PDA

View Full Version : Thánh nhạc: Lý thuyết và thực hành.



giusehien
05-07-2008, 12:40 PM
BÀI I : KHÁI NIỆM VỀ CA HÁT


I. NHẬN XÉT CHUNG

. Ca hát là bộ môn nghệ thuật phối hợp giữa ngôn ngữ và âm nhạc, gọi là thanh nhạc, nó khác với khí nhạc là loại âm nhạc viết riêng cho nhạc cụ diễn tấu. Ai trong chúng ta cũng đã từng hát, hoặc ít nhất cũng đã từng nghe người khác hát. Một người hát goi là đơn ca, hai ba người hát gọi là song ca, tam ca ... nhiều người cùng hát một lời ca, một giai điệu là đồng ca. Còn nếu hát theo nhiều bè, nhiều giai điệu khác nhau gọi là hợp ca (Hợp xướng).

2. Chắc tiếng hát đã có rất sớm cùng với tiếng nói của con người phát xuất từ tôn giáo, lao động và giải trí. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất của tiếng hát là do nhu cầu muốn diễn đạt tình ý của mình một cách có hiệu quả hơn trên tâm hồn người nghe : con người lúc đầu chủ yếu dùng ngôn ngữ để thông đạt cho nhau những ý nghĩ, tình cảm của mình. Dần dà con người tìm cách diễn đạt tình ý một cách khéo léo hơn, tài tình hơn, tức là có nghệ thuật hhơn qua các bài văn, bài thơ. Và yếu tố âm nhạc, tiềm ẩn trong câu nói, trong cầu thơ, đá càng ngày càng rõ rệt hơn trong các kiểu nói diễn cảm, các bài đọc trang trọng (như đọc diễn văn), các câu rao hàng, câu ngâm thơ. Nó xuất hiện rõ nét trong các câu hò nhất là trong các bài hát nhằm tăng sức diễn cảm tối đa cho lời nói. Thanh nhạc đã ra đời dựa trên ngôn ngữ của từng dân tộc, và nó càng ngày càng được nâng cao cùng với các bộ môn nghệ thuật khác như văn thơ, hội hoạ, sân khấu, vũ nhạc ... Do đó mỗi dân tộc ít nhiều đều có những kinh nghiệm thanh nhạc riêng mình. Vấn đề hiện này của người học thanh nhạc là làm sao học được kinh nghiệm hay của các dân tộc khác mà không bỏ mất kinh nghiệm quý báu của cha ông để lại.

3. Tiếng hát, chính là tiếng nói được khuyếch đại, được thổi phồng lên về mặt hình thức (thanh điệu của ngôn ngữ) cũng như về mặt nội dung (ý nghĩa của ngôn ngữ), nhằm đánh động tâm hồn người nghe. Muốn đánh động tâm hồn kẻ khác, thì tiếng hát trước hết phải xuất phát từ tâm hồn người sáng tác, người diễn tấu, và như vậy ta mới thấy “Tiếng hát thực sự là tiếng nói của tâm hồn”, như người ta thường nói. Muốn đạt đến cái hay, cái đẹp trong ca hát, bất cứ người diễn tấu nào, người ca sĩ nào, người ca viên nào cũng phải tìm cho ra cái hồn của bài hát, rồi truyền đạt nó đến tại người nghe bằng một giọng hát điêu luyện nhất.

II. ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA GIỌNG HÁT VÀ NHẠC KHÍ

1. Giọng hát của con người được coi như một “Nhạc khí sống” quý báu, không nhạc khí nào sáng bằng, vì ngoài những âm thanh cao thấp, dài ngắn, mạnh nhẹ, trong đục, giọng người còn có khả năng phát ra lời, ra tiếng : Chính nhờ ngôn ngữ mà tiếng hát có sức biểu hiện lớn lao, có khả năng diễn đạt tình ý cách hữu hiệu, có tính giáo dục cao về nhiều phương diện. Ngôn ngữ làm cho âm nhạc được cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, nên dễ đi sâu vào mọi tầng lớp xã hội. Thanh nhạc nhờ đó mà trở thành bộ môn nghệ thuật có tính đại chúng cao nhất.

Ngoài ra giọng hát con người còn có thuận lợi là bất kỳ lúc nào và nơi nào cũng có thể dùng đến được : Ai cũng có “Nhạc khí sống” và hầu như ai cũng hơn kém sử dụng nó một cách dễ dàng : Đơn ca, tốp ca, đồng ca hay hợp ca, tất cả đều ở trong tầm tay của mọi người.

2. Tuy có những điều thuận lợi trổi vượt như thế nhưng so với các nhạc khí khác, giọng hát cũng có những giới hạn khiêm tốn của nó.

a) Âm vực giọng hát giới hạn hơn rất nhiều nhạc khí : giọng hát con người, cả nam lẫn nữ nối lại, cũng chỉ hát được khoảng 4 bát độ (gọi là bốn bát độ hợp ca).
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_3.gif
b) Giọng hát dễ bị ảnh hưởng bởi mọi diễn biến tâm sinh lý của người hát (lo sợ, bệnh tật, thời tiết ...)

c) Ngoài những quy luật chung về âm thanh, về kỹ thuật âm nhạc, về thẩm mỹ ... giọng hát còn bị chi phối bởi quy luật về ngôn ngữ và về phong cách diễn xướng của từng dân tộc. Do vậy phương pháp ca hát bao giờ cũng gồm 2 mặt : Một là học kỹ thuật thanh nhạc qua các bài luyện thanh : hai là học cách xử lý ngôn ngữ riêng cho từng dân tộc.

III. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THANH NHẠC

. Khi hát, chúng ta khai thác các tính chất của âm thanh một cách đậm nét hơn là khi nói. Nên muốn hát cho tốt, cần phải tập luyện kỹ hơn là khi nói bình thường. Vậy chúng ta sẽ phải tập luyện gì ? Đối với các ca viên trong ban hợp ca, chúng ta không thể đòi hỏi họ luyện tập được như các ca sĩ chuyên nghiệp. Và dù nếu có thì cũng không nên để họ hát tự do theo lối hát mà họ hấp thụ được nếu nó không hoà giọng với toàn ban hợp ca. Đàng khác có những điểm trong lối hát ca kịch Tây phương (opéra) xem ra không đẹp và không phù hợp với tâm hồn người Việt Nam.

