View Full Version : SUY NIỆM LỜI CHÚA THÁNG 05/2011
Rosa_Huong
03-05-2011, 08:54 AM
03/05
Đường Giêsu-Hướng Đi Cho Đời Tôi
Thứ Ba Sau Chúa Nhật II Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 14,6-14
6Đức Giê-su đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. 7Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người." 8Ông Phi-líp-phê nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện." 9Đức Giê-su trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha"? 10Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. 13Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Bible,lamp,%20candle%20-%20final.jpg
Suy niệm:
“Thầy là đường” : Sống là đi, đời là hành trình. Nhưng nhiều khi người ta không thấy đường để đi, bởi thế người ta sống bồng bềnh nổi trôi không định hướng. Ngay cả một số tín hữu, thậm chí một số người tu mà đôi khi cũng rơi vào tình trạng hoang mang không biết mình phải đi đâu. Đó là vì họ không biết hay có biết nhưng đã quên lời Chúa Giêsu “Thầy là đường”. Hãy đi theo Chúa Giêsu, bởi vì, như lời Thánh Phêrô thố lộ, “Bỏ Thầy con biết theo ai ?” Nhiều người cũng muốn hành trình đi đến Thiên Chúa, đi đến sự sống. Tuy nhiên họ đi mãi mà không tới nơi, có khi còn đi lạc. Tại vì họ đi theo con đường riêng của họ chứ không theo con đường Chúa Giêsu.
“Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu ?” : Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” : Thế nhưng dù đã đi theo Chúa, ta không tránh khỏi nhiều lúc cảm thấy lo âu không biết Ngài sẽ dẫn mình đến đâu. Chúa Giêsu nói “Thầy là đường, là sự thất và là sự sống”. Theo Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ tới nguồn sự thật và nguồn sự sống. Vì thế ta nên phó thác đời mình cho Ngài dẫn dắt : “Chúa là mục tử… Ngài dẫn tôi tới đồng cỏ xanh, bóng mát, nước trong…”
“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha” : mong ước của Thánh Philipphê cũng là mong ước của mọi người tin thờ Thiên Chúa. Đã tin thờ Đấng nào thì dĩ nhiên người ta muốn thấy Đấng ấy. Chúa Giêsu hiểu được mong ước ấy và đáp ứng mong ước ấy : “Ai thấy Thầy là Thấy Chúa Cha”. Chúa Giêsu là mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa. Muốn biết Thiên Chúa là ai, muốn hiểu Thiên Chúa là thế nào, ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy suy gẫm những đoạn Tin Mừng viết về Ngài, hãy chiêm ngưỡng Ngài…
“Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những điều Thầy làm”. Những việc Chúa Giêsu đã làm là gì ? Là giảng dạy, là chữa bệnh, là cứu độ… nhưng quan trọng nhất là thi hành ý Chúa Cha (Ga 4,34 : “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy”. Trong những việc ta làm, không việc gì quan trọng cho bằng những việc làm theo thánh ý Thiên Chúa. Nhưng làm theo thánh ý Thiên Chúa không phải là một điều dễ. Muốn làm được như thế, hãy tin vào Chúa Giêsu : “Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những điều Thầy làm”.
“Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin thì Thầy sẽ làm” : Có lẽ nhiều điều ta xin mà không được là vì ta không xin nhân danh Chúa Giêsu.
Đọc Tin Mừng thánh Gioan, tôi đắm mình trong mầu nhiệm làm con của Đức Giêsu, một người con luôn hướng về Cha, lưu lại trong Cha, hiệp nhất với Cha, để không chỉ nói điều Cha muốn, mà còn tỏ lộ cách trung thực chính dung mạo của Cha qua đời sống của mình. Mở lại trang sử đời tôi, một kitô hữu, tôi chợt thấy ngỡ ngàng !
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6)
Khủng hoảng trần trọng nhất của xã hội ngày nay phải chăng là cuộc khủng hoảng về ý nghĩa của cuộc sống ? Con người sinh ra để làm gì ? Con người sẽ đi về đâu ? Đâu là ý nghĩa và giá trị của cuộc sống ? Đó là những vấn nạn mà tôi thường hay tự mình đặt ra khi gặp những đau khổ, những mâu thuẫn trong cuộc sống. Tôi chỉ lấy lại được sự bình an khi đối diện với Chúa, đặt trọn niềm tin nơi Ngài, và xác tín rằng Ngài chính là con đường, là sự thật và là sự sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con luôn hiểu và cảm nghiệm được Chúa chính là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của con. Xin cho con biết sống như Thánh Phaolô : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” để đời sống của con luôn trở thành chứng nhân cho Tin Mừng nước Cha.
http://tgpsaigon.net
_______________________________
Thánh Philípphê và Thánh Giacôbê
Thánh Giacôbê: Chúng ta không biết nhiều về thánh nhân ngoại trừ tên của ngài, và dĩ nhiên, Ðức Giêsu đã chọn ngài là một trong 12 cột trụ của Israel Mới, là Giáo Hội của Chúa. Thánh Giacôbê không phải là Giacôbê Hành Ðộng, con của Clopas, "anh em" với Ðức Giêsu và sau này là Giám Mục Giêrusalem và là tác giả Thư Thánh Giacôbê.
http://www.thanhlinh.net/cacthanh/StPhilipApostle.jpg
Thánh Philípphê: Ngài cùng quê với Thánh Phêrô và Anrê, ở Bétsaiđa vùng Galilê. Ðích thân Ðức Giêsu gọi ngài, và sau đó ngài tìm gặp ông Nathanaen và nói với ông về "Người mà Môisen đã đề cập đến" (Gioan 1:45).
Cũng như các tông đồ khác, phải mất một thời gian thì Thánh Philípphê mới nhận ra Ðức Giêsu là ai. Trong một dịp, khi Ðức Giêsu trông thấy đám đông theo Người và muốn cho họ ăn, Người hỏi ông Philípphê có thể mua thực phẩm ở đâu cho dân chúng dùng. Thánh Gioan nhận xét, "Ðức Giêsu nói như thế là để thử ông, vì Người biết những gì phải làm" (Gioan 6:6). Ông Philípphê thưa, "Dù có tiền lương hai trăm ngày làm việc mà mua thức ăn cho họ thì cũng không đủ mỗi người một chút" (Gioan 6:7).
Nhận định của Thánh Gioan không phải là sự khinh thường Thánh Philípphê, mà cốt để chúng ta thấy sự khác biệt giữa khả năng của loài người và quyền năng của Thiên Chúa.
Trong một dịp khác, chúng ta có thể cảm được sự bực tức trong lời nói của Ðức Giêsu. Sau khi ông Tôma than phiền là họ không biết Ðức Giêsu đi đâu, Người nói, "Thầy là đường... Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha Thầy. Từ bây giờ trở đi anh em được biết Người và được thấy Người" (Gioan 14:6a, 7). Nhưng ông Philípphê lại hỏi tiếp: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, và như thế là đã đủ cho chúng con" (Gioan 14:8). Thật quá quắt! Ðức Giêsu đáp lại, "Thầy từng ở với anh em bao nhiêu lâu mà anh vẫn chưa biết Thầy sao, hở Philípphê? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Gioan 14:9a).
Có lẽ vì Thánh Philípphê có tên Hy Lạp hoặc vì ngài được coi là thân cận với Ðức Giêsu, nên một số người ngoại giáo muốn theo đạo đã đến với ngài và xin ngài giới thiệu với Ðức Giêsu. Ông Philípphê đến nói với ông Anrê, và ông Anrê nói với Ðức Giêsu. Câu trả lời của Ðức Giêsu trong Phúc Âm Thánh Gioan là câu trả lời gián tiếp; Ðức Giêsu nói "giờ" của Người đã đến, có nghĩa trong một thời gian ngắn Người sẽ hy sinh mạng sống cho người Do Thái cũng như Dân Ngoại (xem Gioan 12:21 -- 24).
Lời Bàn
Như trong trường hợp của các tông đồ khác, chúng ta thấy một con người rất bình thường đã trở nên nền tảng của Giáo Hội, và chúng ta cũng được nhắc nhở rằng sự thánh thiện và công cuộc tông đồ thì hoàn toàn do ơn của Chúa, không phải là sự thành đạt của con người. Mọi quyền năng là quyền năng của Thiên Chúa, ngay cả sự tự do của con người để đón nhận ơn sủng của Người. Ðức Giêsu nói với Thánh Philípphê "Con sẽ được mặc lấy sức mạnh từ trời". Nhiệm vụ đầu tiên của các ngài là trục xuất các thần ô uế, chữa lành bệnh tật, loan báo nước trời. Dần dà, các ngài hiểu rằng những dấu chỉ bên ngoài này là các bí tích của một mầu nhiệm cao cả hơn ở bên trong con người -- đó là sức mạnh thần thánh để yêu thương như Thiên Chúa.
Lời Trích
"Người sai họ... như những người được chia sẻ quyền năng của Người để họ có thể làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người, thánh hóa và dẫn dắt dân chúng... Họ được giao cho sứ mệnh này trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. TÐCV 2:1-26) phù hợp với lời Chúa hứa: 'Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em, và anh em sẽ là chứng nhân của Thầy... cho đến tận cùng trái đất' (TÐCV 1:8). Qua sự rao giảng phúc âm ở mọi nơi (x. Máccô 16:20), và được đón nhận bởi những người nghe nhờ tác động của Thánh Thần, các tông đồ cùng quy tụ lại thành Giáo Hội hoàn vũ, mà Chúa Giêsu đã thiết lập trên các tông đồ và được đặt trên Thánh Phêrô, người đứng đầu, chính Ðức Giêsu Kitô vẫn là đá góc tường tối cao..." (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, 19).
Trích từ NguoiTinHuu.com
___________________________
Ði Về Ðâu?
Tiền tài danh vọng không làm cho con người hạnh phúc... Ðó là điều mà người ta thường nói khi bàn về cái chết của cô đào Marilin Monroe cách đây hơn hai chục năm... Nay, người ta cũng lặp lại điều đó với nữ danh ca Dalida, người Pháp gốc Ai Cập... Dalida đã tự vận vào hôm 03/5/1987 tại nhà riêng của cô ở Montmartre, Paris, lúc cô được 54 tuổi.
Sinh năm 1933 tai Le Caire với tên thật là Yolande Gigliotti, đã trở nên một ca sĩ nổi tiếng và được hâm mộ trên khắp thế giới, kể cả ở Việt Nam, nhờ giọng ca đầy truyền cảm của cô. Những người thuộc thế hệ 50 và 60 không thể quên những bài "Bambino", "Gigi l'amorose"... do cô trình diễn. Danh vọng đã không đủ để thỏa mãn cô. Ngày 27/02/1967, cô đã thử một lần tự tử, rồi được cứu sống.
Tự tử cũng là một thể hiện nỗi khao khát khôn cùng trong lòng người: đó là khao khát hạnh phúc. Khi cuộc đời này không còn là một đáp trả cho nõii khao khát ấy, nhiều người đã tự mình tìm đến cái chết như một giải thoát.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội ngày nay phải chăng không là khủng hoảng về ý nghĩa của cuộc sống. Con người sinh ra để làm gì? Con người sẽ đi về đâu? Sau cái chết những gì đang thực sự chờ đợi con người... Ðó là những câu hỏi lớn mà con người ngày nay, khi đứng trước những mâu thuẫn trong cuộc sống, không ngừng đặt ra cho mình.
Con người bởi đâu mà ra, con người sẽ đi về đâu? Ðó là ý nghĩa và giá trị của cuộc sống? Ðó là những câu hỏi mà chúng ta không ngừng tự đặt ra cho mình.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, bởi vì, nhờ Ðức Tin, chúng ta tìm được ánh sáng cho những câu hỏi ấy.
Trước ngưỡng cửa của năm 2000, nhân loại đang mỗi lúc phải đương đầu với những thách đố lớn của cuộc sống. Người Kitô được trang bị bởi Ðức Tin đang nằm giữa một vai trò quan trọng giai đoạn này. Ánh sáng Ðức Tin, cần phải được chiếu sáng trong cuộc sống của người Kitô để nhờ đó, những người xung quanh cũng tìm ra được ý nghĩa và giá trị cũng như hướng đi đích thực của cuộc sống.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
04-05-2011, 12:33 PM
04/05
Ánh sáng cuộc đời
Thứ Tư sau Chúa nhật II Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 3,16-21
16Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. 19Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. 20Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. 21Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/canstock0019208.png_0.jpg
Suy niệm:
Tiếp tục bài giáo lý về việc tái sinh: hậu quả của việc chịu sinh lại hay không chịu sinh lại. Chịu sinh lại thì được cứu độ; không chịu sinh lại thì phải hư mất (“bị luận phạt). Thực ra, khi cho Con mình xuống thế gian, Thiên Chúa cũng không hề muốn “Luận phạt” thế gian mà chỉ muốn cứu thế gian.
Nhưng thế gian cũng phải góp phần của mình: ai tin vào Chúa Con (chịu sinh lại bởi đức tin) thì được cứu; kẻ không tin (không chịu sinh lại) thì “bị luận phạt” (hư mất). Dĩ nhiên được cứu thì tốt hơn là bị hư mất, trong ánh sáng thì hạnh phúc hơn trong tăm tối. Thế nhưng cũng giống như một người đang chìm muốn được cứu sống thì tối thiểu phải đưa tay cho người trên bờ kéo mình lên, người muốn sáng thì phải rời bỏ tối tăm để bước tới nguồn sáng. Chúa Giêsu chỉ cho ta thấy một thực trạng đó là những người “yêu tối tăm hơn sự sáng”, đó là những người “hành động xấu xa”, họ “không đến cùng sự sáng vì sợ những việc làm của mình bị khiển trách”. Và Chúa Giêsu khuyên ta hãy can đảm yêu sự sáng và bước ra sự sáng “để hành động của họ được sáng tỏ”. Trong tôi cũng có bóng tối. Đó là những “hành động xấu xa”. Tự nhiên tôi muốn che giấu, tôi sợ bước ra ánh sáng. Nhưng như thế tôi không bao giờ được cứu, như thế là tôi tự luận phạt mình, tự để mình bị hư mất. Hãy yêu sự sáng hãy cam đảm bước ra sự sáng để ta được ánh sáng soi đường. Đó là một cách để được sinh lại : không còn là con của tối tăm nữa, mà từ nay sẽ là con của ánh sáng
Chú bé cùng với bố đang đi trên một con đường mòn trong đêm dày đặc, trên tay chỉ có cây đèn nhỏ, bóng đêm trước mặt gây cho chú cảm giác sợ hãi mơ hồ. Chú nói với bố: “Bố ơi! chiếc đèn này chỉ chiếu sáng chút xíu trên đường, con sợ quá”. Bố đáp: “Con ạ! Ánh sáng này hơi yếu, nhưng nó cũng đủ soi cho con đi đến cuối đường”. Đời sống Kitô hữu cũng là một con đường đầy tăm tối, nhưng Chúa luôn ban đủ ánh sáng cho mỗi bước đi, và ta cũng chỉ cấn bấy nhiêu. Nhưng ta chắc chắn một điều: ánh sáng đó không bao giờ tắt. Nếu ta lên đường, ánh sánh đó đủ soi cho ta đi đến cuối đường đời.
Sự hư mất ấy (luận phạt) là do người ta tự chọn cho mình. Cũng giống như một nguồn sáng đã đến trong màn đêm tối tăm, ai muốn sáng thì tới với nguồn sáng đó, kẻ không tới thì phải ở mãi trong bóng tối. Thiên Chúa bao giờ cũng muốn cứu chúng ta. Ngài ban đủ mọi phương tiên cho ta sử dụng để được cứu. Kẻ hư mất là kẻ thiếu cương quyết rời bỏ bóng tối để bước ra ánh sáng.
“Ánh sáng đã đến gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa”. Một chiếu thứ bảy, anh đưa tôi dạo phố. Chúng tôi đna glặng lẽ rảo bước trên bờ hồ Xuân hương, bỗng nhiên, một giọng nói quen thuộc cất lên: “Con chào Cô!”. Như một phản xạ, tôi quay lại. Trước mặt chúng tôi là một em bé rách rưới, bẩn thỉu, học trò của tôi ở trung tâm Bảo Trợ Xã hội. Em vui mừng, chạy lại ôm chầm lấy tôi. Nhưng vì sợ “quê” với anh, tôi đã vờ như không quen biết nó…và để lại sau lưng, sự hụt hẫng pha lẫn tủi hờn của đứa bé mồ côi đáng thương. Bây giờ tôi mới rõ, tôi làm việc từ thiện chỉ vì chính mình!
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa là tình yêu và là nguồn phát xuất tình yêu. Xin chiếu dọi ánh sáng trên chúng con để chúng con nhận ra nhau là anh chị em, là những người cùng khao khát đi tìm chân thiện mỹ là căn nguyên cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, con người ngày nay vẫn từ chối tin vào Chúa. Họ muốn sống trong bóng tối tội lỗi. Họ sợ tin vào Chúa phải sống theo ánh sáng lề luật và phúc âm của Chúa. Thế giới vẫn chìm đắm trong bóng tối của bất công và hận thù. Lòng người vẫn đầy những bóng tối của lạc thú và sa đoạ. Bóng tối của lòng tham và ích kỷ đã khiến cho tình người như xa cách vời vợi.
Lạy Chúa, xin tha thứ và giúp chúng con vượt thắng những bóng tối của ích kỷ, bóng tối của gian tham đang làm chúng con xa Chúa và xa rời anh em. Xin cho chúng con cũng trở thành ánh sáng của nhau. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, không xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để đối xử nhân ái với nhau. Thế giới ngày nay rất cần ánh sáng của niềm tin để xoá tan nghị kỵ hiểu lầm. Ánh sáng của tình yêu để cảm thông nâng đỡ nhau. Ánh sáng của bao dung để xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình, từng giáo xứ ngõ hầu nơi mỗi gia đình, giáo xứ luôn được sống trong hiệp nhất và bình an. Amen
http://tgpsaigon.net
______________________
Xin Chúa Tha Thứ Cho Tôi
Sau thời cách mạng Pháp, trước cửa một nhà thờ tại Balê, người ta thường thấy một người hành khất với một dáng vẻ lạ thường. Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng có thể nhìn thấy trên vòng cổ của người ăn xin một cây thánh giá nhỏ bằng vàng.
Người khách quen thuộc nhất của người xấu số này là một vị linh mục trẻ. Vị linh mục thường đến dâng thánh lễ tại nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, ông không quên hỏi han và giúp đỡ người hành khất.
Ngày nọ, vị linh mục trẻ không còn thấy người ăn xin lảng vảng trước cửa nhà thờ nữa. Lần mò hỏi thăm, vị linh mục đã tìm đến thăm người hành khất đang trong cơn rét run vì bệnh tật và đói ăn. Cảm động trước nghĩa cử của vị linh mục, ông ta đã kể lại cuộc đời của mình như sau: "Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồmg chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng tôi đã phản bội họ. Quân cách mạng tìm cách bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con của họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người con trai duy nhất là thoát khỏi".
Nghe đến đây, vị linh mục như muốn té xỉu, nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để nghe tiếp câu chuyện của người hành khất: "Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái vật khát máu... Từ đó, tôi không thể nào có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu đi lang thang khắp các ngả đường để quên tội ác của mình. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh của gia đình họ trong túi áo này đây. Cây thánh giá tôi đang treo ở đầu giường là của người chồng, còn chiếc thánh giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của người vợ... Xin Chúa tha thứ cho tôi".
Vừa nghe xong những dòng tâm sự và cũng là lời tự thú của người hành khất, vị linh mục trẻ đã quỳ gối xuống bên cạnh chiếc giường của người hấp hối và thay cho một công thức giải tội, ông đã nói như sau: "Tôi chính là người con trai còn sống sót trong gia đình. Ðại diện cho gia đình và với tư cách là một linh mục, tôi tha thứ cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần...".
Câu chuyện tha thứ trên đây là một trong những mẩu chuyện đã và đang xảy ra ở mọi thời đại và mọi nơi. Giữa sa mạc cằn cỗi của lòng người, Thiên Chúa vẫn còn cho mọc lên những hoa trái của yêu thương, tha thứ. Tha thứ là vẻ đẹp thanh tú cao sang nhất của lòng người...
Sự hiện diện của bà Muzeyen Agca tại Roma dạo tháng 02/1987 nhắc lại cho chúng ta một biến cố vô cùng đau thương, nhưng cũng gợi lại một nghĩa cử vô cùng cao quý của vị Cha chung. Ngày 13/5/1981, giữa lúc hàng ngàn người đang chen chúc tại công trường thánh Phêrô để chờ đón Ðức Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên từ đám đông đã làm cho mọi người như đứng tim. Ðức Thánh Cha đã gục ngã trên chiếc xe Jeep mui trần, máu me vọt lên tung téo. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị Giáo Hoàng bị mưu sát.
Ali Agca, thủ phạm chính của vụ mưu sát, đã bị bắt giữ ngay sau đó. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này đã bị giam giữ tại nhà tù Rebibbia ở Roma. Biến cố đẫm máu trên đây đã ghi đậm sự thù hận đang sôi sục trong lòng người... Nhưng thế giới không chỉ được nung náu bằng lò lửa của hận thù. Thiên Chúa đã tạo dựng con người để yêu mến và tha thứ...
Năm 1984, một biến cố khác đã làm chấn động dư luận thế giới: Ðức Gioan Phaolô II đã đích thân đến nhà giam Rebibbia để nói chuyện với Ali Agca và tha thứ cho anh. Không ai biết hai bên đã trao đổi những gì, nhưng ai cũng cảm động trước cảnh tượng kẻ sát nhân và người bị mưu sát đã bắt tay nhau và trao cho nhau ánh mắt của tha thứ, của hòa giải...
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
05-05-2011, 07:19 AM
05/05
Hướng nhìn lên cao
Thứ Năm sau Chúa nhật II Phục sinh
Lời Chúa:
Ga 3, 31-36
31Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người; 32Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. 33Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. 34Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. 35Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. 36Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%203,%2031-36.jpg
Suy niệm:
Tạp chí Time số tháng 4/95 có ghi lại chứng từ rất cảm động của một cựu tù nhân Mỹ tại Việt Nam, ông Avares. Là một phi công Hải quân, ông đã bị bắn hạ trong một phi vụ dọc theo duyên hải Bắc Việt ngày 5/8/1964. Ông đã bị giam tại Hỏa lò trong vòng 8 năm rưỡi. Năm 1993, một nhà sản xuất phim mời ông và một nhóm cựu binh Mỹ trở lại Việt nam để thực hiện một cuốn phim tài liệu, Avares đã trở lại căn phòng nơi ông bị giam, điều duy nhất ông muốn nhìn lại là hình Thánh Giá trên bức tường đàng sau phòng giam mà ông đã nhìn lên đó để cầu nguyện. Lời cầu nguyện đã nâng đỡ ông trong những tháng ngày dài thiếu thốn và cô đơn. Ngày nay bức tường đã được tô vôi, cây Thánh giá đã bị một lớp sơn vẽ chồng lên, và ông cho biết có một cái gì đó đã được chôn chặt trong ông, đó không phải là hối hận hay căm thù, mà là tâm tình tri ân Thiên Chúa đã cho ông về với gia đình và đã ban cho ông ơn biết tha thứ và quên đi.
Chứng từ của Avares cho thấy khi con người biết nhìn lên cao, con người sẽ cảm nhận được ơn Chúa trong cuộc sống của mình. Đó có lẽ là ý tưởng mà Tin mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta. Thánh Gioan ghi lại hai cái nhìn về Chúa Giêsu: một của Nicôđêmô và một của Gioan Tẩy Giả. Nicôđêmô nhìn vào Chúa Giêsu với những hiểu biết uyên bác nhưng hoàn toàn phàm tục của ông; ông lượng giá về Chúa Giêsu theo thước đo thông thường của loài người, đó là cái nhìn từ dưới đất. Trong khi đó, Gioan Tẩy giả mời gọi các môn đệ ông vượt qua cái nhìn từ dưới đất để có cái nhìn từ trên cao. Và thánh Phaolô đã nói: "Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô". Với tâm tình của Chúa Kitô, nghĩa là với cái nhìn của tin yêu và hy vọng, người ta có thể đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách; với tâm tình của Chúa Kitô, người ta sẽ cảm nhận tình thương và tha thứ ngay giữa nơi chỉ có hận thù và chết chóc.
Tại những khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loài Chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn màu nâu nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc như tuyết, trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ lạ nào đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận. Chúng không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn. Những người thợ săn Âu Châu biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu cuộc săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiểm và ngay cả sự chết, hơn là để thân thể hóa ra hoen ố… Đối với giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quí hơn cả mạng sống: Chúng sẵn sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố. Cuộc sống của người Kitô chúng ta cũng phải như thế. Được tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh, mỗi người Kitô chúng ta được khoác lên một chiếc áo trắng tinh tuyền. Chiếc áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo Hội trong ngày chúng ta chịu phép rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa…
Cuộc sống nào cũng có chiến đấu. Cạm bẫy giăng mắc đầy các lối đi của chúng ta. Người Kitô không vì một chút lợi lộc, một chút an toàn giả hiệu để làm hoen ố chiếc áo tâm hồn của mình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, năm xưa nhờ sự phục sinh của Chúa đã củng cố đức tin nơi các tông đồ, xin Chúa cũng kiện toàn lòng tin nơi chúng con. Một lòng tin còn ngổn ngang trăm chiều những lo toan trần thế. Một lòng tin còn mong manh trước những cám dỗ của ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt. Một lòng tin cần phải được Chúa bổ sức để có thể lướt thắng những cạm bẫy của thế gian. Xin nhờ ơn thánh qua bí tích Thánh Thể nâng đỡ những yếu đuối của chúng con, và giúp chúng con cũng trở thành những tông đồ loan truyền tin vui Chúa phục sinh cho anh em của mình.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, nhờ tin vào Chúa mà các tông đồ dám dùng cái chết để minh chứng cho niềm tin của mình. Nhờ tin vào Chúa mà biết bao thế hệ nam nữ tu sĩ đã và đang dấn thân phục vụ cho những anh em nghèo đói, tật nguyền hay đang bị bỏ rơi. Xin Chúa cũng giúp chúng con nhờ tin vào Chúa mà biết sống thánh thiện, tránh xa những thói hư tật xấu và sống bác ái yêu thương hết mọi người. Amen
http://tgpsaigon.net
____________________
Nhà Thờ Cho Người Da Màu
Trong quyển tự thuật, Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải phóng Ấn Ðộ khỏi ách thống trị của người Anh, đã kể lại rằng: Trong những ngày còn làm sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc kinh thánh và vô cùng cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám Mối Phúc Thực đã gợi hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.
Mahatta Gandhi xác tín rằng Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và đón nhận một vài lời chỉ dẫn, ông đã thất vọng: Ông vừa vào đến cửa nhà thờ thì những người da trắng chận ông lại và nói với ông rằng nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da màu.
Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và ông đã không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa.
Câu chuyện trên đây của Mahatma Gandhi đáng cho chúng ta suy nghĩ: vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có thể là một chướng ngại vật ngăn cản nhiều người muốn tìm đến với Giáo Hội. Một lời nói, một cử chỉ, một cách sống, nếu đi ngược lại với tinh thần của Tin Mừng, đều có thể là một cách xua đuổi người khác ra khỏi nhà thờ.
Không ai là một hòn đảo. Chân lý này đúng cho những tương quan giữa người với người mà còn có giá trị hơn nữa trong tương quan của niềm tin. Không có một hành động nào của người Kitô hữu mà không ảnh hưởng đến người khác. Trong mầu nhiệm của sự thông hiệp, chúng ta biết rằng tất cả mọi chi thể của Ðức Kitô đều liên kết khăng khít với nhau đến độ sức mạnh của người này là nơi nương tựa cho người khác, sự yếu đuối và tội lỗi của người này có thể làm tổn thương đến người khác... Trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Ðức Kitô, tất cả mọi chi thể đều liên đới với nhau, tất cả mọi người đều có trách nhiệm đối với nhau...
