêu và hạnh phúc của loài người.
1. Hôn nhân thời Cựu ước
Những trang đầu Kinh Thánh đã ghi lại 2 bài tường thuật về sự sáng tạo con người (St 1, 1 - 2, 4 và 2, 4b - 3, 24). Tuy bài thứ hai (2, 4b - 3, 24) cổ kính hơn bài thứ nhất (1, 1 - 2, 4) nhưng cả hai đều tường thuật một chi tiết giống nhau: Ban đầu Thiên Chúa đã sáng tạo loài người không gồm hai người nam hoặc hai người nữ, mà gồm một người nam và một người nữ. Ðể làm gì? Thưa, để họ chung sống với nhau mà cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo liên tục của Ngài (St 1, 27t; 2, 18-24; xx. thêm: Tb 8, 5-9). Như thế, hôn nhân đã nằm ngay trong ý định sáng tạo nguyên sơ của Thiên Chúa.
Ðối với người Do Thái, hôn nhân không phải là chuyện riêng tư của hai người nhưng là việc chung của cả giòng họ. Vì thế, quyền xếp đặt việc hôn nhân thường dành cho gia trưởng (Xh 22, 15t; Ðnl 7, 3). Cha chàng rể chỉ cần nói chuyện với cha nàng dâu (St 24, 2-61; 34, 1-24; 38, 6; Tl 14, 2t), nhưng cũng có những trường hợp chàng rể đã tự quyết định lấy (St 26, 34t; 28, 8t; 29, 14-30; 38, 1-5; Hc 26, 19t) hoặc nàng dâu đã dành quyền quyết định tối hậu trong việc này (St 24, 5. 8. 58). Sau khi nhà trai nộp tiền cheo (mohar), nàng dâu mới chính thức trở thành người vợ trước pháp luật. Số tiền này không thể coi là giá cả mua bán nàng dâu, nhưng đúng ra là bảo chứng trước pháp luật khi thành hôn, đồng thời có thể coi là quỹ "bảo hiểm" cho nàng, nếu không may về sau nàng bị góa chồng quá sớm. Ðám cưới của người Do Thái xưa được cử hành suốt 7 hoặc 14 ngày liền (xx. St 29, 27; Tl 14, 12; Tb 8, 18t) với con số thực khách rất đông (St 29, 22).
Dù sách Tobia có nhắc tới một thứ hôn ước chính thức, được ghi trên giấy
trắng mực đen (7, 14), nhưng trong Cựu ước chưa thấy có một nghi thức rõ
ràng nào để chứng hôn. Hôn nhân thời đó chưa thể coi là Bí tích được,
dù Cựu ước cũng đã công nhận tính cách thánh thiện của hôn nhân. Hôn ước thời đó chỉ có tính cách dân luật, nhằm bảo vệ giềng mối gia đình.
2. Hôn nhân thời Giáo Hội sơ khai
Ngay từ thời GH sơ khai, các tín hữu đã xác tín rằng: Hôn nhân là việc thánh thiện, cần phải được cử hành trước mặt Chúa và GH. Trong GH cũng bắt đầu manh nha những hình thức chứng hôn tại địa phương. GH yêu cầu các tín hữu khi thành hôn, "xin thông báo cho Giám Mục biết", để "làm theo thánh ý Chúa" và "làm vinh danh Ngài" (Ignatios, Epistula ad Smyrnaeos 8, 1 và Epistula ad Polycarpum 5, 2; xem thêm: Tertullian, Ad ux. 2, 9; Ambrosius, Ep. 19, 7). Các Giáo Phụ thường hiểu việc Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới tại thành Cana như là việc Ngài công khai "hợp thức hóa" hôn nhân loài người. Trong GH Tây Phương hồi thế kỷ thứ 5, đôi tân hôn có thể mời Giám Mục tới thẳng phòng tiệc cưới, để chúc lành cho hôn ước của mình. Còn bên GH Ðông Phương, việc này đã được thực hành sau thời Hoàng Ðế Constantinô, nghiã là sớm hơn một thế kỷ. Sau này, đối với những quốc gia tại Ðông Phương đã nhận Kitô giáo làm quốc giáo, nghi thức Linh mục đội triều thiên cho đôi tân hôn trở thành không thể thiếu trong việc kết hôn. Ai kết hôn không có nghi thức này, hôn phối của họ sẽ bị coi là bất thành phép trước mặt GH.
Tới thế kỷ thứ 8, GH Tây Phương còn thực hành thêm việc khảo hạch trước khi cử hành Bí tích Hôn Phối cho đôi tân hôn. Vào thế kỷ 15, sau khi hai người công bố việc ưng thuận kết hôn, Linh mục còn chính thức xác nhận hôn ước đó bằng việc đọc thêm công thức: "Ego coniungo vos in matri- monium. In nomine Patris..." (Tôi kết hợp anh chị trong hôn nhân.
Nhân danh Cha...) (Martène R II 367t: Ordo VII matr.). Sau này, nghi thức
đó còn được công nhận và in lại trong sách nghi lễ Roma (Rituale Romanum).
Nhưng khoa Thần Học và Giáo Luật thời thế kỷ thứ 11 chủ trương rằng: Ðể hôn phối thành phép, chỉ cần sự ưng thuận (solus consensus) kết hôn của hai người là đủ. Hậu quả của học thuyết này là việc coi thường các nghi thức kết hôn, bên đời cũng như bên đạo. Ðể ngăn ngừa nguy hiểm đó, Công đồng Trento đã ra sắc lệnh "Tametsi" ngày 11. 11. 1563 nhằm canh tân hôn phối, bằng các biện pháp cụ thể sau đây: (1) Rao hôn phối 3 lần liên tiếp trong các ngày lễ lớn, (2) hôn phối phải cử hành theo nghi thức cố định và công khai trước mặt một Linh mục và 2, 3 nhân chứng. Những hôn phối nào không cử hành theo thể thức này, đều bị coi là bất hợp pháp và bất thành phép (DZ 1814-1816). Nghi thức hôn phối lúc đó đã gồm 3 yếu tố căn bản như ngày nay:
(1) Hai người công bố sự ưng thuận kết hôn với nhau trước mặt vị đại diện
GH và các nhân chứng.
(2) Vị đại diện xác nhận sự ưng thuận của hai người.
(3) Vị đại diện chúc lành cho hôn ước đó.