Trong lá thư đề ngày 6 tháng 3 năm 1987 từ hải ngoại gửi về cho học trò tại quê hương, nhạc sư Hải Linh đã căn dặn :

“Về phát âm cho ca đoàn : Tôi nghiêng về phía tiếng “naturelle” (giọng tự nhiên) hơn là (Voix travaillée” (giọng tập luyện) dành cho ca sĩ, theo quan niệm Tây phương. Họ quan niệm “Vibrato” (rung) bất cứ nốt nào ... còn nhạc Á đông, tuỳ hơi, tuỳ chỗ mới rung ... Lịch sử Hy-lạp và Á đông ưa nghe tiếng naturelle hơn travaillée. Thánh Ambroise tập hát cho dân chúng Milan theo naturelle. Mgr. (ĐGM) Hồ Ngọc Cẩn ra luật “Người Nam đừng hát giọng Tây”, phải tiếng hát “tự nhiên” cũng là vậy ... Nói thể để anh em nghĩ và tham bán chương trình thanh nhạc cho ca trưởng sao cho vừa cân, vừa lạng.”

Theo tinh thần đó, chúng ta sẽ chỉ học những kỹ thuật thanh nhạc nào phù hợp để không làm mất đi vẻ đẹp tự nhiên của giọng người. Cụ thể là học về kỹ thuật hơi thở, về khẩu bình, về dội âm (cộng minh) ... để cho giọng hát đầy dặn, có năng lực, phô diễn được những câu nhạc dài ngắn, mạnh nhẹ, bổng trầm khác nhau một cách nhuẫn nhuyễn, dần dần thù đắc được một giọng hát khả quan hơn, mà lý tưởng hướng tới là một giọng hát đẹp tự nhiên và thoải mái, không bị các cố tật làm giảm thiểu sức truyền cảm của giọng hát.

2. Ngoài ra, chúng ta còn phải học xử lý ngôn ngữ làm sao cho tiếng hát luôn luôn rõ lời. Khi hát ngôn ngữ nào thì phải xử lý tiếng hát theo ngôn ngữ đó, không có mẫu chung cho mọi ngôn ngữ. Nhất là đối với ngôn ngữ Việt Nam, đơn vận đa thanh, các vần đóng nhiều hơn các vần mở, thì vấn đề rõ lời mà vẫn đẹp tiếng, vẫn ngân vang, quả là nhiều khi khó dung hoà. Vì thế người sáng tác cũng như người ca viên cần nắm vững các đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc, các đòi hỏi của nó, cũng như kinh nghiệm của tiền nhân trong quá khứ để xử lý ngôn ngữ dân tộc một cách xứng hợp với bản sắc riêng của dân tộc mình. Nếu không học, không biết, thì nhiều khi chúng ta dễ lầm lẫn, dẫn đến chỗ vọng ngoại, bắt chước người khác một cách máy móc, nếu không nói là nô lệ, làm cho tiếng hát dân tộc mất đi vẻ đẹp tự nhiên của nó.


THỰC TẬP

Sau mỗi bài lý thuyết, sẽ có một số điểm thực hành. Không thể học hết lý thuyết rồi mới học thực hành, nên có những điểm thực tập trước rồi mới giải thích rõ ràng hơn ở những bài sau.

1. Tập lấy hơi :

a) Khẩu hình hé mở để lấy hơi vừa bằng mũi vừa bằng miệng.

b) Lấy hơi sâu vào tận đáy phổi bằng cách hạ hoành cách mô xuống, làm cho bụng và sườn căng ra.

c) Đồng thời trương lồng ngực mà vẫn căng bụng để hơi tiếp tục vào đầy cả phần trên của hai lá phổi (xem hình 3).

d) Nén hơi trong giây lát.

đ) Rồi thở ra từ từ bằng miệng, điều chế làn hơi sao cho đều.

2. Tập xì

a) Khẩu hình mở theo âm “i” để lấy hơi như trên.

b) Lấy hơi nhanh vào sâu tận đáy phổi (hạ hoành cách mô, bụng hơi căng).

c) Và trương lồng ngực để hơi tiếp tục vào phần trên của hai lá phổi.

d) Nén hơi trong giây lát.

đ) Xì hơi ra từ từ nhẹ nhàng, bằng cách đặt đầu lưỡi đụng giữa hai hàm răng khít. Điều chế làn hơi ra thật đều với tiếng xì nhẹ nhẹ từ 30 giây trở lên. Khi thấy gần hết hơi, thì xì thật mạnh một cái cuối cùng bằng cách ép bụng vào để đẩy hơi ra cho mạnh.

3. Tập mẫu luyện thanh

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_4.gif

Yêu cầu của mẫu 1 (lúc đầu tập các âm hàng a), còn hàng b), c) để tăng cường nếu có thì giờ).

1) Tập lấy hơi 1 phách theo khẩu hình ô - nén hơi.

2) Tập chữ M móc nối với chữ ô cho rõ ràng mà mềm mại.

3) Tập khẩu hình âm A, tập cuống lưỡi khi đọc âm Ngô, Nga.

Lưu ý : Khi đọc chữ Ngô, chữ Nga chỉ có cuống lưỡi làm việc, tuyệt đối không để cho hàm dưới nâng lên hạ xuống.

4) Hát đều tiếng, rõ từng âm, chưa cần để ý đến cường độ. Hát lên dần rồi xuống dần từng nửa cung, trong âm khu trung bình của từng loại giọng.




CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Ca hát phát xuất từ những hoàn cảnh nào ?

2. Các điểm thuận lợi của giọng người so với các nhạc khí khác là gì ?

3. Tại sao cần học thanh nhạc ? Và nên học những gì ?

4. Mục đích của việc học xử lý ngôn ngữ là gì ?

(Nguồn: http://www.catruong.com/)

giusehien
06-07-2008, 06:26 AM
BÀI II: BỘ MÁY PHÁT ÂM

Tiếng hát cũng như tiếng nói, được tạo ra do hoạt động phối hợp rất chặt chẽ và đồng bộ của nhiều bộ phận khác nhau làm thành bộ máy phát âm. Các bộ phận chính yếu của bộ máy phát âm gồm :

I. BỘ PHẬN CUNG CẤP LÀN HƠI :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_5.gif

1. Phổi gồm những tế bào xốp, có độ co giãn lớn, tạo thành bỡi những túi nhỏ, các túi này giãn ra để chứa đầy không khí, và co lại để đẩy không khí ra ngoài bằng các phế quản. Các phế quản này đều thông vào khí quản, trông giống như những rễ cây bám vào gốc cây .

Sự co giãn chủ động của phổi là do sự hỗ trợ tích cực của lồng ngực và hoành cách mô cùng các cơ bụng : Hoành cách mô hạ xuống, lồng ngực trương ra, làm cho phổi giãn ra tăng thêm thể tích, tạo khoảng trống cho không khí ở bên ngoài vào. Hoành cách mô nâng lên, bụng hơi hóp vào, lồng ngực buông lỏng xuống, làm cho phổi thu nhỏ lại, đẩy không khí ra ngoài (hình 2).
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_6.gif
2. Chúng ta có thể ví hai lá phổi như một cái bễ, cung cấp dưỡng khí cho cơ thể và thải thán khí ra ngoài. Mỗi lần thở bình thường, ta hít vào nửa lít không khí. Mỗi phút, ta thở khoảng 15 lần và 15 lít máu được đổi mới.