Không ai là một hòn đảo. Chân lý này cũng đúng cho tương quan của người tín hữu đối với người ngoài Giáo Hội. Mỗi người tín hữu đều phải là trung gian nhờ đó con người tìm đến với giáo Hội. Nói cho cùng, người tín hữu không sống cho mình mà sống cho tha nhân. Thật thế, có lẽ không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Ðàng nếu chúng ta chưa giúp cho một người nào đó cũng vào Thiên Ðàng với chúng ta. Ðó chính là luận lý của Tin Mừng: Khi mất đi bản thân vì tha nhân, chúng ta mới tìm gặp lại chính mình.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
06-05-2011, 07:23 AM
06/05
Phép lạ từ lòng quảng đại
Thứ Sáu sau Chúa nhật II Phục sinh
Lời Chúa:
Ga 6,1-15
1Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria. 2Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 3Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. 4Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Dothái. 5Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? " 6Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. 7Ông Philípphê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút." 8Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: 9"Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! " 10Đức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi." Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 11Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 12Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi." 13Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 14Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian! " 15Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%206,%201-15.jpg
Suy niệm:
Philípphê thưa: hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút: trước sứ mạng Chúa trao, ai cũng thấy rằng mình không đủ khả năng. Không bao giờ chúng ta ngang tầm để có thể đáp ứng ý muốn của Chúa. Nhưng cũng như Philipphê và các môn đệ xưa, chúng ta cứ bắt đầu rồi Chúa sẽ tiếp tay cho đến hoàn thành. Thực ra, Chúa không đòi ta làm điều ta không thể, Ngài chỉ muốn chúng ta để Ngài hành động trong và qua chúng ta.
Đám đông dân chúng ngày nay vẫn còn đói khát: Đói khát lương thực, đói khát áo quần, đói khát thuốc men và sâu xa hơn nữa họ còn đói khát lẽ sống, đói khát chính sự sống thật mà chỉ có Chúa mới ban cho được.
“Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng bằng ấy người thì thấm vào đâu”.
Hồi nhỏ: Mỗi khi nghe đoạn Tin Mừng này tôi tự hỏi: nếu em bé kia cứ khư khư giữ lấy phần thức ăn ít ỏi của mình thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chợt tôi nghe như có tiếng đáp lại: “Điều ta muốn là tấm lòng quảng đại của con”. Từ đó trở đi tôi thực sự mới cảm nhận được rằng: nếu tôi trao ban mà còn so đo tính toán thiệt hơn, nếu tôi không trao ban với tấm lòng quảng đại của mình, thì hành vi kia thật là vô nghĩa. Em bé trong Tin Mừng Gioan hôm nay một lần nữa nhắc lại bản thân tôi và cách tôi trao ban cho người anh em.
Chúa Giêsu là Đấng toàn năng. Ngài chỉ cần phán một lời thì đám đông hơn 5.000 người đi theo Ngài có thể ăn no nê. Bài học mà Giáo Hội đón nhận từ phép lạ ấy thật rõ ràng : lòng quảng đại, sự san sẻ của con người là chìa khóa giúp giải quyết vấn đề nghèo đói. Qua bao nhiêu thế kỷ, với những đóng góp và chia sẻ của các tín hữu, đã có biết bao người được ăn uống no nê. Những hoạt động từ thiện, những chương trình trợ giúp phát triển của Giáo hội là những phép lạ mà Chúa Giêsu không ngừng thực hiện cho những người nghèo đói. Một em bé với năm chiếc bánh và hai con cá, chỉ với một đóng góp ít ỏi đó cũng đủ để Chúa Giêsu làm một phép lạ cả thể. Ngày nay liệu chúng có đủ lòng tin để tin rằng với một ít san sẻ do lòng quảng đại của chúng ta, Chúa Giêsu có thể làm phép lạ để bao người đói khổ chung quanh chúng ta được ăn no nê không ?
Nếu trong cùng một quốc gia, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo càng lúc càng tăng, là bởi vì người giàu không muốn chia sẻ của cải mình cho người nghèo. Chúng ta cần phải sống như thế nào để cuộc sống của mỗi chúng ta là bằng chứng đích thực sự hiện diện và tác động của Chúa trong con người. Sức sống của Thiên Chúa mà con người cần đến sẽ được tỏ hiện qua niềm vui huynh đệ, qua lòng quảng đại và tha thứ được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày của người tín hữu Kitô.
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện trong Giáo hội của Ngài, và giáo hội tin rằng Ngài vẫn tiếp tục nhân bánh và cá ra nhiều cho những người nghèo đói.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, tình yêu Chúa thật bao la vô bờ. Trái tim Chúa luôn nhạy cảm trước nhu cầu của nhân loại. Năm xưa Chúa đã chạnh lòng thương đoàn lũ bơ vơ, không người chăn dắt. Chúa đã quy tụ họ lại, giảng dạy cho họ và Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ.
Lạy Chúa, Chúa thật là Thiên Chúa, đầy quyền năng và rất mực yêu thương chúng con. Xin Chúa ban cho thế giới chúng con đang sống đầy cứng cỏi và khô cằn tình người được có nhiều tâm hồn quảng đại biết đóng góp phần nhỏ bé của mình, để Chúa lại có thể làm phép lạ hoá bánh ra nhiều hầu giúp đỡ những ai đang đói khát và biết xoa dịu những ai khốn cùng. Amen
http://tgpsaigon.net
________________________
Khác Biệt Giữa Ngày Và Ðêm
Một vị đạo sĩ Ấn Giáo nọ hỏi các đệ tử của ông như sau: "Làm thế nào để biết được đêm đã tàn và ngày bắt đầu?"
Một người đệ tử trả lời như sau: "Khi ta trông thấy một con thú từ đằng xa và ta có thể nói: đó là con bò hay con ngựa".
Câu trả lời trên đây đã không làm cho nhà đạo sĩ ưng ý chút nào...
Người đệ tử thứ hai mới lên tiếng nói: "Khi ta thấy một cây lớn từ đằng xa vàta có thể nói nó là cây xoài hay cây mít".
Vị đạo sĩ cũng lắc đầu không đồng ý. Khi các đệ tử nhao nhao muốn biết câu giải đáp, ông mới ôn tồn nói như sau: "Khi ta nhìn vào gương mặt của bất cứ người nào và nhận ra người anh em của ta trong người đó thì đó là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu. Nếu ta không phân biệt được như thế, thì cho dù đêm có tàn, ngày có bắt đầu, tất cả mọi sự không có gì thay đổi".
Ngày 25 tháng 12, lễ Thần Mặt Trời của dân ngoại đã được Giáo Hội chọn làm ngày sinh của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quả thực là Mặt Trời Công Chính. Ngài xuất hiện để báo hiệu Ðêm đã tàn và Ngày Mới bắt đầu.
Nhân loại đã chìm ngập trong đêm tối của tội lỗi, đêm tối của trốn chạy khỏi Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau giữa người với người. Chúa Giêsu đã đến để xóa tan đêm tối ấy và khai mở ngày mới trong đó người nhận ra người, người trở về với Thiên Chúa.
Quả thực, chỉ trong Ðức Giêsu Kitô, mầu nhiệm con người mới được sáng tỏ. Trong đêm tối âm u của khước từ Thiên Chúa và chóii bỏ lẫn nhau, con người đã không biết mình là ai, mình sẽ đi về đâu. Trong ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô, con người nhận dạng được chính mình cũng như nhìn thấy người anh em của mình.
Nhận ra người anh em nơi một người nào đó chính là nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi mọi người cũng như phẩm giá vô cùng cao quý của người đó.
Nhận ra người anh em nơi một người nào đó là nhìn thấy niềm vui, nỗi khổ, sự bất hạnh và ngay cả lỗi lầm của người đso như của chính mình.
Nhận ra người anh em nơi một người nào đó chính là sẵn sàng tha thứ cho người đó ngay cả khi người đó xúc phạm đến ta và không muốn nhìn mặt ta.
Nhận ra người anh em nơi một người nào đó cũng có nghĩa là không thất vọng về khả năng hướng thiện của người đó.
Nhận ra người anh em nơi một người nào đó cũng có nghĩa là muốn nói với người đó rằng, cách này hay cách khác, ta cần người đó để được sống xứng với ơn gọi làm người hơn.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
07-05-2011, 07:36 AM
07/05
Chúa luôn hiện diện
Thứ Bảy sau Chúa Nhật II Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 6,16-21
16Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, 17rồi xuống thuyền đi về phía Caphácnaum bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giêsu chưa đến với các ông. 18Biển động, vì gió thổi mạnh. 19Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. 20Nhưng Người bảo các ông: "Thầy đây mà, đừng sợ! " 21Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/4.gif
Suy niệm:
Câu chuyện này tiếp liền theo phép lạ hóa bánh ra nhiều muốn dạy cho các môn đệ biết rằng Chúa Giêsu chẳng những có thể ban lương thực cho dân chúng ăn, mà còn ban sức mạnh tinh thần và sự che chở an toàn cho các môn đệ.
Trong Thánh kinh, câu “Đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để chúng ta nhắc lại mỗi ngày trong suốt một năm.
Một trong những yếu tố dẫn đến thất bại, đó là sợ hãi, thiếu tin tưởng. Chỉ một thoáng bối rối hiện trên nét mặt cũng đủ để thủ chiếm được ưu thế. Tin mừng hôm nay cũng nói đến sự sợ hãi bối rối nơi các tông đồ. Có lẽ chẳng phải do tình cờ mà các thánh sử đặt phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt biển liền sau phép lạ bánh hóa nhiều. Cả hai phép lạ đều có chung một chủ đề là quyền năng của Chúa Giêsu trên thiên nhiên và trên những vật vô tri giác, và trước mỗi phép lạ các môn đệ đều bị đẩy vào tình trạng lo sợ. Thương xót đoàn dân theo Ngài. Chúa Giêsu bảo các môn đệ kiếm bánh cho họ ăn, nhưng giữa nơi hoang địa làm sao có đủ bánh cho chừng ấy người. Sau đó Ngài lại giục các ông sang bờ bên kia trước, trong khi Ngài ở lại giải tán dân, và rồi thuyền các ông gặp cơn bảo táp. Làm như thế, không phải Chúa có ý bỏ rơi các ông, nhưng chỉ muốn các ông có cơ hội củng cố niềm tin. "Chính Thầy đây, đừng sợ". Ngài vẫn ở gần và quan tâm đến các ông. Ngài cũng muốn dạy họ một lúc hai điều: con người rất yếu ớt mỏng dòn, con người cần có Chúa che chở.
Trong cuộc sống, rất nhiều khi chúng ta cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ mặc cho bão táp xô đẩy. Thật ra Ngài vẫn có đó. Ngài ban cho chúng ta lý trí tự do, ý chí và ân sủng để có thể lướt qua sóng gió cuộc đời. Có thể đến khi thuyền cập bến chúng ta mới được đối diện với Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà cho rằng Ngài vắng mặt, bởi vì Ngài thấy trước những gì sẽ xảy ra và những gì Ngài sẽ làm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho chúng con được nhìn thấy những dấu lạ Chúa vẫn thực hiện hôm nay và tin nhận Chúa là Thiên Chúa, từ đó tin nhận những gì Chúa mạc khải cho chúng con để cứu rỗi chúng con. Xin cho chúng con được luôn tín thác vào Chúa, nhất là khi gặp những nghịch cảnh thử thách. Chúa hiện diện trong Thánh Thể để đến với chúng con và trấn an chúng con “Thầy đây, đừng sợ”, xin cho chúng con biết đến với Chúa trong Thánh Thể để được nghe Chúa nói “Thầy đây, đừng sợ”.
Và lạy Chúa, giữa phong ba thử thách cuộc đời, xin cho chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện quyền năng và yêu thương của Chúa, nhờ đó chúng con an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an.Amen
http://tgpsaigon.net
____________________
Truyền Giáo
Một buổi tối nọ, viên sĩ quan trẻ tuổi người Pháp tên là Charles de Foucauld say mê kể cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm của anh ở Maroc. Người chăm chú theo dõi câu chuyện của anh nhất là cô cháu bé chưa tròn 10 tuổi. Khi anh vừa chấm dứt thì cô bé đã bất thần đặt một câu hỏi như sau: "Thưa cậu, cháu đã thấy cậu làm được nhiều việc vĩ đại... Thế cậu đã làm được gì cho Thiên Chúa chưa?"
Câu hỏi ấy như một luồng điện giật khiến anh trở thành bất động. Từ bao lâu nay, chưa có người nào đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế. "Anh đã làm gì cho Thiên Chúa chưa?". Charles de Foucauld lục soát trong lương tâm của mình để chỉ thấy một lỗ hổng không đáy. Anh đã phí phạm tất cả thời giờ của anh trong những cuộc ăn chơi trụy lạc và những danh vọng phù phiếm... Mắt anh bỗng mở ra để thấy được nỗi khốn khổ, nghèo hèn của mình.
Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một vị linh mục. Anh vào dòng khổ tu, rồi xin đến Nagiareth để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu.
Ngày nọ, giữa lúc đang đắm mình trong cầu nguyện, anh bỗng nghe từ căn nhà bên cạnh có tiếng than van rên rỉ của một người Hồi Giáo.
Charles de Foucauld nghĩ đến gương bác ái của Chúa Giêsu: anh có thể giam mình cầu nguyện một mình giữa lúc những người anh em của anh đang rên rỉ trong hấp hối, trong thất vọng sao?
Nghĩ thế, anh bèn quyết định đến sống giữa họ, trở thành bạn hữu của họ, nhất là những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn nhất trong xã hội.
Những năm cuối cùng, Charles de Foucauld sống giữa sa mạc Sahara, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống với những người dân nghèo. Charles de Foucauld đã chia sẻ với họ những giọt máu cuối cùng của anh: ngày đầu tháng 12 năm 1916, anh đã bị thảm sát giữa lúc đang cầu nguyện... Ngày nay, các tiểu đệ và tiểu muội Chúa Giêsu tiếp tục lý tưởng sống của anh: họ lao động và sống giữa những người nghèo hèn nhất trong xã hội... Tất cả cuộc sống và sự âm thầm hiện diện của họ là một cố gắng làm một cái gì cho Chúa.
Có những nhà truyền giáo rời bỏ quê hương để đi đến những nơi hoàn toàn xa lạ như Thánh Phanxicô Xaviê. Nhưng cũng có những nhà truyền giáo dâng cả cuộc đời hy sinh cầu nguyện và đau khổ của mình như Thánh Nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu. Có những nhà truyền giáo hùng hồn giao rảng như các tông đồ, nhưng cũng có những nhà truyền giáo âm thầm hiện diện và chia sẻ với những người nghèo khổ như Charles de Foucauld.
Âm thầm hiện diện. Nhưng vẫn có thể chiếu sáng niềm tin yêu hy vọng: đó là mẫu người truyền giáo mà Giáo Hội tại Việt Nam đang cần hơn bao giờ hết. Những cuộc sống tử tế, hy sinh phục vụ, quên mình... vẫn là những lời rao giảng hùng hồn hơn bao giờ hết.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
09-05-2011, 07:18 AM
09/05
Sự sống đời đời
Thứ Hai sau Chúa Nhật III Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 6,22-29
22Hôm sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền và Đức Giêsu lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông đi mà thôi. 23Tuy nhiên, có những thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. 24Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Caphácnaum tìm Người. 25Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy? " 26Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. 27Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận." 28Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" 29Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.”
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%206,22-66.jpg
Suy niệm:
Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh. (Ga 6,27)
Vì còn mang thân xác nên con người còn bám víu quá nhiều vào những thứ thỏa mãn các nhu cầu của thân xác. Thế nhưng là tín hữu, chúng ta đã biết ngoài sự sống thân xác này còn sự sống linh hồn nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở dân chúng ngày xưa cũng là nhắc nhở chúng ta ngày nay: hằng ngày chúng con thường tìm gì? Tìm những thứ thoả mãn nhu cầu thân xác hay những thứ thoả mãn nhu cầu tâm linh?
Một lời nhắc nhở khác của Chúa: chúng con thường ra công làm việc vì cái gì: vì thức ăn hay hư nát hay thức ăn tồn tại đến cuộc sống đời đời?
“Nhà đấu quyền anh J. Demsey chỉ có thể thiếp ngủ vào lúc 2 giờ sáng sau khi đoạt giải vô địch chiều trước đó. Nhưng nằm ngủ được một tiếng đồng hồ, anh ta bỗng thức giấc vì nằm mơ thấy mình bị mất chức vô địch. Rồi vì không ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại những lời tường thuật trận đấu, hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey ghi lại cảm tưởng của mình thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ tưởng trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng”(…) Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được như anh J.Demsey không? Chúng ta dồn tất cả tài năng, sức lực cho một danh vọng, một địa vị nào đó. Nhưng cuối cùng chỉ thấy trống rỗng, vô nghiã; bởi vì nó không giúp ta đạt tới hạnh phúc đích thực. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên tiếng cảnh tỉnh: “Đừng mải mê chạy theo những gì không đem lại hạnh phúc đích thực”.
“Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”. Tôi đến nhà thờ mỗi tuần hầu như chỉ vì thói quen, vì khoe khoang quần áo hay chỉ vì tỏ ra mình là người đạo đức. Tôi đến với Chúa hầu như để giảm bớt cơn sầu hay xin xỏ điều này điều nọ. Mặt khác tôi sống và làm việc, học tập chẳng qua chỉ vì muốn tìm cho mình một việc làm có lương bổng cao, một địa vị kha khá để mọi người phải kiêng nể.
Tôi nào biết mình đã nhắm sai mục đích. Mục đích trọng yếu là: “Sự sống đời đời”. Điều mà tôi chỉ thoáng nghĩ đến như một ý niệm mơ hồ.
Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh. (Ga 6,27)
Vì còn mang thân xác nên con người còn bám víu quá nhiều vào những thứ thỏa mãn các nhu cầu của thân xác. Thế nhưng là tín hữu, chúng ta đã biết ngoài sự sống thân xác này còn sự sống linh hồn nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở dân chúng ngày xưa cũng là nhắc nhở chúng ta ngày nay: hằng ngày chúng con thường tìm gì? Tìm những thứ thoả mãn nhu cầu thân xác hay những thứ thoả mãn nhu cầu tâm linh?
Một lời nhắc nhở khác của Chúa: chúng con thường ra công làm việc vì cái gì: vì thức ăn hay hư nát hay thức ăn tồn tại đến cuộc sống đời đời?
“Nhà đấu quyền anh J. Demsey chỉ có thể thiếp ngủ vào lúc 2 giờ sáng sau khi đoạt giải vô địch chiều trước đó. Nhưng nằm ngủ được một tiếng đồng hồ, anh ta bỗng thức giấc vì nằm mơ thấy mình bị mất chức vô địch. Rồi vì không ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại những lời tường thuật trận đấu, hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey ghi lại cảm tưởng của mình thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ tưởng trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng”(…) Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được như anh J.Demsey không? Chúng ta dồn tất cả tài năng, sức lực cho một danh vọng, một địa vị nào đó. Nhưng cuối cùng chỉ thấy trống rỗng, vô nghiã; bởi vì nó không giúp ta đạt tới hạnh phúc đích thực. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên tiếng cảnh tỉnh: “Đừng mải mê chạy theo những gì không đem lại hạnh phúc đích thực”.
“Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”. Tôi đến nhà thờ mỗi tuần hầu như chỉ vì thói quen, vì khoe khoang quần áo hay chỉ vì tỏ ra mình là người đạo đức. Tôi đến với Chúa hầu như để giảm bớt cơn sầu hay xin xỏ điều này điều nọ. Mặt khác tôi sống và làm việc, học tập chẳng qua chỉ vì muốn tìm cho mình một việc làm có lương bổng cao, một địa vị kha khá để mọi người phải kiêng nể.
Tôi nào biết mình đã nhắm sai mục đích. Mục đích trọng yếu là: “Sự sống đời đời”. Điều mà tôi chỉ thoáng nghĩ đến như một ý niệm mơ hồ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Năm xưa trên hành trình về đất hứa, Chúa đã nuôi dân riêng bằng bánh Manna từ trời. Ngày nay trên hành trình tiến về quê trời, Chúa nuôi dưỡng chúng con bằng bánh trường sinh, là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng con xin tri ân cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa, Chúa là tất cả cuộc đời chúng con. Chúa là gia nghiệp, là thành luỹ , là hạnh phúc của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự, biết gắn bó với Chúa trên hết mọi sự. Xin giúp chúng con đừng vì những của ăn hư nát đời này mà đánh mất sự sống đời đời mai sau. Xin giúp chúng con biết thắng vượt những đam mê tật xấu để chúng con biết sống thanh cao, trong sạch và cao thượng. Xin cho chúng con biết tích góp của cải không bao giờ hư nát là gia tài trên trời bằng những việc lành phúc đức, những hành vi bác ái yêu thương. Xin đừng để chúng con ngụp lặn trong đam mê tội lỗi mà đánh mất hướng đi về trời.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã nói “ai ăn bánh này sẽ có sự sống đời đời”. Xin cho chúng con mỗi lần rước Chúa là một lần chúng con được lớn lên trong ân sủng và tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con biết siêng năng rước Chúa mỗi ngày để mai sau chúng con được chiêm ngưỡng dung nhan đích thực của Chúa trên quê trời. Amen
http://tgpsaigon.net
_____________________________
Thánh Catarina ở Bôlônha
(1413 - 1463)
http://www.thanhlinh.net/cacthanh/stcatherinebologna.jpg
Một số các thánh dòng Phanxicô có đời sống nổi nang, nhưng Thánh Catarina lại đại diện cho các thánh phục vụ Thiên Chúa trong âm thầm.
Catarina, sinh ở Bologna, và năm mười một tuổi được chọn làm nữ tì cho cô con gái vị hầu tước ở Ferrara và nhờ đó cũng được ăn học tử tế. Khi người con gái này đi lấy chồng, cô cũng muốn Catarina đi theo hầu, nhưng Catarina đã từ giã triều đình và gia nhập dòng Ba Phanxicô khi mười bốn tuổi.
Catarina quyết định theo đuổi một đời sống tuyệt hảo, và sự thánh thiện của ngài được mọi người khâm phục. Sau đó, cộng đoàn của ngài trở nên một phần của Dòng Thánh Clara và ngài phục vụ với công việc làm bếp và giữ cửa. Trong một thời gian ngài thường được thị kiến Ðức Kitô cũng như Satan. Một trong những thị kiến xảy ra vào dịp Giáng Sinh, ngài được thấy Ðức Trinh Nữ Maria bế Hài Nhi Giêsu. Ngài viết lại các cảm nghiệm này trong cuốn "Manifestations" (Những Sự Khải Hiện) bằng tiếng Latinh. Ngài còn sáng tác các thánh vịnh, thánh ca và có hoa tay về viết chữ đẹp và hội họa.
Nhờ sự vận động của ngài với Ðức Giáo Hoàng Nicôla V, tu viện Dòng Thánh Clara ở Ferrara được thành lập và Sơ Catarina được chỉ định làm Bề Trên. Tiếng tăm về sự thánh thiện và đời sống khắc khổ của Cộng Ðoàn ngày càng lan rộng. Sau đó Sơ Catarina được chỉ định làm Bề Trên một tu viện mới ở Bologna.
Vào mùa Chay 1463, Sơ Catarina lâm bệnh nặng và từ trần ngày 9 tháng Ba, ngài được chôn cất mà không có quan tài. Nhưng mười tám ngày sau đó, thi thể của ngài được khai quật vì có những việc chữa lành nhờ lời cầu bầu của ngài và vì mùi thơm bốc lên từ ngôi mộ. Người ta tìm thấy thi thể của ngài không bị rữa nát và vẫn nguyên vẹn cho đến ngày nay, hiện được cất giữ ở nguyện đường tu viện Thánh Clara ở Bologna. Ngài được phong thánh năm 1712.
Lời Bàn
Mặc dù có cơ hội để sống một cuộc đời sung sướng trong triều đình, Thánh Catarina đã hăng hái đáp lời mời gọi của Thiên Chúa mà gia nhập đời sống tu trì. Sự thánh thiện, lòng bác ái của ngài đã thu hút nhiều người trên con đường trọn lành. Noi gương đời sống và cái chết thánh thiện của ngài, chúng ta hãy quyết tâm sống bác ái như một cùng đích của cuộc đời.
Lời Trích
Thánh Catarina viết về bảy vũ khí tinh thần để chống lại các cám dỗ: "Ðức Giêsu Kitô đã hy sinh tính mạng để chúng ta được sống. Do đó, bất cứ ai muốn vác thập giá của mình vì Ðức Kitô phải có những vũ khí thích hợp cho cuộc chiến đấu này, nhất là những vũ khí sau đây. Thứ nhất, sự chuyên cần; thứ hai, đừng cậy vào sức mình; thứ ba, tín thác vào Chúa; thứ bốn, hãy nhớ đến sự Thương Khó Ðức Kitô; thứ năm, hãy nhớ đến cái chết của mình; thứ sáu, hãy nhớ đến sự vinh hiển của Thiên Chúa; thứ bảy, theo các huấn thị của Kinh Thánh mà noi gương Ðức Giêsu Kitô trong thời gian ở sa mạc" (Về Bảy Vũ Khí Tâm Linh).
Trích từ NguoiTinHuu.com
__________________________________
Hòn Ðá Ném Ði
Văn hào Nga Leon Tonstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Ðến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi".
Ði đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sacmối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: "Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta".
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất mà Kitô Giáo đã cống hiến cho con người.
Trao ban tiền của, trao ban thì giờ, trao ban chính mạng sống mình là điều xem ra dễ làm hơn trao ban lòng tha thứ. Tha thứ là tuyệt đỉnh của yêu thương bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù của mình. Của lễ hy sinh trên thập giá củaChúa Giêsu đã nên trọn khi Ngài thưa với Chúa Cha: "Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng lầm không biết việc chúng làm".
Tha thứ là của lễ đẹp lòng Chúa nhất, bởi vì qua đó, con người được nên giống Thiên Chúa hơn cả. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta là Thiên Chúa tha thứ và tha thứ không ngừng. Và chỉ có một Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy mới có thể đòi hỏi con người phải tha thứ không ngừng...
Tha thứ là nét cao đẹp nhất của lòng người, bởi vì càng tha thứ, con người càng nên giống Thiên Chúa.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
10-05-2011, 07:41 AM
10/05
Bánh đem lại sự sống
Thứ Ba sau Chúa Nhật III Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 6,30-35
30Họ lại hỏi: "Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? 31Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời." 32Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, 33vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian." 34Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy." 35Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Thanh%20the%201.jpg
Suy niệm:
Thái độ dân Do Thái rất đáng ta suy nghĩ: nhớ tới manna ngày xưa, họ chỉ nghĩ rằng đó là thứ bánh vật chất nhưng ngon hơn thứ bánh ngày thường, cho nên họ cầu xin với Chúa Giêsu cho họ thứ lương thực vật chất đó để giúp họ no lâu hơn. Nhiều khi chúng ta đến với Chúa cũng chỉ để xin những nhu cầu thoả mãn cho cuộc sống vật chất như thế.
Những hình ảnh trong Tin Mừng Gioan luôn mang hai ý nghĩa: nghe tới “đói” phần xác thịt thì phải nghĩ tới cơn đói tinh thần, thấy thức ăn vật chất thì hãy nghĩ tới thức ăn tinh thần. Ước gì tôi cũng biết nghĩ như thánh Gioan khi cảm thấy đói, khát, mệt mỏi, đau yếu, bệnh tật…
Mỗi khi ăn, ta làm điều mà không nhà khoa học nào có thể làm: ta đưa vào trong mình một vật chất để giúp ta có sự sống. Thức ăn trở nên thành phần của cơ thể ta. Nhiều khi sức khỏe của ta lệ thuộc vào thức ăn. Một câu tục ngữ xưa nói: “Bạn là những gì bạn đã ăn”. Thức ăn giàu chất dinh dưỡng: bạn mập; ăn vặt: bạn suy dinh dưỡng. Cho một bệnh nhân bị ghẻ ăn thức ăn thích hợp, da của anh sẽ sạch. Khi có sự nghiệp ta thường dùng thức ăn ngon. Biết thế nên Chúa Giêsu quyết định biến bánh thành Thịt Máu Ngài và trở nên lương thực cho linh hồn của những kẻ theo Ngài.
Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh, ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”. Đôi khi nhóm bạn chúng tôi cảm thấy chán nản vì cuộc sống tẻ nhạt, nhịp điệu đời sống cứ đều đều quay vòng: Học, ăn, ngủ, lo cho túi tiền có đủ xài đến cuối tháng…Sinh viên xa nhà thiếu thốn đủ thứ, thiếu vật chất, thiếu tinh thần, thèm xem phim, đói truyện báo, khát những buổi ca nhạc…tai hại hơn, những bạn là Kitô hữu phần lớn là đói Tin Mừng, khát Lời Chúa vì những lý do không tên, để rồi đức tin mờ nhạt mà không hay biết.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Tình yêu của Chúa thật bao la rộng lớn. Tấm lòng của Chúa luôn hết lòng yêu thương chúng con. Chúa đã lập bí tích Thánh Thể để trở nên nguồn sống cho linh hồn chúng con. Chúng con xin tri ân tình yêu quá cao vời mà Chúa đã dành cho chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ thờ ơ với tình yêu ban tặng nhưng không của Chúa, nhưng biết siêng năng đón nhận qua thánh lễ mỗi ngày.