3. Hôn nhân là một công ích
Có người vẫn thắc mắc: Hôn nhân là "chuyện riêng tư" của hai người, tại
sao GH phải "xía" vô? Thưa, hôn nhân không phải là chuyện riêng tư giữa loài người, mà là chuyện liên quan đến cả Thiên Chúa. Hôn nhân nằm trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa ngay từ khi tạo thành vũ trụ. Như thế, GH lưu tâm tới hôn nhân như là lưu tâm tới chương trình của Thiên Chúa. Hôn nhân cũng không phải là chuyện riêng tư giữa hai người, mà là chuyện liên quan đến nhiều người: cả giòng họ, cả xã hội và GH. Hôn nhân có liên quan tới nhiều người, vì hôn nhân không phải chỉ liên quan tới hạnh phúc của hai người, mà còn liên quan tới hạnh phúc của cả xã hội và GH. Công đồng Vatican II đã minh định: "Hạnh phúc của một người, cũng như hạnh phúc của xã hội và GH, có liên quan mật thiết với hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân và đời sống gia đình" (Gaudium et Spes 47, 2). Như thế, GH chăm sóc hạnh phúc hôn nhân như là chăm sóc hạnh phúc xã hội cũng như hạnh phúc của chính GH.
Có lẽ chính trong ý nghiã đó, mà GLCG đã xếp Bí tích Hôn Phối (1601- 1666) vào loại "những Bí tích phục vụ đời sống chung" (les sacrements du service de la communion) cùng một loại với Bí tích Truyền Chức (1536-1600)! Tóm lại, hôn nhân là một công ích, không phải chỉ có ích cho hai người và vì thế cũng không thể "dàn xếp âm thầm" giữa hai người yêu nhau.
4. Hôn nhân là một mầu nhiệm
Hầu hết các dân tộc đều tin rằng: Thần Thánh "nhúng tay" vào việc hôn nhân của loài người hoặc coi hôn nhân là việc thiên duyên tiền định. Người Việt xưa cũng tin, vợ chồng nên duyên được là nhờ "ông Tơ bà Nguyệt". Niềm tin đó dựa trên điển tích "Nguyệt hạ lão nhân" (ông già ngồi dưới bóng trăng, thường được gọi là ông Tơ, vị tiên chuyên lo xe duyên cho loài người). Ðiển tích ấy kể rằng: Vi Cố, vào một đêm đi chơi, chàng gặp một cụ già ngồi dưới bóng trăng trong, trong tay cụ có một cuốn sổ và một bó chỉ hồng. Vi Cố gạn hỏi, cụ mới tiết lộ: "Ta là Nguyệt Lão, cuốn sổ này để ghi tên những cặp trai gái sẽ lấy nhau, còn chỉ hồng này dùng để cột chân họ lại, để nên duyên vợ chồng." Nghe thế, Vi Cố tò mò cũng muốn biết xem sau này mình sẽ lấy ai. Nguyệt Lão chiều lòng cho biết, sau này chàng sẽ lấy cô nàng ăn xin trước chợ. Vi Cố tin lời, sợ mất danh giá về sau. Ðể trừ hậu họa, một ngày kia chàng xách dao ra chợ, "hỏi thăm sức khoẻ" cô nàng. Vừa tới nơi, chàng chém vội một cú. Thấy máu chảy đầm đìa, hoảng sợ chàng chạy trốn. May phước, nhờ thế nàng thoát nạn. Sau này, Vi Cố cưới được một tiểu thư, con của vị quan trong miền, chàng yên trí. Nhưng khi thấy vết sẹo trên đầu vợ, chàng hỏi ra mới biết tiểu thư ngày nay chính là cô nàng ăn xin ngày trước. Nàng đã được quan ông trong miền nhận về làm con nuôi.
Như thế, hôn nhân không phải là việc phàm tục giữa hai người yêu nhau,
nhưng là việc linh thiêng giữa Thần Linh và loài người. Ngài yêu họ nên
"mai mối" cho họ và dàn xếp cho họ tìm được hạnh phúc bên nhau.
Trong Kinh Thánh, bài tường thuật thứ 2 về sự sáng tạo cũng cho thấy, Thiên Chúa đã can thiệp trực tiếp vào việc này bằng cách cho Adam ngủ say, rồi lấy xương sườn của chàng mà dựng nên Evà (St 2, 21). Chữ "ngủ say" trong nguyên ngữ Do Thái "tardemáh" có ý diễn tả "mầu nhiệm không hiểu nổi" này đối với nhân loại.
Thư Thánh Phaolô cũng coi sự kết hợp giữa người nam và người nữ như một "mầu nhiệm" [mystérion] (Ep 5, 32) vì hôn nhân của loài người là hình ảnh của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và GH (Ep 5, 23-27. 29-32).
H. Rahner còn gọi hôn nhân là "mầu nhiệm triệt cùng" (mysterium radicale) của nhiệm thể Chúa Kitô, vì khi sinh ra bởi một cuộc hôn nhân nào đó, con người cũng có "họ hàng máu mủ" với Thiên Chúa qua Ðức Kitô, là Ðấng đã xuống thế làm người và ở giữa loài người.
5. Hôn nhân là một Bí tích
Trong các nền văn hóa khác nhau, hôn nhân luôn được coi là việc thánh thiện. Vì thế, trước khi về chung sống với nhau, cô dâu chú rể thường xin Thần Linh của mình chứng giám cho tình yêu và phù hộ cho cuộc sống chung giữa hai người qua một nghi lễ công khai và long trọng. Trong hầu hết các tôn giáo, hôn nhân cũng được coi là hình thức sống chung hợp với ý Thượng Ðế. Trong Cựu ước, giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài thường được ví như một cuộc hôn nhân giữa hai người (Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31; Ed 16; 23). Còn trong Tân ước, hôn nhân được coi là hình ảnh sự kết hợp giữa Chúa Kitô và GH (Ep 5, 22-33). Chúa Kitô được ví như chàng rể của giao ước mới (Mc 2, 19). Còn GH được ví như nàng dâu, đã được Chúa Kitô yêu thương đến hy sinh mạng sống (Ep 5, 25). Chính Chúa Giêsu cũng minh định công khai: Hôn nhân hợp với thánh ý Thiên Chúa (Mt 19, 6).
Ðối với GH, hôn nhân không phải chỉ là một khế ước giữa người với người mà còn là một Bí tích (Sakrament/ sacrement) giữa Thiên Chúa và loài người. Thánh Gioan Kim Khẩu cho rằng: "Hôn nhân là Bí tích tình yêu... Khi vợ chồng nên một trong hôn nhân, cả hai không còn là hình ảnh dưới trần nữa, mà là hình ảnh của Chúa trên trời."
Nhưng, Bí tích là gì? - Thưa, Bí tích là dấu thánh (heiliges Zeichen) bề ngoài do Chúa Giêsu đã lập, để thông truyền ơn phúc bên trong.
