chư dân
26-04-2011, 10:04 AM
Sự phục sinh và hiển vinh của Thiên Chúa chúng ta
Karl Rahner, S.J. (http://www.dongten.net/index.php?option=com_content&view=article&id=579:karl-rahner-sj&catid=47&Itemid=115)
Bài suy niệm này trích trong tuần Linh Thao mà Cha Rahner giảng cho các sinh viên thần học tại Berchmanskolleg gần Munich và Học Viện Đức Quốc, Roma (1964). Dịch từ bản tiếng Đức trong Rahner, Karl: Betrachtungen zum ignatianischen Exerzitienbuch, Kösel-Verlag, München, 1965, 245-251.
Tiền Dẫn
Với bài suy niệm dưới đây, chúng ta đi vào tuần thứ 4 của kỳ Linh Thao. Trong tuần này, chúng ta cầu xin ơn được vui mừng mãnh liệt vì sự vinh quang và vui mừng dường ấy của Đức Kitô Chúa chúng ta (LT 221). Trong tuần này chúng ta cũng mong muốn được nếm cảm trên hết là hoa trái của ơn cứu độ, tức là cuộc sống trong Thần Khí, như là khởi đầu và vĩnh viễn trong đời sống mới của kẻ được ơn cứu độ. Điểm chiêm ngắm thứ hai hướng đến Đấng vinh hiển, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha và chiêm ngắm tác động của mầu nhiệm phục sinh và vinh quang. Trong tổng thể của bài chiêm niệm này, chúng ta xin để rút ra được một sự hiểu biết thâm sâu và ấn tượng về ý nghĩa của tuần 4 Linh Thao: chỉ ngang qua Thập Giá thì chúng ta mới có thể đạt đến vinh quang của mầu nhiệm Phục sinh.
1. Sự phục sinh trong cuộc đời Đức Giê-su
Chúng ta chỉ có thể tìm thấy hình ảnh của toàn bộ đời Ki-tô hữu, theo mức độ mà đời sống ấy được Thiên Chúa ban tặng và theo đó mà chúng ta phải dấn thân, khi chúng ta suy xét toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô. Chúng ta không được phép rời mắt khỏi Đấng đã chịu đóng đinh nhiều bao nhiêu, thì Người sẽ trở nên khó hiểu đối với chúng ta bấy nhiêu, nếu đồng thời chúng ta không tin rằng Người thực sự cũng là Đấng Phục Sinh, qua cái chết mà đi vào cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa Cha. Định mệnh của cuộc đời Đấng Cứu Thế hoàn tất nơi sự phục sinh. Khi phục sinh, Người đã chiến thắng cái chết và tình trạng hư hoại, hung hãn của thế gian. Giữa lòng một thế gian bị tàn phá bởi tội lỗi, một thế giới đứng trước cơn thịnh nộ của Thiên Chúa ba lần thánh và trong bóng tối của sự ruồng rẫy, tình yêu của Cha mà Người bám víu vào giờ đây đã hóa thân thành một sự hiện hữu tươi sáng. Sự hiện hữu ấy gói gọn con người Đức Giê-su trong thực tế cụ thể và duy nhất, trong mọi chiều kích, kể cả thân xác. Trọn vẹn con người Đức Ki-tô, với định mệnh, với những gì hiện thực cụ thể của Người, những gì Người đã sống và đã chịu đựng trong suốt hành trình tại thế với sự mỏng dòn của nhân tính, tất cả giờ đây đi vào vinh quang của Cha. Trong hành trình vinh quang ấy, sự biến đổi thân xác không đơn thuần là một hệ quả thứ yếu, mà đã và luôn có đó theo mức độ mà chính Đức Ki-tô, trong toàn thể tính duy nhất, đã đạt đến đoạn chung cục duy nhất, vĩ đại, có khả năng bao trùm lên toàn bộ lịch sử cuộc đời Người đến nỗi mà những gì đã xảy ra trong lịch sử ấy thì đều đi vào vinh quang của Cha. Không một điều gì bị bỏ sót. Trong thảm họa đời mình, Đức Ki-tô không chỉ thoát thân theo kiểu “bỏ của chạy lấy người” nhưng cách nào đó tất cả đều còn tiếp tục hiện hữu trong bản chất huyền vi và tinh tế của Người. Do những gì đã diễn ra trong quá khứ là thực sự, nên trong hiện tại chúng đều có thể trở nên nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.