Lạy Chúa, giữa cuộc đời đầy cám dỗ. Có biết bao cám dỗ mời mọc chúng con xa Chúa. Có biết bao cám dỗ lôi kéo chúng con đi sai đường lối và những huấn lệnh của Chúa. Có biết bao cám dỗ ngọt ngào, khiến nhiều phen chúng con đã để lòng mình chiều theo những tư tương xấu xa, những tham lam ích kỷ, những đam mê thấp hèn. Xin tha thứ những yếu đuối của lòng trí chúng con. Xin giúp chúng con vượt thắng những cám dỗ bằng việc luôn hướng về trời cao. Nơi đó không còn đau khổ bởi những tham sân si lòng người. Nơi đó có hạnh phúc tròn đầy bên Chúa. Xin giúp chúng con đừng để lòng mình chìm đắm trong những đói khát vật chất thế gian, nhưng biết khát khao say mê Thánh Thể Chúa là thần lương ban tặng cho chúng con sự sống vĩnh hằng.
Lạy Chúa, xin Chúa ở lại với chúng con để canh tân đổi mới cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con chỉ biết ao ước tìm kiếm và thực thi ý Chúa trong cuộc đời. Xin giúp chúng con thanh luyện trí lòng khỏi những tư tưởng xấu và giữ gìn sự thanh sạch tâm hồn, ngõ hầu luôn xứng đáng là đền thề cho Chúa ngự trị. Amen
http://tgpsaigon.net
_____________________
Bàn Tay Phải Của Chúa Giêsu
Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa... Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này tthường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.
Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu, người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa như sau: "Ðây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông".
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: "Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa".
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì ông bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy như sau: "Chính ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi".
Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ...
Kinh Thánh thuật lại rằng trong cuộc hành trình tiến về đất hứa, khi đi qua giữa sa mạc, dân Israel đã bị rắn cắn. Môi sen đã sai đúc một con rắn đồng và treo lên một ngọn cây để tất cả những ai bị rắn cắn, nhìn vào con rắn đồng ấy đều được chữa lành...
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Ngài.
Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi.
Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa.
Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm mến được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn...
Nhìn lên thập giá Chúa để cảm mến được ơn tha thứ của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta còn được mời để gọi tha thứ nhiều hơn. Còn tha thứ nhiều hơn, chúng ta còn dễ cảm mến được ơn tha thứ của Chúa...
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
11-05-2011, 01:16 PM
11/05
Ngài là Cứu Chúa của đời tôi
Thứ Tư sau Chúa Nhật III Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 6,35-40
35Đức Giê-su bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! 36Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin. 37Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, 38vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. 39Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%206,%2035-40.jpg
Suy niệm:
Đức tin vào Chúa Giêsu phải thể hiện vào việc đến với Ngài. Một ngày tôi dành bao nhiêu thời gian để đến với Chúa. Chúng ta đến với Chúa bằng nhiều cách: tưởng nhớ, cầu nguyện, suy gẫm, và nhất là tham dự Thánh lễ. Hãy xem xét mình xem khi chúng ta làm những việc trên, lòng chúng ta có thực sự đến với Chúa không? Khi tâm hồn tôi cảm thấy đói khát, tôi đã đến với ai, với cái gì? Có đến với Chúa không?
Buổi sáng bà già ra ngoài. Buổi chiều bà trở về, bà không tìm thấy chìa khóa. Biết làm thế nào ? Bà chạy sang hàng xóm, mượn chìa khóa của họ mở thử, chẳng có cái nào hơp. Cuối cùng một người góp ý: cứ mở then cài ra xem sao! Bà mở then và cánh cửa mở toang: Khi ra đi bà không khóa cửa. Câu chuyện trên mô tả phần nào thái độ của chúng ta trước Chúa. Ta đứng ngoài lòng đầy băn khoăn lo sợ. Ta nghĩ phải làm việc này việc nọ mới đáng đến với Chúa. Trong khi đó, cánh cửa nhà Chúa luôn mở rộng và ưu ái đón ta vào .
“Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai”.
“…Đức Giêsu và Hội thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh…Rồi chẳng biết từ đâu, Triết đông và Phật giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng sao có sức giật tung những gì mòn mỏi. Tôi nằng nặc đòi nhà dòng cho ra độc cư trên núi, sống với nắng, gió, mưa, đói, khát, và sợ hãi nữa. Nhưng mỗi lần tôi nhất tâm thất niệm thì vấn đề Đức Giêsu lại vang lên, đeo bám mãi…Một năm, hết phép, thân tàn ma dại, tôi thua cuộc mò về nhà Dòng tay trắng! Nhưng Giêsu cứ đeo bám tôi mãi; đang trong một năm nổi loạn, thất bại và hư hỏng cùng cực đó, tôi được gọi làm …Linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi thù lù trong nhà nguyện như sự đay nghiến, một sự nức nở bắt đền…Một đêm trước khi làm Linh mục vài hôm, tôi thử tiến lên đứng sát nhà Chầu. Có cái gì hơn là cảm giác, hơn là sự rung động, mà là sự phủ chụp lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay giây phút đó, tôi hiểu rằng cho dù có là hòn đá hòn sỏi, dù tôi đã lấm bùn bê bết, dù tôi đã thân tàn ma dại, dù tôi đã hỏng hết cả cuộc đời, thì Đức Giêsu vẫn gọi và chọn tôi, làm tâm hồn tôi bừng sáng huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa của đời tôi…”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa là bánh bởi trời được ban xuống trần gian để lôi kéo con người về với Chúa Cha. Xin nhờ Mình và Máu Thánh Chúa Phục sinh đã chiến thắng sự chết đang hiện diện trong tâm hồn chúng con cũng biến đổi chúng con thành bất tử như Chúa. Xin giúp chúng con đón rước Chúa trong niềm tri ân cảm tạ, và biết sống kết hợp trọn vẹn với Chúa như cành liền cây, để mai sau chúng con cũng được sống lại vinh hiển với Chúa.
Lạy Chúa, ở đời ai cũng muốn cho mình được lưu danh hậu thế. Vì “không công danh thời nát với cỏ cây”. Ai cũng muốn được trường sinh bất tử. Chúng con thật hạnh phúc vì có thuốc trường sinh bất tử là chính Mình Thánh Chúa. Vì Chúa đã hứa “ai ăn bánh này thì sẽ không bao giờ phải chết, và Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết”. Xin cho chúng con luôn dành thời giờ đến với Chúa qua việc siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày. Xin giúp chúng con biết sống bất tử theo bước chân mà Chúa đã đi qua. Bước chân của yêu thương. Bước chân của bác ái vị tha. Bước chân của dâng hiến mạng sống cho anh em được sống và sống dồi dào. Vì mỗi nghĩa cử yêu thương là chúng con đang làm cho mình trở nên bất tử trước mặt mọi người và trước mặt Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn giàu lòng quảng đại như Chúa đã từng quảng đại với chúng con. Xin cho thế giới chúng con có nhiều người biết cho đi để tấm bánh sự sống trường sinh được đến với mọi người. Xin cho chúng con cũng trở nên dấu chỉ cho tình yêu của Chúa giữa thế giới khô cạn tình người hôm nay. Amen
http://tgpsaigon.net
__________________________
Cơn Thịnh Nộ Của Các Thánh
Trong tác phẩm có tựa đề "Quyển Phúc Âm thứ 5", tác giả người Ý là ông Pomilio có tưởng tượng một câu chuyện như sau: Ngày kia, các thánh trên Thiên Ðàng không còn chịu đựng nổi những xúc phạm của con người đối với Thiên Chúa nữa, cho nên Ngài mới họp công nghị để tìm cách chặn đứng tội lỗi của nhân loại...
Sau không biết bao nhiêu buổi họp, cuối cùng các thánh mới đồng thanh biểu quyết rằng việc Con Thiên Chúa chịu chết trên thập giá vẫn chưa đủ để cứu rỗi con người. Do đó, cần phải dùng đến sức mạnh may ra mới trừng trị và thuyết phục được loài người.
Các Ngài họp lại thành một đạo binh hùng mạnh và xâm nhập vào trái đất. Chỉ trong nháy mắt, đạo binh các thánh đã chinh phục được thế giới. Các Ngài giao việc cai trị trái đất cho một số người công chính còn sót lại giữa loài người. Còn tất cả những kẻ gian ác, tội lỗi, các ngài tập trung lại trong một thung lũng lớn. Tại đây, các ngài dựng lên những dàn hỏa thiêu vĩ đại để tiêu diệt tất cả những người tội lỗi. Các ngài tin chắc rằng sau cuộc thanh lọc này, dòng giống con người trên mặt đất sẽ chỉ có những người công chính...
Khi mọi sự đã sẵn sàng để tiến hành cuộc tiêu diệt, thì giữa đám người tội lỗi, các thánh bỗng thấy một người đang vác thập giá. Hắn đang ra hiệu cho những người khác đến giúp dỡ hắn... Nhìn thấy cảnh tượng ấy, các thánh càng bực tức hơn nữa. Tại sao một người tội lỗi lại bị xử theo hình phạt chỉ được dành riêng cho Con Thiên Chúa mà thôi? Nghĩ như thế, cho nên các thánh mới triệu kẻ vác thập giá đến, trói chân tay hắn lại và giải đến trước mặt thánh Phêrô để xét xử.
Vừa thoáng nhìn qua kẻ vác thập giá, vị thủ lãnh các tông đồ đã nhận ra ngay Thầy mình. Các thánh ngỡ ngàng không ít, khi được thánh Phêrô tiết lộ rằng Con Thiên Chúa đang lẫn lộn giữa những người tội lỗi. Các ngài mới nhớ lại lời của Ngài: "Con Người không đến để cứu thoát những người công chính mà chính là những người tội lỗi". Chúa Giêsu cũng nói các thánh rằng Ngài đã quyết định chết một lần nữa cho các tội nhân, bởi vì trên trần gian, không có một người nào có thể cứu thoát kẻ có tội khỏi cơn thịnh nộ của các thánh.
Chúng ta dễ rơi vào hai thái cức trái nghịch nhau: thái độ của những người biệt phái và thái độ của Giuda, kẻ bán nộp Chúa.
Thái độ của những người biệt phái được Chúa Giêsu phác họa qua hình ảnh của một người tự cao tự đạo vào Ðền Thờ cầu nguyện. Người này kể ra bao nhiêu công trạng của mình và nhìn một cách khinh bỉ về người thu thuế đang nép mình ở phía cuối Ðền Thờ. Thái độ ấy tiêu biểu ấy cho chính cái nhìn mà đôi khi chúng ta cũng có đối với người khác. Chúng ta hãnh diện về đời sống đạo đức của chúng ta và kết án những yếu hèn, thiếu sót của những người xung quanh...
Ðối nghịch với thái độ kiêu ngạo của người biệt phái là thái độ thất vọng của Giuda. Sau khi đã bán nộp Chúa, Giuda mới nhận ra lỗi lầm của mình. Ông không còn tin tưởng ở lòng Nhân Từ của một Thiên Chúa có thể tha thứ tất cả tội lỗi của ông và có thể mang lại cho cơ may để sống tốt đẹp hơn.
Tựu trung, cả hai thái độ đều có chung một mẫu số: đó là đóng khung trong chính bản thân để khước từ mọi ân sủng của Chúa.
Qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đặt tất cả tin tưởng, phó thác vào Tình yêu của Thiên Chúa. Dù tội lỗi chúng ta có ngập tràn, Tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn có sức xóa sạch tất cả. Tình yêu của Ngài mạnh hơn cả hỏa ngục và sự chết... Qua cách cư xử của Chúa Giêsu với tội nhân, chúng ta cũng được mời gọi để nên trọn lành như Cha chúng ta trên Trời, đó là luôn biết tha thứ và cảm thông đối với những bất toàn, yếu đuối và tội lỗi của con người...
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
12-05-2011, 07:25 AM
12/05
Tin thì được...
Thứ Năm sau Chúa Nhật III Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 6,44-51
44Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. 45Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. 46Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. 47Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. 48Tôi là bánh trường sinh. 49Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. 50Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. 51Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/20080714_112538_Orange%20Candle,%20Bible%20and%20Rose%202%20034_view.jpg
Suy niệm:
Đọc đoạn tin mừng hôm trước chúng ta đã hiểu được ích lợi của việc đến với Chúa “Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”. Nhưng xét lại mình, chúng ta thấy mình ít đến với Chúa. Ít đến vì một việc xem ra đơn giản như thế lại quá khó đối với bản tính của chúng ta. Hôm nay Chúa Giêsu dạy thêm: muốn đến với Ngài thì hãy để cho tình thương của Chúa lôi kéo và hãy nhớ giáo huấn của Ngài trong lịch sử là Ngài rất yêu thương loài người. Đừng lì lợm với tình thương ấy, đừng kháng cự với tình thương ấy.
Một buổi chiều rảnh rỗi, văn hào Paul Claudel thong thả dạo bước nhàn du. Khi đi ngang một nhà thờ, tiếng thánh ca từ đó vọng ra đã lôi kéo bước chân ông đi vào nhà thờ. Ở đó ông đã gặp Thiên Chúa, gặp niềm tin. Đó là một cách lôi kéo của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng dùng biết bao cách khác để lôi kéo chúng ta. Chỉ cần ta đừng cố chấp nhưng ngoan ngoãn bước theo, thì ta sẽ đến được với Ngài. Hãy nhớ lại xem đã bao nhiêu lần và những lần đó thế nào, tôi đã lỡ mất đã không ngoan ngoãn bước theo sự lôi kéo của Thiên Chúa.
Người câm không nói được nhưng có cách làm khác để cho người khác hiểu được họ, đó là dùng dấu hiệu bằng tay, bằng nét mặt, có khi cả bằng thân thể. Tuy nhiên, muốn hiểu được người câm thì ta phải chú ý từng động tác nhỏ của họ. Rất nhiều khi Thiên Chúa nói với ta bằng ngôn ngữ của người câm. Ta cần chú ý lắm mới hiểu được ý của Thiên Chúa.
Việc tin vào Chúa Giêsu và đến với Ngài là điều Thiên Chúa yêu thương và luôn tạo điều kiện để con người thực hiện được dễ dàng. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể,
Chúng con tin nhận Thánh Thể Chúa là bánh trường sinh. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Xin Chúa thương ngự đến tâm hồn chúng con. Xin ban cho chúng con sự sống của Chúa để chúng con có được sự sống trường sinh nơi con người chúng con.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Chúa đã hứa rằng: “ai tin vào Ta sẽ không chết bao giờ”. Xin ban cho chúng con có một đức tin đủ để chúng con biết phó dâng cuộc đời trong tay Chúa. Xin ban cho chúng con một đức tin nồng nàn để chúng con luôn yêu mến và thi hành thánh ý Chúa. Xin ban cho chúng con một đức tin sắt son để chúng trung thành sống theo giáo huấn của Chúa.
Lạy Chúa là Đấng mà ai gặp gỡ cũng được đổi mới. Từ Giakêu vun quén của cải đã trở thành người dám ban phát cho đi. Từ cô gái tội lỗi đã trở thành thánh nữ Madalena. Từ một người thuyền chài ít học lại trở thành người dẫn dắt con thuyền giáo hội ngay từ lúc sơ khai. Từ một kẻ từng bắt bớ Chúa lại trở thành một tông đồ Phaolô nhiệt thành. Tất cả đều nhờ tin vào Chúa mà được đổi mới cuộc đời. Xin cho chúng con cũng được đổi mới cuộc đời mỗi khi được rước Chúa vào lòng. Xin giúp chúng con biết đứng dậy làm lại cuộc đời sau mỗi lần vấp ngã. Xin giúp chúng con biết hoàn thiện mình một ngày nên thánh thiện như Chúa là Đấng Thánh vô cùng. Amen
http://tgpsaigon.net
_____________________
Danh Dự Cho Ai
Văn sĩ Pháp Alexandre Piron qua đời năm 1773, thường có thói quen đi dạo trong khu rừng Boulogne giữa thủ đô Paris. Một ngày nọ, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá tựa vào một bức tường.
Chỉ một lát sau, ông ngạc nhiên vô cùng, vì trong đám đông những người đang đi dạo trong khu rừng, một vài người đến gần ông, ngả nón chào. Cũng có một vài người bái cả gối nữa. Nhà văn mỉm cười đáp lễ cảm tình mà khách qua lại dành cho ông. Ông không ngờ rằng ông được nhiều người mến mộ đến như thế. Ông mong sao một số bạn bè trong văn giới chứng kiến được cảnh tượng này để thấy được vinh quang mà ông đã đạt được...
Nhà văn đang say với bã vinh hoa thì chợt trong đám người đang bái chào ông, một lão bà để lộ một thái độ khác thường. Cũng giống như mọi người khác, bà lão cúi chào, rồi tiến đến gần ghế đá. Bà thì thầm nói trong miệng mà nhà văn không hiểu được, rồi ngước mắt nhìn lên cao. Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà lão, nhà văn cũng đưa mắt nhìn lên cao phía trên tường. Lúc bấy giờ ông mới khám phá ra rằng trên đầu ông có một tượng thánh giá... Thì ra, những người đi dạo trong khu rừng Boulogne này dừng lại không phải để tỏ lòng mộ mến đối với ông, mà chính là tỏ lòng cung kính đối với Chúa Giêsu trên thập giá.
Hổ thẹn vì sự khám phá ấy, Alexandre Piron đứng dậy bỏ đi nơi khác.
Sở dĩ Chúa Giêsu đã có thái độ gay gắt đối với những người biệt phái giả hình, là bởi vì họ muốn chiếm đoạt chính Vinh dự của Thiên Chúa. Họ cũng giống như văn sĩ Alexandre Piron trong câu chuyện trên đây: người ta đến bái chào Chúa Giêsu trên thập giá, nhưng ông lại muốn dành cho mình vinh dự ấy. Những người biệt phái giả hình cũng giống như con lừa mà Chúa Giêsu dùng để cưỡi vào thành Giêrusalem. Giữa những tiếng reo hò dân chúng dành cho Chúa Giêsu, con lừa cứ nghĩ rằng nó là một anh hùng oai phong lẫm liệt...
Khao khát danh vọng, quyền bính là đam mê chung của mọi người. Ai cũng thích xuất hiện trước công chúng, ai cũng thích được người đời ca tụng, ai cũng thích được phục vụ. Một cách nào đó, người tham vọng không những dùng người khác như bàn đạp, mà còn tước đoạt chính Vinh quang của Chúa...
Chúa Giêsu là con người đã sống trọn vẹn cho tha nhân và do đó cũng quy mọi vinh dự về cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng: là Thiên Chúa, Ngài đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hủy bỏ mình đi để mặc lấy thân phận con người và vâng phục cho đến chết.
Chúa Giêsu đã vạch cho chúng ta con đường được sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là sống cho Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người sống cho Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, con người mới đạt được chính cùng đích của mình. Sống cho Thiên Chúa là luôn tìm thấy Thánh ý của Ngài, là hoạt động cho vinh quang của Ngài, là trở thành khí cụ trong bàn tay của Ngài...
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
13-05-2011, 08:34 AM
13/05
Để cho thế gian được sống
Thứ Sáu sau Chúa Nhật III Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 6,52-59
52Người Dothái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được? " 53Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. 54Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 56Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 58Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời." 59Đó là những điều Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Caphácnaum.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/MinhMauThanh.jpg
Suy niệm:
Khi trao ban chính Mình, Chúa Giêsu Kitô trao ban cho chúng ta chính sự bình an. Hoà bình của Chúa không phải là hoà bình của thế gian, nhưng hoà bình của Chúa Kitô là kết quả sự vượt qua của Ngài, nghĩa là kết quả của hy tế trong cuộc vượt qua của Ngài.
Bánh mà Ta ban cho là Thịt Ta để cho thế gian được sống. Đoạn Phúc âm chúng ta vừa nghe, những lời này của Chúa Giêsu làm cho chúng ta hiểu thế nào là nguồn mạch của hòa bình đích thật. Chúa Kitô là hoà bình của chúng ta, là Bánh được trao ban cho thế gian được sống. Đó là Bánh mà Thiên Chúa Cha đã chuẩn bị, ngõ hầu để nhân loại được sống và sống dồi dào “Thiên Chúa đã không tha con Một Ngài, nhưng đã trao ban Con Một Ngài”(Ga 3, 16), để cứu rỗi tất cả. Như là Bánh nuôi sống tất cả. Ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng thật rõ ràng. Để được sống thì không chỉ tin Chúa mà thôi, còn cần phải sống như Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Vì vậy mà ngôi Lời đã Nhập Thể chết và sống lại”. Người đã ban cho ta Thánh Thần của Ngài? nhờ vậy mà chúng ta biết Thánh Thể, ngõ hầu chúng ta có thể sống nhờ Ngài, như Ngài sống nhờ Chúa Cha (Ga 6,5b). Bí tích Thánh Thể là bí tích của hồng ân mà chính Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta, là bí tích của tình thương và hoà bình, là sức sống sung mãn. Bánh Hằng Sống, Bánh ban sức sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, bước theo Chúa chúng con dấn thân chống lại bạo lực của con người trên con người mà không dùng đến bạo lực. Chúng con cần có sức mạnh của tình thương Chúa, chúng con cần lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa để được sống sự sống của Chúa, để được sức mạnh của Chúa, sức mạnh của tình thương chiến thắng trên bạo lực.
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, nhờ Bí tích Thánh Thể chúng con được lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chúng con lãnh nhận sự sống của Chúa trong mình chúng con. Xin cho chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen
http://tgpsaigon.net
____________________
Vị Nữ Lưu Toàn Ánh Sáng
Ngày Chúa Nhật có nắng rực rỡ, 13 tháng 05 1917, được tiền định là ngày đáng ghi nhớ từ đây về sau trong lịch sử Giáo Hội Portugal (Bồ-đào-nha).
Cầu nguyện kinh Mân Côi xong, Lúcia và hai bé em họ, Jacinta và Francisco, dẫn đàn cừu đi ngược lên sườn đồi phía bắc Cova da Iria, nơi có đồng cỏ thuộc sở hữu của cha cô bé Lúcia. Khi đàn cừu lặng lẽ gặm cỏ trên đỉnh đồi, các bé đồng loạt nghĩ đến chơi đùa. Tính rất thích những môn tranh đua của Jacinta thúc đẩy bé nói trước nhất:
“Hôm nay chúng ta chơi trò chơi gì đây?”
Lúcia đề nghị: “Trò giả trang.”
“Không,” Jacinta mau mắn trả lời, giọng quyết liệt.
Francisco dò ý: “Vậy chúng ta chơi trò làm đầu đuôi thú đi.”
Jacinta lại phản đối: “Không, cũng không chơi trò đó. Chúng ta đắp bức tường quanh bụi cây đàng kia kìa. Chị Lúcia và em đi kiếm đá, còn anh xây tường.”
Francisco thấy thích thú nên đồng ý ngay. Lúcia cũng đồng ý vì vốn biết từ lâu là vô ích mà còn nguy hiểm nữa nếu chống đối môn chơi cô em họ đã chọn. Chẳng mấy chốc, một bức tường nhỏ lên cao dần quanh bụi cây. Trong khi hăng say làm việc, các bé đâu có biết mười một năm sau, cũng ngày này, ba trăm ngàn người sẽ tụ họp tại Cova da Iria theo dõi vị Đại Diện Giáo Hội Công Giáo, tại chính nơi các bé đang đắp tường hôm nay, làm phép viên đá góc tường của một trong những thánh đường đồ sộ nguy nga nhất Portugal (Bồ-đào-nha).
Thình lình, ánh sáng lóe lên, làm sáng rực khu đồi, khiến các bé ngưng làm việc và nhìn nhau như hỏi.
Francisco hỏi: “Gì thế, chị Lúcia?”
Lúcia đáp: “Chắc đó là chớp. Nhưng kỳ lạ, trên trời không một bóng mây. Dẫu vậy, hẳn có trận bão phía xa, chúng ta nên gom cừu lại và đi về.”
Vốn từng nghe theo lời khuyên và hướng dẫn của cô chị họ hơn tuổi, Jacinta và Fancisco lập tức gom cừu lại. Chẳng mấy lúc, bầy cừu được dẫn đi theo hướng tây nam trên đường về Aljustrel.
Đi khoảng nửa đường xuống hướng tây bắc sườn đồi Cova và gần cây sồi lớn (ngày nay vẫn còn xanh tươi), một làn ánh sáng nữa chớp lên, sáng hơn lần đầu, rực sáng cả bầu trời và khắp vùng quê lân cận, làm lóa mắt ba bé mục tử. Tim các bé bắt đầu đập mạnh, ngực phải rướn lên cao, các bé lùa cừu đi mau hơn.
Khi các bé, từ phía bên trái, đi tới gần khu đất phẳng rộng, bất chợt các bé phải dừng hẳn lại, vì cách các bé chừng hai mươi ba mètres, các bé thấy từ cây sồi phát ra làn ánh sáng hết sức chói chang khiến các bé hầu như bị mù. Được thúc đẩy đồng loạt từ thâm tâm, các bé ngẩng đầu lên nhìn thẳng trước mặt. Trái tim ngây thơ của các bé như ngưng đập vì cảnh hiện ra trước mắt.
Một vị Nữ Lưu xin đẹp đứng trên đỉnh những nhánh lá cao nhất của cây sồi, cây sồi này cao khoảng hơn một mètres, cách trước mặt các bé chừng một mètre. Vị Nữ Lưu là trung tâm bầu ánh sáng rực rỡ, làn ánh sáng từ Vị Nữ Lưu tỏa ta bao bọc cả ba bé.
Biết các bé sợ trận bão và muốn đi về nhà mau, Vị Nữ Lưu lên tiếng trấn an và giữ các bé lại, vì Người đến với một thông điệp quan trọng sinh tử.
Vị Nữ Lưu nói: “Các con đừng sợ. Ta không làm hại các con đâu.”
Được trấn an do âm thanh từ mẫu của Vị Nữ Lưu và dáng điệu hiền từ cũng như lời nói của Người, các bé im lặng ngây ngất chiêm ngưỡng và đắm hồn trong vẻ đẹp thiên quốc đang rực sáng trước mắt.
Vị Nữ Lưu trẻ đẹp này mặc áo trắng, chính xác hơn, áo bằng ánh sáng trắng. Vì Vị Nữ Lưu toàn là ánh sáng và tỏa ra ánh sáng, trong suốt hơn và lóng lánh hơn cái tách pha lê đầy nước tinh khiết nhất phản chiếu ánh sáng mặt trời chói lọi nhất. Nói tóm lại, Vị Nữ Lưu sáng hơn mặt trời, và gương mặt Người quá sức sáng chói đến độ thỉnh thoảng các bé phải hạ thấp những cặp mắt thẫn thờ xuống.
Toàn hảo mọi vẻ, mặc dầu cao hơn trung bình, vị Nữ Lưu xinh đẹp tuyệt vời, thánh thiêng khôn lường, ngôn ngữ loài người không thể nào diễn tả. Không tạo vật nào trên trái đất này sánh với Người được. Các bé chưa bao giờ thấy một người hoặc bức tranh nào có thể so sánh được với vị khách từ trời về vẻ kiều diễm và duyên dáng.
Dung nhan của vị Nữ Lưu gồm những nét tuyệt diệu duyên dáng khôn tả, ánh mắt dịu dàng hiền mẫu hòa với vẻ cương nghị nghiêm trang và nét buồn vời vợi. Đầu và hai vai Người hơi nghiêng về phía trước hướng vào các bé phía dưới chân Người.
Đôi bàn tay xinh đẹp của vị Nữ Lưu chắp lại trước ngực trong dáng điệu cầu nguyện. Chuỗi Mân Côi quí báu có cây thánh giá trắng tựa bạch ngọc treo thòng xuống qua lòng bàn tay và lưng bàn tay phải.