Dấu thánh bề ngoài trong Bí tích Hôn Phối là: (1) sự ưng thuận thành hôn của hai người và (2) việc công khai hóa sự ưng thuận đó trước mặt đại diện GH và các chứng nhân. Bí tích này do Chúa Giêsu đã lập, khi Ngài thiết lập Giao ước mới như là dấu chỉ muôn đời của ân sủng. Ngoài ra, tự bản chất không một Bí tích nào có liên hệ với thực tại tự nhiên cho bằng Bí tích Hôn Phối.
Có thể nói, Thiên Chúa đã thiết lập khế ước hôn nhân ngay trong vườn địa
đàng, giữa người nam và người nữ đầu tiên. Nhưng Chúa Giêsu mới nâng hôn ước đó lên hàng Bí tích.
Ngay trong trật tự sáng tạo, Thiên Chúa đã sáng tạo người nam và người nữ
theo hình ảnh Ngài (St 1, 27), mà Ngài là tình yêu (1 Ga 4, 8. 16). Cho nên,
loài người được sáng tạo theo mẫu mực của tình yêu. Ngài đã chúc lành cho họ và cầu mong họ sinh sản thêm nhiều con cái, để tiếp tục cộng tác trực tiếp trong việc sáng tạo mà Ngài đã khởi đầu (St 1, 28). Chính Thiên Chúa đã kết luận: "Ðó là việc rất tốt" (St 1, 31).
Còn đối với Chúa Giêsu, ngay khi bắt đầu đời sống công khai, Ngài đã có mặtb trong một tiệc cưới tại Cana. Ngài làm dấu lạ đầu tiên biến nước thành rượu để giúp hai họ nối tiếp cuộc vui (Ga 2, 1-11). GH luôn hiểu sự hiện diện này như là một chứng thực của Chúa Kitô đối với giá trị hôn nhân, đồng thời cũng tiên báo sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong đời sống hôn nhân (GLCG, 1613).
Dù sống độc thân, nhưng Chúa Giêsu cũng dạy rằng: Hôn nhân là một cuộc sống chung giữa người nam và người nữ, được Thiên Chúa thiết lập ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Ngài còn tranh đấu quyết liệt, để trả lại cho hôn nhân ý nghiã nguyên thủy mà Thiên Chúa đã minh định từ đầu, đó là sự hợp nhất bất khả phân ly giữa người nam và người nữ (Mc 10, 6-9; Mt 19, 4tt).
Ngay từ thời GH sơ khai, Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu là hãy cưới nhau "trong Chúa" (1 Cr 7, 39).
Giáo lý Bí tích của hôn phối được xây dựng trên nền tảng Kinh Thánh, nhưng phần cô đọng nhất phải kể đến đoạn 5, 22-33 thuộc thư gởi tín hữu Ephêsô. Trong phần này, tác giả đã so sánh sự kết hợp giữa vợ chồng với sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Như thế, sự kết hợp trong đời sống hôn nhân là hình ảnh của sự kết hợp với Thiên Chúa, và sự hiến thân toàn vẹn cũng được coi là mục tiêu và nền tảng của đời sống hôn nhân. Sự hy sinh của vợ chồng dành cho nhau là hình ảnh sự hy sinh của Chúa dành cho GH. Tình yêu của vợ chồng dành cho nhau cũng là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho GH. Rõ ràng nhất là khi tác giả xác tín: "Mầu nhiệm (Mysterium, Sacramentum) đó thật vĩ đại. Tôi có ý ám chỉ Chúa Kitô và GH Ngài" (5, 32).
Giáo huấn này được hình thành dần dần trong những thế kỷ 11 - 13, rồi
được phán quyết bởi nhiều Công đồng và tái khẳng định qua nhiều thời đại Giáo hoàng khác nhau. Công đồng Lateran II (1139) đã xếp Bí tích Hôn Phối chung với các Bí tích Thánh Thể, Thánh Tẩy và Truyền Chức (D 367). Ðến thời Công nghị Verona (1184), hôn nhân chính thức được gọi là Bí tích (D 406, 424, 465, 702). Rồi trong sắc lệnh "Exultate Deo" (22. 11. 1439), Công đồng Firenze đã gọi Bí tích này là Bí tích thứ bẩy của GH. (DZ 1327; NR 730). Công đồng Trento, trong khóa họp ngày 11. 11. 1563 xác tín thêm rằng: Chính Chúa Giêsu đã thiết lập và hoàn thành Bí tích này (DZ 1799; NR 733). Sau này, trong các thông điệp "Arcanum divinae sapientiae" (10. 02. 1880) của ÐGH Lêo XII và "Casti connubii" (31. 12. 1930) của ÐGH Piô XI, giáo huấn này còn được tái khẳng định thêm một lần nữa (DZ 3142; NR 747; DZ 3700; NR 751). Công đồng Vatincan II đi xa hơn, khi xác quyết: "Trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái, vợ chồng sẽ giúp nhau nên thánh (!) (Lumen Gentium, số 11). Như thế, hôn nhân vừa là một Bí tích vừa là một ơn gọi để nên thánh.
"Hôn nhân là một Bí tích" thường được hiểu theo 2 nghiã sau đây: (1) Khi
hai người yêu nhau muốn được Thiên Chúa chúc phúc cho họ, thì Bí tích
hai người ban cho nhau, cũng sẽ đem lại cho họ ân sủng và phúc lành của
Chúa. (2) Ðối với người Công Giáo, hôn nhân còn là môi trường giúp cho họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể qua tình yêu của người yêu. Nói cách khác, trong tình yêu hôn nhân họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể: Họ dễ dàng xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương họ tha thiết trong vòng tay của người yêu. Tình yêu trong hôn nhân như thế chính là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho con người. Công đồng Vatican II cũng xác quyết: "Tình yêu chân chính của hai người được thông phần vào tình yêu của Thiên Chúa" (Gaudium et Spes, số 48, 2).
Bí tích đó không phải chỉ được cử hành một lần trong Phụng vụ, mà cần phải được cử hành mỗi ngày một cách cụ thể trong đời sống thường ngày bằng cách tận hiến cho Chúa và hy sinh cho nhau. Như thế, Bí tích Hôn Phối là một phần thuộc thực tại cứu độ bao la của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự tử nạn và phục sinh của Ðức Kitô, Con yêu dấu của Ngài.
Nên biết, hôn phối chỉ có giá trị là Bí tích đối với hai người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy (Rửa Tội) theo nghi thức Kitô giáo (mà không nhất thiết phải là nghi thức Công giáo) trước khi lãnh nhận Bí tích Hôn phối. Nếu
một trong hai người, cho tới khi lãnh nhận Bí tích Hôn Phối vẫn chưa lãnh
nhận Bí tích Thánh Tẩy, hôn phối họ lãnh nhận chỉ là hôn phối tự nhiên
(Naturehe) - (xx. LThK VIII, cột 1206). Vì trong Bí tích Hôn Phối, khi đã
thành phép thì cũng thành phép cho cả hai người, mà không có chuyện một người thành phép, một người không. Cũng thế, khi đã có giá trị Bí tích thì cũng có giá trị cho cả hai người. Không có chuyện chỉ giá trị với người này mà không có giá trị với người kia. Bí tích Thánh Tẩy chính là điều kiện căn bản để lãnh nhận các Bí tích khác được thành phép.