Khi xuống thế, như tất cả chúng ta, Người đã đi vào thế giới của con người lịch sử, của kinh nghiệm, sự kiện, của những quy định thời cuộc, của sự trải nghiệm về những hành vi của đời sống thế trần. Còn đối với chúng ta, trong khi bao lâu còn trên cõi đời này, cái mà chúng ta nắm được trong tay chỉ là một mẩu của cuộc đời cá nhân, đong đưa từ trước ra sau, từ tương lai đến quá khứ, đến nỗi mà cuộc đời hiện ra trong mắt chúng ta như một cái gì không thể với tới được. Còn Đức Giê-su thì khác: Người sở đắc trọn đời mình. Dĩ nhiên là chúng ta cũng có phần nào giống Người, với thời gian, chúng ta về cơ bản không trở nên nghèo nàn hơn về vốn sống. Thật ra câu hỏi căn cơ ấy có liên quan đến một tương lai mà chúng ta vẫn chưa sở đắc được; trong khi quá khứ đã không lùi vào hư vô mà trở thành sở hữu xác định của chúng ta. Nhưng đặc tính xác định ấy đồng thời hiện diện nơi chúng ta như bị che phủ, chìm vào vực thẳm nơi mà ý thức không nắm được. (Nếu như tất cả những gì đã xảy ra với Đức Ki-tô phục sinh đều có thể áp dụng cho chúng ta - thì chúng ta sẽ ra như thế nào, khi mà toàn bộ quá khứ của chúng ta quay về, khi mà chúng ta lại phải nếm trải chúng, phải sống thêm những kinh nghiệm ấy cách minh bạch trong một hành vi duy nhất?) Thực sự mà nói Đức Ki-tô đã không vứt lại sau lưng Người thập giá, cái chết, và sự bị phó mặc như thể người ta nói được rằng: Nhờ ơn Trời, thôi những chuyện ấy đã qua, hãy gắng mà quên đi càng sớm càng tốt! Nếu bây giờ Người hiện đến với chúng ta trong vóc dáng phục sinh, thì Người sẽ tiếp tục là như thế, vì chính lịch sử của Người là như thế này chứ không phải thế khác. Thực tại mà Người đã sống trước đây ngay chính lúc này mang lấy gương mặt tuyệt đối và vĩnh viễn xác định. Người đã quy tụ trọn cuộc sống, kể cả những gì còn bị che phủ, vào trong cuộc hiển dung của Người. Người là Đấng Phục Sinh, chiến thắng tử thần và thế gian. Và Người vẫn thế trong cuộc biến đổi thân xác của Người!
2. Sự vinh hiển của Đức Ki- tô và ý nghĩa ơn cứu độ
Đức Ki-tô cũng là Đức Chúa được vinh thăng! Đấng mà sự phục sinh và tôn vinh của Người là những sự kiện cứu độ cũng là Đấng dẫn đưa thời gian cùng với định mệnh của thế giới tới hồi chung cục. Theo nghĩa này mà thánh Phao-lô nói rằng “chúng ta đang sống trong thời sau hết” (1Co 10, 11). Khi Thiên Chúa đón nhận nhân loại, khi Ngài hoàn tất cuộc giáng thế như là dấu chỉ của việc đón nhận ấy, đến độ phải đi đến tận đáy của sự chết, hiểu sự chết như là sự lộ diện bản chất tội lỗi và tính vô đạo của nhân loại, để rồi tháp nhập chúng vào cuộc biến đổi của Người. Khi Người đưa một phần của thế giới này, cái phần mãi vẫn là thế, vào trong vinh quang của Người, thì cả thế giới hoàn toàn được Thiên Chúa đón nhận vĩnh viễn, và không gì có thể tách nó ra khỏi vòng tay vị Thiên Chúa phục sinh vinh quang. Nơi Đấng Phục Sinh, thế giới cũng đã thăng thiên. Và bằng cách thức thăng thiên ấy mà lịch sử thế giới đi vào giai đoạn tối hậu và bất khả triệt tiêu và cũng chính như thế mà ta có thể nói rằng trái tim chứa đầy tuyệt vọng và tăm tối của thế gian đã trở nên tốt lành. Rút cục thế giới đã đi vào trật tự, bởi Thiên Chúa, trung tâm của lịch sử và thiên nhiên, đã trở thành người và Người đã mặc cho thân xác con người ấy sự vinh quang. Vì thế, từ nay, tất cả những gì vẫn còn xảy ra trên thế giới sẽ hoặc là hiệu ứng của cuộc toàn thắng mà Thiên Chúa đã mang lại hoặc là cuộc hậu chiến còn sót lại giữa các quyền lực thế gian mà thập giá Đức Ki-tô đã tiêu diệt.
Thành thực mà nói thì cách nhìn thế giới và lịch sử của nó như trên hoàn toàn không dễ dàng. Nhưng điều ấy chỉ đơn giản là vì chúng ta vẫn chưa rút ra được từ đức tin sự cảm nếm nội tâm này: trong trái tim chúng ta, nơi mà Thiên Chúa đã tưới gội Thần Khí chiến thắng trên thế giới cũ, về cơ bản, đã hiện diện một sự bảo đảm tối hậu và yên ắng cũng như đã có đó sự chiến thắng thực sự rồi.