Vị Nữ Lưu mặc áo dài trắng long lanh đơn sơ, không có cổ áo, cũng không có cổ tay áo, phủ dài tới chân. Mặc dầu thu lại ngang thắt lưng, áo dài không có thắt lưng hoặc khăn thắt ngang. Tấm áo choàng cũng bằng ánh sáng trắng có viền xinh xắn hai bên và dưới gấu bằng đường kim tuyến nổi bật trên nền ánh sáng, chẳng khác gì một tia sáng mặt trời lóng lánh hơn các tia sáng khác phủ trên đầu, qua vai và mình. Tuy vậy, trán và toàn thể phần trước áo dài lộ ra đầy đủ. Hai đầu dây, như hai tia sáng mặt trời màu vàng sáng chói hơn so với áo dài và áo choàng, buông lơi từ cổ xuống trước ngực. Hai mối dây này kết lại với nhau, bên trên thắt lưng một chút, thành trái cầu nhỏ lóng lánh sắc vàng. Xuống phía dưới, dọc giữa áo dài, cách gấu khoảng ba mươi phân, có ngôi sao vàng lấp lánh.
Đôi chân vị Nữ Lưu để trần, cũng như mặt và hai bàn tay, có ánh sáng màu da thịt, đặt nhẹ trên ngọn những nhánh lá cây sồi.
Vị Nữ Lưu ánh sáng đứng giữa bầu ánh sáng và hoàn toàn được ánh sáng bao phủ. Ngôn ngữ loài người hiển nhiên không đủ để mô tả vị Nữ Lưu này. Bà toàn là ánh sáng. Ánh sáng như những lớp sóng và cho người ta cảm tưởng ý phục của Người gợn sóng. Áo dài và áo choàng tỏa ra những làn ánh sáng khác nhau, lớp này trên lớp kia. Ánh sáng có nhiều mầu, trắng, vàng, và các màu khác tùy theo cường độ màu sắc ánh sáng khác nhau, các bé phân biệt được những phần khác nhau trên thân mình và y phục, mặt và tay, áo dài và áo choàng của Người.
Sau một lúc chiêm ngưỡng say sưa, Lúcia mạnh dạn hỏi:
“Bà từ đâu tới? (Donde é vossemecê?)”
Vị Nữ Lưu từ ái trả lời: “Ta từ thiên đàng đến. (Eu sou do cé.)”
Cô bé hỏi tiếp: “Và Bà muốn con làm gì?”
“Ta đến xin cả ba các con tới đây sáu tháng liên tiếp, vào ngày mười ba mỗi tháng, cũng giờ này. Khi đó Ta sẽ cho các con biết Ta là Ai, và Ta muốn điều gì. Sau đó Ta sẽ trở lại đây lần thứ bảy.”
Được khích lệ rất nhiều do sự sẵn sàng và nhân từ mà vị Nữ Lưu đã trả lời cô bé, Lúcia nôn nóng hỏi thêm: “Con có được lên thiên đàng không?”
“Có, con sẽ được lên thiên đàng.”
“Còn Jacinta?”
“Có.”
“Còn Francisco?”
“Nó cũng được lên thiên đàng, nhưng nó phải cầu nguyện rất nhiều kinh Mân Côi.”
Hai cô gái ở Aljustrel mới chết hồi gần đây. Mặc dù cả hai đều tương đối lớn tuổi hơn Lúcia, nhưng cô bé biết rõ cả hai, vì hai cô thường đến nhà Lúcia học đan với chị của cô. Có lẽ vị Nữ Lưu nhân từ sẽ vui lòng cho biết đôi điều về hai người bạn của cô.
Lúcia hỏi: “Chị Maria das Neves có ở trên thiên đàng không?”
“Có,” vị Nữ Lưu trả lời.
“Còn Amelia?”
“Cô đó sẽ phải ở luyện ngục cho tới tận thế.”
Sau khi trả lời các câu hỏi của Lúcia, vị Nữ Lưu đưa ra lời yêu cầu quan trọng:
“Các con có vui lòng tận hiến cho Thiên Chúa và chịu đau khổ Chúa muốn gởi đến cho các con, để đền tạ tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và van xin cho kẻ tội lỗi ăn năn trở lại không?”
Lúcia thấy những lời yêu cầu này rất giống lời thiên thần yêu cầu trong lần thứ nhì hiện ra năm trước. Biết rằng hai bé em họ của cô hoàn toàn đồng ý, Lúcia trả lời không chút do dự:
“Thưa Bà, chúng con vui lòng! (Sim, queremos!) ”
Tuy nhiên, cô bé chẳng ý thức được bao nhiêu là cô và hai bạn nhỏ sẽ sớm phải chịu đau khổ chừng nào. Dĩ nhiên, Đức Mẹ biết trước những đau khổ đang chờ các bé, và theo cách Con Chí Thánh của Mẹ đối với các môn đệ được tuyển chọn, Đức Mẹ nói trước những thử thách và đau khổ đang chờ đợi các bé và hứa ban ơn phù trợ. Đức Mẹ nói tiếp:
“Các con sẽ phải chịu nhiều đau khổ, nhưng ơn Chúa sẽ nâng đỡ an ủi các con.”
Khi nói những lời này, Đức Mẹ dang rộng hai bàn tay theo dáng điệu linh mục khi nói: “Chúa ở cùng anh chị em! (Dominus vobiscum!) ” trong Thánh Lễ và tỏa ra ánh sáng cực mạnh về phía các bé mục tử. Ánh sáng này giống như phản quang từ đôi bàn tay chói sáng của Đức Mẹ chiếu ra. Ánh sáng xuyên qua trái tim và thấm sâu vào linh hồn các bé, “làm cho các bé thấy mình đắm chìm trong Thiên Chúa, Đấng là ánh sáng, rõ ràng như qua những tấm gương trong và mạnh nhất.”
Xúc động từ đáy lòng, các bé quỳ xuống và sốt sắng dâng lời nguyện:
“Ôi lạy Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, con thờ lạy Chúa, lạy Chúa, con yêu mến Chúa trong Phép Thánh Thể!”
Lúc sau, Đức Mẹ nói tiếp:
“Các con hãy cầu nguyện kinh Mân Côi hằng ngày, để xin được hòa bình và chấm dứt chiến tranh.”
Sứ vụ ngày hôm nay hoàn tất. Đức Mẹ xinh đẹp tuyệt vời từ từ xoay mình, uy nghi và lặng lẽ cất mình lên, di chuyển không động chân về hướng đông, nơi đây Đức Mẹ khuất dạng vào vũ trụ bao la. Ánh sáng lung linh bao quanh Đức Mẹ chẳng khác gì mở lối Đức Mẹ đi giữa các vì sao và tinh cầu.
Việc Đức Mẹ hiện ra tại Cova da Iria là một màn trong những biến chuyển gay cấn vĩ đại, phần mở đầu là nhiều lần Thiên Thần Hòa Bình và Thiên Thần Bảo Vệ Portugal (Bồ-đào-nha) hiện ra trước đó. Những màn liên hệ trực tiếp đến các biến chuyển này cũng xảy ra vào ngày hôm nay, 13 tháng Năm, 1917, ở những nơi khác trên thế giới.
Khi Đức Mẹ nói với ba bé ở Fátima về hòa bình, Thánh Linh Thiên Chúa cũng đổ tràn đầy ơn linh hướng trên một người, mà tên của vị này có nghĩa là hòa bình, và ngài đã chọn mang trên áo mục vụ của mình hình chim bồ câu và nhánh ô liu tiêu biểu hòa bình. Thật vậy, cũng chính buổi sáng Chúa Nhật, 13 tháng Năm, 1917, Đức Eugenio Pacelli, sau này là Đức Thánh Cha Piô XII sẽ tích cực hoạt động để truyền bá thông điệp Fátima, được tấn phong Giám Mục tại thánh đường Thánh Phêrô ở Roma. Và cũng chính trong ngày mùa xuân hôm nay, ma quỉ âm mưu làm hại thế giới với tất cả kỹ thuật tinh vi xảo quyệt dưới quyền nó. Suốt nhiều năm, ma quỉ đã nhồi nắn trí óc một người được ma quỉ dùng làm công cụ chính của nó là Marxist Nicholas Lenin. Moscow (Mạc-tư-khoa), trung tâm đầu não nước Nga, là khung cảnh của cuộc đánh phá chủ chốt ngày hôm nay, 13 tháng Năm, 1917. Đã tới giờ những người Cộng Sản Nga đẩy mạnh các kế hoạch xảo quyệt của Satan và đồng bọn phản thần của nó. Lenin ra lệnh cho các kỵ mã, các đảng viên của ông ta, lên đường thực hiện loạt đầu tiên các hành động tàn bạo mà sau cùng dẫn tới chiến thắng của Cộng Sản trên đất Nga.
Những người điên cuồng này phóng ngựa mải miết cho tới khi họ đến một thánh đường Công Giáo, nơi bà Maria Alexandrovitch đang dạy giáo lý cho hai trăm trẻ em. Họ phóng ngựa xông qua cửa thánh đường xuống các lối đi. Họ phóng ngựa qua giậu chịu Lễ. Bàn thờ là mục tiêu thứ nhất của cơn giận dữ như ma quỉ của những người này. Kế đến họ lật đổ và phá vỡ các tượng ảnh dọc lối đi. Rồi để chắc chắn là người ta hiểu hành động của họ đánh dấu bước khởi đầu mọi nỗ lực chống lại Thiên Chúa và Giáo Hội, những người vô thần và vô lương tâm này trút lòng hận thù như ma quỉ của họ trên các trẻ thơ, họ xông tới giết một số em.
Một lúc sau khi Đức Mẹ đã đi khỏi, ba bé vẫn còn đăm đăm nhìn về hướng Đức Mẹ khuất dạng vào không gian.
Ngay khi những vui sướng chỉ vừa mới bắt đầu loãng đi, một người tới gần nói với các bé:
“Này các bé, cừu của các bé lang thang vào ruộng giâu đàng kia kìa,” ông ta vừa nói vừa chỉ vào khu đất của ông José Matias. “Tôi đã ném vài cục đá vào đám cừu, những chắc chắn là đám cừu đã ăn mất một ít cây rồi.”
Lập tức các bé chạy tới vườn giâu, vì hầu như các bé đang nghe cha mẹ quở trách vì chểnh mảng không coi sóc đàn cừu để gây ra thiệt hại cho vườn của người hàng xóm. Nhưng khi các bé đi khắp các luống và xem xét các cây giâu, vẻ ngạc nhiên hiện trên mặt các bé. Đồng loạt các bé thốt lên: “Sao, cừu không ăn một cây giâu nào cả?”
Không nói thêm một lời, nhưng cả ba bé lúc này đều tin chắc hơn khi nào hết: Vị Nữ Lưu các cô cậu được đặc ân diện kiến chính là Mẹ Thiên Chúa.
Bình tĩnh lại, các bé đi tìm bóng mát của cây sồi quen thuộc để các bé có thể ngồi nhớ lại những giây phút sung sướng được thị kiến.
Sau ít phút im lặng chiêm niệm, Francisco nói với cô chị họ:
“Chị Lúcia à, Đức Mẹ nói gì khi Người nói chuyện với chị vậy?”
Jacinta bất chợt chen vào: “Gì thế, anh Francisco, anh không nghe được Đức Mẹ nói gì sao?” Jacinta hết sức ngạc nhiên, vì bé nghe được không sót một lời Đức Mẹ đã nói và nghĩ rằng anh của bé cũng được nghe như vậy.
Cậu bé trả lời: “Không, anh không được nghe Đức Mẹ nói, nhưng anh đã nghe hết mọi lời chị Lúcia nói với Đức Mẹ.”
Lúcia nói ngay: “Được, chị sẽ nói cho em nghe tất cả những điều Đức Mẹ đã nói. Hôm nay chị không cảm thấy như sau những lần thiên thần hiện ra, chị có thể nói. Đức Mẹ nói “Người từ thiên đàng tới, chị và Jacinta sẽ được về thiên đàng.” Khi chị hỏi Đức Mẹ em cũng được về thiên đàng chứ, thì Đức Mẹ nói: “Có,” nhưng thêm là “em phải cầu nguyện rất nhiều kinh Mân Côi.”
“Ôi, lạy Đức Mẹ! Con sẽ cầu nguyện kinh Mân Côi thật nhiều như Đức Mẹ muốn,” cậu bé kêu lên, khoanh tay trước ngực, hoan hỉ với ý nghĩ là cậu sẽ được nhận vào thế giới của Đức Mẹ tuyệt vời diễm lệ mà chỉ phải làm quá ít.
Lúcia nói tiếp: “Đức Mẹ muốn ba chị em chúng ta trở lại đây sáu tháng liên tiếp, ngày mười ba mỗi tháng, cũng vào giờ đó. Rồi Người sẽ nói cho chúng ta biết Người là Ai, và Người muốn chúng ta làm gì. Đức Mẹ cũng nói Người sẽ trở lại đây lần thứ bảy, nhưng không rõ khi nào.
Chị hỏi Đức Mẹ: “chị Maria das Neves có ở trên thiên đàng không, Đức Mẹ trả lời: “Có,” nhưng Đức Mẹ cũng nói “chị Amelia còn ở trong luyện ngục cho tới tận thế.”
Kế đó Đức Mẹ hỏi chị em chúng ta có vui lòng tận hiến cho Thiên Chúa và sẵn sàng hy sinh chấp nhận mọi đau khổ Chúa sẽ vui lòng gởi đến cho chúng ta để đền tạ các tội lỗi đã xúc phạm đến Thiên Chúa, và xin cho các kẻ tội lỗi ăn năn trở lại, và đền tạ những tội lỗi xúc phạm Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria hay không. Chị nói chúng ta sẵn sàng. Chị biết em và Jacinta chắc chắn sẵn lòng vì thiên thần đã từng yêu cầu chúng ta làm việc hy sinh và chấp nhận những đau khổ Thiên Chúa sẽ gởi đến, để đền tạ tội lỗi và xin ơn cải hóa các kẻ tội lỗi, và chúng ta đã cố gắng hết sức thi hành điều thiên thần yêu cầu.
Sau đó, Đức Mẹ nói: “Lúc đó các con sẽ phải đau khổ nhiều, nhưng ơn Chúa sẽ nâng đỡ an ủi các con.” Chính lúc này Đức Mẹ mở rộng hai bàn tay và chiếu ánh sáng mạnh vào đáy lòng chúng ta.
Những lời sau cùng Đức Mẹ nói là: “Các con hãy cầu nguyện kinh Mân Côi hằng ngày để xin được hòa bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh.”
Khi dứt lời, Lúcia thấy hai bé em họ đang trầm tư. Francisco chắp tay trước ngực, đăm đăm nhìn về phía chân trời. Jacinta, khuỷu tay chống trên đầu gối, hai tay ôm cằm, cũng đăm đăm nhìn về phía trời xanh thăm thẳm. Điều này không làm cho Lúcia ngạc nhiên, vì chính cô bé cũng cảm thấy bị ảnh hưởng mãnh liệt do biến cố vĩ đại vừa mới xảy ra.
http://thanhlinh.net/memaria/
__________________________
Ngày Của Mẹ
Ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm, tại nhiều nước trên thế giới, được gọi là ngày của Mẹ, ngày dành riêng để tỏ lòng báo hiếu đối với Mẹ...
Sáng kiến dành ngày Chúa Nhật thứ hai của tháng năm làm ngày của mẹ được gán cho một thiếu nữ người Hoa Kỳ tên là Anna M.Jarvis qua đời khoảng năm 1948. Mẹ của cô qua đời tháng năm năm 1905. Trong những năm kế tiếp, cô thường tổ chức giỗ mẹ một cách trọng thể như mời bạn bè đến cầu nguyện tại gia đình. Cô viết thư gửi tới các nhân vật quan trọng trong nước Mỹ để xin lập một ngày tưởng nhớ các bà Mẹ. Tiểu bang nơi cô đang sống đã chấp nhận đề nghị năm 1913. Và ngày 10 tháng 5 ấy, quốc hội Hoa Kỳ cũng thông qua đề nghị nhận ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng 5 như một ngày để ghi ơn các bà mẹ. Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ đã công bố quyết định này ngày 09/5/1914. Tục lệ này đã lan rộng sang nhiều quốc gia trên thế giới... Trong ngày nhớ mẹ, người con thường cài trên áo một bông hoa cẩm chướng màu trắng nếu mẹ đã quá cố và màu hồng dành cho những ai còn mẹ.
Trong các tước hiệu Giáo Hội dùng để gọi Ðức Maria, có lẽ xứng hợp với tâm tình con người hơn cả vẫn là tước hiệu Mẹ. Chúng ta có thể gọi Ðức Maria là Mẹ với tất cả tâm tình trìu mến như khi chúng ta gọi người mẹ của chúng ta. Do lời trăn trối của chính Chúa Giêsu con Mẹ, Mẹ đã trở thành Mẹ của Giáo Hội. Qua muôn thế hệ, Mẹ không ngừng cưu mang, sinh ra và dưỡng dục các tín hữu trong Ðức tin.
Niềm hạnh phúc của bất cứ người mẹ nào vẫn là thấy con mình được nên người. Mẹ Maria chăm chú theo dõi và lo lắng cho từng người chúng ta. Niềm vui của Mẹ chính là thấy mỗi người chúng ta được lớn lên theo hình ảnh của Chúa Giêsu con Mẹ...
Chúng ta mang đến cho Mẹ những bó hoa trong suốt tháng 5, tháng 10 và trong từng lời Kinh dâng lên Mẹ. Nhưng có lẽ Mẹ sẽ sung sướng hơn mỗi lần nhìn thấy sự trưởng thành nơi chúng ta. Mỗi lần chúng ta lớn lên trong ân phúc, trong bác ái yêu thương, trong hy vọng tin yêu: đó là những bó hoa tốt đẹp nhất mà chúng ta dâng lên Mẹ...
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
14-05-2011, 07:30 AM
14/05
Hãy yêu thương nhau
Thứ Bảy sau Chúa Nhật III Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 15,9-17
9Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. 10Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. 11Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. 12Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 13Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. 14Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. 16Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. 17Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%2015,9-17.jpg
Suy niệm:
Hễ đã yêu thương ai, thì muốn sống bên cạnh người ấy để chia xẻ và lấy sở thích của người ấy làm sở thích của mình. Tình yêu giữa con người với nhau còn như thế, huống nữa là tình yêu giữa Thiên Chúa với con người. Chúa Giêsu đã rất mực yêu thương các môn đệ, Ngài muốn họ luôn ở với Ngài cũng như Ngài hằng ở với Thiên Chúa; Ngài muốn họ thực hành Lời Ngài cũng như Ngài luôn vâng phục lệnh truyền của Chúa Cha.
Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Năm 1963, tại Washington, 200.000 người lắng nghe Martin Luther King. vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel hoà bình nói chuyện : “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và của những chủ nô sẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nước mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao...” Ông ra sức thực hiện ước mơ ấy, biết bao khó khăn thử thách, ghen tương đố kỵ đã ập xuống trên ông, nhưng ông vẫn kiên quyết thực hiên hoài bão này. Năm 1968, M.L. King đã ngã gục dưới lằn đạn của những kẻ thù ghét ông. Nhưng công trình của ông vẫn được tiếp tục, bởi ước mơ của ông đã trở thành ước mơ của hàng triệu con người trên thế giới.
Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau. Yêu thương, tình gia đình, huynh đệ, chia xẻ, hiệp thong...là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Từ 23 tháng chạp đến tết, đất Trung Quốc nhộn nhịp hẳn lên vì chuẩn bị cầu phúc. Trong những ngày này, Lỗ Tấn gặp thím Tường Lâm. Thím là một nông dân cần cù. Chồng trước thì chết sớm, Chồng sau chết vì thương hàn, thằng con nhỏ thì bị chó sói vồ...Họ còn đồn rằng mai sau thím sẽ bị cưa đôi để chia cho hai con ma chồng. Thím luôn phải sống trong sợ hãi. Ai cũng coi thím là đồ ô uế. Chủ nhà không cho thím sờ tay vào các lễ vật, dù đó chỉ là cái chân đèn...Thím từ từ suy sụp và sinh hoảng loạn. Lỗ Tấn thấy thím, tóc trắng toá, tay xách cái làn tre, trong có cái bát mẻ không đựng gì, tay kia cầm cây gậy trúc đầu dưới toe toé, lang thang trên đường, miệng lẩm bẩm gọi tên đứa con mình...Tiết trời lạnh lẽo, thím nằm chết trên một đống tuyết vừa lúc giao thừa đến, pháo nổ vang trời. Các gia đình giàu có mở cửa ra, thấy vậy quát lên : “Tại sao chết vào lúc tao đang cầu phúc ?”
Yêu thương, nếu chỉ là một cảm giác dễ chịu thì chưa phải là tình yêu thật. Tình yêu thật là phải cho đi, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng đúng nghĩa. Bởi thế Chúa Giêsu nói : “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” Câu Tin Mừng này khiến tôi liên tưởng tới một câu chuyện tôi đã đọc hồi còn nhỏ, tựa đề “Anh phải sống” : hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo các con”. Người vợ cũng bảo chồng “Anh phải sống”. Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hoa trái của Chúa là Tình yêu. Chính Chúa đã chọn tôi, sai tôi đến với anh em. Dường như tôi vẫn chưa sẵn sàng, chưa chuẩn bị gì cho cuộc ra đi này. Hành trang của tôi chỉ là những thứ trau chuốt cho bản thân. Tâm tưởng tôi chỉ xoay quanh chủ
Hễ đã yêu thương ai, thì muốn sống bên cạnh người ấy để chia xẻ và lấy sở thích của người ấy làm sở thích của mình. Tình yêu giữa con người với nhau còn như thế, huống nữa là tình yêu giữa Thiên Chúa với con người. Chúa Giêsu đã rất mực yêu thương các môn đệ, Ngài muốn họ luôn ở với Ngài cũng như Ngài hằng ở với Thiên Chúa; Ngài muốn họ thực hành Lời Ngài cũng như Ngài luôn vâng phục lệnh truyền của Chúa Cha.
Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Năm 1963, tại Washington, 200.000 người lắng nghe Martin Luther King. vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel hoà bình nói chuyện : “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và của những chủ nô sẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nước mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao...” Ông ra sức thực hiện ước mơ ấy, biết bao khó khăn thử thách, ghen tương đố kỵ đã ập xuống trên ông, nhưng ông vẫn kiên quyết thực hiên hoài bão này. Năm 1968, M.L. King đã ngã gục dưới lằn đạn của những kẻ thù ghét ông. Nhưng công trình của ông vẫn được tiếp tục, bởi ước mơ của ông đã trở thành ước mơ của hàng triệu con người trên thế giới.
Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau. Yêu thương, tình gia đình, huynh đệ, chia xẻ, hiệp thong...là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Từ 23 tháng chạp đến tết, đất Trung Quốc nhộn nhịp hẳn lên vì chuẩn bị cầu phúc. Trong những ngày này, Lỗ Tấn gặp thím Tường Lâm. Thím là một nông dân cần cù. Chồng trước thì chết sớm, Chồng sau chết vì thương hàn, thằng con nhỏ thì bị chó sói vồ...Họ còn đồn rằng mai sau thím sẽ bị cưa đôi để chia cho hai con ma chồng. Thím luôn phải sống trong sợ hãi. Ai cũng coi thím là đồ ô uế. Chủ nhà không cho thím sờ tay vào các lễ vật, dù đó chỉ là cái chân đèn...Thím từ từ suy sụp và sinh hoảng loạn. Lỗ Tấn thấy thím, tóc trắng toá, tay xách cái làn tre, trong có cái bát mẻ không đựng gì, tay kia cầm cây gậy trúc đầu dưới toe toé, lang thang trên đường, miệng lẩm bẩm gọi tên đứa con mình...Tiết trời lạnh lẽo, thím nằm chết trên một đống tuyết vừa lúc giao thừa đến, pháo nổ vang trời. Các gia đình giàu có mở cửa ra, thấy vậy quát lên : “Tại sao chết vào lúc tao đang cầu phúc ?”
Yêu thương, nếu chỉ là một cảm giác dễ chịu thì chưa phải là tình yêu thật. Tình yêu thật là phải cho đi, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng đúng nghĩa. Bởi thế Chúa Giêsu nói : “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” Câu Tin Mừng này khiến tôi liên tưởng tới một câu chuyện tôi đã đọc hồi còn nhỏ, tựa đề “Anh phải sống” : hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo các con”. Người vợ cũng bảo chồng “Anh phải sống”. Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hoa trái của Chúa là Tình yêu. Chính Chúa đã chọn tôi, sai tôi đến với anh em. Dường như tôi vẫn chưa sẵn sàng, chưa chuẩn bị gì cho cuộc ra đi này. Hành trang của tôi chỉ là những thứ trau chuốt cho bản thân. Tâm tưởng tôi chỉ xoay quanh chủ nghĩa cá nhân, để rồi bị trói chặt trong chủ nghĩa thực dụng lúc nào chẳng hay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, có nhiều người bên con vẫn đang âm thầm đau khổ chỉ vì những suy nghĩ, lời nói và hành động thiếu yêu thương của con. Xin giúp con hiểu và thực thi giới răn yêu thương của Ngài. Chính con cũng rất nhiều lần nói như thế. Từ nay con muốn nói những chữ ấy một cách thật lòng, nhất là nói với những người cùng niềm tin, cùng lý tưởng với con.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết ở lại trong tình thương của Chúa, biết ra khỏi chính mình, biết nghĩ tới anh em, để hoa trái của Chúa được tồn tại và nhân rộng mãi.
http://tgpsaigon.net
_________________________
Thánh Matthias
http://www.thanhlinh.net/cacthanh/12Apostles.jpg
Theo Tông Ðồ Công Vụ 1:15-26, sau khi Ðức Giêsu Lên Trời, các tông đồ cần phải tìm người thay thế cho Giuđa. Với tất cả những bàng hoàng chưa thông hiểu, những nguy hiểm đang phải đương đầu, tại sao các ngài lại chú ý đến việc tìm vị tông đồ thứ mười hai? Số mười hai là con số quan trọng cho Dân Ðược Chọn: mười hai là con số của mười hai chi tộc Israel. Nếu một Israel mới phát sinh từ các môn đệ của Ðức Kitô, thì cần phải có mười hai tông đồ. Nhưng biết ai để mà chọn?
Khi Thánh Phêrô đứng lên đề nghị phương cách chọn lựa, lúc ấy có một trăm hai mươi người đang tụ tập cầu nguyện. Thánh Phêrô biết rằng người được chọn phải là người đã theo Ðức Kitô từ ban đầu -- từ lúc Người chịu thanh tẩy bởi Gioan Tẩy Giả cho đến khi Lên Trời. Lý do thật dễ hiểu, tông đồ phải là người theo Ðức Kitô trước khi bất cứ ai biết đến, phải trung thành với Người dù có những khó khăn và đã chứng kiến sự phục sinh của Ðức Kitô.
Có hai vị hội đủ điều kiện -- Matthias và Giuse Barsabbas. Các tông đồ biết hai vị này đã từng ở với họ và ở với Ðức Kitô trong suốt thời gian Người thi hành sứ vụ. Nhưng ai thực sự quyết tâm làm nhân chứng cho sự phục sinh của Ðức Kitô. Chỉ có Thiên Chúa mới biết được điều đó. Và các tông đồ đã cầu nguyện và bỏ phiếu. Người được chọn là ông Matthias, là người được thêm vào nhóm Mười Một.
Ðó là tất cả những gì chúng ta được biết về Thánh Matthias.
Lời Bàn
Ðức Clêmentê ở Alexandria nói rằng Thánh Matthias, cũng như tất cả các tông đồ khác, được Ðức Kitô chọn không phải vì họ tốt lành, nhưng vì Ðức Kitô đã thấy trước con người tương lai của họ. Các ngài được chọn không phải vì sự xứng đáng nhưng vì các ngài sẽ trở nên người xứng đáng. Ðức Kitô cũng chọn chúng ta giống như vậy. Thử nghĩ xem Ðức Kitô muốn bạn trở nên một người như thế nào?
Trích từ NguoiTinHuu.com
________________________
Hương Vị Của Khói
Ðể đả phá tính ích kỷ, người Ả Rập thường kể câu chuyện như sau:
Tai một khu phố nọ, có không biết bao nhiêu cửa hàng ăn uống mọc lên. Hương vị bốc lên từ các cửa hàng này thu hút những người giàu lẫn kẻ nghèo. Những người giàu đến đây để thưởng thức những của ngon vật lạ, còn những người nghèo thì chỉ mong ăn được chút cơm thừa canh cặn hay cùng lắm là chỉ để hít thở được hương vị thơm ngon bốc lên từ các nhà bếp...