Khi làn hơi từ phổi được đẩy ra ngoài, nếu tác động đúng cách lên thanh đới (dây tiếng), thì sẽ phát ra âm thanh. Chất lượng của âm thanh phát ra, một phần lớn phụ thuộc vào làn hơi từ phổi đưa lên tác động vào thanh đới. Cần phải tập luyện hơi thở sao cho đầy đặn, và điều chế làn hơi sao cho nhuần nhuyễn phù hợp với nhu cầu trong ca hát.

II. BÔ PHẬN PHÁT THANH
(Chỉ mới phát ra âm thanh chứ chưa phát ra tiếng, ra lời) gồm 2 thanh đới nằm trong thanh quản (hình 3a).

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_7.gif

1. Thanh quản là một ống nối tiếp với khí quản. Phần giữa thanh quản thắt lại như cổ chai. Chỗ thắt lại này là do các dây cơ và sụn chắn ngang hai bên tạo nên thanh đới. Thanh đới là bộ phận chủ yếu tạo ra âm thánh : Do áp lực của làn hơi từ phổi đưa lên, thanh đới, với những độ căng khác nhau và hình dạng khác nhau, mở ra và đóng lại nhanh chậm khác nhau, cắt làn hơi thành những sóng âm có tần số khác nhau, tạo thành những âm thanh có cao độ khác nhau[1]: Thanh đới mỏng/ngắn mở đóng nhanh hơn thanh đới dày/dài(thanh đới ở phụ nữ và trẻ em ngắn và mỏng hơn ở đàn ông, nên giọng nữ và trẻ em cao hơn giọng đàn ông một bát độ). Thanh đới mỏng hơn khi được căng ra, hoặc thanh đới không mở đóng toàn phần, mà chỉ mở đóng trên một phần nào đó của mình, làm cho phần thanh đới tham gia cắt làn hơi ngắn đi, và như vậy tạo được những âm thanh cao. Độ căng,hình dạng, kích thước của thanh đới không chỉ ảnh hưởng đến cao độ, mà cả âm sắc nữa. Còn cường độ âm thanh là do sức mạnh của làn hơi đưa lên

Như vậy âm thanh phát ra phù hợp hay không là do sự phối họp nhuần nhuyễn giữa làn hơi và các cơ điều khiển thanh đới. Do đó, cần bảo vệ thanh đới cho lành mạnh.

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_8.gif

2. Biện pháp bảo vệ thanh đới tốt nhất là hát cho đúng cách, nghĩa là hát làm sao để cho mọi hoạt động khác hỗ trợ cho thanh đới đều phải phù hợp, không bao giờ hát quá sức, tức là hát quá lớn và quá cao. Hát quá lớn như gào thét, có thể dẫn đến chỗ “mất tiếng” do thanh đới bị tổn thương không có khả năng làm việc linh hoạt theo yêu cầu của nghệ thuật ca hát. Hát quá cao không phù hợp với loại giọng của mình, làm cho thanh đới căng ra quá mức, nếu kéo dài và phối hợp với hát lớn, cũng gây tổn thương đến thanh đới.

III. BỘ PHẬN TRUYỀN TĂNG ÂM

Gồm chủ yếu là cuống họng (yết hầu) thông với đường miệng hoặc đường mũi.

1. Các chấn động âm thanh do thanh đới tạo ra, được bộ phận truyền âm gom lại và dẫn ra ngoài theo hai hướng miệng hoặc mũi. Cuống họng và miệng không những truyền âm, mà còn góp phần khá quan trọng vào việc tăng âm (đóng vai trò như một hộp cộng hưởng).

2. Cuống họng được bao bọc bởi một hệ thống niêm mạc, dễ bị kích thích, do đó cần phải giữ gìn để cuống họng không bị viêm nhiễm, ảnh hưởng xấu đến giọng hát (tránh dùng rượu, cà phề, thuốc lá và thức ăn thức uống quá nóng, quá lạnh, quá cay ...)

IV. BỘ PHẬN PHÁT ÂM (nhả chữ)

Là miệng với các hoạt động của môi, răng, lưỡi, hàm dưới, vòm mềm (hàm ếch mềm, cúa mềm, ngạc mềm,). Chúng ta nhận ra được lời ca, tiếng hát với ý nghĩa của nó, là nhờ vào hoạt động của các cơ năng trên. Khi nói đến khẩu hình là nói đến hình thể, hình dáng, cả bên ngoài lẫn bên trong của miệng do hoạt động phối hợp của môi, lưỡi, hàm dưới, vòm mềm tạo ra khi phát âm. Mở khẩu hình không đúng cách sẽ ảnh hưởng không chỉ đến chất lượng âm thanh, mà nhất là ảnh hưởng đến việc rõ lời, là một yêu cầu cơ bản trong thanh nhạc.

V. BỘ PHẬN DỘI ÂM

Gồm tất cả các khoảng trống trong thân thể, chủ yếu là các khoảng trống trên đầu, trên mặt, gọi là xoang cộng minh (cộng hưởng). Ngoài khoang họng và khoang miệng vừa tăng âm vừa dội âm, thì các xoang mũi, xoang vòm mặt, xoang trán v.v... chủ yếu có tính cách dội âm, tức là làm cho âm thanh được cộng hưởng, âm vang đầy đặn, giàu âm sắc nhờ các bội âm (hoạ âm) mà chúng tạo ra. Vì thế, khi hát cần phải phóng âm thanh lên phía trước (tiếng Pháp gọi là chanter en avant) để tạo được vị trí dội âm trước mặt. Vị trí trước mặt mà làn hơi phải hướng tới không giống nhau đối với mọi người. Mỗi người sẽ tìm từng vị trí cho từng cao độ, nhưng nói chung chúng nằm khoảng giữa hàm trên và trán (ngay cả khi nói, nếu ta biết nói âm thanh ra phía trước, thì họng ta sẽ đỡ mệt và tiếng nói ta vẫn rõ ràng mà không tốn sức) (hình 4).
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_9.jpg


PHẦN THỰC TẬP

1. Tập thổi bụi :

Cách chuẩn bị giống như tập xì : Sau khi nén hơi, thì môi chúm lại và cho hơi ra giống như ta thổi bụi trên bàn.