Đấng phục sinh vinh quang là tận cùng của thời gian. Ngài là tâm điểm của thế giới. Người đứng trước tòa Cha trong tư thế Con Người. Nơi Người ứng nghiệm lời Thánh Vịnh 90: “Bên hữu ta đây, con lên ngự trị.” Đây là vị Thượng tế cao cả đang cử hành phụng vụ vĩnh cửu của toàn thể thọ tạo (Dt 8-10) vì Người đã thực sự băng qua các tầng trời và mang theo những gì thuộc hạ giới chúng ta. Như thế, Người luôn hiện diện trước Cha và cũng vậy, trong khi vẫn tiếp tục là một người thuộc về nhân loại, Người thực sự trở thành mối phúc, là một phần của đời sống nội tại của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, cái phần ấy vẫn mang nét thụ tạo; dầu vậy, nó đã trở thành một phần của Thiên Chúa. Nếu khoa siêu hình cho phép chúng ta xem xét Thiên Chúa như Đấng tối cao, phi thời gian, phi lịch sử, bất biến và phi bản chất (nếu được phép sử dụng một ngôn ngữ thần bí trung cổ ở đây), thì trong đức tin Ki-tô giáo điều ấy có nghĩa là Thiên Chúa, trong tư cách là Đấng đã làm người, đã không chỉ một lần can thiệp vào thụ tạo, mà Người còn gìn giữ lịch sử thụ tạo như chính thực tại của riêng Người trong cuộc sống vĩnh cửu của Người và từ bây giờ làm cho cho nó có khả năng thông dự vào đời sống thần linh của Người mãi mãi. Ý nghĩa của điều ấy không gì khác hơn là sự vinh thăng của thế giới và của con người, cuộc vinh thăng chỉ có thể xảy ra nhờ ân sủng. Tuy vậy, chỉ trong ân sủng ta mới có thể tin vào hành trình vinh quang ấy, bởi chỉ trong đức tin ta mới được ban tặng một sự lạc quan vô biên. Đó là sự xác tín rằng Thiên Chúa thực sự đã bắt đầu trở nên “mọi sự trong mọi người”. (1 Co 15,28)
Những điều vừa trình bày ở trên cũng phải được theo đuổi trên mức độ lịch sử cứu độ của từng „cá nhân“. Chúng ta là “những người được sống lại cùng với Đức Ki-tô”, Đấng đã làm cho chúng ta “được ngự với Người trên ngai của Thiên Chúa” (Ep 2, 5-6), Người đã cho ta cùng thống trị với Người (2 Tm 2,12) bởi vì chúng ta đã được chôn vùi cùng với Người trong mộ đá” … “để cùng phục sinh với Người” (Cl 2,12). Vận mệnh của Đức Ki-tô phục sinh đã chiếm lấy chúng ta rồi, cũng cùng một cách như thập giá và cuộc sống trước đó của Người. Chúng ta sẽ hiểu sai việc bước theo Đức Ki-tô nếu chúng ta nghĩ rằng việc này phải được tuân thủ theo từng giai đoạn trong cuộc đời của Người. Không ngừng, chúng ta không ngừng phục sinh với Đức Ki-tô. Bởi vì Người là Đấng Phục Sinh và chúng ta đã có Thần Khí của Người, nên chúng ta đã có “phần bảo chứng” cho vinh quang mai sau (Ep 1,14), trong Thần Khí, mà nơi thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, Thánh Phao-lô đã nói về: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Xét bề sâu, sự „nên giống trong thân xác vinh hiển này“ đã trở thành điều kiện sống của chúng ta rồi, chỉ còn chờ để được biểu lộ ra ngoài mà thôi.
Sự phục sinh của Đức Ki-tô không đơn thuần là một sự kiện cứu độ, loan báo một điều gì đó sẽ xảy ra cho chúng ta trong một khoảnh khắc nào đó trong tương lai mà trong phút hiện tại này chúng ta không có. Trái lại, sự phục sinh là một thực tại được định hình cả bên trong lẫn bên ngoài, trọn cả lịch sử nhân loại và vì thế bao hàm luôn hoàn cảnh riêng của từng cá nhân. Bên ngoài, bởi vì chúng ta đang sống trong đời sống vĩnh cửu (N.B. tiếng Đức: Äon, tiếng Pháp: éon) của Đức Ki-tô và vì thế trong hồi viên mãn của thời gian. Bên trong, bởi chúng ta đã có Thần Khí, Đấng Canh Tân. Theo đó, Ki-tô hữu là những người thiết yếu phải có tâm tình của người chiến thắng. Chúng ta không thể giản lược tâm tình này đơn thuần thành một thái độ đoan chắc về số phận, trên mặt chính trị hay tương tự, của Giáo Hội. Trên hết, chúng ta không được coi tâm tình này như sự chờ đợi rằng những gì sẽ xảy đến thì phải luôn luôn đặc biệt thuận lợi cho chúng ta. Đối với những người chịu đau khổ trong những cơn bách hại dành cho Giáo Hội hay với những vị phải chịu tử đạo, xét trên bình diện con người, sẽ chẳng ích gì khi nói rằng làm vậy chỉ cốt cho Giáo Hội vinh quang hơn thôi. Đó không phải là ý nghĩa của tâm tình của người chiến thắng mà chúng ta đang có. Chúng ta chỉ nên hiểu nó như là một xác tín nội tâm, dựa trên chính lời Đức Ki-tô đã nói với chúng ta: hãy tin tưởng, Thầy đã chiến thắng thế gian. Những gì anh em coi như khuôn khổ sống, những gì anh em cảm thấy như là những thế lực có tính quyết định trên vận mệnh anh em, những điều ấy chỉ còn là ngoại diện mà anh em đang thấy. Tự bản chất, tất cả đã đổi khác rồi. Dĩ nhiên, Đức Giê-su cũng đã nói: anh em phải chịu đựng những mâu thuẫn, o ép trong thế gian. Chúng ta phải lấy làm ngạc nhiên nếu không có những điều đó. Nhưng đồng thời đừng quên rằng Người đã chiến thắng thế gian và vì vậy chúng ta phải thực sự có lòng tin tưởng. Nếu thế giới mà chúng ta đang sống đã được Đức Ki-tô chinh phục thì chúng ta không được phép nói rằng: Ừ thì tự Người đã tiến xa lắm rồi, còn chúng ta thì tụt lại trong tình trạng cũ thôi. Điều đó không đúng chút nào. Chúng ta hiện hữu cùng với Người trong một bối cảnh mới, mà trong đó chúng ta kính tin. Dĩ nhiên cũng không phải là chuyện một ngày nào đó chúng ta sẽ có được một kinh nghiệm như thế này: thật ra mọi thứ đều tử tế với chúng ta cả thôi, và từ góc nhìn đó chúng ta định hướng niềm tin. Không, đức tin và trải nghiệm tạo điều kiện cho nhau. Chỉ có người tin mới đi vào trải nghiệm và khi trải nghiệm người ấy tin.