Một hôm, có một người nghèo mon men đến một cửa hàng. Trên tay anh cầm một ổ bánh mì. Anh người nghèo này có ý nghĩ độc đáo: thay vì chầu chực hưởng phần ăn thừa của thực khách, anh bèn leo lên mái nhà, rồi ngồi cạnh ống khói của nhà bếp. Anh vừa nhai bánh mì vừa hít thở làn khói bốc ra từ nhà bếp, anh nhai ngấu nghiến ổ bánh mì mà tưởng tượng như mình đang thưởng thức những của ngon được dọn trên bàn thượng khách.
Nhưng không may cho anh, vì hôm đó người chủ nhà hàng gặp nhiều rắc rối trong công việc làm ăn cho nên không có được bộ mặt vui tươi cho mấy. Thế là ông sai những người hầu bàn lôi cổ người ăn xin xuống khỏi mái nhà và yêu cầu trả tiền. Ông lý luận với người ăn xin như sau: "Khói bốc ra từ nhà bếp của ta không phải là khói chùa, nhà ngươi đã thưởng thức làn khói đầy hương vị đó, yêu cầu nhà ngươi trả tiền cho ta".
Người ăn xin không chịu trả tiền. Nội vụ đã được đem ra trước tòa án. Quan đầu tỉnh phải nhức đầu vì vụ án này. Ông cho triệu tất các bực thức giả trong toàn tỉnh để giúp ông giải quyết vụ án. Những người này đưa ra hai ý kiến xem ra đều có lý cả: một bên nói rằng khói bốc ra từ cửa hàng, do đó nó là chủ hữu của ông chủ cửa hàng. Những người khác thì cho rằng khói cũng như không khí là của mọi người, thành ra người ăn xin có quyền hưởng mà không phải trả đồng xu nào.
Sau khi đã bàn bạc và cân nhắc, quan đầu tỉnh mới đưa ra phán quyết như sau: "Người nghèo đã hưởng khói mà không đụng đến thức ăn, cho nên anh ta hãy lấy một đồng bạc, ra giữa công viên, gõ đồng bạc vào ghế đá, âm thanh của đồng bạc sẽ lan ra. Người chủ cửa hàng muốn đòi tiền của khói, ông hãy lắng nghe âm thanh ấy".
Người kể câu chuyện ngụ ngôn trên đây có lẽ muốn nói với chúng ta rằng sự ích kỷ không mang lại cho chúng ta một lợi lộc nào.
Nhưng sự ích kỷ không bao giờ mang tính chất trung lập. Nghĩa là khi tôi khép kín tâm hồn, khi tôi chỉ biết nghĩ đến mình, không những tôi làm cho người khác bớt hạnh phúc, mà chính tôi cũng chết đi một phần trong tôi. Tình liên đới không phải là một thứ xa xỉ phẩm được thêm vào tương quan giữa người với người hoặc như một thứ tô điểm phụ thuộc cho nhân cách của tôi, mà là đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi làm ngưòi. Tôi càng nên người hơn khi tôi sống cho tha nhân. Tôi càng trở nên phong phú hơn khi tôi trao ban...
Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta ơn gọi đích thực của con người: đó là sống trọn vẹn cho tha nhân. "Này là Người, này là con người với đầy đủ tính người". Ðó phải là ý nghĩa của lời tuyên bố của Philato khi ông cho trình diện trước đám đông một Chúa Giêsu với tấm thân không còn hình tượng của con người nữa và nói: "Này là người...". Con người chỉ thể hiện được trọn vẹn tính người khi con người tiêu hao hoàn toàn vì người khác, khi con người sống hoàn toàn cho người khác...
Ðó là định luật của Tình Yêu mà Chúa Giê su đã mạc khải cho chúng ta: Ai đi tìm mạng sống mình, người đó sẽ mất. Ai mất mạng sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
16-05-2011, 07:32 AM
16/05
Tiếng gọi trong thinh lặng
Thứ Hai sau Chúa Nhật IV Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 10,11-18
11Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. 12Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, 13vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. 14Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, 15như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. 16Tôi còn có những chiên khác không thuộc đoàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. 17Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. 18Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Goodshepherd%204.jpg
Suy niệm:
Phúc Âm hôm nay hướng dẫn chúng ta nhìn về Chúa Kitô Phục Sinh, Ngài là vị chủ chăn nhân lành chăm sóc chu đáo cho từng con chiên của mình. Cuộc sống của người đồ đệ Chúa trên trần gian này không phải là cuộc sống dễ dàng thoải mái, nhưng Chúa Giêsu đã so sánh nó như đàn chiên với sói dữ, kẻ chăn chiên tốt thì săn sóc chiên, kẻ làm thuê thì không có chiên nên không săn sóc chu đáo. Thật là đi ngược lại với quan niệm thông thường của người đời, vì trong xã hội càng có liên hệ đến những người có quyền cao chức trọng thì càng được bảo vệ, không ai dám chạm đến. Vì thế mà nhiều người muốn làm quan, muốn liên hệ với những người có quyền có chức để xây dựng địa vị mình được chắc chắn. Nhưng đối với người Kitô hữu thì không phải thế, là con cái Thiên Chúa, những kẻ được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính mạng sống của Ngài. Và hơn ai hết, họ là kẻ liên hệ cao nhất, vì không phải là liên hệ với con người phàm trần, nhưng là với Thiên Chúa.
Toàn bộ sư đoàn lính Mỹ trong doanh trại Robert đang chuẩn bị một cuộc diễn binh đón chào ông bộ trưởng Quốc Phòng. Nào các cỗ xe tăng chuyển hành ầm ầm, nào các khẩu trọng pháo được kéo đến, rồi tiếng giày lính nện lên mặt đường nhựa của đoàn quân đi nhịp nhàng theo khúc nhạc quân hành hùng tráng...Cả một khu vực và vùng trời vang động rộn rã, thế mà một đàn chiên vẫn thản nhiên từ từ tiến bước từ thảm cỏ này đến cánh đồng kia, nhích dần đến gần con đường người ta đang duyệt binh... Bộ chỉ huy phát hiện ra đàn chiên liền phái đến một tiểu đội quân cảnh để lùa đàn chiên tránh đi hướng khác. Họ mở còi hụ, la hét om sòm lên, nhưng đàn chiên vẫn nhởn nhơ gặm cỏ. Rồi cả một trung đội vệ binh được tăng cường. Cũng hò hét, hụ còi inh ỏi, nhưng đành chịu, đàn chiên vẫn bình thản thưởng thức món cỏ xanh thiên nhiên hào phóng, mỗi lúc một tiến gần doanh trại hơn. Đúng lúc ấy, đoàn xe môtô dẫn đầu đoàn xe hơi của phái đoàn bộ trưởng đã vào đến cổng trại. Làm sao bây giờ ? Không ai được quyền dùng đá để ném, dùng gậy để đánh đuổi đàn chiên, bởi như thế là chọc giận Hội Bảo Vệ Súc Vật và báo chí khắp nơi. Toàn bộ đạo quân trang bị hùng hậu như vậy đành phải thúc thủ trước đối thủ quá ư hiền lành này hay sao ? Bỗng, chiếc xe Jeep của thiếu tướng chỉ huy trưởng trại Robert phóng đến, và từ trên xe, Linh Mục Tuyên Úy Michael nhảy xuống, chạy đến nói nhỏ vào tai vị sĩ quan vệ binh. Sau đó, cả trung đội tập hợp ngay, đứng vào vị thế nghiêm. Và thinh lặng bao trùm lên tất cả đạo quân trong phút chốc ! Chính vào lúc hoàn toàn thinh lặng này, người ta mới nghe thấy có tiếng sáo của người mục đồng mãi từ trên một ngọn đồi gần đấy vọng xuống. Thế là cả đàn chiên tức khắc ngoan ngoãn quay gót, cùng nhau lũ lượt chạy lên mỏm đồi giữa những tiếng thở phào nhẹ nhõm của quan quân trong đoàn vệ binh...Chỉ cần một tiếng sáo mục đồng du dương nhè nhẹ ấy thôi, cũng đủ để kêu gọi cả đàn chiên đi lạc hướng quay trở về, trả lại khung cảnh trang nghiêm cần thiết cho buổi lễ duyệt binh. Bao nhiêu tiếng hò hét, tiếng còi hụ inh ỏi đều bó tay. Càng nhiều tiếng huyên náo thì đàn chiên lại càng không tài nào nghe được tiếng sáo đơn sơ nhỏ nhẹ của chú bé mục đồng.
Sống trong thế giới hôm nay, chúng ta cũng bị bao vây bởi quá nhiều tiếng động xô bồ và âm thanh hỗn tạp, quá nhiều đến độ chúng ta không còn có thể nghe được tiếng gọi Đức Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành. Chỉ cần thinh lặng, một chút lặng yên thôi, cũng đủ để đàn chiên nghe được tiếng gọi của người chăn dắt. Phải chi chúng ta cũng có được những khoảnh khắc phút giây trầm lắng quý giá như thế, để rồi nghe được thứ thanh âm của sự tĩnh lặng, nghe được lời gọi của Thiên Chúa và nhận ra Người ? Phải chi chúng ta cũng biết trao tặng cho chính mình mỗi ngày một vài phút cô tịch để đọc Lời Chúa, để nghe và nhận ra tiếng thì thầm của Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta:“Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi, và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử”.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa là mục tử chăn dắt cuộc đời chúng con. Chúng con xin phó dâng cuộc đời cho lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng con khỏi sự tấn công của thế gian và ma quỷ. Xin Chúa cũng lưu lại nơi gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, hiểu lầm và tái tạo tình hiệp nhất yêu thương. Xin cho mỗi người chúng con luôn thiết tha với tâm nguyện: xin hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu của Chúa ngõ hầu danh Chúa được cả sáng ngang qua cuộc sống của chúng con.
Lạy Chúa, đồng cỏ xanh ngát mà Chúa cho chúng con hưởng dùng chính là Mình Máu Thánh Chúa. Chính Chúa đã dẫn đưa chúng con đến dòng suối ân tình là các bí tích nhiệm mầu. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin cho chúng con luôn được no thoả ân tình của Chúa nhờ việc biết lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng, trong cầu nguyện. Amen
http://tgpsaigon.net
________________________
Cái Hôn
Hãng thông tấn AFP của Pháp trong bản tin ngày 23/01/1991 đã ghi một mẩu chuyện lạ như sau:
Một phụ nữ Brazil đã lợi dụng cái hôn để cắn và nuốt mất khúc lưỡi của người yêu. Bà cho biết: làm như thế là để trả thù người đàn ông vì đã đánh đập, hành hạ bà.
Cảnh sát tại thành phố Salvador de Bahia, mạn đông bắc Brazil cho biết như sau: Lucia bị người yêu là ông Djalm dos Santos, 47 tuổi, đã đánh đập, hành hạ thậm tệ. Nàng kiên nhẫn chờ đợi cơ hội. Hôm 22/01/1991, ông Djalm đến thăm Lucia để xin lỗi. Cô ta liền nhảy xổ vào người yêu, ôm hôn ông một cách rất tình tứ, không cho ông có thì giờ để giải thích.
Hai người đang hôn nhau, thì đột nhiên, Lucia cắn đứt một phần lưỡi của Djalim và nuốt luôn vào bụng để người ta không thể vá lại khúc lưỡi đã bị mất.
Người đàn ông được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nhưng theo các bác sĩ điều trị, ông ta sẽ không bao giờ có thể nói lại một cách bình thường được, vì đã mất một khúc lưỡi.
Ông Djalm than thở như sau: "Ðây là nụ hôn thê thảm nhất trong đời tôi. Ðó thật là nụ hôn của Giuda".
Cái hôn có nhiều hình thức và ý nghĩa khác nhau.
Có cái hôn của các nhà lãnh đạo tôn giáo, chính trị để nói lên tình hữu nghị, sự hòa giải. Có cái hôn bình an của các tín đồ của một tôn giáo. Có cái hôn dạt dào thương mến giữa cha mẹ và con cái. Có cái hôn nồng cháy dục tình giữa đôi tình nhân hay vợ chồng.
Tựu trung, trong cái hôn nào cũng có hai yếu tố: yếu tố hữu hình là sự tiếp giáp giữa hai thân xác qua môi miệng và yếu tố vô hình mà cái hôn muốn diễn tả như tình liên đới, hữu nghị, sự hòa giải, tình mẫu tử, tình yêu lứa đôi. Cái hôn sẽ trở thành đồng nghĩa với sự phản bội khi nó tước đoạt khỏi yếu tố vô hình trên đây. Ðó là trường hợp cái hôn của người đàn bà Brazil trên đây.
Nhưng điển hình nhất của cái hôn phản bội vẫn là cái hôn Giuda dành cho Chúa Giêsu. Ðiều bỉ ổi nhất trong cái hôn của Giuda chính là dùng một cử chỉ của tình thân như một dấu hiệu của sự bán nộp.
Cái hôn của Giuda được lập lại khi người ta dùng những chiêu bài cao đẹp để che đậy những ý đồ đen tối. Cái hôn của Giuda được lập lại khi người ta nhân danh nhân nghĩa, nhân danh phục vụ, nhân danh người nghèo để kiếm quyền bính, tư lợi cho mình.
Ðối với người tín hữu Kitô, thì cái hôn của Giuda chính là thái độ sống giả hình mà Chúa Giêsu không ngừng kết án trong Phúc Âm. Ðó là điều mà tiên tri Isaia đã cảnh cáo khi ông nói: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, mà lòng trí chúng thì xa Ta". Nếu cái hôn của Giuda là một cử chỉ thân tình ngoài môi miệng, nhưng lòng trí thì lại chất chứa âm mưu thâm độc, thì thái độ sống giả hình của người tín hữu cũng là một cái hôn như thế.
Khi môi miệng sốt sắng cầu kinh, nhưng cuộc sống lại đầy những hành động gian ác ích kỷ, phải chăng đó không là chiếc hôn của Giuda mà chúng ta dành cho Chúa.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
17-05-2011, 07:20 AM
17/05
Sống tin tưởng vào Chúa
Thứ Ba sau Chúa Nhật IV Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 10,22-30
22Khi ấy, ở Giêrusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. 23Đức Giêsu đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Salômôn. 24Người Do thái vây quanh Đức Giêsu và nói: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết." 25Đức Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. 26Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. 27Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. 28Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. 29Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. 30Tôi và Chúa Cha là một."
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%2010,22-30.jpg
Suy niệm:
“Ta ban cho chúng con sự sống đời đời, không ai cướp được chúng con khỏi tay Ta. Ta và Cha là một”. Đây là một thực tại cao cả nơi cuộc sống của những người tin vào Chúa, và Chúa Giêsu muốn mạc khải cho những người Do Thái đến hỏi Chúa : “Ông để chúng tôi phân vân đến bao giờ nữa, nếu ông là Đức Kitô thì hãy nói trắng ra cho chúng tôi biết” (Ga 10, 24). Thánh Gioan đã đặt lại những lời mạc khải trên của Chúa Giêsu về thực tại đời sống và Đức tin của người Kitô hữu vào dịp lễ cung tiến đền thờ Jêrusalem, và như ta đã biết, cổng đền thờ là nơi các Thầy thông luật Do Thái đến để giải thích lề luật cho dân chúng, do đó Chúa Giêsu đến đây để giảng dạy cho dân chúng. Nhưng hơn ai hết, Chúa Giêsu là một vị thầy hơn mọi vị thầy thông luật của Israel thời đó, vì Con Thiên Chúa làm người đã hiện diện nơi đó không những để giảng dạy lề luật, mà còn là Đấng thay thế cho các bậc thầy mới vĩnh viễn. Như lời Chúa đã phán : “Chúng con không có vị thầy nào khác vì Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6).
Hơn nữa, dịp tụ họp dân chúng nơi cổng Salomon ở đền thờ là dịp lễ cung hiến đền thờ Jêrusalem. Lễ cung hiến đền thờ có ý nghĩa gì đối với người Do Thái ? Thưa, đây là một trong những lễ trọng của người Do Thái vì để ghi dấu đền thờ Jêrusalem trước đó đã bị ô uế, bị xúc phạm, nay thánh hiến lại để bắt đầu trở lại sinh hoạt tôn giáo. Lễ cung hiến đền thờ nhắc cho người dân nhớ lại sự phục hưng tôn giáo được những sứ giả của Chúa là anh em Macabê thực hiện vào năm 146 trước Chúa Giáng Sinh. Vào năm 170 đền thờ đã bị vua Syria làm ô uế, làm nơi dâng lễ vật cho thần ngoại bang HyLạp vì thế mà đã xúc phạm đến Thiên Chúa chân thật. Giờ đây đền thờ cung hiến lại được là để nhắc nhớ lại khung cảnh tôn giáo và địa điểm cung thánh giảng dạy là cổng Salomon. Như vậy, Thánh Gioan muốn nhắc lại một cách kín đáo cho các độc giả của ngài về chương trình hay những ý định sâu xa của Chúa Giêsu. Đó là lúc Chúa Giêsu muốn mạc khải sự thật về ơn cứu rỗi, hầu khai mạc một thời đại mới, thời đại phục hưng tôn giáo dựa trên Đức tin vào Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Khi ấy ở Jêrusalem việc cung hiến đền thờ bấy giờ là vào mùa đông, và Chúa Giêsu đã đi đi lại lại tại đền thờ Salomon. Sau những câu nhập đề mô tả khung cảnh tôn giáo như vậy, Thánh Gioan kể tiếp thắc mắc của người Do Thái vây quanh Chúa Giêsu và hỏi : “Ông để chúng tôi phân vân đến bao giờ nữa, nếu ông là Đức Kitô thì hãy nói trắng ra cho chúng tôi biết”. Thánh Gioan thường dùng từ ngữ những người Do Thái để chỉ những kẻ không tin Chúa, không những không tin mà còn có ý đồ xấu bắt bẻ lời Chúa và âm mưu làm hại Người. Xem ra họ muốn tìm hiểu về Chúa nhưng thực sự là họ có ý đồ xấu, muốn nghe chính Chúa nói mình là con Thiên Chúa, là Đấng Kitô để tố cáo Ngài : Nói phạm thượng. Tội phạm thượng là tội đáng bị xử theo luật Do Thái, họ muốn có bằng cớ thêm để tố cáo “Ông này là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga 5, 18). Đó là lời tố cáo sau này được nói lên khi luận xử Chúa Giêsu trước khi đóng đinh Ngài vào Thập giá như chúng ta đã biết.
Chúa Giêsu đã phơi trần âm mưu của họ : “Ta đã nói anh em rồi mà anh em không tin, vì anh em không phải là chiên Ta” (Ga 10, 25-27). Lời nói và việc làm của Chúa mà người Do Thái thấy tận mắt và nghe tận tai từ khi Chúa Giêsu rao giảng cho đến lúc này đã quá đủ mạc khải Ngài là ai rồi. Những kẻ nghe và tin nhận Chúa Giêsu khi có một tâm hồn sẵn sàng, đó là tâm hồn yêu thương gắn bó với người chủ chăn. Không có thái độ nội tâm sẵn sàng, thì không có thái độ đón nhận lời Chúa mạc khải và cũng không tin nhận Ngài. Mà nếu không tin nhận Chúa làm sao có được sự sống đời đời, làm sao gắn bó kết hợp mật thiết với Chúa được. Còn đối với những kẻ tin nhận Chúa, thì được một lời bảo đảm vô cùng quan trọng : “Không ai có thể cướp chúng khỏi Cha được”. Thế nên, sống tin tưởng vào Chúa là một bảo đảm chắc chắn cho những ai yêu mến Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là tấm bánh nuôi chúng con. Chúa hằng mong ước chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Xin cho Lời Chúa mãi là ngọn đèn soi dẫn bước chân chúng con đi trong chân lý và sự thật. Xin Mình và Máu Thánh Chúa nuôi dưỡng chúng con trong ân sủng và tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa hằng tha thiết kêu mời chúng con: Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Chúa không muốn chúng con đi theo tiếng của ma quỷ dẫn dắt vào đường xấu, vào con đường chết đời đời. Chúa muốn chúng con quay trở về với biển trời mênh mông của Chúa. Chúa muốn chúng con sống theo Lời Chúa vì: “cá không ăn muối cá ươn”. Cuộc đời chúng con đi lạc xa lời Chúa cũng sẽ rơi vào hố diệt vong đời đời. Chúa không muốn một ai trong chúng con phải hư mất. Chúa luôn tìm cách bảo vệ và che chở chúng con khỏi mọi sự dữ, khỏi mọi hiểm nguy của ba thù.
Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho niềm khao khát sống với Chúa nơi chúng con được sống lại, để chúng con luôn được thuộc trọn về Chúa. Xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết đặt Chúa là trung tâm điểm của đời sống chúng con, biết tìm kiếm của ăn không bao giờ hư nát là chính Chúa và giáo lý của Chúa để chúng con được no đầy ân tình của Chúa hôm nay và hạnh phúc nước trời mai sau. Amen
http://tgpsaigon.net
___________________________
Ði Một Ðoạn Ðường Với Chúa
Người Ấn Ðộ có kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Ðêm ngày, anh cầu nguyện liên lỉ chỉ mong sao cho ước nguyện của mình thành sự thật. Quả thực, không bao lâu, Thiên Chúa đã đến với anh dưới hình dạng của một con người đẹp đẽ, uy quyền, trầm tĩnh.
Chúa đề nghị với anh: "Con có thể đi với Ta một quãng đường không?". Người thanh niên cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Chúa và anh đồng hành với nhau như một đôi bạn tri âm. Ði một lúc, Chúa dừng lại nói với anh: "Ta khát nước, con có thể đi tìm cho Ta một ít nước không?".
Người thanh niên hăm hở đi tìm nước. Lòng anh tràn ngập hạnh phúc. Còn gì sung sướng bằng đi tìm nước để mang về cho Chúa... Nhưng, anh đi tìm mãi mà không thấy nơi nào có nước... Anh đi mãi để rồi cuối cùng dừng lại bên một bờ sông. Anh đang chuẩn bị lấy nước mang về cho Chúa, thì tình cờ một cô gái đẹp xuất hiện bên bờ sông. Cô gái đẹp đến độ người thanh niên không còn thấy cảnh vật xung quanh, cũng như không còn nghĩ đến việc mang nước về cho Chúa.
Anh nấn ná đến làm quen với cô gái. Họ thương nhau, lấy nhau và sinh được nhiều con cái. Không gì đầm ấm, hạnh phúc cho bằng. Nhưng một cơn ôn dịch xảy đến. Người thanh niên đưa vợ con đi đến một nơi khác. Nhưng khi họ đi qua một chiếc cầu, thì thình lình mưa gió thổi đến, nước dâng lên kéo cả vợ con anh theo. Người đàn ông bám vào được một gốc cây lớn. Anh khóc thương cho thân phận bọt bèo của vợ con cũng như chính kiếp cô đơn lạc loài của anh.
Giữa lúc đó, Thiên Chúa xuất hiện trước mặt anh: Ngài mỉm cười hỏi anh: "Này con, con có mang nước về cho Ta không? Con làm gì để Ta phải chờ đợi gần cả tiếng đồng hồ".
Một người cha nhân từ mòn mỏi trông đứa con hoang trở về: đó là hình ảnh cảm động nhất về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta trong bài dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng". Từng ngày, người cha ra đầu ngõ để trông đợi. Khi đứa con còn ở đằng xa, ông đã chạy đến để giang rộng đôi cánh tay để ôm trọn đứa con vào lòng, không một lời quở trách, không một cử chỉ bất bình... Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Chúng ta tưởng mình đi tìm Ngài, chúng ta tưởng Ngài ẩn mặt với chúng ta. Nhưng kỳ thực, chính Ngài mới là Ðấng đeo đuổi chúng ta, tìm kiếm chúng ta, chờ đợi chúng ta. Chúng ta tưởng mình đang đi đến với Chúa, nhưng kỳ thực chính Ngài đang ở với chúng ta.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
18-05-2011, 07:34 AM
18/05
Ánh sáng của Đức Kitô
Thứ Tư sau Chúa Nhật IV Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 12,44-50
44Đức Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; 45ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi.46 Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. 47Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. 48Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. 49Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. 50Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi."
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%2012,46.jpg
Suy niệm:
Nơi con người Chúa Giêsu có nhiều thứ ánh sáng. Đó có thể là thứ ánh sáng phản chiếu vinh quang quyền năng, thứ ánh sáng mà khi đối diện con người phải cúi đầu, Chúa Giêsu không tỏ lộ ánh sáng này cho các môn đệ và dân chúng theo Ngài, ngoại trừ một lần trên núi Thabor, Ngài biến hình sáng láng trước mặt ba môn đệ Phêrô, Yacôbê và Gioan.
Ánh sáng thường gặp nơi Ngài là ánh sáng soi đường dẫn lối, một thứ ánh sáng không làm cho con người sợ hãi, nhưng mời gọi bước theo. Ánh sáng phát xuất từ ngọn lửa yêu thương phục vụ xem ra không huy hoàng rực rỡ, nhưng lại hữu hiệu. Đối diện với ánh sáng này, con người sẽ hoặc là tiếp nhận, hoặc là chối từ. Khi chối từ tức là con người còn nằm trong bóng tối và ánh sáng trở thành ánh sáng xét xử. Chúa Giêsu không kết án, vì Ngài đến để cứu chuộc, nhưng chính thái độ cố chấp của con người sẽ kết án họ.
Không có ánh sáng đồng thời với bóng tối, ở đâu có ánh sáng, ở đó sẽ không còn bóng tối. Nhưng để tiếp nhận ánh sáng, con người phải chấp nhận từ bỏ, tiêu hao chính mình. chúa Chúa Giêsu đã đem lửa xuống trần gian và Ngài ước mong cho nó cháy lên. Gặp gỡ Đức Kitô, con người sẽ gặp được ngọn lửa yêu thương của Ngài. Ngọn lửa càng sáng, càng đòi tiêu hao nhiều nhiên liệu. Ngọn lửa Đức Kitô đã toản sáng khắp vũ trụ khi Ngài được giương cao trên Thập giá và hiến thân cho đến giọt máu cuối cùng.
Bước theo Đức Kitô, người kitô hữu chúng ta không những được mời gọi tiến vào miền ánh sáng, mà còn có bổn phận trở thành áng sáng. Ngài không cần chúng ta phản chiếu ánh sáng quyền năng của Ngài bằng những việc phi thường, nhưng là sẵn sàng tiêu hao chính mình để ánh sáng Đức Kitô được chiếu toả, và nhờ đó chính chúng ta cũng được đổi mới và nhận được vinh quang Phục Sinh của Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, lời Chúa là lời chân lý. Chúa có lời ban sự sống đời đời. Xin cho chúng con biết mau mắn tuân theo Lời Chúa. Xin giúp chúng con đừng vì những đam mê mù quáng để rồi ngoảnh mặt làm ngơ trước tiếng nói của Chúa. Xin ban ơn để chúng con thắng vượt những yếu đuối bản thân, biết làm chủ tư tưởng, ước muốn, lời nói, việc làm cùa mình theo đường lối huấn lệnh của Chúa. Xin cho chúng con biết bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, biết ăn ở ngay lành theo tiếng nói của lương tâm hầu chúng con có thể trở thành ánh sáng phản chiếu tình yêu Chúa cho mọi người. Xin cho chúng con luôn biết sống đẹp lòng Chúa qua việc lắng nghe và thực thi lời Chúa.
Lạy Chúa, Chúa hằng mong muốn chúng con được sống đời đời. Xin ban cho chúng con một lương tâm ngay thẳng để chúng con biết sống đúng với phẩm giá làm người của mình. Xin cho chúng con mau mắn tuân theo lề luật tối thượng của Chúa để lề luật của Chúa sẽ gìn giữ chúng con khỏi chết muôn đời. Amen.
http://tgpsaigon.net
__________________________
Cánh Diều
Người Rumani nói về nguồn gốc của trò chơi thả diều bằng mẩu chuyện như sau:
Tại một làng kia, có một người nghèo mà ai cũng gọi là Cob. Cob là một tên gọi không mấy thanh cao trong ngôn ngữ Rumani. Người ta gọi ông bằng tên ấy vì cái miệng sún răng cũng như đôi chân khập khiễng của ông. Con người có dáng vẻ xấu xí ấy lẽ dĩ nhiên chỉ có thể là một người nghèo mà thôi. Không vợ, không con, ông Cob lầm than như tất cả những người nghèo khác. Ði đến đâu, ông cũng trở thành trò đùa cho mọi người. Vậy mà con người ấy không hề than thân trách phận hoặc tỏ ra giận dữ, buồn phiền mỗi khi bị chọc ghẹo.