Chú ý : thổi hơi ra thật nhẹ nhàng và đều đặn, dùng bàn tay, đặt cách miệng một gang, để kiểm tra xem làn hơi ra có đều không. Làn hơi ra cho cảm giác mát ở tay. Lấy hơi một lần có thể “thổi bụi” trên 45 giây, nếu được càng lâu càng tốt.

Khi đã quen với thổi bụi đều đặn, nhẹ nhàng thì sẽ tập “thổi giấy”, cầm tờ giấy cách xa miệng 20 - 30 cm và thổi vào một góc giấy, gắng điều chế làn hơi sao cho tờ giấy luôn luôn giữ một vị trí cố định nào đó. Lúc đầu thổi nhẹ, càng ngày càng tập để thổi cho tờ giấy nâng cao góc hơn.

2. Tập mẫu luyện thanh 2 và 3

Mẫu 2

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_10.gif

* Các yêu cầu 1, 2, 3 : giống như ở mẫu 1 (trang 4)

* Yêu cầu 4 : Hát chữ Ngô, chữ Nga liền giọng hơn và vươn tiếng bằng cách hơi ép bụng ở đầu chữ Ngô, Nga.

Mẫu 3
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_11.gif

Các yêu cầu 1, 2, 3 : giống như mẫu 1

* Yêu cầu 4 : Hát liền tiếng cả câu + nhấn tiếng ở phách thứ 3 và 6 bằng cách ép bụng đột ngột


CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Bộ phát âm gồm những bộ phận chính nào ? Bộ phận cung cấp làn hơi hoạt động ra sao ?

2. Bộ phận phát thanh và bộ phận phát âm hoạt động như thế nào ?

3. Tăng âm và dội âm khác nhau ở điểm nào ?

4. Vai trò quan trọng của miệng trong bộ máy phát âm như thế nào ?

*******************

Xem Richard Alderson,Complete Handbook of Voice Training, Parker Publishing Company, Inc., New York, 1979 tr.62

http://www.catruong.com/

giusehien
07-07-2008, 02:01 AM
BÀI 3: HƠI THỞ THANH NHẠC

I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA HƠI THỞ TRONG THANH NHẠC

1. Sóng Âm phát xuất từ khe thanh quản do thanh đới mở đóng tác động trên làn hơi từ phổi đẩy lên. Chẳng hạn như khi ta muốn nói hoặc muốn hát, muốn hát cao hoặc thấp, to hoặc nhỏ, kéo dài hoặc ngắn gọn ... thanh đới phải căng ra ở một mức độ cần thiết tương ứng với áp lực của làn hơi từ phổi đẩy lên, để tạo ra một âm thanh có cao độ, âm sắc, cường độ và trường độ theo ý muốn[1]. Áp lực của làn hơi và mức căng của thanh đới phải luôn luôn tương xứng với nhau thì mới có được âm thanh chính xác và chất lượng (ví như người nhạc công vĩ cầm, tay trái vừa bấm đúng vị trí trên giây đàn, vừa rung tay tạo vẻ đẹp cho tiếng đàn, trong lúc đó phối hợp với tay phải kéo vĩ làm rung giây đàn tạo ra sóng âm...). Những người hát kém, một phần là do không biết điều khiển hoạt động của hơi thở và thanh đới.

2. Đàng khác, hơi thở còn góp phần làm rõ ý nghĩa của câu hát : những chỗ ngắt hơi đúng lúc, cũng như những chỗ ngân dài vươn tiếng đúng chỗ, giúp làm cho lời ca thêm rõ nghĩa, tức là giúp cho bài hát thêm ý nghĩa, thêm tâm tình, thêm sức sống. Ngoài ra hơi thở còn giúp thể hiện những cảm xúc tinh tế trong diễn tấu, chẳng hạn như để biểu hiện một sự xúc động đột ngột, sự ngạc nhiên, thán phục, sự dồn dập của cao trào âm nhạc ... (Vì thế, không nên lấy hơi tuỳ tiện).

II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA HƠI THỞ THANH NHẠC Ở CHÂU ÂU

1. Châu Âu là nơi nghệ thuật ca hát được phát triển rõ ràng hơn các nơi khác, trong đó nước Ý là nước có truyền thống ca hát lâu đời, là quê hương của những ca sĩ nổi tiếng như Enricô Carusô (1873-1921), Đalmontê ... Ngay từ thế kỷ 17, trường phái ca hát cổ điển Ý, còn gọi là trường phái Bel Canto ( hát thính phòng, nghĩa gốc là:tiếng hát đẹp) đã đạt được những thành công lớn trong nghệ thuật ca hát. Nhiều giáo sư thanh nhạc như R.Todi (1647-1927). D.Mancini (1716-1800) đã viết sách về các kỹ thuật thanh nhạc cho các giọng nữ cao màu sắc, trong đó họ đã đề cập nhiều đến vấn đề hơi thở. Theo họ khi hít hơi, thì phải rất nhẹ nhàng, không phình bụng nhưng hơi hóp bụng, lồng ngực trên hơi nâng lên rồi hạ dần xuống khi đẩy hơi ra ngoài (đây là kỹ thuật lấy hơi bằng ngực trên). Không lấy hơi quá căng, không để hết hẳn hơi rồi mới lấy hơi khác ...

2. Trường phái mới của nghệ thuật ca hát Ý, xuất hiện khoảng hậu bán thế kỷ 19, quan niệm rằng : Khi hát các bộ phận hô hấp và các cơ bắp hô hấp phải hoạt động tích cực, tạo nên một cột hơi đầy và sâu. Người thầy đại diện cho trường phái này là ông F.Lamperti (1813-1892). Ông nói : “Nghệ thuật ca hát là nghệ thuật hơi thở”. Kiểu thở của trường phái này là kiểu thở bằng hoành cách mô phối hợp với lồng ngực.

3. Sở dĩ kỹ thuật hơi thở thanh nhạc có sự tiến triển như vậy là do nhu cầu cần có những âm thanh càng ngày càng vang mạnh hơn, hầu đáp ứng với sự thay đổi trong tính chất âm nhạc cũng như trong phong cách và môi trường diễn tấu (tính chất âm nhạc càng ngày càng đồ sộ hơn, dàn nhạc đệm đông hơn, nơi trình tấu rộng hơn, thể loại âm nhạc phong phú hơn, các vai trong ca kịch cần diễn tả nhiều hơn ... tất cả đòi hỏi người ca sĩ phải có giọng vang khoẻ hơn).