Thư gửi tín hữu Do Thái (Dt 3,6) nói Đức Ki-tô „đứng đầu nhà Thiên Chúa“, với tư cách là Người Con. „Mà nhà Thiên Chúa là chính chúng ta, miễn là chúng ta giữ vững đến cùng lòng tin tưởng và thái độ hiên ngang về niềm hy vọng của chúng ta.“ Giờ đây chúng ta có thể thực sự trình diện trước ngai toà ân sủng trong tin tưởng và mạnh dạn đối thoại. Nhờ hiệu quả của máu cứu chuộc Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta được phép thâm nhập nơi cực thánh. Chúng ta không được phép vứt bỏ sự tin tưởng ấy. Cần phải lặp đi lặp lại không ngừng: tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa là ơn ban vĩnh viễn. Tình yêu của Thiên Chúa sẽ không bị chiến bại. Trong chương tám của thư gửi tín hữu Roma, Thánh Phao-lô đã liệt kê những thế lực của lịch sử mà người đã trải qua trong đời: sự sống và sự chết, thế sự, thiên thần, thiên phủ, thiện nhân ác nhân, hiện tại hay tương lai, cao hay sâu hay toàn thể thọ tạo. Rồi người khẳng định rằng không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Từ từ chúng ta sẽ phải cảm nghiệm được sự cao cả thuộc riêng về những người phục sinh với Đức Ki-tô, không phải để trở nên tự cao và đùa cợt với bảo chứng của mình theo kiểu ngây ngô và duy thế tục. Cũng không phải để ảo tưởng rằng cuộc đời sẽ không còn đau buồn hay mâu thuẫn nữa. Đúng hơn, điều ấy phải được hiểu rằng, dù gì đi nữa, tất cả những điều trên một cách nào đó đã được bao phủ một cách kỳ diệu bởi một điều còn lớn hơn, tức bởi chiến thắng của Đức Ki-tô và từ đó mà chúng ta nhận được ơn can đảm tột cùng. Nhờ Đức Ki-tô, thực sự chúng ta đã vượt qua thời gian và những manh động của nó, vượt qua lịch sử vô ích của tội lỗi và sức nặng của nhục thể và nhất là sự chết. Chắc chắn tâm tình can đảm của người chiến thắng này lại được đồng hóa với sự bất lực của thập giá, bởi vì chiến thắng là chiến thắng ngang qua thập giá.
Đó là lý do tại sao chúng ta còn bước đi trong sợ hãi và run rẩy. Nhưng đấy là cơn sợ hãi của kẻ biết phó thác. Chúng ta phải coi thập giá như là thách đố của đức tin, nhưng đồng thời cũng biết rằng Thiên Chúa, Đấng ngự trị trong ta, còn mạnh hơn lo âu khắc khoải của chúng ta trước thập giá. Từ quan điểm ấy, chúng ta muốn suy xét những vận mệnh khác nhau trong Giáo Hội và thế nào là cuộc sống linh mục của chúng ta: Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Theo tinh thần của Thánh Phao-lô, chúng ta có thể thêm vào: … tình yêu tỏ hiện nơi Đấng đã sống lại vinh quang. Cần phải xin ơn để có được cách nhìn như thế, một cách nhìn mang lại hạnh phúc. Nhưng cách nhìn ấy cũng đòi hỏi hành vi cao cả nhất tự đáy tim chúng ta: dám nhảy ra khỏi mình, trong ý thức về một niềm tin thánh phúc rằng tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời này, cho dù ghê gớm và nặng nề như thập giá đến mấy, tự nền tảng chúng cũng đã được cuộc khải hoàn của Đức Ki-tô kiện toàn rồi, vì Người là Đấng đã sống lại và sống lại vinh quang.