Cả đời, ông chỉ có mỗi một băn khoăn: là chưa hề làm một việc thiện cho người khác. Ông yêu người, ông muốn tặng thật nhiều quà cho mọi người. Nhưng ông cảm thấy mình quá nghèo để có thể thực hiện được giấc mơ ấy. Ông thường tự nhủ: "Bệnh tật, đau yếu, khốn khổ, chết chóc, đó là số phận chung của mọi người. Ai không nhỏ lệ thì cũng khóc thầm trong lòng. Nước mắt là cơm bữa của loài người. Do đó, cần phải làm cho con người phấn khởi, vui tươi". Nghĩ thế, ông trình bày lên Chúa tước nguyện như sau: "Xin Chúa cho con có thể mang lại cho những người đau khổ một quà tặng".
Một quà tặng cho nhân loại đau khổ, nhưng ông Cob vẫn không biết món quà đó phải như thế nào. Trong khi chờ đợi, mỗi lần bị cười chê, mỗi lần bị đem ra làm trò cười, ông vẫn tươi cười với ý nghĩ rằng: "Ít ra mình cũng làm cho người vui".
Sau một thời gian suy nghĩ, cuối cùng ông Cob mới tìm ra được món quà tặng mà ông sẽ mang lại cho nhân loại đau khổ: đó là một cánh diều bay lơ lửng trên không.
Nghĩ đó là sự linh ứng của Chúa, ông Cob đi nhặt tất cả những gì cần thiết để làm một cánh diều. Ông miệt mài cắt xén, sơn vẽ để hoàn thành được một cánh diều óng ả, sáng chói như một đĩa bay.
Khi cánh diều gặp gió bay cao, cả dân làng kéo nhau ra cánh đồng để nhìn ngắm cánh diều của ông Cob. Mọi người đưa mắt nhìn lên không trung và quên hẳn những nhọc nhằn của cuộc sống. Ðó là quà tặng mà người khốn khổ nhất của ngôi làng đã mang lại cho người đồng loại của mình.
Một tác giả nào đó đã nói: "Trái tim không phải là một món hàng để mua bán, mà là một món quà để trao tặng". Một trái tim không biết trao tặng là một trái tim chết.
Sự giàu có và nghèo nàn có thể phân biệt con người thành giai cấp thứ bậc. Có người tiền rừng bạc biển, có người nghèo rớt mòng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả tim, và quả tim đó lẽ ra phải giống nhau, bởi vì người ta không thể cân lường được quả tim. Do đó, quà tặng xuất phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món quà không hệ tại ở số lượng của tiền của, mà ở quả tim được gói gém trong món quà.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy qủa tim mà một người đàn bàgóa đã gói trọn trong một đồng xu nhỏ dâng cúng đền thờ. Nhân vật Cob trong câu chuyện của người Rumani trên đây đã đặt tất cả con tim của mình vào cánh diều để làm vui cho con người.
Một ánh mắt, một nụ cười, một lời nói an ủi, một bàn tay nâng đỡ, đó là bao nhiêu quả tim mà con người có thể trao tặng cho nhau. Và có thể là những món quà cao quý nhất mà những người xung quanh đang chờ đợi nơi chúng ta.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
19-05-2011, 07:21 AM
19/05
Tiếp nối sứ mệnh của Chúa
Thứ Năm sau Chúa Nhật IV Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 13,16-20
16Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. 17Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em! 18Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. 19Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. 20Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/3794356008_1cf47786cc_1.jpg
Suy niệm:
Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài đển thế gian để giảng dạy cho mọi người con đường cứu rỗi, và khi đã hoàn tất sứ mệnh của Ngài trên trần gian này, Chúa Giêsu sai các môn đệ Ngài đi loan báo Tin mừng cứu rỗi cho mọi tạo vật. Sự chính thống đó được Chúa Giêsu quả quyết như chúng ta có thể đọc thấy trong Tin mừng hôm nay : "Thầy bảo thật các con, ai đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy".
Trong văn mạch của Phúc âm, trước khi nói những lời trên, Chúa Giêsu đã làm gương cho các Tông đồ của Ngài : Ngài rửa chân họ và sau đó khi trở lại bàn ăn, Ngài nói với họ : "Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai không trọng hơn kẻ đã sai mình". Thật là đơn giản, nhưng là một sự đơn giản đòi hỏi : đời sống truyền giáo của Giáo hội phải rập khuôn với cuộc đời của Chúa Giêsu, với tấm gương Ngài đã sống và đã giảng dạy. Giáo Hội phải biết phục vụ trong khiêm tốn, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa.
Là những người đã lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta đều là những môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu bằng đời sống yêu thương và Phục vụ, trở nên muối và ánh sáng cho thế gian.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, năm xưa Chúa đã buồn vì Giuđa phản bội. Chúa đã buồn vì Giuđa từng ngồi chung bàn, đi chung đường với Chúa nhưng lại nuôi giã tâm phản bội Chúa. Ngày nay, có lẽ Chúa cũng buồn khi chúng con rước Chúa cách bất xứng. Chúa sẽ tiếp tục buồn khi chúng con rước Chúa nhưng không dám sống theo lời Chúa. Chúa sẽ càng buồn hơn khi chúng con rước Chúa mà lòng vẫn nuôi dưỡng những hận thù, ghen ghét, những tư tương xấu, cùng những đam mê thấp hèn.
Xin Chúa tha thứ cho chúng con. Xin Mình và Máu Thánh Chúa hàn gắn lại những thương tích do tội lỗi gây ra trong tâm hồn chúng con. Xin Thánh Thể Chúa nâng đỡ những yếu đuối của tâm hồn chúng con. Xin giúp chúng con biết sửa đổi bản thân khỏi những ham muốn tội lỗi, những thói đời sa đoạ đang làm băng hoại cuộc đời chúng con. Xin giúp chúng con biết nuôi dưỡng như tư tưởng thanh cao. Xin giúp chúng con luôn mang trong mình tâm tình hoà bình hơn là nuôi dưỡng những ghen ghét, hận thù. Xin đừng để chúng con quay lưng lại với Chúa vì những đam mê thấp hèn.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết dọn mình cho xứng đáng đón rước Chúa mỗi ngày. Xin giúp chúng con biết siêng năng kết hợp với Chúa qua bí tích Thánh Thể, để nhờ ơn Chúa, chúng con kiện toàn con người mình mỗi ngày được trở nên giống Chúa hơn. Amen
http://tgpsaigon.net
_____________________
Thánh Giáo Hoàng Celestine V
(1215 -- 1296)
Thánh Celestine, tên thật là Phêrô Morrone, sinh trong một gia đình nghèo ở nước Ý và ngài là thứ mười một trong gia đình mười hai người con. Năm hai mươi tuổi, Phêrô từ giã mái trường và sống khổ hạnh trong một hầm nhỏ mà ngài đào ở dưới đất. Sau ba năm, ngài gia nhập dòng Biển Ðức và được thụ phong linh mục ở Rôma.
Ðến năm 1246, ngài trở về Abruzzi, và sống năm năm trong một cái hang ở Morrone, gần núi Sulmona. Ðể chống lại các cám dỗ, ngoài thời giờ cầu nguyện và đọc Kinh Thánh, ngài lao động thật cực nhọc hoặc sao chép lại các sách thiêng liêng. Ngài không bao giờ ăn thịt và giữ chay bốn lần trong một năm. Ngoài ra, ngài còn mặc áo nhặm, đeo giây lưng bằng sắt, ngủ trên mặt đất hoặc tấm ván thô và dùng củi hoặc đá để gối đầu. Thân xác ngài càng tiều tụy thì tinh thần ngài càng thăng tiến. Nhiều người đến với ngài và bắt chước lối sống khổ hạnh ấy. Sau cùng ngài phải thành lập một dòng tu và cho đến khi từ trần, trên toàn Âu Châu đã có ba mươi sáu đan viện và sáu trăm đan sĩ nam nữ sống theo quy luật của ngài.
Sau khi Ðức Giáo Hoàng Nicôla IV từ trần, Giáo Hội không có người kế vị trong hai năm và ba tháng, và vì nghe tiếng thánh thiện của Cha Phêrô, hồng y đoàn đã chọn ngài làm giáo hoàng, lúc ấy đã tám mươi bốn tuổi. Ngài đau khổ khi nghe tin ấy, nhưng phải chấp nhận và lấy tên là Celestine V. Quyết định ấy đã đưa đến nhiều thảm họa vì Ðức Celestine không thích hợp với vai trò giáo hoàng trong bất cứ khía cạnh nào khác, ngoại trừ sự thánh thiện.
Ngài làm giáo hoàng chỉ có năm tháng. Bởi vì ngài quá khiêm tốn và đơn sơ nên bị nhiều người lợi dụng. Ngài trở thành con cờ chính trị của Vua Charles II nước Naples. Không bao lâu nhiều vấn đề phức tạp đã xảy ra trong Giáo Hội. Sau cùng, ngài quyết định từ chức, và quỳ gối tạ tội trước Hồng Y Ðoàn vì đã không chu toàn nhiệm vụ cai quản Giáo Hội. Thật là một nghĩa cử khiêm tốn biết chừng nào!
Tưởng được yên thân để sống đời ẩn dật như trước, nhưng hậu quả của các quyết định trong thời gian ngài làm giáo hoàng đã để lại nhiều nghi vấn nơi vị tân giáo hoàng kế nhiệm, do đó, Ðức Boniface VIII đã giam ngài trong thành Fumone. Ở đây, ngài bị sỉ nhục và chịu gian khổ, nhưng không hề than thở một lời. Trái lại, ngài còn gửi thư cho Ðức Boniface cho biết ngài rất hài lòng và không còn muốn gì hơn. Ngài thường nói: "Tôi không mong muốn gì hơn ở thế gian này ngoài căn phòng nhỏ hẹp; và họ đã cho tôi toại nguyện."
Trong thời gian tù đầy, ngài thường hát thánh vịnh đêm ngày. Một ngày trong tháng Năm 1296, ngài báo trước với lính canh là ngài sẽ chết vào cuối tuần. Thật vậy, sau khi kết thúc bài thánh vịnh trong giờ kinh sáng ngày thứ Bảy 19-5, ngài trút hơi thở cuối cùng. Trong mười tháng tù đầy, ngài không bao giờ giảm bớt lối sống khắc khổ.
Nhờ lời cầu bầu của ngài, nhiều phép lạ đã được ghi nhận, và ngài được Ðức Clêmentê V phong thánh năm 1313.
Trích từ NguoiTinHuu.com
___________________________
Tôi Chết Thay Cho Thầy Tôi
Một tu sĩ Hồi Giáo nọ quy tụ được 60 môn sinh. Sau một thời gian giáo huấn họ, ông quyết định như sau: Ta thấy đã đến lúc phải làm một cuộc hành trình mới. Ta không biết những gì sẽ xảy ra cho thầy trò chúng ta. Các ngươi hãy tuân giữ các điều ta đã truyền dạy cho các ngươi. Hãy nhớ điều này: trong bất cứ lúc nào, hễ ta giơ tay lên trời thì các ngươi hãy hô lớn: "Tôi chết thay cho thầy tôi".
Ðám môn sinh nhận thấy không thể chấp nhận được một đề nghị xem ra điên rồ như thế, cho nên 59 người đã bỏ cuộc trở về với nếp sống cũ của họ. Chỉ có một người chấp nhận điều kiện và quyết tâm đi theo thầy mình cho đến cùng. Hai thầy trò lên đường mà không biết đi về đâu. Họ đi mãi cho đến lúc tới một thành phố do một bạo chúa cai trị. Không bao lâu thì họ vào thành phố, ông bạo chúa đã ra lệnh cho các binh lính như sau: "Các ngươi hãy bắt giữ lấy tên du thử du thực đầu tiên và điệu đến đây cho ta. Ta muốn treo cổ hắn để làm một bài học cho bọn vô lại trong thành phố này".
Thế là bọn lính đã đến bắt người đệ tử của vị tu sĩ và điệu đến trước mặt bạo chúa. Giữa lúc cuộc hành quyết sắp bắt đầu, thì vị tu sĩ mới xuất hiện giữa đám đông và hô lớn: "Thưa quan lớn, xin hãy giết tôi, vì chính tôi là người đã dụ dỗ thanh niên này bỏ nhà ra đi để sống kiếp sống lang thang như tôi". Nói xong ông giơ tay lên trời.
Vừa thấy cử chỉ ấy của vị thầy, người thanh niên mới gào lên: "Thưa quan lớn, tôi muốn chết thay cho thầy tôi".
Quan bạo chúa nghe thế, mới hỏi các viên cố vấn của mình như sau: "Họ là ai mà sẵn sàng chết thay cho nhau?". Quan bạo chúa mới cho điệu vị tu sĩ đến trước mặt và yêu cầu giải thích cho cặn kẽ về mối tương quan giữa thầy trò.
Vị tu sĩ Hồi Giáo mới bình tĩnh phát biểu như sau: "Thưa quan lớn, chúng tôi có nghe nói rằng bất cứ ai được giết trong thành phố này đều được phúc trường sinh bất tử. Dĩ nhiên, nghe biết như thế, cho nên thầy trò chúng tôi mới hăm hở đến đây để được chết như thế".
Nghe thế, quan bạo chúa mới mỉm cười, rồi ra lệnh trả tự do cho họ. Người môn sinh chợt hiểu được rằng ai hy sinh mạng sống mình thì sẽ tìm lại được nó.
Cái chết của Ðức Kitô trên thập giá đều là vô nghĩa, nếu cái chết đó không phải là cái chết cho mọi người. Thập giá của Ðức Kitô sẽ chỉ là một ô nhục, nếu thập giá đó không là biểu trưng của tình yêu, sự hy sinh.
Bước theo Ðức Kitô trong cuộc tử nạn, vác lấy thập giá và đi theo Ngài không là một việc làm nhiệm ý và tùy hứng, nhưng là đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi Kitô. Con đường của Ðức Kitô chính là con đường của tình yêu, của hy sinh hiến thân cho người khác.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
20-05-2011, 10:07 AM
20/05
Đường Giêsu
Thứ Sáu sau Chúa Nhật IV Phục Sinh x
Lời Chúa:
Ga 14,1-6
1Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 2Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. 3Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 4Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi." 5Ông Tôma nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? " 6Đức Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%2014,1-6%20%282%29.jpg
Suy niệm:
Khi chơi trò tìm đường dẫn đến một địa điểm được yêu cầu thì người tham dự thường lúng túng, vì có quá nhiều đường vẽ dẫn tới nơi. Nhưng nếu tinh vi quan sát một chút, ta sẽ thấy việc tìm kiếm dễ như trở bàn tay. Đó là thay vì với nhiều điểm bắt đầu, với nhiều ngã rẽ, ta sẽ bắt đầu từ nơi đến rồi bắt đầu đi ngược lại ta sẽ dễ dàng tìm ra con đường tới nơi đến. Như vậy, điều cần thiết không phải chỉ là biết mà còn là biết nơi mình đến, cần biết nơi mình đến trước khi mình đi, ta sẽ đi đến đích nhanh hơn.
Thánh Tôma hỏi Chúa Giêsu, thì Ngài lý luận theo cùng một nguyên tắc như trên, nhưng ở đây trường hợp mà Thánh Tôma đặt ra coi như là không còn cần thiết nữa, nếu con người tìm được mối liên lạc với con đường đi là chính “Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6). Chúa Giêsu đã mạc khải cho người đồ đệ của Ngài biết nơi phải đến và con đường dẫn đến, đó là chính Ngài “Thầy là Đường là Sự Thật và là Sự Sống”. Vậy điều quan trọng nhất là sống theo Ngài, sống kết hợp với Ngài, đừng rời xa Ngài, nhất là khi gặp gian nan thử thách, vì Chúa đã cảnh tỉnh trước cho các môn đệ : “Hãy tin ở Thiên Chúa và hãy tin ở Ngài” (Ga 14, 1).
Đường về quê trời có nhiều thử thách, nhưng người đồ đệ có thể vượt qua dễ dàng nếu biết để Chúa hướng dẫn, để Chúa đưa mình tới nơi Ngài muốn. Bí quyết căn bản của người Kitô hữu là để Chúa được tự do dẫn đưa mình đi và chính họ phải biết cộng tác với Chúa, tức là để Chúa Giêsu chiếm hữu mình như các tông đồ xưa. Thánh Phaolô đã bộc lộ tinh thần sống và bí quyết đó là : “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Ước chi cuộc đời tôi đang sống, tôi muốn có được một niềm tin hoàn toàn vào Đấng đã yêu thương tôi và trao nộp chính mình cho tôi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, Chúa đã chỉ cho con biết đường về Quê Trời, đường dẫn con tới đường phúc thật và chỉ có một điều cần, đó là sự cộng tác của con với ơn Chúa. Cần tin tưởng vào Chúa, để Chúa hướng dẫn cuộc sống mình, chúng con tự phụ ỷ lại vào sức riêng mình thì chúng con sẽ làm hư hoại chương trình của Chúa. Xin Chúa cho chúng con thay đổi tâm thức, thay đổi con tim để chúng con mỗi ngày trở nên vâng phục, cộng tác tích cực vào sự hướng dẫn của Chúa. Amen.
http://tgpsaigon.net
____________________
Thánh Bernardine ở Siena
(1380 -- 1444)
http://www.thanhlinh.net/cacthanh/StBernardSiena.jpg
Nếu Thánh Phaolô Tông Ðồ nổi tiếng là người hăng say rao giảng thời tiên khởi, thì Thánh Bernardine là người thuyết giảng nhiệt thành của thế kỷ 15.
Thánh Bernardine sinh ở Massa Marittima (gần Siena) và là con của thống đốc tỉnh, nhưng khi lên bảy tuổi ngài đã mồ côi cha mẹ và được bà dì chăm sóc, dạy dỗ thật chu đáo.
Khi ngài 20 tuổi, trận dịch hạch lan tràn khắp thành phố Siena. Nhiều khi, ở bệnh viện có đến 20 người chết trong một ngày. Với sự tiếp tay của các thanh niên thiện chí khác, Bernardine tình nguyện điều hành toàn thể bệnh viện, tận tụy chăm sóc bệnh nhân trong bốn tháng.
Khi 22 tuổi, ngài gia nhập Dòng Phanxicô và hai năm sau đó được thụ phong linh mục. Các tu sĩ Phanxicô thường nổi tiếng là các nhà truyền giáo, nhưng Bernardine rao giảng rất ít vì giọng nói của ngài thật yếu và khàn khàn. Trong hai mươi năm ngài sống âm thầm trong bóng tối, dành thời giờ và năng lực để cầu nguyện và rèn luyện tâm linh. Vào lúc ấy, ngài được sai đi Milan trong công tác truyền giáo. Khi đứng lên rao giảng, giọng nói của ngài mạnh mẽ và có sức thuyết phục đến nỗi giáo đoàn không để ngài ra về nếu ngài không hứa sẽ trở lại.
Từ đó, ngài bắt đầu cuộc đời truyền giáo mà Ðức Giáo Hoàng Piô II gọi ngài là Thánh Phaolô thứ hai. Cũng như khi chăm sóc bệnh nhân trận dịch hạch, ngài nhiệt thành lăn xả vào hoạt động truyền giáo. Ngài ngang dọc khắp nước Ý, thường là đi bộ, rao giảng hai ba giờ đồng hồ và nhiều lần trong một ngày.
Ngài nổi tiếng là sùng kính Thánh Danh Ðức Giêsu, ngài nghĩ ra dấu hiệu -- IHS, là ba chữ đầu của tên Ðức Giêsu bằng tiếng Hy Lạp để thay cho những dấu hiệu dị đoan thời ấy. Việc sùng kính Thánh Danh lan dần, và dấu hiệu ấy bắt đầu xuất hiện trong các nhà thờ, tư gia và nơi công cộng. Nhiều người ghen tức đã vu khống ngài, cho rằng đó là sự đổi mới nguy hiểm và dị đoan. Họ đưa vấn đề lên đức giáo hoàng để chống đối ngài, nhưng sự thánh thiện, sự chính truyền và lời rao giảng là bằng cớ cho sự trung tín của ngài.
Năm 1427, Ðức Giáo Hoàng Martin V đề nghị ngài làm giám mục Siena nhưng ngài từ chối, sau đó ngài cũng từ chối làm giám mục của Ferrara và Urbino. Năm 1430, ngài làm bề trên một chi nhánh Dòng Phanxicô, các Tu Sĩ Sống Nghiêm Nhặt, ngài đặc biệt chú trọng đến kiến thức và nghiên cứu thần học cũng như giáo luật. Lúc đầu chi nhánh này chỉ có 300 tu sĩ; khi ngài từ trần số tu sĩ ấy lên đến 4,000 người.
Ngài cũng viết một số luận án thần học bằng tiếng Latinh và tiếng Ý đề cập đến các học thuyết căn bản của Kitô Giáo, cũng như luận án về Ðức Maria. Ngài thiết lập phân khoa thần học ở Perugia và Monteripido.
Trong hai năm cuối cuộc đời, ngài trở về đời sống rao giảng và đã từ trần "trên đường công tác," lúc ấy ngài gần 64 tuổi.
Ngôi mộ của ngài ở Aquila trở nên trung tâm hành hương. Ngài là người truyền giáo lỗi lạc của thế kỷ 15, và được Ðức Giáo Hoàng Nicôla V phong thánh năm 1450, chỉ có sáu năm sau khi ngài từ trần.
Trích từ NguoiTinHuu.com
_______________________________
Kẻ Ăn Cắp Một Ổ Bánh Mì
Người ta thường kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: "Gia đình tôi đang chết đói".
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biẹn bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: "Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la". Vừa công bố bản án, ông thỉntưởng rút trong túi của mình ra 10 đô la và trao cho ngwòi đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: "Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp". Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền vảtao tất cả cho ông lão.
Khi chiếc mũ đã được truyền một vòng tòa án và trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đô la 50 xu.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1991, Ðức thánh Cha Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta hãy đọc và suy ngẫm về bài dụ ngôn người giàu có và Lazarô.
Mới nghe qua, chúng ta có cảm tưởng người giàu có trong bài dụ ngôn đã không làm điều gian ác nào để đến độ phải bị trầm luân. Chúa Giêsu đã không nói: ông đã trộm cướp, hay biển lận hoặc gian xảo trong việc làm ăn. Ngài cũng không kết án việc ông ngày ngày yến tiệc linh đình.
Vậy thì đâu là tội của người phú hộ? Thưa đó là tội dửng dưng trước nỗi khổ của người khác. Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện ngày qua ngày của một người khốn khổ trước cửa nhà ông để cho chúng ta thấy sự đang tâm làm ngơ của người giàu có... Máu chảy, ruột mềm. Trước cảnh khốn khổ của người đồng loại, mà người giàu có ấy vẫn không biểu lộ một chút xúc động hoặc làm như không nhìn thấy, thì quả thật không gì đáng trách bằng, bởi vì người giàu có đã làm cho trái tim của mình khô cứng.
Dửng dưng trước nỗi khổ của người khác không là một thái độ vô thưởng vô phạt, mà là một hành động tội ác. Ông thị trưởng thành phố New York trong câu chuyện trên đây quả thực đã thấy được tội ác của chính ông và của thị dân của ông đối với lão ông ăn cắp bánh mì.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
21-05-2011, 07:26 AM
21/05
Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống
Thứ Bảy sau Chúa Nhật IV Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 14,7-14
7Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người." 8Ông Philípphê nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện." 9Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha"? 10Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. 13Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%2014,7-14-jesusfamily2.jpg
Suy niệm:
Được biết Thiên Chúa và được thấy Ngài, đó là ước muốn rất chính đáng và rất sâu xa của mọi tín hữu. Chúa Giêsu đáp ứng ước vọng đó: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy”. Nhìn Chúa Giêsu ta có thể biết Chúa Cha như thế nào: Nhân từ, hiền hậu, gần gũi với những người đau khổ, khoan dung với những kẽ tội lỗi…Thiên Chúa mà chúng ta thờ là như thế đó.
“Ai tin vào Thầy người ấy sẽ làm được những việc Thầy làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”. Chúa Giêsu nói đến sức mạnh và năng lực kì diệu Ngài sẽ ban cho kẻ tin vào Ngài. Các vị Thánh đã tin và đã làm được những phép lạ như Chúa Giêsu. Tôi có tin không? “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra như Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình”. (Ga14,10).
Một vị vua nọ có lần nẩy ra ý nghĩ táo bạo : ông cho triệu mời các lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu. Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa : làm thế nào có thể thoả mãn được một ước muốn càn gở như thế. Biết được nỗi lo âu của các nhà lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin được làm công việc đó. Buổi sáng nọ, kẻ chăn chiên dẫn nhà vua đến đồng cỏ nơi anh thường chăn súc vật. Họ đi bộ, chứ không dùng xe, khi tới nơi, mặt trời đã gần đỉnh ngọ. Kẻ chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và xin nhà vua nhìn. Vua nổi giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của ông hay sao. Bấy giờ kẻ chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thưa : "Tâu bệ hạ, chỉ một vật do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được". Chính lúc ấy, nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa không phải bằng đôi mắt, nhưng bằng niềm tin.
Trong tin mừng hôm nay, Philipphê, một trong nhóm mười hai đã xin Chúa Giêsu tỏ cho thấy Thiên Chúa Cha. Chắc hẳn khi nói điều đó Philipphê đã liên tưởng đến hình ảnh một Thiên Chúa quyền năng đã tỏ vinh quang Ngài trên núi Sinai, một Thiên Chúa mà Môsê chỉ được thấy phía sau lưng Ngài. Tâm trạng của Philipphê cũng là tâm trạng của rất nhiều người trong chúng ta, đó là một niềm tin đòi hỏi sự lạ. Bởi thế, không ít người sẵn sàng hao tốn tiền bạc và thời giờ để để tìm đến những nơi xẩy ra sự lạ, đối với họ, một lần hành hương có ý nghĩa và giá trị cho cả cuộc đời.
Đáp lại yêu cầu Philipphê, Chúa Giêsu đã đưa ra một khẳng định và một câu hỏi : trước hết Ngài nêu lên một chân lý : "Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy", đó là một thực tại đã quá hiển nhiên : câu hỏi tiếp sau đó như một nhắc nhở cho Philipphê : Hãy nhìn lại cuộc sống thân tình giữa Thầy và các môn đệ. Những lời Thầy nói, những việc Thầy làm, không phải là của Thầy, mà là của Thiên Chúa Cha ở trong Thầy. Sự thân tình quen thuộc đã khiến cho các môn đệ không nhận ra Ngài là Thiên Chúa. Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với Philipphê cũng là lời nhắc nhở chúng ta : đừng để những nét quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước mặt Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm dấu lạ, nhưng dấu lạ xẩy ra trước mắt mà chẳng nhìn thấy : hằng ngày qua lời truyền phép, Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ, nhưng đã thấy khi chúng ta tỏ thái độ cung kính tin nhận Ngài ? Trong cuộc sống biết bao lời cầu xin được dâng lên Thiên Chúa nhưng đã mấy lần chúng ta phản tỉnh để nhận ra ơn lành Ngài ban.
Ước gì chúng ta giữ mãi thái độ tìm kiếm, một sự tìm kiếm không ở đâu xa, nhưng trong chính cuộc sống quen thuộc hằng ngày. Đập vỡ chiếc vỏ quen thuộc bằng cách ngạc nhiên đặt câu hỏi, chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con biết Chúa là Đấng nhân từ, giàu lòng thương xót và rất từ bi. Chúa luôn gần gũi với những người khổ đau nghèo đói. Chúa luôn đối xử khoan dung với những ai lầm lỡ. Chúa đã tỏ cho chúng con thấy một tình yêu thuỷ chung và sắt son của Chúa. Chúa đã yêu chúng con và yêu cho đến cùng. Xin cho chúng con biết học nơi Chúa tình yêu thương để chúng con cũng đối xử nhân ái bao dung với nhau. Xin giúp chúng con biết hoạ lại dung nhan hiền hậu của Chúa giữa cuộc sống còn đầy hận thù, bất công, đang cạn kiệt lòng nhân ái bao dung.