Tuy nhiên, nếu sau này người thứ hai xin lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, thì Hôn Phối mà hai người đã lãnh nhận trước sẽ đương nhiên trở thành Hôn Phối có Bí tích. Ðiều này cũng có giá trị đối với các hôn phối tự nhiên khác, khi hai người đều lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy sau khi cưới.
Ðối với GH Công Giáo và Chính Thống, hôn nhân là một Bí tích. Trái lại,
đối với GH Anh giáo và GH Tin Lành, hôn nhân không phải là một Bí tích. Martin Luther coi hôn nhân chỉ là "việc đời" mà thôi (nguyên văn: ein
aeusserlich-weltlich Ding). Các nhà cải cách khác như Melanchthon, Zwingli, Calvin, Brenz, Bucer, Bugenhagen cũng cùng một lập trường với Luther.
6. Nghi thức kết hôn trong Giáo Hội
Những nghi thức kết hôn trong GH từ trước tới nay thực ra đều là những hình thức đã có sẵn trong dân luật, trong các nền văn hóa cổ xưa và trong các tôn giáo khác nhau. Hình thức nào thích hợp đều được GH "rửa tội" lại và biến thành nghi thức Phụng vụ của mình. Ðó là một tiến trình lâu dài. Mãi tới thời Trung cổ, GH mới có những nghi thức nhất định và công khai trong việc này.
Hình thức chính thức để cử hành Hôn phối (Forma celebrationis matrimonii: Formpflicht) cách thành phép và hợp pháp trong GH Công giáo là hai người phải kết hôn trước mặt Giám mục hoặc Cha sở địa phương, hoặc một Linh mục, một Phó tế nào đó đã được ủy nhiệm (hoặc một giáo dân được ủy nhiệm trong trường hợp thiếu những vị nói trên, xin xem: CIC 1112) cùng với hai nhân chứng.
GH công khai hóa Bí tích Hôn Phối như trên, vì những lý do sau đây:
a) Bí tích Hôn Phối là một nghi thức Phụng vụ của GH.
b) Sau khi lãnh nhận Bí tích Hôn Phối, hai người đều có bổn phận và quyền lợi đối với nhau, cũng như đối với con cái sẽ sinh ra.
c) Sau khi thành hôn, quyền lợi và bổn phận đó cần được bảo đảm lâu dài, nên cần có thêm sự hiện diện của hai nhân chứng.
d) Khi đã chấp nhận công khai hóa như thế, hai người sẽ dễ dàng trung
thành với nhau hơn.
Ðó là nghi thức công khai và chính thức được áp dụng trong các trường hợp chung. Trong những trường hợp riêng (CIC 1116; 1127, 2-3), dĩ nhiên GH có thể chuẩn chước hình thức kết hôn này. Ngoài ra, Công đồng Vatican II còn cho phép GH địa phương được nghiên cứu và thí nghiệm những nghi thức đặc thù, hợp với tinh thần, phong tục, văn hóa địa phương. Ðiều cần duy trì trong các nghi thức địa phương này là Linh mục phải chủ tọa lễ nghi Hôn Phối đó (De Sacra Liturgia, số 77).
Vì mọi Bí tích đều liên quan trực tiếp tới Bí tích Thánh Thể, nên Bí tích
Hôn Phối cũng thường được cử hành chung với Bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ của một Thánh Lễ. GH ấn định phải cử hành Bí tích này sau bài Phúc Âm, bài giảng và trước phần Lời nguyện giáo dân trong Thánh Lễ (Sacrosanctum Concilium, số 61 và 78). Hiến chế này cũng tiên liệu những trường hợp có thể cử hành Bí tích Hôn Phối ngoài Thánh Lễ, dưới hình thức một buổi Phụng vụ Lời Chúa, nhất là trong những trường hợp hôn phối (tạm dịch là) dị tín (mariage mixte, konfessionsverschiedene Ehe) hoặc dị giáo (disparité de culte, religionsverschiedene Ehe). Hôn nhân được gọi là dị tín, khi một người Công giáo lấy một người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy trong GH của họ, nhưng không phải là Công giáo, thí dụ: một người Tin lành, một người Chính thống (orthodoxe)... Hôn nhân được gọi là dị giáo, khi một người Công giáo lấy một người chưa lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, thí dụ: một người Do thái giáo, một người Hồi giáo, một người Ấn độ giáo, một người Phật giáo... Trong trường hợp dị tín, nếu muốn cử hành Bí tích Hôn Phối trong khuôn khổ một Thánh lễ, cần có phép của Giám mục (xx. Ordo celebrandi matrimonium). Trong trường hợp dị giáo, thường không được phép cử hành Hôn phối trong một Thánh lễ, tuy nhiên còn tùy luật riêng của từng Giáo phận địa phương.
Khi thấy cần cử hành Hôn Phối ngoài khuôn khổ của một Thánh Lễ, xin đừng coi đó là "Hôn Phối hạng hai" hoặc chỉ là "Phép giao" như nhiều người lầm tưởng. Trước khi cử hành Hôn Phối, hai người và họ hàng nên bàn hỏi với Linh mục hữu trách, để cùng quyết định chọn một hình thức sao cho hợp tình hợp lý với cả hai bên, nhất là trong trường hợp hôn phối với người khác đạo. Bí tích Hôn Phối là một nghi thức Phụng vụ, đòi hỏi sự xác tín và chân thành bề trong, không phải là một hình thức "phong tục" cần có, để làm tăng thêm vẻ long trọng bề ngoài hoặc chỉ cần "dàn cảnh" sao cho đẹp, nhằm ghi lại những lưu ảnh của một ngày vui.
Hôn nhân là hình thức chung sống suốt đời giữa một người nam và một người nữ trên căn bản tình yêu. Cả hai chấp nhận hình thức này, để dễ dàng cho đi và nhận lãnh tình yêu, giúp nhau vui sống trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Trong hôn nhân, cả hai cùng cộng tác tích cực vào sứ mạng sáng tạo của Tạo Hóa trong việc sinh sản con cái là kết quả của tình yêu hai người, đồng thời giúp nhau chu toàn trách nhiệm quốc gia và Giáo Hội (GH) trao phó trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái.
Có thể nói, hôn nhân là thể chế cổ kính nhất trong nền văn hóa nhân loại.