Chuyển dịch: Giuse Bùi Quang Minh, S.J. (http://www.dongten.net/index.php?option=com_content&view=article&id=579:karl-rahner-sj&catid=47&Itemid=115)
dongten.net
Karl Rahner, S.J. (http://www.dongten.net/index.php?option=com_content&view=article&id=579:karl-rahner-sj&catid=47&Itemid=115)
Bài suy niệm này trích trong tuần Linh Thao mà Cha Rahner giảng cho các sinh viên thần học tại Berchmanskolleg gần Munich và Học Viện Đức Quốc, Roma (1964). Dịch từ bản tiếng Đức trong Rahner, Karl: Betrachtungen zum ignatianischen Exerzitienbuch, Kösel-Verlag, München, 1965, 245-251.
Tiền Dẫn
Với bài suy niệm dưới đây, chúng ta đi vào tuần thứ 4 của kỳ Linh Thao. Trong tuần này, chúng ta cầu xin ơn được vui mừng mãnh liệt vì sự vinh quang và vui mừng dường ấy của Đức Kitô Chúa chúng ta (LT 221). Trong tuần này chúng ta cũng mong muốn được nếm cảm trên hết là hoa trái của ơn cứu độ, tức là cuộc sống trong Thần Khí, như là khởi đầu và vĩnh viễn trong đời sống mới của kẻ được ơn cứu độ. Điểm chiêm ngắm thứ hai hướng đến Đấng vinh hiển, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha và chiêm ngắm tác động của mầu nhiệm phục sinh và vinh quang. Trong tổng thể của bài chiêm niệm này, chúng ta xin để rút ra được một sự hiểu biết thâm sâu và ấn tượng về ý nghĩa của tuần 4 Linh Thao: chỉ ngang qua Thập Giá thì chúng ta mới có thể đạt đến vinh quang của mầu nhiệm Phục sinh.
1. Sự phục sinh trong cuộc đời Đức Giê-su
Chúng ta chỉ có thể tìm thấy hình ảnh của toàn bộ đời Ki-tô hữu, theo mức độ mà đời sống ấy được Thiên Chúa ban tặng và theo đó mà chúng ta phải dấn thân, khi chúng ta suy xét toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô. Chúng ta không được phép rời mắt khỏi Đấng đã chịu đóng đinh nhiều bao nhiêu, thì Người sẽ trở nên khó hiểu đối với chúng ta bấy nhiêu, nếu đồng thời chúng ta không tin rằng Người thực sự cũng là Đấng Phục Sinh, qua cái chết mà đi vào cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa Cha. Định mệnh của cuộc đời Đấng Cứu Thế hoàn tất nơi sự phục sinh. Khi phục sinh, Người đã chiến thắng cái chết và tình trạng hư hoại, hung hãn của thế gian. Giữa lòng một thế gian bị tàn phá bởi tội lỗi, một thế giới đứng trước cơn thịnh nộ của Thiên Chúa ba lần thánh và trong bóng tối của sự ruồng rẫy, tình yêu của Cha mà Người bám víu vào giờ đây đã hóa thân thành một sự hiện hữu tươi sáng. Sự hiện hữu ấy gói gọn con người Đức Giê-su trong thực tế cụ thể và duy nhất, trong mọi chiều kích, kể cả thân xác. Trọn vẹn con người Đức Ki-tô, với định mệnh, với những gì hiện thực cụ thể của Người, những gì Người đã sống và đã chịu đựng trong suốt hành trình tại thế với sự mỏng dòn của nhân tính, tất cả giờ đây đi vào vinh quang của Cha. Trong hành trình vinh quang ấy, sự biến đổi thân xác không đơn thuần là một hệ quả thứ yếu, mà đã và luôn có đó theo mức độ mà chính Đức Ki-tô, trong toàn thể tính duy nhất, đã đạt đến đoạn chung cục duy nhất, vĩ đại, có khả năng bao trùm lên toàn bộ lịch sử cuộc đời Người đến nỗi mà những gì đã xảy ra trong lịch sử ấy thì đều đi vào vinh quang của Cha. Không một điều gì bị bỏ sót. Trong thảm họa đời mình, Đức Ki-tô không chỉ thoát thân theo kiểu “bỏ của chạy lấy người” nhưng cách nào đó tất cả đều còn tiếp tục hiện hữu trong bản chất huyền vi và tinh tế của Người. Do những gì đã diễn ra trong quá khứ là thực sự, nên trong hiện tại chúng đều có thể trở nên nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.