Lạy Chúa, Chúa đã từng nói: “ai thấy Thầy là thấy Cha”. Xin cho đời sống chúng con cũng phản ánh hình ảnh yêu thương của Chúa cho thế giới hôm nay. Amen
http://tgpsaigon.net
____________________
21 Tháng Năm
Thánh Crispin ở Viterbo
(1668 -- 1750)
http://www.thanhlinh.net/cacthanh/StCrispinViterbo.jpg
Thánh Crispin tên thật là Phêrô Fioretti, sinh ở Viterbo, nước Ý. Ngài mồ côi cha ngay khi còn nhỏ. Vì hay đau yếu mà nhà lại nghèo, nên bà mẹ đã dâng cậu con trai năm tuổi cho Ðức Mẹ. Biến cố đó không bao giờ phai nhạt trong đầu Phêrô mà sau này cậu thường coi Ðức Maria như mẹ ruột của mình.
Vì nghèo không đủ tiền đi học, Phêrô theo ông chú học nghề đóng giầy, cho đến khi 25 tuổi, Phêrô gia nhập dòng Capuchin với tư cách thầy trợ sĩ và lấy tên là Crispin.
Sau khi khấn trọn, ngài được giao cho công việc đầu bếp cho nhà dòng ở Tolfa. Như lúc còn ngoài đời, ngài luôn luôn sùng kính Ðức Mẹ và qua sự cầu nguyện của thầy, nhiều người đã được chữa lành về phần xác cũng như phần hồn. Có lần một nhà quý tộc vì sống trác táng nên bị đau nặng và đến xin Thầy Crispin cầu nguyện. Thầy hỏi, "Thưa ngài, ngài muốn Ðức Mẹ chữa ngài, nhưng nếu giả như có người xúc phạm đến Con của Mẹ thì người ấy có làm buồn lòng Ðức Mẹ không? Nếu thực sự sùng kính Ðức Mẹ thì không thể xúc phạm đến Con của Mẹ được." Nhà quý tộc đã ăn năn sám hối và thay đổi đời sống.
Cùng với công việc đầu bếp, y tá, làm vườn, Thầy Crispin là người khất thực chính cho nhà dòng trong gần 40 năm. Ngay từ khi mặc áo dòng cho đến khi từ trần, thầy được Chúa ban cho ơn chữa lành bệnh tật và bất cứ ai đến với thầy đều cảm thấy phấn khởi và được bình an trong tâm hồn. Trong thời gian khất thực ở Orvieto, ngài không chỉ xin cho nhà dòng, mà còn xin cho tất cả những người nghèo ở đây.
Ngài đích thực là con cái của Thánh Phanxicô, luôn luôn vui vẻ và hăng say phục vụ cho đến khi từ trần vào lúc tám mươi hai tuổi. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô VII phong chân phước năm 1806 và Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh cho ngài năm 1982
Lời Bàn
Cha Henri de Lubac, dòng Tên, đã viết, "Chúng ta phải yêu quý thời đại của chúng ta, nhưng không nhượng bộ tinh thần của thời đại, có như thế, mầu nhiệm Kitô Giáo trong chúng ta sẽ không bao giờ mất sức sống" (Sự Huy Hoàng của Giáo Hội, t. 183). Thánh Crispin quý trọng bất cứ ai mà Thiên Chúa đã đưa đến với ngài và trong bất cứ thời gian nào. Thánh Crispin đã trở nên cuốn phúc âm sống động cho anh em dòng và cho người dân ở Orvieto. Sự thánh thiện của ngài đã khuyến khích họ sống bí tích rửa tội một cách độ lượng hơn.
Lời Trích
Trong bài giảng lễ phong thánh cho Thầy Crispin, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng gia đình nhân loại thường bị "cám dỗ bởi quyền tự trị lầm lạc, vì từ chối các giá trị Phúc Âm, do đó, nhân loại cần đến các thánh, là những gương mẫu đã dùng đời sống cụ thể của mình để minh chứng tính cách xác thực của Ðấng Tối Cao, giá trị của sự Mặc Khải và sự Cứu Ðộ mà Ðức Kitô đã hoàn thành" (Báo L'Observatore Romano 1982, tập 26, số 1).
Trích từ NguoiTinHuu.com
___________________________________
Ðôi Cánh Con Tuấn Mã
Hai người bạn thân ngồi bên nhau dưới một bóng cây cổ thụ. Cả hai đều đưa mắt nhìn về cánh đồng trước mặt, nhưng mỗi người một ý nghĩ.
Người có dáng vẻ đầy nghị lực, cái nhìn cương quyết, thốt lên như sau: "Một cảnh vật phẳng lặng và độc điệu như thế này quả thực là nhàm chán. Tôi sẽ rời bỏ ngôi làng nhỏ bé này để làm một vòng du lịch cho biết đó biết đây".
Người bạn khác với dáng điệu mảnh khảnh ít nói, mỉm cười nhìn vào phong cảnh xung quanh rồi nói: "Tôi cũng có một con tuấn mã. Từ bao lâu nay, tôi đã đi lại không biết bao nhiêu nơi rồi".
Hai người chia tay nhau và hẹn cũng gặp lại dưới bóng cây cổ thụ để kể cho nhau nghe những cuộc du lịch của mình.
Sau một năm, họ lại gặp nhau... người thứ nhất kể chuyện: "Trong một năm qua, hầu như nơi nào tỗimcung đã đặt chân đến. Tôi đã đi xuống biển, lên ngàn, vượt đèo, qua suối. Tôi đã gặp không biết bao nhiêu người. Tôi đã học được bí quyết kiếm được nhiều tiền... Giờ đây, tôi trở nên giàu có. Tôi sẽ tiếp tục đi du lịch... Còn bạn, bạn đã đi được nơi nào trong suốt năm qua?".
Người bạn chưa từng rời bỏ ngôi làng của mình đã trả lời: "Tôi đã lên trời, tôi đã bay lượn trên các tầng mây. Tôi đã đến đô thị của mặt trời". Nghe thế, người kia thắc mắc: "Phải chăng con tuấn mã của anh bay được?". Con người có tâm hồn thi sĩ trả lời: "Ðúng thế, con ngựa của tôi có đôi cánh. Nó đưa tôi lên tất cả những nơi nào tôi muốn. Mắt tôi nhìn thấy được muôn kỳ công của vũ trụ. tai tôi nghe được muôn điệu nhạc của thiên nhiên... Ðối với anh, sự giàu có nằm trong của cải vàng bạc. Nhưng đối với tôi, của cải chính là đôi mắt của tâm hồn tôi. Cho dẫu một năm qua, tôi chỉ ngồi dưới bóng cây cổ thụ này, cho dẫu quang cảnh trước mặt tôi chỉ là cánh đồng phẳng lặng này, nhưng tâm hồn tôi nhìn thấy muôn nghìn cảnh đẹp của thiên nhiên, tai tôi có thể nghe được bao nhiêu điệu nhạc của thiên nhiên mà anh không thể nghe được".
Người có tâm hồn nghệ sĩ có những rung cảm mà người khác không có. họ nhìn thấy, họ lắng nghe được những điều mà người khác không cảm nhận được. Cũng thế, người có đôi mắt Ðức tin cod thể nhìn thấy các giá trị mà người khác không nhìn thấy. Ðôi mắt Ðức tin giúp chúng ta cảm nhận được sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong vũ trụ, trong lịch sử, trong con người. Ðôi mắt Ðức tin ấy giúp chúng ta thấy được giá trị của cuộc sống độc điệu, của những hy sinh âm thầm hằng ngày. Ðôi mắt Ðức tin ấy giúp chúng ta thấy được lẽ khôn ngoan trong những điều người đời cho là điên dại, sức mạnh trong những cái yếu đuối. Ðức tin ấy giúp chúng ta nhìn thấy ánh sáng trong tăm tối, sự sống trong cái chết, ân sủng trong tội lỗi.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
23-05-2011, 07:55 AM
23/05
Yêu mến Thầy và giữ lời Thầy
Thứ Hai sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 14,21-26
21Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy." 22Ông Giu-đa, không phải Giuđa Ítcariốt, nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian? " 23Đức Giêsu đáp: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%2014,21-26%20love.jpg
Suy niệm:
Làm Kitô hữu là được gia nhập gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương và chăm sóc chúng ta. Đó là một vinh dự và là một hạnh phúc to lớn. Cám ơn Chúa. Thái độ đối xử đúng nhất của Kitô hữu với Ba Ngôi Thiên Chúa là “nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ”, vì thế tỏ ra mình yêu mến Thiên Chúa, và được Ngài yêu mến, tỏ mình ra và ở trong ta.
Trong cuốn sách the living stone có một câu chuyện như sau: Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thần khả kính. Ngày vị thần sắp lìa trần, ông gọi Jonathan về để gặp lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời trăn trối của ông chỉ vỏn vẹn có mấy chữ “Hãy hành động vì lòng yêu mến”.
Chúa Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản “Ai nghe và giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Chúa Giêsu không đòi hỏi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính…Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người mình yêu, sẵn sàng cho đi tất cả vì người mình yêu, chứ không dừng lại ở những rung động ở thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình.
“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại nơi người ấy”. Mỗi lần, bạn ấy xin cha mẹ đi chơi, chúng tôi đều cười nhạo: “Lớn rồi mà còn xin với xỏ. Mình trưởng thành rồi, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm tuỳ ý”. Bạn ấy đã giải thích một cách đơn sơ nhưng hợp lý hợp tình: “Hẳn ba má không cần tôi xin, nhưng chắc chắn ba má tôi rất vui khi tôi xin phép như vậy. Tôi làm thế để được làm con và làm con thảo của ba mẹ tôi”.
Hẳn Chúa cũng rất vui khi tôi quan tâm lắng nghe và tuân giữ lời Ngài, để Ngài có thể đưa tôi vào sự hiệp thông tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, niềm hạnh phúc lớn nhất của chúng con là sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng con. Có Chúa cùng đồng hành chúng con sẽ an vui và quên hết ưu phiền. Đó chính là hồng ân cao quý mà Chúa đã dành cho chúng con. Ôi! Còn gì hạnh phúc và êm đềm hơn khi có Chúa cùng đi với chúng con qua những thăng trầm của cuộc đời. Ôi! Còn gì vui sướng khi có Chúa là thành luỹ che chở cuộc đời chúng con. Chúng con xin hết lòng tạ ơn và ngợi khen tình yêu mà Chúa đã dành cho chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ đánh mất Chúa là cùng đích cuộc đời chỉ vì những vinh hoa phú quý trần gian. Xin giúp chúng con biết sống kết hợp với Chúa như cành liền cây để sự sống, ân sủng và Lời của Chúa mãi tuôn trào trong cuộc sống chúng con.
http://tgpsaigon.net
________________________________
Chết Vì Niềm Tin
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hungari và xin được được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: "Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, để giúp những giàu dễ dàng kiềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa".
Vị mục sư cười và trả lời rằng: "Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật". "Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng giễu cợt tôi", vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa: "Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng".
Vị mục sư điềm tĩnh trả lời: "Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Ðức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa".
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn và chạy đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: "Ðúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Ðức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn Ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Ðức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Ðiều này có thể làm được".
"Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng: chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng trong niềm tin là ơn gọi của mọi tín hữu".
Cộng đồng Vatican II đã mở ra một kỷ nguyên mới, đã mang đến cho hội thánh và mỗi tín hữu một mùa xuân mới, đã nêu bật và tạo cho mọi tín hữu nhiều cơ hội để biểu lộ niềm tin qua hành động: Sống đạo và Hành đạo. Nhờ quan niệm này, Ðạo đã không bị giới hạn trong nhà thờ và trong những giờ kinh, nhưng Ðạo và Niềm tin đã được đem ra Sống và Thức hành trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh sống.
Nhưng câu vấn nạn thường gây ra nhiều thắc mắc vẫn là: sống niềm tin và thực hành trong niềm tin nào?
Quan trọng nhất có lẽ là tin vào Thiên Chúa tình yêu. Ðối với mỗi người trong chúng ta Thiên Chúa tình yêu này có một chương trình để dẫn dắt chúng ta đi trong tin yêu và đạt được tình yêu hoàn hảo. Rồi bước thứ hai là thực hành tình yêu với câu hỏi đơn sơ: nếu Chúa là tôi, thì trong hoàn cảnh cụ thể này, Ngài sẽ xử trí và hành động như thế nào?
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
24-05-2011, 08:08 AM
24/05
Hòa bình Chúa ban
Thứ Ba sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 14,27-31a
27Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. 28Anh em đã nghe Thầy bảo: "Thầy ra đi và đến cùng anh em". Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. 29Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin. 30Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa, bởi vì Thủ lãnh thế gian đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy. 31Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%2014,27-31.jpg
Suy niệm:
Bình an của Chúa Giêsu mang đến không phải là thứ bình an mà thế gian ban tặng. Bình an của thế gian thường chỉ là đồng nghĩa với an phận, với trốn tránh, với thoả hiệp. Bình an của Chúa mang đến chỉ có thể có được bằng một giá đắt đỏ: Nó đòi hỏi sự chiến đấu, chấp nhận mất mát, có khi cả hy sinh mạng sống mình nữa. Bình an ấy chỉ có khi con người có thể thốt lên như Thánh Phaolô “Lương tâm tôi không trách tôi điều gì”
Còn gì quý hơn một cuộc sống mà tâm hồn luôn an bình thư thái. Bởi thế chúng ta có thể đề ra cho mình cả một chương trình sống mà mục tiêu là tạo dựng và gìn giữ bình an trong tâm hồn: Làm tất cả những gì có thể mang lại bình an cho mình và cho anh chị em. Tránh gây ra xung đột, va chạm. Tìm cách giải hóa và hòa giải các mầm mống có thể gây bất an. Nhất là tránh tội lỗi là thứ làm xáo trộn mình nhiều nhất.
Một lần được phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêsa trực diện với một kẻ hỏi cắc cớ: “Bà yêu thương người nghèo điều đó rất tốt. Nhưng còn biết bao nhiêu người giàu có của Vatican và Giáo hội thì sao?” Mẹ nhìn thẳng vào người phỏng vấn và nói: “Thưa ông, ông không phải là người hạnh phúc. Có những điều đang xâu xé ông. Ông không có một chút bình an trong lòng”. Lời đó làm ông xụ mặt, và Mẹ tiếp tục khiến ông thêm quặn đau: “Ông nên có niềm tin tưởng”.
- Làm thế nào tôi có được niềm tin?
- Ông nên cầu nguyện.
- Nhưng tôi không thể cầu nguyện.
- Tôi sẽ giúp ông. Nhưng phần ông, ông nên cho những người xung quanh nụ cười. Một nụ cười làm ông gần những người khác. Nó mang sự thật về Thiên Chúa vào cuộc sống của chúng ta.
Bình an của Chúa Cha không phải là một thứ an tâm trong cám dỗ và thiếu xót, không phải là tránh lương tâm dưới áp lực của tội lỗi và tật xấu, không phải là đầu hàng để sống sai trái và bất công. Song bình an của Chúa là niềm hân hoan, vì tâm hồn được hòa giải với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa. Dù có đau khổ trong tinh thần hay thân xác, cả những lo âu trăn trở thì những đau khổ, những lo âu ấy cũng được chấp nhận chia sẻ, và nó có một giá trị với những đau khổ của Chúa, như một chia sẻ với những khó khăn và thử thách với người mình yêu thương.
Để được hưởng sự bình an ấy, chúng ta cần sống hoà giải với Chúa, với tha nhân và với chính mình, nghĩa là không để tội lỗi làm mình bất nhân, bất nghĩa với Chúa, không để lòng mình để những khuấy động sôi sục vì những ghen ghét, vì những bon chen ước muốn quyền lực, danh vọng... Chúa ban bình an cho chúng ta là để chúng ta mang bình an cho tha nhân, để chúng ta trở thành dụng cụ bình an của Chúa với người khác.
Như vậy, bình an của Chúa Giêsu nói đây là một lời trăn trối cuối cùng của Ngài, khi Ngài sắp ra đi chịu chết, và cũng là bình an của sự vui khi Ngài sống lại. Bình an đó là điều quan trọng, vì đó là ơn của Chúa Thánh Thần ban, nó chính là hạnh phúc thật mà chúng ta đang tìm. Bình an đó Thiên Chúa còn muốn cho mọi người, cho mọi quốc gia trên thế giới đều được hưởng mà chúng ta gọi là “hòa bình”.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, có nhiều lần con tự trấn an mình bằng những gì mình có, con chiếm hữu và lo giữ lấy. Trước bạn bè, con giả vờ như rất an tâm giữa những tiếng ồn ào, huyên náo; nhưng thật sâu bên trong lại chẳng an tâm. Xin ban cho con bình an của Chúa, thứ bình an mà không đau khổ nào có thể chạm tới, bình an của một tâm hồn luôn sống trong sự thật.
http://tgpsaigon.net
__________________________________
Lòng Tham Không Ðáy
Hôm ấy, trời vừa rạng đông, một ông hoàng nói với tên đầy tớ: "Xem chừng anh mơ ước giàu lắm. Vậy từ giờ này cho tới lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy. Tất cả những ruộng vườn anh chạy vòng quanh được, tôi vui lòng nhường lại cho anh hết".
Sướng quá! Cha chết sống lại cũng không bằng.
Tức thì chàng cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên lưng con ngựa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng ta làm chủ được mấy cánh đồng bao la mù mịt. Chàng vừa dừng chân, thì một khu rừng mơn mởn hiện ra trước mắt cám dỗ chàng. Không kịp thở, chàng lại cắm đầu chạy tiếp, chạy một vòng dài nữa.
Vừa dừng chân, lại một hồ cá mênh mông, với mặt nước trong ngần, huyền ảo phản chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Lại một vòng nữa... Sau cùng, màn đêm đã phủ xuống trên nẻo đường đi. Chàng hổn hển quay bước trở về nhà, để làm bậc tỉ phú với "Ruộng vườn mặc sức chim bay, biển hồ lai láng mặc bầy cá đua".
Nhưng vừa bước chân qua ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống đất bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc... Nhưng vô hiệu. Nhà tỉ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá sức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng địa cầu, vừa dài vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất.
Ðiểm qua những câu chuyện cổ kim về lòng tham, chúng ta rút ra được bài học gì?... Chắc có người tự hỏi: sống trong thời củi quế gạo châu, chạy ăn từng bữa này làm gì có nhiều của mà tham với lam. Như những anh ăn mày cũng gắn bó với manh chiếu rách, với chiếc áo tơi đến độ có thể "ăn thua đủ" với những ai đánh cắp.
Lòng tham không cần bị nhiều cám dỗ mới nổi tính tham. Vì thế đức tính đầu tiên chúng ta cần phải tập là tinh thần từ bỏ, dùng của cải như những phương tiện chứ không phải như mục đích. Bước thứ hai là tập cho có quan niệm: chúng ta chỉ là những người quản lý chứ không phải là chủ nhân những của cải vật chất và có như thế chúng ta mới dễ dàng tiến thêm bước thứ ba: sẵn sàng chia sẻ với những người cần thiết hơn. Không cần phải đợi có tiền muôn bạc vạn mới chia sẻ. Hạt muối cắn hai mới thật sự sưởi ấm lòng người và công đức trước mặt Thiên Chúa.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
25-05-2011, 07:29 AM
25/05
Để vườn nho sinh nhiều hoa trái
Thứ Tư sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 15,1-8
1"Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. 2Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. 3Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. 4Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. 5Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. 6Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. 7Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. 8Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%2015,%201-17.jpg
Suy niệm:
Hệ quả của sự cắt tỉa: Có một dạo phong trào trồng nho đã nở rộ tại một số tỉnh dọc theo duyên hải miền Trung. Cây nho không còn là một thứ cây xa lạ đối với nhiều người Việt Nam nữa. Cây có trái là chuyện thường, nhưng cây phải bị cắt tỉa mới có thể đâm chồi, trổ hoa và sinh trái, đó là hình ảnh đặc trưng của cây nho. Thật thế, với đôi mắt không chuyên môn, khi nhìn vào thân nho bị cắt tỉa, có lẽ ai cũng phải xót xa, có lẽ người ta sẽ nhìn vào người trồng nho như một con người nhẫn tâm, vì người trồng nho xem ra cắt tỉa cây nho không chút tiếc xót. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, người ta sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy từ những cành trơ trụi những mầm non nhú ra và hoa cũng bắt đầu xuất hiện.
Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh để nói về những thực tại Nước Trời. Nhưng trong các hình ảnh ấy, cây nho hẳn phải chiếm một chỗ ưu việt : ưu việt vì cây nho là giống cây phổ thông nhất của miền Palestina, ưu việt vì trong Cựu ước cây nho vốn được xem là biểu trưng của dân riêng. Nhưng như các tiên tri đã nhiều lần lên tiếng tố cáo : thay vì sản xuất rượu ngon, cây nho Israel chỉ mang lại thứ rượu đắng của bất trung và phản bội. Tiếp tục truyền thống tiên tri, Chúa Giêsu cũng lấy lại hình ảnh cây nho, nhưng cây nho chính là Ngài. Lòng tín trung mà Thiên Chúa hằng chờ đợi nơi Israel nay Ngài đã tìm thấy nơi cây nho đích thực là Chúa Giêsu. Một giao ước mới phát sinh, bởi vì lòng trung tín của Chúa Giêsu được diễn tả trong sự vâng phục và vâng phục cho đến chết trên Thập giá, không phải là cố gắng thuần tuý của con người, mà chính là lòng thủy chung của con Thiên Chúa trong chừng mực của con người. Cây nho của giao ước mang lại những trái xum xuê có tên là tình yêu. Đó là kết quả của sự cắt tỉa : cây nho không thể sinh hoa kết trái nếu không bị cắt tỉa, tình yêu sẽ không là tình yêu đích thực và phong phú nếu không được cắt tỉa khỏi những ngọn nhành thừa thải của ích kỷ.
Giáo hội Israel mới chính là cây nho của Chúa. Lịch sử cho thấy có lúc xem ra Giáo hội bị cắt tỉa một cách tàn nhẫn, nhưng cũng chính những lúc đó Giáo hội mang lại nhiều hoa trái hơn cả. Những cuộc bách hại đẫm máu lại là những cắt tỉa làm cho Giáo hội sinh được nhiều hoa trái nhất. Đó là cái nhìn chúng ta phải có để nhìn vào Giáo hội: sức sống của Giáo hội có khi không chỉ được nhìn thấy và đánh giá qua những biểu dương bên ngoài, hoa trái đích thực khi chấp nhận được cắt tỉa khỏi những phù phiếm rườm rà của thế tục. Cơ cấu hữu hình có thể bị phá vỡ, cơ sở vật chất có thể bị cướp mất, những quyền cơ bản nhất gắn liền với tự do tôn giáo có thể bị tước đoạt, đôi tay hoạt động có thể bị khóa chặt; đó có thể là những cắt tỉa cần thiết để cây nho Giáo hội trổ sinh hoa trái dồi dào.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào Giáo hội và cuộc sống đức tin của chúng ta với một cái nhìn bình thản và tin tưởng. Mỗi kitô hữu là một ngành nho gắn liền với cây nho là chính Chúa Giêsu. Để được gắn liền với Ngài và trổ sinh hoa trái chúng ta không thể không chịu cắt tỉa khỏi những gì nghịch với Tin mừng và cốt lõi của Tin mừng là tình yêu. Sự cắt tỉa nào cũng làm chúng ta đau đớn, mất mát nào cũng làm chúng ta tiếc xót, nhưng vì đã được sống theo Tin mừng, chúng ta hãy xem như một lợi lộc cao quí nhất khi bị cắt tỉa và mất mát ấy sẽ mãi mãi tồn tại. Vả lại ngay trong cuộc sống này, giá trị của con người không được đo lường bằng những gì nó thu tích, mà bằng chính những gì nó hy sinh và cho đi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con vẫn biết rằng, để cành nho cuộc đời chúng con sinh hoa kết trái thì cần được cắt tỉa, loại bỏ những gì không phù hợp với sức sống thần linh của Chúa. Thế nhưng, Chúa ơi, chúng con vẫn bám víu vào những đam mê tật xấu. Tâm hồn chúng con vẫn chứa đựng đầy những tham lam bất chính, những tư tưởng dâm ô tội lỗi. Cuộc sống chúng con còn đầy những lầm lỗi gây nên đau khổ cho gia đình và bạn bè. Xin Chúa thứ tha tội lỗi chúng con. Xin Chúa cắt tỉa nơi tâm hồn chúng con khỏi những ước ao phạm tội, những toan tính xấu xa, những mưu đồ bất chính để chúng con luôn xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự trị.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được lưu lại trong Chúa mỗi khi chúng con rước Chúa vào lòng, để sự sống của Chúa tuôn chảy trên dòng đời của chúng con, qua các việc đạo đức hằng ngày, qua cuộc sống yêu thương và phục vụ mọi người, nhờ đó mà muôn dân sẽ nhận ra “chúng con là môn đệ của Chúa”. Amen
http://tgpsaigon.net
___________________________
Cái Bật Lửa
Ðể kỷ niệm một trận chiến, một quận công bên Anh Quốc đã làm một bữa tiệc khoản đãi một nhóm cựu sĩ quan đã từng chiến đấu sát cánh bên ông.
Tong bữa tiệc, ông dem kho một cái bật lửa rất đẹp mà Nữ hoàng Anh đã tặng cho ông. Cái bật lửa đã được truyền từ tay người này đến tay người nọ để được trầm trồ khen ngợi.
Sau bữa ăn, mọi người được mời ra phòng khách để uống trà. Ông quận công mới đem thuốc lá ra mời mọi người. Nhưng mặt ông bỗng biến sắc, vì ông lục lạo mãi trong túi áo mà vẫn không tìm ra cái bật lửa. Ông hỏi quan khách có ai thấy nó ở đâu không. Mọi người chia nhau đi tìm khắp nơi mà tuyệt nhiên vẫn không thấy cái bật lửa. Lúc bấy giờ, một viên sĩ quan mới đề nghị cho tất cả mọi quan khách nên lật túi áo của mình ra may ra mới có thể tìm thấy nó chăng. Lần lượt tất cả mọi người đều kéo tất cả những gì có trong túi áo của mình ra. Duy chỉ có một người không chịu chấp nhận công việc này. Mọi người đều đưa mắt nhìn về ông và ai cũng đoán chắc đây là người đã đánh cắp cái bật lửa, bởi vì dáng vẻ của ông tiều tụy, áo quần của ông lại rách rưới. Ông lấy danh dự của một cựu sĩ quan để thề thốt và dứt khóat không mở túi áo ra cho mọi người xem.
Vài tuần lễ sau, ông quận công lại mở một bữa tiệc khác và lần này, ông khám phá ra cái bật lửa trong túi áo của ông. Cảm thấy xấu hổ vì đã nghi oan cho một viên sĩ quan đã từng chiến đấu bên cạnh mình, ông quận công đã quyết định đến thăm anh ta để xin lỗi.
Nhà của viên cựu sĩ quan này nằm trong khu phố lầy lội nghèo nàn. Sau khi đã xin lỗi, ông quận công đã hỏi viên sĩ quan: "Tại sao trong bữa tiệc hôm đó, anh đã khước từ không mở túi ra cho mọi người xem?".
Anh ta mới giải thích như sau: "Hẳn ngài đã thấy được căn nhà tôi đang ở tồi tàn như thế nào. Từ lâu, tôi đã thất nghiệp mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn trong nhà. Ngài đâu có biết rằng hôm đó, tôi đã nhét vào túi tôi tất cả những đồ ăn thừa trên bàn để mang về cho vợ con tôi".
Sau khi hiểu được hoàn cảnh đáng thương của một người đã từng vào sinh ra tử với mình, ông quận công quyết định đền bù bằng cách tìm cho viên cựu sĩ quan một công việc xứng đáng.
Câu chuyện đáng thương tâm trên đây có lẽ cũng diễn ra trong cuộc sống chúng ta dưới nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Nhưng tựu trung, có lẽ mẫu số chung của câu chuyện ấy thường giống nhau: đó là chúng dễ nhìn và đoán xét người theo bề ngoài. Lại nữa, một xã hội có quá nhiều lừa gạt đảo điên cũng khiến cho chúng ta có thái độ e dè, nghi kỵ đối với những người thân thuộc.