Xưa như trái đất nhưng vẫn mới như mặt trời. Mới mỗi ngày. Hôn nhân không phải là "sản phẩm" của riêng Kitô giáo mà là di sản của toàn thể nhân loại! Trong cuốn Giáo Lý Công Giáo (GLCG) ban hành ngày 11. 10. 1992, GH đã khẳng định: Hôn nhân nằm ngay trong bản tính tự nhiên của con người (1603).
Kinh Thánh cũng bắt đầu bằng việc sáng tạo một người nam và một người nữ (St 1) và kết thúc bằng một tiệc cưới Chiên Con (Kh 19, 7. 9). Như thế có thể nói, từ trang đầu tới trang cuối, Kinh Thánh vừa đề cập tới hôn nhân
và con người vừa đề cập tới mầu nhiệm tình yêu và hạnh phúc của loài người.
1. Hôn nhân thời Cựu ước
Những trang đầu Kinh Thánh đã ghi lại 2 bài tường thuật về sự sáng tạo con người (St 1, 1 - 2, 4 và 2, 4b - 3, 24). Tuy bài thứ hai (2, 4b - 3, 24) cổ kính hơn bài thứ nhất (1, 1 - 2, 4) nhưng cả hai đều tường thuật một chi tiết giống nhau: Ban đầu Thiên Chúa đã sáng tạo loài người không gồm hai người nam hoặc hai người nữ, mà gồm một người nam và một người nữ. Ðể làm gì? Thưa, để họ chung sống với nhau mà cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo liên tục của Ngài (St 1, 27t; 2, 18-24; xx. thêm: Tb 8, 5-9). Như thế, hôn nhân đã nằm ngay trong ý định sáng tạo nguyên sơ của Thiên Chúa.
Ðối với người Do Thái, hôn nhân không phải là chuyện riêng tư của hai người nhưng là việc chung của cả giòng họ. Vì thế, quyền xếp đặt việc hôn nhân thường dành cho gia trưởng (Xh 22, 15t; Ðnl 7, 3). Cha chàng rể chỉ cần nói chuyện với cha nàng dâu (St 24, 2-61; 34, 1-24; 38, 6; Tl 14, 2t), nhưng cũng có những trường hợp chàng rể đã tự quyết định lấy (St 26, 34t; 28, 8t; 29, 14-30; 38, 1-5; Hc 26, 19t) hoặc nàng dâu đã dành quyền quyết định tối hậu trong việc này (St 24, 5. 8. 58). Sau khi nhà trai nộp tiền cheo (mohar), nàng dâu mới chính thức trở thành người vợ trước pháp luật. Số tiền này không thể coi là giá cả mua bán nàng dâu, nhưng đúng ra là bảo chứng trước pháp luật khi thành hôn, đồng thời có thể coi là quỹ "bảo hiểm" cho nàng, nếu không may về sau nàng bị góa chồng quá sớm. Ðám cưới của người Do Thái xưa được cử hành suốt 7 hoặc 14 ngày liền (xx. St 29, 27; Tl 14, 12; Tb 8, 18t) với con số thực khách rất đông (St 29, 22).
Dù sách Tobia có nhắc tới một thứ hôn ước chính thức, được ghi trên giấy
trắng mực đen (7, 14), nhưng trong Cựu ước chưa thấy có một nghi thức rõ
ràng nào để chứng hôn. Hôn nhân thời đó chưa thể coi là Bí tích được,
dù Cựu ước cũng đã công nhận tính cách thánh thiện của hôn nhân. Hôn ước thời đó chỉ có tính cách dân luật, nhằm bảo vệ giềng mối gia đình.
2. Hôn nhân thời Giáo Hội sơ khai
Ngay từ thời GH sơ khai, các tín hữu đã xác tín rằng: Hôn nhân là việc thánh thiện, cần phải được cử hành trước mặt Chúa và GH. Trong GH cũng bắt đầu manh nha những hình thức chứng hôn tại địa phương. GH yêu cầu các tín hữu khi thành hôn, "xin thông báo cho Giám Mục biết", để "làm theo thánh ý Chúa" và "làm vinh danh Ngài" (Ignatios, Epistula ad Smyrnaeos 8, 1 và Epistula ad Polycarpum 5, 2; xem thêm: Tertullian, Ad ux. 2, 9; Ambrosius, Ep. 19, 7). Các Giáo Phụ thường hiểu việc Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới tại thành Cana như là việc Ngài công khai "hợp thức hóa" hôn nhân loài người. Trong GH Tây Phương hồi thế kỷ thứ 5, đôi tân hôn có thể mời Giám Mục tới thẳng phòng tiệc cưới, để chúc lành cho hôn ước của mình. Còn bên GH Ðông Phương, việc này đã được thực hành sau thời Hoàng Ðế Constantinô, nghiã là sớm hơn một thế kỷ. Sau này, đối với những quốc gia tại Ðông Phương đã nhận Kitô giáo làm quốc giáo, nghi thức Linh mục đội triều thiên cho đôi tân hôn trở thành không thể thiếu trong việc kết hôn. Ai kết hôn không có nghi thức này, hôn phối của họ sẽ bị coi là bất thành phép trước mặt GH.
Tới thế kỷ thứ 8, GH Tây Phương còn thực hành thêm việc khảo hạch trước khi cử hành Bí tích Hôn Phối cho đôi tân hôn. Vào thế kỷ 15, sau khi hai người công bố việc ưng thuận kết hôn, Linh mục còn chính thức xác nhận hôn ước đó bằng việc đọc thêm công thức: "Ego coniungo vos in matri- monium. In nomine Patris..." (Tôi kết hợp anh chị trong hôn nhân.
Nhân danh Cha...) (Martène R II 367t: Ordo VII matr.). Sau này, nghi thức
đó còn được công nhận và in lại trong sách nghi lễ Roma (Rituale Romanum).
Nhưng khoa Thần Học và Giáo Luật thời thế kỷ thứ 11 chủ trương rằng: Ðể hôn phối thành phép, chỉ cần sự ưng thuận (solus consensus) kết hôn của hai người là đủ. Hậu quả của học thuyết này là việc coi thường các nghi thức kết hôn, bên đời cũng như bên đạo. Ðể ngăn ngừa nguy hiểm đó, Công đồng Trento đã ra sắc lệnh "Tametsi" ngày 11. 11. 1563 nhằm canh tân hôn phối, bằng các biện pháp cụ thể sau đây: (1) Rao hôn phối 3 lần liên tiếp trong các ngày lễ lớn, (2) hôn phối phải cử hành theo nghi thức cố định và công khai trước mặt một Linh mục và 2, 3 nhân chứng. Những hôn phối nào không cử hành theo thể thức này, đều bị coi là bất hợp pháp và bất thành phép (DZ 1814-1816). Nghi thức hôn phối lúc đó đã gồm 3 yếu tố căn bản như ngày nay:
(1) Hai người công bố sự ưng thuận kết hôn với nhau trước mặt vị đại diện
GH và các nhân chứng.