Khi xuống thế, như tất cả chúng ta, Người đã đi vào thế giới của con người lịch sử, của kinh nghiệm, sự kiện, của những quy định thời cuộc, của sự trải nghiệm về những hành vi của đời sống thế trần. Còn đối với chúng ta, trong khi bao lâu còn trên cõi đời này, cái mà chúng ta nắm được trong tay chỉ là một mẩu của cuộc đời cá nhân, đong đưa từ trước ra sau, từ tương lai đến quá khứ, đến nỗi mà cuộc đời hiện ra trong mắt chúng ta như một cái gì không thể với tới được. Còn Đức Giê-su thì khác: Người sở đắc trọn đời mình. Dĩ nhiên là chúng ta cũng có phần nào giống Người, với thời gian, chúng ta về cơ bản không trở nên nghèo nàn hơn về vốn sống. Thật ra câu hỏi căn cơ ấy có liên quan đến một tương lai mà chúng ta vẫn chưa sở đắc được; trong khi quá khứ đã không lùi vào hư vô mà trở thành sở hữu xác định của chúng ta. Nhưng đặc tính xác định ấy đồng thời hiện diện nơi chúng ta như bị che phủ, chìm vào vực thẳm nơi mà ý thức không nắm được. (Nếu như tất cả những gì đã xảy ra với Đức Ki-tô phục sinh đều có thể áp dụng cho chúng ta - thì chúng ta sẽ ra như thế nào, khi mà toàn bộ quá khứ của chúng ta quay về, khi mà chúng ta lại phải nếm trải chúng, phải sống thêm những kinh nghiệm ấy cách minh bạch trong một hành vi duy nhất?) Thực sự mà nói Đức Ki-tô đã không vứt lại sau lưng Người thập giá, cái chết, và sự bị phó mặc như thể người ta nói được rằng: Nhờ ơn Trời, thôi những chuyện ấy đã qua, hãy gắng mà quên đi càng sớm càng tốt! Nếu bây giờ Người hiện đến với chúng ta trong vóc dáng phục sinh, thì Người sẽ tiếp tục là như thế, vì chính lịch sử của Người là như thế này chứ không phải thế khác. Thực tại mà Người đã sống trước đây ngay chính lúc này mang lấy gương mặt tuyệt đối và vĩnh viễn xác định. Người đã quy tụ trọn cuộc sống, kể cả những gì còn bị che phủ, vào trong cuộc hiển dung của Người. Người là Đấng Phục Sinh, chiến thắng tử thần và thế gian. Và Người vẫn thế trong cuộc biến đổi thân xác của Người!
2. Sự vinh hiển của Đức Ki- tô và ý nghĩa ơn cứu độ
Đức Ki-tô cũng là Đức Chúa được vinh thăng! Đấng mà sự phục sinh và tôn vinh của Người là những sự kiện cứu độ cũng là Đấng dẫn đưa thời gian cùng với định mệnh của thế giới tới hồi chung cục. Theo nghĩa này mà thánh Phao-lô nói rằng “chúng ta đang sống trong thời sau hết” (1Co 10, 11). Khi Thiên Chúa đón nhận nhân loại, khi Ngài hoàn tất cuộc giáng thế như là dấu chỉ của việc đón nhận ấy, đến độ phải đi đến tận đáy của sự chết, hiểu sự chết như là sự lộ diện bản chất tội lỗi và tính vô đạo của nhân loại, để rồi tháp nhập chúng vào cuộc biến đổi của Người. Khi Người đưa một phần của thế giới này, cái phần mãi vẫn là thế, vào trong vinh quang của Người, thì cả thế giới hoàn toàn được Thiên Chúa đón nhận vĩnh viễn, và không gì có thể tách nó ra khỏi vòng tay vị Thiên Chúa phục sinh vinh quang. Nơi Đấng Phục Sinh, thế giới cũng đã thăng thiên. Và bằng cách thức thăng thiên ấy mà lịch sử thế giới đi vào giai đoạn tối hậu và bất khả triệt tiêu và cũng chính như thế mà ta có thể nói rằng trái tim chứa đầy tuyệt vọng và tăm tối của thế gian đã trở nên tốt lành. Rút cục thế giới đã đi vào trật tự, bởi Thiên Chúa, trung tâm của lịch sử và thiên nhiên, đã trở thành người và Người đã mặc cho thân xác con người ấy sự vinh quang. Vì thế, từ nay, tất cả những gì vẫn còn xảy ra trên thế giới sẽ hoặc là hiệu ứng của cuộc toàn thắng mà Thiên Chúa đã mang lại hoặc là cuộc hậu chiến còn sót lại giữa các quyền lực thế gian mà thập giá Đức Ki-tô đã tiêu diệt.
Thành thực mà nói thì cách nhìn thế giới và lịch sử của nó như trên hoàn toàn không dễ dàng. Nhưng điều ấy chỉ đơn giản là vì chúng ta vẫn chưa rút ra được từ đức tin sự cảm nếm nội tâm này: trong trái tim chúng ta, nơi mà Thiên Chúa đã tưới gội Thần Khí chiến thắng trên thế giới cũ, về cơ bản, đã hiện diện một sự bảo đảm tối hậu và yên ắng cũng như đã có đó sự chiến thắng thực sự rồi.