Là tín hữu, chúng ta hãy nhìn ngắm cung cách cư xử của Chúa Giêsu. Ngài không nhìn người bằng nhãn hiệu có sẵn. Ngài không đến với người bằng những định kiến. Bên kia bộ quần áo sang trọng hay rách rưới, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy hình ảnh cao quý của chính Thiên Chúa. Ngài dành yêu thương cho những người nghèo khổ, phường thu thuế, bọn gái điếm, những kẻ tội lỗi, những ngwòi con bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chỉ có một cái nhìn duy nhất về con người: đó là cái nhìn của cảm thông, của tha thứ, của yêu thương.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
26-05-2011, 07:47 AM
26/05
Sống trong Chúa
Thứ Năm sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 15,9-11
9Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. 10Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. 11Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/bulletin9.jpg
Suy niệm:
Tình yêu tôi đối với Ngài lúc có lúc không, có khi nồng nàn, có khi lạnh nhạt. Nghĩa là tôi chưa ở lại trong tình yêu của Ngài. Muốn ở lại tôi hãy làm theo lời Chúa dạy “Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy”. Hễ đã yêu thương ai, hẳn chúng ta muốn sống bên cạnh người ấy để chia sẻ và lấy sở thích của người ấy làm sở thích của mình. Tình yêu giữa con người với nhau còn như thế, huống chi là tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Chúa Giêsu rất mực yêu thương các môn đệ, Ngài muốn họ ở với Ngài cũng như Ngài hằng ở với Thiên Chúa; Ngài muốn họ thực hành lời Ngài cũng như Ngài luôn vâng theo lệnh truyền của Chúa Cha.
Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy: Năm 1963, tại Washington, 200.000 người lắng nghe Matin Luther King. Vị mục sư da đen, người đoạt giải nobel hoà bình nói chuyện: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và những người chủ nô sẻ ngồi với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi ước mơ một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nước mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao…”. Ông ra sức thực hiện ước mơ ấy, biết bao khó khăn thử thách, ghen tương đố kỵ đã đổ xuống trên đầu ông, nhưng ông vẫn kiên quyết thực hiện hoài bão này.
Năm 1968, M.L. King đã gục dưới lằn đạn của những kẻ thù ghét ông. Nhưng công trình của ông vẫn được tiếp tục, bởi ước mơ của ông đã trở thành ước mơ của hàng triệu người trên thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã đến lần thứ nhất, đã nhập thể làm người và qua đó trao ban cho chúng con niềm vui ơn cứu độ. Chúng con thật vui mừng vì có Chúa ở cùng chúng con. Chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa luôn đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa đến và lưu lại trong tâm hồn chúng con. Chúng con xin hết lòng cảm tạ, tri ân tình yêu cao sâu mà Chúa đã dành cho chúng con.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng chúng con tôn thờ, xin cho chúng con lưu lại trong Chúa để chúng con được tắm gội trong tình yêu của Chúa. Nhờ vậy mà chúng con được đổi mới cuộc đời, đổi mới cách sống cho phù hợp với tin mừng của Chúa. Xin cho chúng con cũng mặc lấy tâm tình của Chúa để chúng con biết yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương chúng con. Xin giúp chúng con biết đến với mọi người trong tinh thần yêu thương và phục vụ. Xin giúp chúng con đừng sống ích kỷ, đừng quá tham lam mà đánh mất tình bạn hữu, mà làm mất vẻ đẹp của phẩm giá làm người nơi chúng con.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết biến niềm vui có Chúa thành một đời sống chứng nhân cho Chúa giữa trần gian. Và xin cho chúng con biết sống khiêm tốn, thánh thiện, gương mẫu để mai sau chúng con được thấy Chúa, được ở bên Chúa, và được hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời. Amen
http://tgpsaigon.net
___________________________
Sức Mạnh Lời Chúa
Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi.
Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ cũng không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với một cặp mắt dữ tợn như một hung thú.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn ta sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: "Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm", đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh thuật lại: "Ðọc đến câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin".
Ông Chrgwin, tác giả đã viết câu chuyện trên trong quyển sách mang tựa đề "Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo" đã kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp được tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hòa nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên sát nhân giết người không gớm tay như anh Tokichi Ishi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ, đang dấn thân phục vụ những trẻ con bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
27-05-2011, 08:18 AM
27/05
Yêu như Chúa yêu
Thứ Sáu sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 15,12-17
12Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 13Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. 14Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. 16Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. 17Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/bible_and_cross_faded_0.jpg
Suy niệm:
Tin mừng hôm nay là một bài học về yêu thương. Lý luận của Chúa Giêsu thật rõ ràng: Chúa Cha đã yêu mến Chúa Con. Chúa Con đã ở trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Cha. Nhưng Chúa Con cũng đã yêu thương các môn đệ bằng chính tình yêu này và các môn đệ cũng có thể ở lại trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Con. Như vậy đối với Chúa Con: yêu thương và vâng phục là một Chúa Con yêu mến Chúa Cha bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài, các môn đệ cũng phải yêu mến Chúa Con bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài. Do đó yêu thương thật sự và trọn hảo là sẵn sàng hy sinh quan điểm của mình để tin tưởng người khác, nhưng không phải do sợ hãi hoặc tính toán, mà là để làm theo ý muốn và ước nguyện của người mình yêu. Không có sự kết hợp của hai ý muốn, tình yêu sẽ không bao giờ được trọn vẹn. Sự tuân phục lẫn nhau là tiêu chuẩn đích thực của một tình yêu trưởng thành.
Xét cho cùng, một tình yêu đích thực đòi hỏi phải chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đó cũng là nền tảng của một xã hội tốt đẹp. Giềng mối của mọi đố kỵ, chia rẽ dẫn đến bạo động, hận thù và chiến tranh chính là thái độ bất khoan dung. Khi không chấp nhận để người khác có một suy nghĩ khác với mình, một niềm tin và một cách sống khác với mình, người ta sẽ tìm các hạn chế tự do hoặc loại trừ người khác.
Hãy thay đổi tâm lòng, hãy mang lấy một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương, biết tôn trọng phẩm giá và tự do của người khác, đó là điều mà chúng ta phải cầu xin trong cuộc sống mỗi ngày.
Hãy để cho tình yêu Thiên Chúa tràn ngập trong lòng chúng ta và trở thành động cơ thúc đẩy mọi hành động của chúng ta. Tất cả sẽ thành giá trị vĩnh cửu của tình yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúng con thật hạnh phúc vì luôn được Chúa viếng thăm. Chúa đến với chúng con qua bí tích Thánh Thể, như dấu chỉ sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa vẫn đang chăm sóc cuộc đời chúng con. Chúng con không bước đi lẻ loi, nhưng luôn có Chúa đồng hành. Chúa có mặt trong từng biến cố vui buồn của đời sống chúng con. Chúa sẽ tay đỡ tay nâng, để gìn giữ chúng con trong ân sủng và tình yêu của Chúa. Chúng con xin hết lòng tri ân và cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa, Chúng con xin phó dâng cuộc đời cho lòng thương xót của Chúa. Xin ban ơn soi sáng để chúng con luôn nhận ra ý Chúa và biết sống đẹp lòng Chúa trong từng biến cố cuộc sống. Xin gìn giữ chúng con khỏi những đam mê trần gian để tâm hồn chúng con luôn hướng về trời cao. Xin giúp chúng con đừng bao giờ để mình ngụp lặn trong tội lỗi, nhưng luôn sống có mục đích, biết phấn đấu vươn lên không ngừng, biết tránh xa tội lỗi. Xin gìn giữ chúng con trong ân sủng của Chúa để mai sau chúng con cũng được dự phần vinh phúc với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin giúp chúng con biết yêu Chúa hơn mọi sự thế gian để chúng con chỉ tìm kiếm và phụng sự một mình Chúa mà thôi. Amen
http://tgpsaigon.net
______________________
27 Tháng Năm
Thánh Augustine ở Canterbury
(c. 605?)
Vào năm 596, một nhóm đan sĩ 30 người khởi hành từ Rôma đi truyền giáo cho người Anglo-Saxon ở Anh. Dẫn đầu là Augustine, bề trên đan viện Thánh Anrê ở Rôma. Nhưng khi đến Gaul (Pháp) họ nghe những câu chuyện dã man về người Anglo-Saxon cũng như sự nguy hiểm của các luồng nước ở eo biển, họ quay trở về Rôma và gặp vị giáo hoàng đã sai họ đi -- Thánh Grêgôriô Cả -- và đức giáo hoàng cho biết sự lo sợ của họ thì vô căn cứ.
Một lần nữa Augustine lại ra đi, và lần này cả nhóm đã vượt qua eo biển và cập bến đất Kent thuộc về Vua Ethelbert, là người ngoại giáo kết hôn với một Kitô Hữu, bà Bertha, công chúa nước Pháp. Vua Ethelbert tiếp đón họ nồng hậu, thiết lập cho họ nơi cư trú ở Canterbury và trong năm ấy, vào Chúa Nhật Hiện Xuống năm 597, chính nhà vua đã được rửa tội.
Sau khi được tấn phong làm giám mục ở Pháp, Ðức Augustine trở lại Canterbury, là nơi ngài thiết lập giáo phận và khởi công xây dựng vương cung thánh đường. Khi số tín hữu ngày càng gia tăng, các giáo phận khác được ngài mở thêm ở Luân Ðôn và Rochester.
Cuộc đời Ðức Augustine cũng gặp nhiều thất bại. Những cố gắng hòa giải giữa Kitô Hữu Anglo-Saxon và Kitô Hữu Briton bản xứ đã kết thúc trong thất bại đau buồn. Ðức Augustine cũng không thuyết phục được người Briton từ bỏ một số phong tục khác biệt với Rôma và quên đi những cay đắng để giúp ngài phúc âm hóa người Anglo-Saxon, là kẻ xâm lăng đã dồn người Briton về miền tây.
Sau những thất bại, Ðức Augustine đã khôn ngoan hơn để ý đến các nguyên tắc truyền giáo -- đối với thời bấy giờ thật sáng suốt mà Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đề nghị: Hãy thanh tẩy thay vì tàn phá các đền thờ và các phong tục ngoại giáo; hãy du nhập các nghi thức và ngày lễ của người ngoại giáo vào ngày lễ Kitô Giáo; duy trì các truyền thống địa phương càng nhiều càng tốt.
Sau tám năm đến Anh, sự thành công của Ðức Augustine tuy hạn hẹp nhưng sau này đã đem lại kết quả tốt đẹp là cả nước Anh đã tòng giáo. Quả thật, Thánh Augustine đáng được gọi là "Tông Ðồ của Anh Quốc".
Lời Trích
Trong một lá thư gửi cho Thánh Augustine, Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả viết: "Ai muốn trèo ngọn núi cao thì phải đi từng bước, chứ đừng có nhảy."
Trích từ NguoiTinHuu.com
______________________________
Thế Giới Trong Tăm Tối
Một cuốn phim mang tựa đề: "Thế giới trong tăm tối" diễn tả câu chuyện một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem. Ngọn đồi Calvariô được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò, khám phá kỹ lưỡng, vì theo Phúc Ăm thánh Gioan, xác của Chúa Giesu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi ngài bị xử án tử hình thập tự.
Sau bao công khó đào xới, khám sát, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: "Tôi đã tìm được xác ông Giêsu" và ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ với nhiều phóng viên và nhiếp ảnh viên, dể trình bày thành quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào xới, khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mắt mọi người một xác đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra tay chân của xác này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu, có cả những dấu chứng tỏ thân xác này bị nhuộm máu qua những tấm khăn quấn liệm xác.
Cuốn phim quay cảnh mọi người im lặng theo dõi lời thuyết trình của nhà khảo cổ, tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: "Ðây là một sự thật hiển nhiên: ông ta đã bị đóng đinh, chết và được xác táng". Và nhà khảo cổ tiếp lời: "Vâng, đúng thế, chết và được an táng, nhưng... làm gì có chuyện phục sinh. Xác ông ta vẫn còn nằm đây".
Tiếp đến cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu của nhà khảo cổ này: không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa, một vị linh mục tắt ngọn đèn chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nguyện đường, chuông các nhà thờ im tiếng, các nữ tu cởi khăn trùm đầu, thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống, đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt. Bóng tối chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc bằng cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: "Tôi đã đánh lừa thế giới, chính tôi đã làm xác giả của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi tôi khởi sự đào bới tìm xác Ngài".
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hằng năm trong tuần thánh. Những ngọn nến được thắp lên và những tín hữu đã mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng, đi khắp nơi để soi sáng những con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin: Chúa Giêsu đã Phục Sinh, tình yêu mạnh hơn hận thù, sự sống mạnh hơn cái chết.
Cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài, nhưng nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, đến lòng tin và niềm hy vọng của chúng ta.
Chúng ta hãy chung lời cầu nguyện cho nhau và với nhau để mỗi người trong chúng ta được cùng chết, cùng an táng với Chúa Giêsu cho con người cũ ích kỷ và tội lỗi của chúng ta. Chết thật sự để chúng ta cùng sống lại với Chúa Giêsu trong một con người hoàn toàn mới, con người Phục Sinh.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
28-05-2011, 07:36 AM
28/05
Danh hiệu Kitô
Thứ Bảy sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 15,18-21
18Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. 20Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. 21Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%2015,18-21.jpg
Suy niệm:
Chúa Giêsu đã cho họ biết trước rằng làm môn đệ Ngài thì phải chấp nhận bị thế gian thù ghét. Nhưng thực tế, chúng ta một mặt tránh làm những gì khiến thế gian thù ghét mình, mặt khác còn tìm cách để thế gian yêu thương chiều chuộng mình. Hẳn là chúng ta không nên cố tình chọc tức thế gian, nhưng không nên quên lời Chúa nói: Chúng con ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
“Vì các con không thuộc về thế gian…nên thế gian ghét các con”. Người thế gian coi tiền bạc trọng hơn đạo đức, lọc lừa nhiều hơn là chân thật, ai cũng ích kỷ lo cho bản thân, thậm chí chà đạp lên người khác… Kitô hữu không thể sống như họ, cho nên bị họ thù ghét. Vậy, nếu vì phải sống theo lý tưởng tốt đẹp của mình mà bị thế gian thù ghét, chúng ta hãy chấp nhận.
“Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước”. Chúng ta chấp nhận bị thế gian thù ghét vì lý do chúng ta làm môn đệ Chúa, chúng ta phải vác Thập giá hằng ngày mà theo Chúa.
“Giả như anh em thuộc về thế gian, thế gian yêu thích những gì thuộc về nó. Nhưng anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian nên thế gian ghét anh em”.
Khi còn là sinh viên, tôi thực sự ngoan đạo, sống trung thực và nghĩ đến người khác. Nhưng sau khi ra trường, đi làm và tiếp xúc với nhiều hạng người, dần dần đã quen với cách sống vụ lợi, không thật với lòng mình. Hôm nay, đọc đoạn Tin Mừng này, tôi giật mình tự hỏi mình còn là Kitô hữu nữa không? Vâng người Kitô hữu phải có cuộc sống khác: luôn yêu thương, bác ái, vị tha…
Quả là khó để trở lại, vì một phần “Tôi” quá lớn, phần khác nếu tôi không hoà theo lối sống của giới làm ăn, không làm hài lòng cấp trên thì sẽ bị tẩy chay, trừ khử.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức sâu sắc về danh hiệu kitô của chúng ta. Mang danh hiệu kitô là tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn và Thập giá của Chúa Kitô, nhưng chúng ta tin chắc rằng nhờ tham dự vào mầu nhiệm khổ nạn và Thập giá ấy mà chúng ta góp phần vào việc cứu rỗi và canh tân thế giới. Khổ đau mà các kitô hữu đang phải gánh chịu vì Danh Chúa Giêsu là hạt giống trổ sinh những hoa trái của niềm tin.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, sự phục sinh của Chúa đã mang lại cho các tông đồ sức sống mới, đã biến đổi các tông đồ từ nhút nhát thành can đảm. Từ hoảng sợ thành kiên cường. Từ thiếu hiểu biết thành người rao giảng Lời Chúa đầy thuyết phục. Xin cho chúng con mỗi lần được rước Chúa thì cũng được sức sống phục sinh của Chúa nâng đỡ ngõ hầu có thể làm chứng nhân cho tin mừng của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa biết rằng thế gian sẽ ghét bỏ các con. Chúa biết rằng dòng đời luôn xô đẩy chúng con bằng biết bao khốn khó nguy nan. Chúa cũng biết rằng phận người chúng con quá mong manh yếu đuối. Chúng con vẫn thường chơi vơi trước bao khốn khó của dòng đời, trước bao cám dỗ của ba thù. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con can trường đứng vững trước những thử thách gian nguy. Xin cho chúng con ơn bình an trước những sóng gió nguy nan của dòng đời, trước những gian nguy, thử thách và khốn khó. Xin cho chúng con mãi trung thành với Chúa dù bị người đời khinh chê, dù bị thế gian kết án, dù bị thua thiệt khi trên mình chúng con mang danh Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết bám vào Chúa hơn là thế gian phù vân. Xin cho chúng con biết thờ lạy Chúa hơn là cúi mình trước vinh hoa phú quý trần gian. Xin giúp chúng con luôn biết chọn Chúa làm gia nghiệp và cùng đích cuộc đời chúng con. Amen
http://tgpsaigon.net
__________________________
Người Tín Hữu Cuối Cùng
Tiểu thuyết gia Graham Greene thuật câu chuyện ông dự định viết như sau:
Ðây là một chuyện giả tưởng sẽ xảy ra trong tương lai rất xa, khi toàn thế giới chỉ còn được thống trị do một đảng duy nhất. Cảnh đầu tiên ở trong câu chuyện diễn ra trong một khách sạn nhỏ vào lúc màn đêm đã bao trùm vạn vật. Một người khách già nua, mệt nhọc, xốc xếch trong chiếc áo đi mưa đã phai màu, mang một chiếc xách tay tiến vào khách sạn, xin thuê một phòng. Ông ta viết tên họ, nghề nghiệp và địa chỉ vào bản lý lịch và chệnh choạng đi lên phòng. Người quản gia nhìn vào bản lý lịch và buộc miệng hỏi anh thư ký:
- Anh có biết ai đấy không?
- Làm sao tôi biết được. Anh thư ký trả lời.
- Ðức Giáo Hoàng đấy! Người quản gia quả quyết để anh thư ký tròn xoe đôi mắt hỏi vặn lại: Ðức Giáo Hoàng? Ðức Giáo Hoàng là gì?
Ðạo công giáo lúc ấy đã bị tiêu diệt hoàn toàn, chỉ còn Ðức Giáo Hoàng là người duy nhất được sống sót. Mạng Ngài còn được dung tha vì hai lý do: thứ nhất, đẻ chứng minh cho chính Ngài và cho mọi người là Giáo Hội đã chết và thứ hai, để theo dõi xem có tín hữu nào còn lần mò đến để tiếp xúc với Ngài không.
Khi đã biết chắc chắn 100% là duy có Ngài là độc nhất còn mang đức tin công giáo, nhà độc tài cho độ Ngài đến và tự tay lảy có súng, kết liễu cuộc đời người tín hữu cuối cùng. Nhưng trong giây phút, giữa lúc bóp cò và Ðức Thánh Cha chết, một ý tưởng lóe ra trong đầu óc nhà độc tài: Có thể điều này ông tin lại có thật, thì sao?
Xuyên qua đời sống tính nhân của các tín hữu, có thể những người xem thấy đời sống chứng tá của họ tự hỏi: Tại sao họ lại sống như thế? Tại sao họ không chạy theo trào lưu, sống như nhưng kẻ khác, thời bây giờ ai lại không mánh mum lừa đảo, chợ đen chợ đỏ, v.v...? Lý tưởng nào hay ai đã ghi hình ảnh trên họ? Tại sao họ lại sống ở giữa chúng ta? Như thế đời sống chứng nhân đã là một sự tuyên xưng thầm lặng của tín hữu, nhưng nó rất mãnh liệt và hữu hiệu. Ðó là những lời phát biểu của Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trong lời giáo huấn của Ngài mang tựa đề "Truyền giáo trong xã hội tân tiến", Chúa Giêsu đã khẳng định: "Các con là muối đất", "Các con là ánh sáng thế gian". Ngài gọi những tín hữu như thế với lòng xác tín là họ xứng đáng để phơi bày và chia sẻ cho anh chị em đang sống bên cạnh.
Trích sách Lẽ Sống
Rosa_Huong
30-05-2011, 10:01 AM
30/05
Thứ Hai sau Chúa Nhật VI Phục Sinh
Lời Chúa:
Ga 15,26_16,4a
26Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. 27Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.
1Thầy đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã. 2Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. 3Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy.4Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi.
http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Ga%2015,%2026.jpg
Suy niệm:
Tại một trung tâm truyền giáo bên Italia, người ta đọc thấy một bài thơ với nội dung như sau: Bạn thân mến, tôi đã đi tìm một Thập giá. Một hôm tại tiệm bán đồ cổ, tôi đã mua được một tượng Đức Kitô, đây là Đức Kitô tuyệt đẹp nhưng sứt mẻ và bơ vơ vì bị tách lìa khỏi Thập giá. Tôi chợt nghĩ không chừng bạn đang có một Thập giá, nhưng là một Thập giá trơ trụi không có Đức Kitô. Đức Kitô của tôi không có nơi ngơi nghỉ vì thiếu Thập giá, còn Thập giá của bạn thì lại thiếu Đức Kitô. Đức Kitô không thập giá và Thập giá không có Đức kitô. Tôi xin đề nghị với bạn : tại sao chúng ta không liên kết cả hai lại? Tại sao bạn không trao thập giá trống trơn của bạn cho Đức kitô? Bạn chỉ có một Thập giá đơn độc trống rỗng lạnh giá vô nghĩa, một Thập giá không có Đức Kitô. Hẳn bạn đã hiểu đau khổ như thế là vô lý, tôi không hiểu được tại sao bạn lại chịu đau khổ như thế từ bao lâu nay. Một thập giá không có Đức kitô là một tra tấn, là nguyên nhân dẫn đến thất vọng. Giờ đây bạn đã có liều thuốc trong tay, bạn sẽ không còn đơn phương chịu đau khổ nữa. Bạn hãy trao cho tôi Thập giá trống không của bạn, tôi sẽ trao cho bạn Đức kitô sứt mẻ của tôi. Bạn hãy trao thập giá và hãy đón nhận Đức kitô, rồi bạn sẽ thấy mọi sự đổi thay, bạn sẽ không còn đơn độc trong đau khổ, bởi vì trong Thập giá của bạn có Đức Kitô.
Bách hại, khổ đau là phận số gắn liền với ơn gọi kitô hữu. Trong những giây phút cuối cùng ngồi bên các môn đệ, Chúa Giêsu không những loan báo cuộc tử nạn của Ngài, mà còn báo trước những khổ đau mà họ sẽ trải qua vì mang Danh ngài. Ngài sẽ tiếp tục hiện diện trong các môn đệ của Ngài và sự hiện diện ấy càng rõ nét hơn qua chính những khổ đau mà các môn đệ Ngài sẽ trải qua. Một cách nào đó, vụ án của Chúa Giêsu sẽ tiếp tục trong chính các môn đệ của Ngài. Thế gian đã kết án Chúa Giêsu và do đó trút hận thù lên các môn đệ của Ngài. Thật ra, không phải thế gian xét xử Chúa Giêsu, mà chính Ngài xét xử thế gian. Cuộc tử nạn và cái chết của Chúa Giêsu là một tố cáo về chính tội ác của thế gian. Qua cuộc tử nạn dưới nhiều hình thức mà các môn đệ Đức Kitô phải trải qua trên khắp thế giới và suốt lịch sử nhân loại, sự xét xử của Chúa Giêsu đang tiếp diễn, tội ác của con người được tiếp tục phơi bày qua những khổ đau mà các môn đệ Đức kitô phải gánh chịu vì niềm tin của họ.
Nhưng Chúa Giêsu không đến để luận phạt thế gian. Ngài đến để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cuộc tử nạn và cái chết của Ngài mạc khải cho nhân loại gương mặt yêu thương của Thiên Chúa, và ngày nay qua cuộc tử nạn của các môn đệ Ngài, gương mặt yêu thương của Thiên Chúa lại tiếp tục được sáng tỏ. Qua cuộc tử nạn ấy, con người mới nhận thấy rằng chỉ có tình yêu mới thắng được hận thù, chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Tình yêu chiến thắng hận thù, tình yêu mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, tình yêu ấy người môn đệ chỉ có thể múc lấy từ Đức Kitô mà thôi. Ngài là Đấng Phục sinh, Ngài đang hiện diện trong tâm hồn các môn đệ Ngài. Hãy để cho Ngài được hiện diện và đồng hành với ta, hãy để cho Ngài được tiếp tục dự phần vào thập giá của ta mỗi ngày, khi ấy cuộc sống sẽ mãi mãi có ý nghĩa, khổ đau sẽ có sức thanh luyện, và tình yêu sẽ chiến thắng hận thù.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là nguồn hy vọng và là nguồn sống muôn đời của chúng con. Xin cho chúng con được ở trong tình yêu của Chúa để chúng con được lớn lên trong tình yêu bao dung, nhân hậu và từ bi.
Phận người yếu đuối, chúng con chưa dám sống như tình yêu của Chúa. Chúng con thường tự cao tự đại, dễ dàng kết án lẫn nhau. Chúng con thường khắt khe với nhau trong từng lời nói, việc làm. Chính lối sống thiếu ích kỷ đã khiến cho cuộc sống chung của chúng con luôn mang đầy những hiềm khích, thù hận. Xin Chúa thứ tha tội lỗi chúng con. Xin Chúa giúp chúng con biết sống khiêm tốn để gần gũi và hoà hợp với mọi người, biết tôn trọng lẫn nhau và cảm thông trước những thiếu sót của nhau.
Lạy Chúa, là suối nguồn tình yêu. Chúa đã dùng tình yêu để chiến thắng sự dữ, xin giúp chúng con cũng biết dùng tình yêu để hoá giải những hiểu lầm, những đố kỵ và ghen tương. Xin ban cho chúng con một tấm lòng yêu mến như Chúa để chúng con sống chan hoà tình yêu với anh chị em của mình. Amen
http://tgpsaigon.net
_____________________________
Một Chỗ Khủng Khiếp
Câu chuyện xảy ra tại một nhà giam bên Liên Xô. Một cựu tù nhân, bà Arsenjeff, thuật lại một kinh nghiệm mắt thấy tai nghe diễn ra tại đó, nơi bà gọi là "Một chỗ khủng khiếp" như sau: Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi kề miệng vào tai tôi khẽ nói: chị biết mai là ngày gì không? Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp: "Mai là ngày lễ Phục Sinh".
Nghe thế, tôi tự hỏi: "Lễ Phục Sinh đã đến rồi sao, lễ của niềm vui và hy vọng? Nhưng trong tù, niềm vui của chúng tôi đã héo úa và khô cằn. Còn niềm hy vọng?...". Tôi đi lại trong phòng và không dám suy nghĩ tiếp.
Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề: "Ðức Kitô đã sống lại thật".
Quá sức sửng sốt, các nhân viên trở nên bất động như những tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí, họ giận dữ lên án một diễn tiến không bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến gần phòng giam của chúng tôi. Rồi cửa phòng được mở tung. Hai nhân viên giận dữ hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan và hùng hổ túm lấy cô gái, lôi cô ta sền sệt ra khỏi phòng.
Một tuần lễ sau, cô ta được thả về phòng giam, mặt cô ta xanh xao, người gầy đi thấy rõ. Qua tuần lễ Phục Sinh, người ta đã biệt giam cô vào một phòng không có lò sưởi, để cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ thân thể một con người họ cho là cuồng tín. Sau khi nằm yên tại một góc phòng hồi lâu, cô ta vẫy tay gọi tôi lại thều thào: "Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục Sinh trong trại giam. Những cái khác không quan trọng gì cho lắm". Nói xong cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh mắt cô vẫn lóe sáng lên như dạo nào.
Ðược dịp tuyên xưng niềm tin Phục Sinh cách đặc biệt như cô gái trên thật hiếm hoi. Nhưng mẫu gương can đảm của cô phải nhắc nhở chúng ta cố gắng thực thi lời nguyện chúng ta luôn cùng nhau xướng lên sau những lời truyền phép: "Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho đến khi Chúa lại đến".
Tuyên xưng việc Chúa sống lại bằng cách hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của sự chết, của những đau khổ, của những vấn đề khó khăn. Cuộc sống của chúng ta không chỉ đóng khung và chấm cùng tại đó. Nhưng người mang niềm tin Phục Sinh phải chiến đấu để vượt qua, để lướt thắng những khó khăn, hạn chế những đau khổ, những sự dữ, những tội lỗi, để phát huy cuộc sống mới của những tạo vật được tái sinh nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Kitô.
Trích sách Lẽ Sống
Powered by vBulletin® Version 4.1.7 Copyright © 2025 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.