(2) Vị đại diện xác nhận sự ưng thuận của hai người.
(3) Vị đại diện chúc lành cho hôn ước đó.
3. Hôn nhân là một công ích
Có người vẫn thắc mắc: Hôn nhân là "chuyện riêng tư" của hai người, tại
sao GH phải "xía" vô? Thưa, hôn nhân không phải là chuyện riêng tư giữa loài người, mà là chuyện liên quan đến cả Thiên Chúa. Hôn nhân nằm trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa ngay từ khi tạo thành vũ trụ. Như thế, GH lưu tâm tới hôn nhân như là lưu tâm tới chương trình của Thiên Chúa. Hôn nhân cũng không phải là chuyện riêng tư giữa hai người, mà là chuyện liên quan đến nhiều người: cả giòng họ, cả xã hội và GH. Hôn nhân có liên quan tới nhiều người, vì hôn nhân không phải chỉ liên quan tới hạnh phúc của hai người, mà còn liên quan tới hạnh phúc của cả xã hội và GH. Công đồng Vatican II đã minh định: "Hạnh phúc của một người, cũng như hạnh phúc của xã hội và GH, có liên quan mật thiết với hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân và đời sống gia đình" (Gaudium et Spes 47, 2). Như thế, GH chăm sóc hạnh phúc hôn nhân như là chăm sóc hạnh phúc xã hội cũng như hạnh phúc của chính GH.
Có lẽ chính trong ý nghiã đó, mà GLCG đã xếp Bí tích Hôn Phối (1601- 1666) vào loại "những Bí tích phục vụ đời sống chung" (les sacrements du service de la communion) cùng một loại với Bí tích Truyền Chức (1536-1600)! Tóm lại, hôn nhân là một công ích, không phải chỉ có ích cho hai người và vì thế cũng không thể "dàn xếp âm thầm" giữa hai người yêu nhau.
4. Hôn nhân là một mầu nhiệm
Hầu hết các dân tộc đều tin rằng: Thần Thánh "nhúng tay" vào việc hôn nhân của loài người hoặc coi hôn nhân là việc thiên duyên tiền định. Người Việt xưa cũng tin, vợ chồng nên duyên được là nhờ "ông Tơ bà Nguyệt". Niềm tin đó dựa trên điển tích "Nguyệt hạ lão nhân" (ông già ngồi dưới bóng trăng, thường được gọi là ông Tơ, vị tiên chuyên lo xe duyên cho loài người). Ðiển tích ấy kể rằng: Vi Cố, vào một đêm đi chơi, chàng gặp một cụ già ngồi dưới bóng trăng trong, trong tay cụ có một cuốn sổ và một bó chỉ hồng. Vi Cố gạn hỏi, cụ mới tiết lộ: "Ta là Nguyệt Lão, cuốn sổ này để ghi tên những cặp trai gái sẽ lấy nhau, còn chỉ hồng này dùng để cột chân họ lại, để nên duyên vợ chồng." Nghe thế, Vi Cố tò mò cũng muốn biết xem sau này mình sẽ lấy ai. Nguyệt Lão chiều lòng cho biết, sau này chàng sẽ lấy cô nàng ăn xin trước chợ. Vi Cố tin lời, sợ mất danh giá về sau. Ðể trừ hậu họa, một ngày kia chàng xách dao ra chợ, "hỏi thăm sức khoẻ" cô nàng. Vừa tới nơi, chàng chém vội một cú. Thấy máu chảy đầm đìa, hoảng sợ chàng chạy trốn. May phước, nhờ thế nàng thoát nạn. Sau này, Vi Cố cưới được một tiểu thư, con của vị quan trong miền, chàng yên trí. Nhưng khi thấy vết sẹo trên đầu vợ, chàng hỏi ra mới biết tiểu thư ngày nay chính là cô nàng ăn xin ngày trước. Nàng đã được quan ông trong miền nhận về làm con nuôi.
Như thế, hôn nhân không phải là việc phàm tục giữa hai người yêu nhau,
nhưng là việc linh thiêng giữa Thần Linh và loài người. Ngài yêu họ nên
"mai mối" cho họ và dàn xếp cho họ tìm được hạnh phúc bên nhau.
Trong Kinh Thánh, bài tường thuật thứ 2 về sự sáng tạo cũng cho thấy, Thiên Chúa đã can thiệp trực tiếp vào việc này bằng cách cho Adam ngủ say, rồi lấy xương sườn của chàng mà dựng nên Evà (St 2, 21). Chữ "ngủ say" trong nguyên ngữ Do Thái "tardemáh" có ý diễn tả "mầu nhiệm không hiểu nổi" này đối với nhân loại.
Thư Thánh Phaolô cũng coi sự kết hợp giữa người nam và người nữ như một "mầu nhiệm" [mystérion] (Ep 5, 32) vì hôn nhân của loài người là hình ảnh của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và GH (Ep 5, 23-27. 29-32).
H. Rahner còn gọi hôn nhân là "mầu nhiệm triệt cùng" (mysterium radicale) của nhiệm thể Chúa Kitô, vì khi sinh ra bởi một cuộc hôn nhân nào đó, con người cũng có "họ hàng máu mủ" với Thiên Chúa qua Ðức Kitô, là Ðấng đã xuống thế làm người và ở giữa loài người.
5. Hôn nhân là một Bí tích
Trong các nền văn hóa khác nhau, hôn nhân luôn được coi là việc thánh thiện. Vì thế, trước khi về chung sống với nhau, cô dâu chú rể thường xin Thần Linh của mình chứng giám cho tình yêu và phù hộ cho cuộc sống chung giữa hai người qua một nghi lễ công khai và long trọng. Trong hầu hết các tôn giáo, hôn nhân cũng được coi là hình thức sống chung hợp với ý Thượng Ðế. Trong Cựu ước, giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài thường được ví như một cuộc hôn nhân giữa hai người (Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31; Ed 16; 23). Còn trong Tân ước, hôn nhân được coi là hình ảnh sự kết hợp giữa Chúa Kitô và GH (Ep 5, 22-33). Chúa Kitô được ví như chàng rể của giao ước mới (Mc 2, 19). Còn GH được ví như nàng dâu, đã được Chúa Kitô yêu thương đến hy sinh mạng sống (Ep 5, 25). Chính Chúa Giêsu cũng minh định công khai: Hôn nhân hợp với thánh ý Thiên Chúa (Mt 19, 6).