III. PHƯƠNG PHÁP HÍT THỞ TRONG CA HÁT

1. Trong sinh hoạt bình thường, con người thở một cách tự nhiên với sự tham gia của lồng ngực và hoành cách mô. Trong ca hát, chúng ta cũng thở nhưng với sự tham gia chủ động và tích cực hơn của các cơ năng đó. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kỹ thuật hơi thở, người ta đúc kết lại một số kiểu thở, tuỳ theo người ta nhấn mạnh đến sự tham gia của ngực hay của hoành cách mô hoặc cả ngực cả hoành cách mô.
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_12.gif

a. Kiểu thở ngực : Chỉ có phần ngực trên hoạt động tích cực, nên hơi vào ít, có thể dùng để hát những bài hát nhẹ nhàng, không có cao trào, câu nhạc ngắn. (hình 6B)

b. Kiểu thở bụng : Chỉ có bụng phình ra do hoành cách mô hạ xuống, các cơ bụng dưới hoạt động tích cực hỗå trợ cho hoành cách mô (hình 6A).

c. Kiểu thở bụng kết hợp với ngực : Hoành cách mô hạ xuống (làm bụng hơi phình ra), các xương sườn cụt giương lên, ngực dưới căng ra, trong lúc ngực trên trương lên. Các hoạt động này kế tiếp nhau rất nhanh theo thứ tự : Hoành cách mô (bụng trên) + xương sườn cụt + ngực dưới + ngực trên. Nói cho gọn lại, gồm hai động tác : phình bụng (do hoành cách mô hạ xuống và sườn giương lên) và trương lồng ngực (ngực dưới căng ra, giữ nguyên độ căng và chuyển lên ngực trên). Lấy hơi theo thứ tự đó thì làn hơi vào sâu đáy phổi, vừa lan toả ra đều khắp hai bên trái và phải, lượng hơi vào được tối đa (hình 3 ; 6D).

Đây là kiểu thở phổ biến nhất mà các ca sĩ nhạc kịch thường dùng.

Trong ba kiểu thở trên, chúng ta thấy kiểu ba có nhiều lợi điểm hơn. Nhưng hai kiểu kia vẫn có người sử dụng và tạo được hiệu quả như họ mong muốn.



2. Trong hơi thở bình thường, cũng như hơi thở thanh nhạc, ta thấy có hai động tác ngược chiều nhau, đó là hít vào và thở ra. Trong ca hát, phải tập để hít hơi vào (còn gọi là lấy hơi) làm sao cho đủ lượng hơi cần thiết cho từng câu hát dài ngắn, mạnh nhẹ, cao thấp khác nhau. Đồng thời cũng phải tập thở ra (còn gọi là đẩy hơi) sao cho làn hơi được phù hợp với mọi tình huống của câu hát. Nói cách khác là tập điều chế hơi thở cho tốt, tuỳ theo sắc thái cường độ, cao độ, trường độ của âm thanh. Sau đây là một số yêu cầu chung cho hai hoạt động nói trên :

a. Lấy hơi (hít hơi) :

- Cần phải nhẹ nhàng và hít vào mau lẹ bằng mũi và bằng miệng (như vậy làn hơi mới vào sâu trong phổi được).

- Nén hơi vài giây trước khi hát và cố gắng giữ lồng ngực căng trong suốt câu hát.

b. Đẩy hơi (điều chế làn hơi) :

- Đưa hơi thở ra chính xác cùng lúc với hoạt động của thanh đới, không sớm, không muộn. Nếu sớm quá (sur la glotte) âm thanh nghe cứng cỏi vì thanh đới căng ra trước khi làn hơi tới. Nếu muộn quá (sur le souffle), âm thanh nghe không rõ, mà lại tốn hơi, vì làn hơi ra trước khi thanh đới rung.

- Đưa hơi ra đều đặn, không đứt quãng, không quá căng. Khi phải hát những bước nhảy (từ quãng 4 trở lên), nên có tác động ép bụng cách mềm mại để âm thanh phát ra đúng cao độ và âm vang đầy đặn. Tạo cảm giác như điểm tựa của làn hơi ở vùng xương chậu : làn hơi như được đẩy lên nhờ tựa vào vùng xương chậu. Các cơ bụng dưới hơi căng, tạo thành chỗ dựa vững chắc cho làn hơi phóng lên.

3. Một số điểm cần tránh khi lấy hơi cũng như khi đẩy hơi :

a. Khi lấy hơi :

- Không nên lấy hơi hoàn toàn qua miệng, trừ những trường hợp cao trào, phải cướp hơi, hoặc những trường hợp hát khi các vần mở mà phải hát nhanh, nhịp nhàng.

- Không nên hít hơi quá nhiều, làm căng thẳng các cơ bụng, sườn, ngực ... tác hại đến việc phát thanh. Cần tập lấy hơi theo mức dài ngắn, mạnh nhẹ của câu nhạc.

- Không nên để hết hơi hoàn toàn mới lấy hơi khác, như vậy âm thanh cuối câu dễ bị đuối đi, có thể làm đỏ mặt, đỏ cổ ...

- Không nên nhô vai lên khi hít hơi vì sẽ ảnh hưởng đến các cơ hô hấp, lấy hơi không sâu được.

- Không nên phình bụng ra trước khi lấy hơi : Chính không khí đi vào sâu trong phổi đồng thời với việc hạ hoành cách mô làm phình bụng ra. Nếu phình bụng trước sẽ làm cho cơ thể bị căng cứng, ảnh hưởng xấu đến việc phát âm.

b. Khi đẩy hơi :

- Không nên đẩy hơi quá mạnh khi hát các dấu cao, đành rằng có tốn nhiều hơi hơn hát dấu trầm (vì thanh đới không khép kín hoàn toàn khi hát dấu cao), nhưng nếu quá mạnh, sẽ làm thanh đới quá căng, ảnh hưởng tới âm sắc.

- Không nên phí phạm hơi thở, phải biết điều chế hơi thở sao cho phù hợp với tính cách của từng câu, để âm thanh vẫn âm vang đầy đặn từ đầu đến cuối câu. Điều chế hơi thở nhờ hoành cách mô nâng lên dần dần và mềm mại với sự hỗ trợ của các cơ bụng, còn lồng ngực vẫn căng tạo thành một cột hơi phía trên luôn luôn liên tục, đầy đặn.

4. Luyện tập hơi thở :

Việc luyện tập hơi thở thường phải đi đôi với việc luyện thanh, nghĩa là tập hơi thở với âm thanh, có như vậy ta mới dễ kiểm tra được hoạt động của hơi thở qua chất lượng của âm thanh phát ra. “Hơi thở đúng, âm thanh đẹp” ( xem chú thích 2), đó là câu châm ngôn của người ca hát. Hơi thở đúng sẽ giúp đặt vị trí âm thanh đúng, làm cho tiếng vang đẹp. Ngược lại vị trí âm thanh đúng giúp cho việc đẩy hơi được dễ dàng, tiết kiệm được hơi thở. Vị trí âm thanh và hơi thở là hai yếu tố hỗ trợ nhau để phát ra âm thanh có chất lượng, nên không thể tách rời từng hoạt động riêng rẽ. Tuy nhiên trong bước đầu, chúng ta có thể tập hơi thở riêng để làm quen với kiểu thở tích cực trong thanh nhạc, hoặc để tăng cường lực hít hơi và đẩy hơi của chúng ta.

a. Tập xì : (xem bài 1, phần thực tập số 2)

b. Tập thổi bụi : (xem bài 2, phần thực tập số 1)

c. Tập hơi thở với âm thanh qua các mẫu luyện thanh.