Đấng phục sinh vinh quang là tận cùng của thời gian. Ngài là tâm điểm của thế giới. Người đứng trước tòa Cha trong tư thế Con Người. Nơi Người ứng nghiệm lời Thánh Vịnh 90: “Bên hữu ta đây, con lên ngự trị.” Đây là vị Thượng tế cao cả đang cử hành phụng vụ vĩnh cửu của toàn thể thọ tạo (Dt 8-10) vì Người đã thực sự băng qua các tầng trời và mang theo những gì thuộc hạ giới chúng ta. Như thế, Người luôn hiện diện trước Cha và cũng vậy, trong khi vẫn tiếp tục là một người thuộc về nhân loại, Người thực sự trở thành mối phúc, là một phần của đời sống nội tại của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, cái phần ấy vẫn mang nét thụ tạo; dầu vậy, nó đã trở thành một phần của Thiên Chúa. Nếu khoa siêu hình cho phép chúng ta xem xét Thiên Chúa như Đấng tối cao, phi thời gian, phi lịch sử, bất biến và phi bản chất (nếu được phép sử dụng một ngôn ngữ thần bí trung cổ ở đây), thì trong đức tin Ki-tô giáo điều ấy có nghĩa là Thiên Chúa, trong tư cách là Đấng đã làm người, đã không chỉ một lần can thiệp vào thụ tạo, mà Người còn gìn giữ lịch sử thụ tạo như chính thực tại của riêng Người trong cuộc sống vĩnh cửu của Người và từ bây giờ làm cho cho nó có khả năng thông dự vào đời sống thần linh của Người mãi mãi. Ý nghĩa của điều ấy không gì khác hơn là sự vinh thăng của thế giới và của con người, cuộc vinh thăng chỉ có thể xảy ra nhờ ân sủng. Tuy vậy, chỉ trong ân sủng ta mới có thể tin vào hành trình vinh quang ấy, bởi chỉ trong đức tin ta mới được ban tặng một sự lạc quan vô biên. Đó là sự xác tín rằng Thiên Chúa thực sự đã bắt đầu trở nên “mọi sự trong mọi người”. (1 Co 15,28)
Những điều vừa trình bày ở trên cũng phải được theo đuổi trên mức độ lịch sử cứu độ của từng „cá nhân“. Chúng ta là “những người được sống lại cùng với Đức Ki-tô”, Đấng đã làm cho chúng ta “được ngự với Người trên ngai của Thiên Chúa” (Ep 2, 5-6), Người đã cho ta cùng thống trị với Người (2 Tm 2,12) bởi vì chúng ta đã được chôn vùi cùng với Người trong mộ đá” … “để cùng phục sinh với Người” (Cl 2,12). Vận mệnh của Đức Ki-tô phục sinh đã chiếm lấy chúng ta rồi, cũng cùng một cách như thập giá và cuộc sống trước đó của Người. Chúng ta sẽ hiểu sai việc bước theo Đức Ki-tô nếu chúng ta nghĩ rằng việc này phải được tuân thủ theo từng giai đoạn trong cuộc đời của Người. Không ngừng, chúng ta không ngừng phục sinh với Đức Ki-tô. Bởi vì Người là Đấng Phục Sinh và chúng ta đã có Thần Khí của Người, nên chúng ta đã có “phần bảo chứng” cho vinh quang mai sau (Ep 1,14), trong Thần Khí, mà nơi thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, Thánh Phao-lô đã nói về: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Xét bề sâu, sự „nên giống trong thân xác vinh hiển này“ đã trở thành điều kiện sống của chúng ta rồi, chỉ còn chờ để được biểu lộ ra ngoài mà thôi.
Sự phục sinh của Đức Ki-tô không đơn thuần là một sự kiện cứu độ, loan báo một điều gì đó sẽ xảy ra cho chúng ta trong một khoảnh khắc nào đó trong tương lai mà trong phút hiện tại này chúng ta không có. Trái lại, sự phục sinh là một thực tại được định hình cả bên trong lẫn bên ngoài, trọn cả lịch sử nhân loại và vì thế bao hàm luôn hoàn cảnh riêng của từng cá nhân. Bên ngoài, bởi vì chúng ta đang sống trong đời sống vĩnh cửu (N.B. tiếng Đức: Äon, tiếng Pháp: éon) của Đức Ki-tô và vì thế trong hồi viên mãn của thời gian. Bên trong, bởi chúng ta đã có Thần Khí, Đấng Canh Tân. Theo đó, Ki-tô hữu là những người thiết yếu phải có tâm tình của người chiến thắng. Chúng ta không thể giản lược tâm tình này đơn thuần thành một thái độ đoan chắc về số phận, trên mặt chính trị hay tương tự, của Giáo Hội. Trên hết, chúng ta không được coi tâm tình này như sự chờ đợi rằng những gì sẽ xảy đến thì phải luôn luôn đặc biệt thuận lợi cho chúng ta. Đối với những người chịu đau khổ trong những cơn bách hại dành cho Giáo Hội hay với những vị phải chịu tử đạo, xét trên bình diện con người, sẽ chẳng ích gì khi nói rằng làm vậy chỉ cốt cho Giáo Hội vinh quang hơn thôi. Đó không phải là ý nghĩa của tâm tình của người chiến thắng mà chúng ta đang có. Chúng ta chỉ nên hiểu nó như là một xác tín nội tâm, dựa trên chính lời Đức Ki-tô đã nói với chúng ta: hãy tin tưởng, Thầy đã chiến thắng thế gian. Những gì anh em coi như khuôn khổ sống, những gì anh em cảm thấy như là những thế lực có tính quyết định trên vận mệnh anh em, những điều ấy chỉ còn là ngoại diện mà anh em đang thấy. Tự bản chất, tất cả đã đổi khác rồi. Dĩ nhiên, Đức Giê-su cũng đã nói: anh em phải chịu đựng những mâu thuẫn, o ép trong thế gian. Chúng ta phải lấy làm ngạc nhiên nếu không có những điều đó. Nhưng đồng thời đừng quên rằng Người đã chiến thắng thế gian và vì vậy chúng ta phải thực sự có lòng tin tưởng. Nếu thế giới mà chúng ta đang sống đã được Đức Ki-tô chinh phục thì chúng ta không được phép nói rằng: Ừ thì tự Người đã tiến xa lắm rồi, còn chúng ta thì tụt lại trong tình trạng cũ thôi. Điều đó không đúng chút nào. Chúng ta hiện hữu cùng với Người trong một bối cảnh mới, mà trong đó chúng ta kính tin. Dĩ nhiên cũng không phải là chuyện một ngày nào đó chúng ta sẽ có được một kinh nghiệm như thế này: thật ra mọi thứ đều tử tế với chúng ta cả thôi, và từ góc nhìn đó chúng ta định hướng niềm tin. Không, đức tin và trải nghiệm tạo điều kiện cho nhau. Chỉ có người tin mới đi vào trải nghiệm và khi trải nghiệm người ấy tin.