Ðối với GH, hôn nhân không phải chỉ là một khế ước giữa người với người mà còn là một Bí tích (Sakrament/ sacrement) giữa Thiên Chúa và loài người. Thánh Gioan Kim Khẩu cho rằng: "Hôn nhân là Bí tích tình yêu... Khi vợ chồng nên một trong hôn nhân, cả hai không còn là hình ảnh dưới trần nữa, mà là hình ảnh của Chúa trên trời."
Nhưng, Bí tích là gì? - Thưa, Bí tích là dấu thánh (heiliges Zeichen) bề ngoài do Chúa Giêsu đã lập, để thông truyền ơn phúc bên trong.
Dấu thánh bề ngoài trong Bí tích Hôn Phối là: (1) sự ưng thuận thành hôn của hai người và (2) việc công khai hóa sự ưng thuận đó trước mặt đại diện GH và các chứng nhân. Bí tích này do Chúa Giêsu đã lập, khi Ngài thiết lập Giao ước mới như là dấu chỉ muôn đời của ân sủng. Ngoài ra, tự bản chất không một Bí tích nào có liên hệ với thực tại tự nhiên cho bằng Bí tích Hôn Phối.
Có thể nói, Thiên Chúa đã thiết lập khế ước hôn nhân ngay trong vườn địa
đàng, giữa người nam và người nữ đầu tiên. Nhưng Chúa Giêsu mới nâng hôn ước đó lên hàng Bí tích.
Ngay trong trật tự sáng tạo, Thiên Chúa đã sáng tạo người nam và người nữ
theo hình ảnh Ngài (St 1, 27), mà Ngài là tình yêu (1 Ga 4, 8. 16). Cho nên,
loài người được sáng tạo theo mẫu mực của tình yêu. Ngài đã chúc lành cho họ và cầu mong họ sinh sản thêm nhiều con cái, để tiếp tục cộng tác trực tiếp trong việc sáng tạo mà Ngài đã khởi đầu (St 1, 28). Chính Thiên Chúa đã kết luận: "Ðó là việc rất tốt" (St 1, 31).
Còn đối với Chúa Giêsu, ngay khi bắt đầu đời sống công khai, Ngài đã có mặtb trong một tiệc cưới tại Cana. Ngài làm dấu lạ đầu tiên biến nước thành rượu để giúp hai họ nối tiếp cuộc vui (Ga 2, 1-11). GH luôn hiểu sự hiện diện này như là một chứng thực của Chúa Kitô đối với giá trị hôn nhân, đồng thời cũng tiên báo sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong đời sống hôn nhân (GLCG, 1613).
Dù sống độc thân, nhưng Chúa Giêsu cũng dạy rằng: Hôn nhân là một cuộc sống chung giữa người nam và người nữ, được Thiên Chúa thiết lập ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Ngài còn tranh đấu quyết liệt, để trả lại cho hôn nhân ý nghiã nguyên thủy mà Thiên Chúa đã minh định từ đầu, đó là sự hợp nhất bất khả phân ly giữa người nam và người nữ (Mc 10, 6-9; Mt 19, 4tt).
Ngay từ thời GH sơ khai, Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu là hãy cưới nhau "trong Chúa" (1 Cr 7, 39).
Giáo lý Bí tích của hôn phối được xây dựng trên nền tảng Kinh Thánh, nhưng phần cô đọng nhất phải kể đến đoạn 5, 22-33 thuộc thư gởi tín hữu Ephêsô. Trong phần này, tác giả đã so sánh sự kết hợp giữa vợ chồng với sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Như thế, sự kết hợp trong đời sống hôn nhân là hình ảnh của sự kết hợp với Thiên Chúa, và sự hiến thân toàn vẹn cũng được coi là mục tiêu và nền tảng của đời sống hôn nhân. Sự hy sinh của vợ chồng dành cho nhau là hình ảnh sự hy sinh của Chúa dành cho GH. Tình yêu của vợ chồng dành cho nhau cũng là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho GH. Rõ ràng nhất là khi tác giả xác tín: "Mầu nhiệm (Mysterium, Sacramentum) đó thật vĩ đại. Tôi có ý ám chỉ Chúa Kitô và GH Ngài" (5, 32).
Giáo huấn này được hình thành dần dần trong những thế kỷ 11 - 13, rồi
được phán quyết bởi nhiều Công đồng và tái khẳng định qua nhiều thời đại Giáo hoàng khác nhau. Công đồng Lateran II (1139) đã xếp Bí tích Hôn Phối chung với các Bí tích Thánh Thể, Thánh Tẩy và Truyền Chức (D 367). Ðến thời Công nghị Verona (1184), hôn nhân chính thức được gọi là Bí tích (D 406, 424, 465, 702). Rồi trong sắc lệnh "Exultate Deo" (22. 11. 1439), Công đồng Firenze đã gọi Bí tích này là Bí tích thứ bẩy của GH. (DZ 1327; NR 730). Công đồng Trento, trong khóa họp ngày 11. 11. 1563 xác tín thêm rằng: Chính Chúa Giêsu đã thiết lập và hoàn thành Bí tích này (DZ 1799; NR 733). Sau này, trong các thông điệp "Arcanum divinae sapientiae" (10. 02. 1880) của ÐGH Lêo XII và "Casti connubii" (31. 12. 1930) của ÐGH Piô XI, giáo huấn này còn được tái khẳng định thêm một lần nữa (DZ 3142; NR 747; DZ 3700; NR 751). Công đồng Vatincan II đi xa hơn, khi xác quyết: "Trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái, vợ chồng sẽ giúp nhau nên thánh (!) (Lumen Gentium, số 11). Như thế, hôn nhân vừa là một Bí tích vừa là một ơn gọi để nên thánh.
"Hôn nhân là một Bí tích" thường được hiểu theo 2 nghiã sau đây: (1) Khi
hai người yêu nhau muốn được Thiên Chúa chúc phúc cho họ, thì Bí tích
hai người ban cho nhau, cũng sẽ đem lại cho họ ân sủng và phúc lành của
Chúa. (2) Ðối với người Công Giáo, hôn nhân còn là môi trường giúp cho họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể qua tình yêu của người yêu. Nói cách khác, trong tình yêu hôn nhân họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể: Họ dễ dàng xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương họ tha thiết trong vòng tay của người yêu. Tình yêu trong hôn nhân như thế chính là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho con người. Công đồng Vatican II cũng xác quyết: "Tình yêu chân chính của hai người được thông phần vào tình yêu của Thiên Chúa" (Gaudium et Spes, số 48, 2).
Bí tích đó không phải chỉ được cử hành một lần trong Phụng vụ, mà cần phải được cử hành mỗi ngày một cách cụ thể trong đời sống thường ngày bằng cách tận hiến cho Chúa và hy sinh cho nhau. Như thế, Bí tích Hôn Phối là một phần thuộc thực tại cứu độ bao la của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự tử nạn và phục sinh của Ðức Kitô, Con yêu dấu của Ngài.