PHẦN THỰC TẬP

1. Tập các cơ bụng để hỗ trợ cho hoành cách mô :

- Đứng thẳng người : thẳng lưng, thẳng đầu, áp mặt hai bàn tay vào sau lưng để ngón cái nằm bên hông ngang thắt lưng.

- Đặt bàn chân phải sát đất hướng ra phía trước, chân thẳng, người thẳng.

- Rút chân phải về, bàn chân vẫn chạm đất, và đưa chân trái ra y như chân phải : 50 - 100 lần.

- Thân người không nghiêng qua nghiêng lại, không nhô lên nhô xuống (Bài tập này dùng để khởi động khi học thanh nhạc, hoặc để tập thể dục trong ngày).

2. Tập lồng ngực :

- Hai bàn tay nắm lại, thẳng ra phía trước, song song mặt đất : thở ra từ từ.

- Hất mạnh hai tay ra phía sau, luôn thẳng cánh tay : hính nhanh vào.

- Dừng lại một vài giây : nén hơi.

- Đưa hai tay ra phía trước như lúc đầu : thở ra từ từ ...

3. Tìm cảm giác điểm tựa của làn hơi :

- Lấy hơi vào như thường lệ.

- Làm như “thổi bụi” nhưng ngậm miệng (bịt mũi nếu cần) để cho hơi không thoát ra ngoài, nhưng hơi dội lại xuống hoành cách mô và tác động lên bụng, lên vùng xương chậu, làm căng các cơ ở xung quanh vùng đó. Đó được coi như điểm tựa của làn hơi trong khi chúng ta hát, nhất là khí phải hát cao, hát mạnh.

4. Tập mẫu luyện thanh 4 và 5 :

Mẫu 4 :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_13.gif

Yêu cầu của mẫu 4a : 1, 2, 3 như mẫu 3a.
Yêu cầu 4 : liền tiếng + ép bụng ở phách thứ 4.
Yêu cầu 5 : càng lên cao, giữ căng lồng ngực, nâng hàm ếch mềm và buông lỏng hàm dưới.

Mẫu 5 :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_14.gif

Yêu cầu của mẫu 5 : 1, 2, 3 như các mẫu trước.

Yêu cầu 4 : rời tiếng bằng cách ép nhẹ bụng mỗi khi hát 1 dấu.


CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Tại sao hơi thở lại quan trọng và phải tập luyện ?

2. Trường phái mới của nghệ thuật ca hát nước Ý chủ trương như thế nào ? Tại sao có sự biến chuyển so với trước đó ?

3. Kiểu thở bụng kết hợp với lồng ngực hoạt động ra sao ? Ích lợi thế nào ?

4. Những điều cần làm khi lấy hơi và đẩy hơi ?

5. Những điều cần tránh khi lấy hơi và đẩy hơi ?

6. “Hơi thở đúng, âm thanh đẹp” nghĩa là gì ?

________________________________________________

http://www.catruong.com/

giusehien
07-07-2008, 02:09 AM
BÀI 4 : TƯ THẾ ĐỨNG NGỒI TRONG CA HÁT

Tư thế đứng để hát là tốt nhất, nhưng đứng lâu mau mệt, nên torng các buổi tập dượt có thể ngồi để hát, chỉ đứng khi cần hát thử một số đoạn hoặc cả bài, sau khi đã tập kỹ.

Dù đứng hay ngồi, người ca viên cũng phải đứng ngồi cho đúng tư thế, nếu không sẽ ảnh hưởng đến cột hơi, do lồng ngực hoặc bụng bị đè nén hay bóp méo, tác động xấu đến âm thanh phát ra. Do đó, cần lưu tâm rèn luyện và uốn nắn tư thế cho phù hợp.

I. TƯ THẾ ĐỨNG

1. Thẳng lưng : (thẳng xương sống : không gù lưng, không ẹo qua trái hoặc phải, không ưỡn người ra sau).

Tạo ra một trụ đỡ, trên đó các cử động của toàn thân được phối hợp và hoạt động dễ dàng.

2. Thẳng đầu :

Đầu thẳng góc với vai, không nghiêng qua trái hay qua phải, không nâng cằm lên, không rướn cổ ra trước, không ép cằm xuống cổ. Có như vậy thì các cơ bắp ở cổ họng sẽ hoạt động dễ dàng, không bị cản trở.

3. Ngực vươn ra thoải mái giúp cho hơi thở được dễ dàng, vai không nhô lên, không thõng xuống.

4. Hai tay để xuôi hai bên hông, khi không cầm sách hát.

Nếu hai tay cầm sách thì để ngang tầm vai, để có thể vừa nhìn sách vừa nhìn thấy người điều khiển, không cao quá che mặt, che tiếng ; không thấp quá, mắt sẽ không theo dõi người điều khiển được, đồng thời đầu cúi quá ảnh hưởng đến âm thanh. Hai cánh tay sau hơi đưa ra phía trước, cách hông khoảng 45 độ. Cả hai tay đều giữ sách, nhưng tay trái là chủ yếu để tay phải có thể giở trang sách khi cần.

5. Hai bàn chân cách nhau, bàn chân trái nhích lên trước một ít, giúp cho ca viên thăng bằng, vững chắc, thoải mái và lanh lợi. Sức nặng của thân chủ yếu dồn lên hai phần trước của lòng bàn chân.

6. Toàn thân hơi nghiêng về trước, luôn thẳng về trước, kết hợp tư thế hai bàn chân, bảo đảm cho hoạt động của cơ lưng, cơ bụng được dễ dàng (hình 7).
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_15.gif

II. TƯ THẾ NGỒI

1. Thẳng lưng, thẳng đầu, ngực vươn như ở tư thế đứng, nhưng thân trên hơi nghiêng về phía trước, không dựa lưng vào ghế, cốt để cho cơ thể dễ cử động, lồng ngực, cơ lưng không bị cản trở.

2. Tay cầm sách khi ngồi, giơ cao hơn khi đứng nhiều hay ít tuỳ chỗ đứng cao hay thấp của ca trưởng. Nếu không cầm sách, tay có thể đặt nhẹ nhàng trên bàn, hoặc trên hai đùi của mình, tránh không ép cánh tay vào sườn, cũng như không tì người lên bàn.