Thư gửi tín hữu Do Thái (Dt 3,6) nói Đức Ki-tô „đứng đầu nhà Thiên Chúa“, với tư cách là Người Con. „Mà nhà Thiên Chúa là chính chúng ta, miễn là chúng ta giữ vững đến cùng lòng tin tưởng và thái độ hiên ngang về niềm hy vọng của chúng ta.“ Giờ đây chúng ta có thể thực sự trình diện trước ngai toà ân sủng trong tin tưởng và mạnh dạn đối thoại. Nhờ hiệu quả của máu cứu chuộc Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta được phép thâm nhập nơi cực thánh. Chúng ta không được phép vứt bỏ sự tin tưởng ấy. Cần phải lặp đi lặp lại không ngừng: tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa là ơn ban vĩnh viễn. Tình yêu của Thiên Chúa sẽ không bị chiến bại. Trong chương tám của thư gửi tín hữu Roma, Thánh Phao-lô đã liệt kê những thế lực của lịch sử mà người đã trải qua trong đời: sự sống và sự chết, thế sự, thiên thần, thiên phủ, thiện nhân ác nhân, hiện tại hay tương lai, cao hay sâu hay toàn thể thọ tạo. Rồi người khẳng định rằng không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Từ từ chúng ta sẽ phải cảm nghiệm được sự cao cả thuộc riêng về những người phục sinh với Đức Ki-tô, không phải để trở nên tự cao và đùa cợt với bảo chứng của mình theo kiểu ngây ngô và duy thế tục. Cũng không phải để ảo tưởng rằng cuộc đời sẽ không còn đau buồn hay mâu thuẫn nữa. Đúng hơn, điều ấy phải được hiểu rằng, dù gì đi nữa, tất cả những điều trên một cách nào đó đã được bao phủ một cách kỳ diệu bởi một điều còn lớn hơn, tức bởi chiến thắng của Đức Ki-tô và từ đó mà chúng ta nhận được ơn can đảm tột cùng. Nhờ Đức Ki-tô, thực sự chúng ta đã vượt qua thời gian và những manh động của nó, vượt qua lịch sử vô ích của tội lỗi và sức nặng của nhục thể và nhất là sự chết. Chắc chắn tâm tình can đảm của người chiến thắng này lại được đồng hóa với sự bất lực của thập giá, bởi vì chiến thắng là chiến thắng ngang qua thập giá.
Đó là lý do tại sao chúng ta còn bước đi trong sợ hãi và run rẩy. Nhưng đấy là cơn sợ hãi của kẻ biết phó thác. Chúng ta phải coi thập giá như là thách đố của đức tin, nhưng đồng thời cũng biết rằng Thiên Chúa, Đấng ngự trị trong ta, còn mạnh hơn lo âu khắc khoải của chúng ta trước thập giá. Từ quan điểm ấy, chúng ta muốn suy xét những vận mệnh khác nhau trong Giáo Hội và thế nào là cuộc sống linh mục của chúng ta: Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Theo tinh thần của Thánh Phao-lô, chúng ta có thể thêm vào: … tình yêu tỏ hiện nơi Đấng đã sống lại vinh quang. Cần phải xin ơn để có được cách nhìn như thế, một cách nhìn mang lại hạnh phúc. Nhưng cách nhìn ấy cũng đòi hỏi hành vi cao cả nhất tự đáy tim chúng ta: dám nhảy ra khỏi mình, trong ý thức về một niềm tin thánh phúc rằng tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời này, cho dù ghê gớm và nặng nề như thập giá đến mấy, tự nền tảng chúng cũng đã được cuộc khải hoàn của Đức Ki-tô kiện toàn rồi, vì Người là Đấng đã sống lại và sống lại vinh quang.
Chuyển dịch: Giuse Bùi Quang Minh, S.J. (http://www.dongten.net/index.php?option=com_content&view=article&id=579:karl-rahner-sj&catid=47&Itemid=115)
dongten.net