Nên biết, hôn phối chỉ có giá trị là Bí tích đối với hai người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy (Rửa Tội) theo nghi thức Kitô giáo (mà không nhất thiết phải là nghi thức Công giáo) trước khi lãnh nhận Bí tích Hôn phối. Nếu
một trong hai người, cho tới khi lãnh nhận Bí tích Hôn Phối vẫn chưa lãnh
nhận Bí tích Thánh Tẩy, hôn phối họ lãnh nhận chỉ là hôn phối tự nhiên
(Naturehe) - (xx. LThK VIII, cột 1206). Vì trong Bí tích Hôn Phối, khi đã
thành phép thì cũng thành phép cho cả hai người, mà không có chuyện một người thành phép, một người không. Cũng thế, khi đã có giá trị Bí tích thì cũng có giá trị cho cả hai người. Không có chuyện chỉ giá trị với người này mà không có giá trị với người kia. Bí tích Thánh Tẩy chính là điều kiện căn bản để lãnh nhận các Bí tích khác được thành phép.
Tuy nhiên, nếu sau này người thứ hai xin lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, thì Hôn Phối mà hai người đã lãnh nhận trước sẽ đương nhiên trở thành Hôn Phối có Bí tích. Ðiều này cũng có giá trị đối với các hôn phối tự nhiên khác, khi hai người đều lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy sau khi cưới.
Ðối với GH Công Giáo và Chính Thống, hôn nhân là một Bí tích. Trái lại,
đối với GH Anh giáo và GH Tin Lành, hôn nhân không phải là một Bí tích. Martin Luther coi hôn nhân chỉ là "việc đời" mà thôi (nguyên văn: ein
aeusserlich-weltlich Ding). Các nhà cải cách khác như Melanchthon, Zwingli, Calvin, Brenz, Bucer, Bugenhagen cũng cùng một lập trường với Luther.
6. Nghi thức kết hôn trong Giáo Hội
Những nghi thức kết hôn trong GH từ trước tới nay thực ra đều là những hình thức đã có sẵn trong dân luật, trong các nền văn hóa cổ xưa và trong các tôn giáo khác nhau. Hình thức nào thích hợp đều được GH "rửa tội" lại và biến thành nghi thức Phụng vụ của mình. Ðó là một tiến trình lâu dài. Mãi tới thời Trung cổ, GH mới có những nghi thức nhất định và công khai trong việc này.
Hình thức chính thức để cử hành Hôn phối (Forma celebrationis matrimonii: Formpflicht) cách thành phép và hợp pháp trong GH Công giáo là hai người phải kết hôn trước mặt Giám mục hoặc Cha sở địa phương, hoặc một Linh mục, một Phó tế nào đó đã được ủy nhiệm (hoặc một giáo dân được ủy nhiệm trong trường hợp thiếu những vị nói trên, xin xem: CIC 1112) cùng với hai nhân chứng.
GH công khai hóa Bí tích Hôn Phối như trên, vì những lý do sau đây:
a) Bí tích Hôn Phối là một nghi thức Phụng vụ của GH.
b) Sau khi lãnh nhận Bí tích Hôn Phối, hai người đều có bổn phận và quyền lợi đối với nhau, cũng như đối với con cái sẽ sinh ra.
c) Sau khi thành hôn, quyền lợi và bổn phận đó cần được bảo đảm lâu dài, nên cần có thêm sự hiện diện của hai nhân chứng.
d) Khi đã chấp nhận công khai hóa như thế, hai người sẽ dễ dàng trung
thành với nhau hơn.
Ðó là nghi thức công khai và chính thức được áp dụng trong các trường hợp chung. Trong những trường hợp riêng (CIC 1116; 1127, 2-3), dĩ nhiên GH có thể chuẩn chước hình thức kết hôn này. Ngoài ra, Công đồng Vatican II còn cho phép GH địa phương được nghiên cứu và thí nghiệm những nghi thức đặc thù, hợp với tinh thần, phong tục, văn hóa địa phương. Ðiều cần duy trì trong các nghi thức địa phương này là Linh mục phải chủ tọa lễ nghi Hôn Phối đó (De Sacra Liturgia, số 77).
Vì mọi Bí tích đều liên quan trực tiếp tới Bí tích Thánh Thể, nên Bí tích
Hôn Phối cũng thường được cử hành chung với Bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ của một Thánh Lễ. GH ấn định phải cử hành Bí tích này sau bài Phúc Âm, bài giảng và trước phần Lời nguyện giáo dân trong Thánh Lễ (Sacrosanctum Concilium, số 61 và 78). Hiến chế này cũng tiên liệu những trường hợp có thể cử hành Bí tích Hôn Phối ngoài Thánh Lễ, dưới hình thức một buổi Phụng vụ Lời Chúa, nhất là trong những trường hợp hôn phối (tạm dịch là) dị tín (mariage mixte, konfessionsverschiedene Ehe) hoặc dị giáo (disparité de culte, religionsverschiedene Ehe). Hôn nhân được gọi là dị tín, khi một người Công giáo lấy một người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy trong GH của họ, nhưng không phải là Công giáo, thí dụ: một người Tin lành, một người Chính thống (orthodoxe)... Hôn nhân được gọi là dị giáo, khi một người Công giáo lấy một người chưa lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, thí dụ: một người Do thái giáo, một người Hồi giáo, một người Ấn độ giáo, một người Phật giáo... Trong trường hợp dị tín, nếu muốn cử hành Bí tích Hôn Phối trong khuôn khổ một Thánh lễ, cần có phép của Giám mục (xx. Ordo celebrandi matrimonium). Trong trường hợp dị giáo, thường không được phép cử hành Hôn phối trong một Thánh lễ, tuy nhiên còn tùy luật riêng của từng Giáo phận địa phương.
Khi thấy cần cử hành Hôn Phối ngoài khuôn khổ của một Thánh Lễ, xin đừng coi đó là "Hôn Phối hạng hai" hoặc chỉ là "Phép giao" như nhiều người lầm tưởng. Trước khi cử hành Hôn Phối, hai người và họ hàng nên bàn hỏi với Linh mục hữu trách, để cùng quyết định chọn một hình thức sao cho hợp tình hợp lý với cả hai bên, nhất là trong trường hợp hôn phối với người khác đạo. Bí tích Hôn Phối là một nghi thức Phụng vụ, đòi hỏi sự xác tín và chân thành bề trong, không phải là một hình thức "phong tục" cần có, để làm tăng thêm vẻ long trọng bề ngoài hoặc chỉ cần "dàn cảnh" sao cho đẹp, nhằm ghi lại những lưu ảnh của một ngày vui.