3. Hai chân bẹt xuống sàn nhà, không bắt chéo, không dạng ra quá, làm sao khi đứng lên cách thoải mái mà không cần vịn vào cái gì khác.

Ngoài ra, ăn mặc quần áo chật quá, bó sát người, cũng làm ảnh hưởng đến hơi thở, ít nhiều cũng giống như tư thế sai vậy.
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_16.gif


PHẦN THỰC TẬP

1. Tập tư thế kết hợp với hơi thở :

- Đứng đúng tư thế, lấy hơi và tập xì.

- Đang lúc xì, ngồi xuống, không vịn, tay để lên đùi.

- Rồi lại đứng lên theo đúng tư thế, và kết thúc đẩy hơi bằng tiếng xì mạnh (có thể tập các mẫu khác như “la” ..., phối hợp với hai tay tập cầm sách).

2. Có thể dùng bài tập “chà hai bàn chân” (xem phần thực tập số 1, bài 3) để tập thẳng lưng.

1. Tập mẫu luyện thanh 6 và 7.

Mẫu 6 :
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_17.gif

Yêu cầu 1, 2, 3 : như các mẫu trước

Yêu cầu 4 : liền tiếng mà không mất tiếng khi hát 4 dấu móc đôi đầu câu.

Sau đó rời tiếng bằng cách ép bụng nhẹ, càng lên cao, hướng âm thanh về phía chân răng trên, môi trên hơi nhếch lên.

Mẫu 7 :
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_18.gif

Yêu cầu 1, 2. 3, : như các mẫu trước

Yêu cầu 4 : liền tiếng 1 phách đầu, rời tiếng nhẹ nhàng ở phách thứ 2 bằng cách ép bụng nhẹ. Tập hướng âm thanh về phía chân răng trên và nhếch môi trên ở trên âm rời (âm nẩy).


CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Tại sao phải để ý đến tư thế trong ca hát ?

2. Tư thế đứng phải như thế nào ?

3. Tư thế ngồi phải như thế nào ? Quần áo nên như thế nào ?
______________________________________

http://www.catruong.com/

giusehien
07-07-2008, 04:47 AM
BÀI 5: LẤY HƠI TRONG CA HÁT

Như đã biết, việc lấy hơi không chỉ nhằm mục đích cung cấp dưỡng khí cho cơ thể, cũng như cung cấp làn hơi cho việc phát thanh, nhưng còn góp phần biểu hiện ý nghĩa, nội dung, tình cảm của bài hát, có nhiều trường hợp lấy hơi khác nhau mà người ca viên cần biết và làm quen. Đằng khác, cũng có một số nguyên tắc trong việc lúc nào nên hay không nên lấy hơi và những lợi ích của việc lấy hơi như thế nào.


I. ÍCH LỢI CỦA VIỆC CHỦ ĐỘNG LẤY HƠI

1. Việc chủ động lấy hơi lúc khởi tấu cũng như trong bài hát, sẽ làm cho tiếng hát được đầy đặn và có năng lực hơn. Nhiều người than hơi của mình ngắn, hoặc tiếng yếu, một phần lớn, là không lấy hơi đúng cách, hoặc không ý thức để lấy hơi đúng lúc.

2. Ích lợi lớn lao khác là giúp cho toàn thể ca viên bắt đầu câu hát được đều đặn và sắc bén. Nhiều ca đoàn khởi tấu chưa đều, phần nhiều là do chưa tập lấy hơi chủ động.

II. CÁC TRƯỜNG HỢP LẤY HƠI

Người ta thừơng phân biệt bốn trường hợp chính như sau :

1. Lấy hơi lớn :

Là lấy hơi một cách thong dong, không vội vàng, thường thực hiện ở chỗ có dấu lặng tương ứng với một phách trong nhịp độ vừa (giống như dấu chấm trong bài văn).

Thí dụ 1 :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_1.gif

2. Lấy hơi nhỏ :

Là lấy hơi ngắn hơn, dưới một phách cho đến 1/4 phách, thường gặp ở cuối tiết nhạc (chi nhạc), (giống như dấu phẩy trong bài văn).

Thí dụ 2 :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_2.gif

3. Lấy hơi trộm :

Là lấy hơi thật nhanh và nhẹ nhàng như là không lấy hơi vậy (không để người khác nhận ra). Thường áp dụng trong câu nhạc dài, cần lấy hơi bổ sung mà vẫn bảo toàn ý nghĩa lời ca, hoặc trong chỗ ngắt câu phù hợp với ý nghĩa lời ca. Ký hiệu bằng dấu phải ('), trong thanh nhạc dùng (v).

Thí dụ 3 :
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_3-1.gif

4. Cướp hơi :

Là lấy hơi thật nhanh và mạnh mẽ, thường xảy ra ở những đoạn nhạc sôi nổi, hùng tráng, hoặc lúc chuẩn bị cho cao trào của bài hát. Đây là một kỹ xảo cao trong nghệ thuật ca hát, cần phải chú ý rèn luyện công phu (xem thêm đoạn Ha-lê-lui-a cuối bài Lạy Nữ Vương Thiên Đàng).

Thí dụ 4 :
http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/5_td4.gif

Trong hợp ca, có những câu nhạc dài, hoặc những chỗ ngân dài không được để đứt hơi, các ca viên phải nối hơi bằng cách thay nhau, kẻ trước người sau lấy hơi trộm : khi tiếp tục lại, phải vào bè nhẹ nhàng cũng như lúc mình hết hơi vậy.


III. CÁC NGUYÊN TẮC LẤY HƠI TRONG BÀI HÁT

Trong câu nói, muốn đảm bảo ý nghĩa, ta chỉ ngắt sau một cụm từ, hoặc dừng lại sau một câu đầy đủ ý nghĩa. Trong bài hát cũng vậy, nhưng đôi khi cũng có những trường hợp ngoại lên, buộc ta phải ngắt cầu nhiều hơn là câu văn cho phép. Hoặc buộc ta phải hát luôn, không ngừng sau mỗi cụm từ, như trong câu nói có thể cho phép.

Trong những trường hợp đó, ta nên theo một số nguyên tắc sau :

1. Bình thường, lấy hơi trước mỗi câu hát (lúc khởi tấu cũng như trong bài hát) hoặc chỗ bài hát ghi dấu lặng (xem Td 1 và 2 ở trên) : có chỗ xem ra không cần lấy hơi, nhưng tác giả cố ý ghi dấu lặng để ca viên lấy ơi cho đồng đều, nhịp nhàng (xem đoạn “Bút tôi reo như ... Td 5 dưới đây).

2. Câu hát dài cần ngắt để lấy hơi bổ sung, thì nên ngắt nơi nào có đủ nghĩa (xem Td 4 : ngắt sau “Chúa cho con trời mới đất mới” tương đối đủ nghĩa).

3. Không lấy hơi vụn vặt, cứ 2, 3 chữ đã ngưng để lấy hơi (xem Td 4 : không nên lấy hơi như sau “Chúa cho con / trời mới / đất mới ... con / sẽ ca ngợi ...).

4. Không lấy hơi ở giữa các từ kép như Thiên Chúa, yêu thương ...

IV. NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý

1. Theo nhịp độ :

Nếu hát loại bài với nhịp độ thong thả, thì lấy hơi vào cũng thong thả (xem “Khúc Nhạc Cảm Tạ"). Gặp loại bài sôi nổi, thì lấy hơi cũng phải nhanh nhẹn, nhịp nhàng đáp ứng yêu cầu tốc độ của bài hát (A-ve Ma-ri-a 2 đoạn C).

Thí dụ 5 :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/5_td4.gif

2. Theo sắc thái :

Gặp đoạn nhạc sắp hát rời, thì lấy hơi chuẩn bị cũng phải lấy hơi rời, nghĩa là lấy hơi nhanh rồi nén hơi chờ đợi cho đến khi hát các âm thanh rời.

Thí dụ 6 :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/5_td6.gif


PHẦN THỰC TẬP

1. Tập lấy hơi theo các thí dụ trên, đặc biệt lấy hơi trộm (thí dụ 3); lấy hơi rời(thí dụ 6); cướp hơi (thí dụ 4, 5 và Ha-lê-lui-a cuối của bài “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng” - Lm Ngô Duy Linh).

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/5_td7.gif

2. Tập các mẫu thanh nhạc :

Mẫu 8 :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/5_mau8.gif

Yêu cầu 1, 2, 3 : như các mẫu trước + đọc chéo các nguyên âm ô - a - ô, a - ô - a

Yêu cầu 4 : liền tiếng, vươn lên từ từ cho đến dấu Mi - Sol thì nhẹ lại. Tập quãng ba : chú ý hát chuẩn xác cao độ nhóm 4 dấu “Mi - Sol - Fa - Re”.

Mẫu 9 :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_9-1.gif

Yêu cầu :

1. Lấy hơi theo khẩu hình “i” - Nén hơi.

2. Móc nối M với i - ê - a cho mềm mại, phóng âm thanh ra phía trước.

3. Gắng sao cho âm sắc của nguyên âm ê và a cũng gần giống như âm i.

4. Hát liền tiếng, vươn tiếng dần 2 phách đầu, đến dấu Sol đặt nhẹ rồi cho sống lại bằng cách vươn tiếng + lấy hơi trộm và bắt vào chữ Ma cường độ ngang với phách 2 của dấu Sol, rồi hát nhẹ dần lại ở các phách còn lại cho đến hết câu. Chú ý chuẩn xác cao độ, không nặng nề, dựa nhẹ lên các dấu đầu phách, không để các dấu ở nửa phách sau lộ ra quá rõ ràng. Nhớ giữ nguyên khẩu hình chữ a cho đến hết câu, lồng ngực căng, bụng hơi ép dần khi gần hết câu, nếu không nét nhạc đi xuống thường có khuynh hướng buông lỏng, sẽ làm xuống cung.

Mẫu 10 :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/5_mau10.gif

Yêu cầu :

1. Lấy hơi theo khẩu hình “i” - Nén hơi

2. Móc nối M với i - ê - a cho mềm mại, phóng âm thanh ra phía trước.

3. Mượn vị trí của Mi để đọc các chữ Ma, Mô, Mê, tạo cho các chữ sau có âm sắc sáng như i, càng lên cao, phải buông lỏng hàm dưới, nâng hàm ếch mềm, đầu như muốn nhìn từ trên cao xuống để dằn thanh quản thấp xuống, môi trên hơi nâng lên, mũi như muốn phồng lên để tăng độ vang cho âm thanh. Khi hát xuống thấp, môi trên hơi úp xuống che răng trên.

4. Liền tiếng + lấy hơi trộng : ngân dài dấu Fa gần đủ 2 phách như mình không định lấy hơi, sau đó vừa đổi khẩu hình sang chữ Mô vừa “nuốt” trộm hơi vào.

Mẫu 11 :

http://i287.photobucket.com/albums/ll133/onggiakeu/luyen_19.gif

Yêu cầu 1,2,3 : như mẫu 10 trên đây.

Yêu cầu 4 : Môi càng hát nhanh càng mềm mại, không “nhai” tiếng. Càng lên cao, càng hát nhanh, phải tạo cảm giác điểm tựa âm thanh từ vùng xương chậu để phóng luồng hơi luôn luôn hướng lên phía sống mũi. Chỉ hát một hơi, không để mất vị trí dội âm trước mặt, giống như ta cầm vòi xịt nước lên cao, hướng về một điểm trước mặt, giữa môi trên và trán, nơi mà ta cảm thấy âm thanh vang rõ và đẹp nhất. Lúc đầu mỗi người gắng hướng làn hơi tìm xem “điểm” nào cho ta âm thanh vang đẹp nhất. Khi tìm được vị trí rồi, không cần phải tốn nhiều hơi, mà nghe âm thanh vẫn vang rõ. Vai trò của hàm ếch mềm và mỗi trên rất quan trọng để hướng dẫn làn hơi đi vào đúng vị trí. (Cũng có thể làm quen với dội âm trước mặt, bằng cách thực tập đọc sách phóng âm thanh ra trước, không cần đẩy hơi mạnh mà âm thanh vẫn vang vọng tới cuối phòng).


CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Ích lợi của việc lấy hơi chủ động là gì ?

2. Có mấy trường hợp lấy hơi ? Lấy hơi trộm và cưới hơi khác nhau và giống như ở điểm nào ?

3. Cho biết các nguyên tắc lấy hơi ?

4. Lấy hơi theo nhịp độ và sắc thái của bài hát nghĩa là thế nào ? Cho thí dụ ?

_________________

http://www.catruong.com/

bethichconlua
08-03-2009, 10:47 AM
Cảm ơn...cảm ơn...Cảm ơn...Những kiến thức cơ bản bổ ích...và cần thiết ....bé rất thích các bài tập này...

Minh Nguyen Toi
17-09-2009, 08:51 AM
Cám ơn nhiều thật nhiều nhé.
:111:

Thuyduonguyen
18-09-2009, 03:54 AM
Xin cho hoi, co cach nao tim duoc cac ban nhac thanh ca voi nhac ly day du de dda'nh dda`n piano khong. Hau het cac nhac ly' khong co huong dan cho ban tay trai. Rat mong duoc hoi dap.
Chan thanh cam ta.