PDA

View Full Version : Lịch Sử Họ Đạo Mặc Bắc - Giáo Phận Vĩnh Long



andrew_lephuoclinh
22-10-2011, 11:58 AM
LỊCH SỬ HỌ ĐẠO MẶC BẮC TỪ 1777 – 2011



http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/20111022114652361.jpg




I. ĐỊA LÝ:


Họ đạo Mặc Bắc nằm bên tả ngạn Sông Hậu gồm 5 nhà thờ.

Đông: giáp xã Phú Cần, huyện Tiểu Cần – Tỉnh Trà Vinh
Tây: giáp xã Ninh Thới, huyện Cầu Kè – Tỉnh Trà Vinh
Nam: Rạch Cần Chong, huyện Tiểu Cần – Tỉnh Trà Vinh
Bắc: giáp xã Phong Thạnh, huyện Cầu Kè – Tỉnh Trà Vinh

Cách thị xã Trà Vinh 34km về hướng Tây, trên quốc lộ 60. – Trước 1975 là Tỉnh Lộ 34

Long Thới + Cầu Quan = Họ Mặc Bắc
Diện tích 5.414 ha
Dân cư 24.737
Công giáo 13.994 ( Hơn 56 %)



II. VỀ HÀNH CHÁNH:


Họ đạo Mặc Bắc gồm toàn bộ thị trấn Cầu Quan và 4 ấp xã Long Thới. Họ đạo Mặc Bắc còn gọi là họ Cầu Quan vì vào năm 1925 ở Rạch Cần Chong có đúc một cây cầu bêtông cho tàu La Cigogne cập bến đưa khách đi tuyến Mặc Bắc - Sóc Trăng.


III. Ý NGHĨA ĐỊA DANH MẶC BẮC:


Trước tiên Mặc Bắc là địa danh của một cái vàm của sông Hậu cách vàm Cần Chong khoản 1km về phía hạ nguồn và cách vàm Rạch Đùi 3km về phía thượng nguồn.

Theo truyền thuyết của bà con người Hoa (cộng đoàn người Hoa hiện diện tại xóm Chệc ngày nay có trước thế Kỷ XX hàng trăm năm) thì Mặc Bắc có nghĩa là "ĂN MẶC THEO KIỂU NGƯỜI PHƯƠNG BẮC" (Hoa).

Theo truyền thuyết người Khmer, Mặc Bắc đọc trại tiếng Moot Batt mà Moot có nghĩa là cái bến ghe, cái tuyến đường và Batt là bị bẻ gãy. Như vậy, phải chăng ở đây xưa kia có cuộc tranh hùng dữ dội giữa một bên là người Khmer địa phương còn bên kia là nhóm người Việt di dân trong cuộc Nam tiến. Cũng có thể là liên minh Việt-Hoa! Lý do là trong quần thể các dân tộc Kinh-Hoa và Khmer không có người lai "đầu gà đít vịt" theo Cha Trương Bá Cần, tổng biên tập báo Công Giáo và Dân Tộc thì truyền thuyết sau có khả năng hơn.

Gần đây, năm 2006 cơ quan Giao Thông vận tải thi công mặt đập trên Rạch Mặc Bắc cung cấp thêm một chi tiết nhỏ "Cống Mặc Xẫm". Có phải đây cùng nghĩa với "Mặc Đầm, Mặc Xẫm" không? Phán đoán dành cho hậu thế.


IV. LƯỢC SỬ HỌ ĐẠO MẶC BẮC: (1777-2011)


Lược sử họ đạo Mặc Bắc có thể chia ra làm các thời Kỳ:



IV.I THỜI KỲ HÌNH THÀNH VÀ THỬ THÁCH (1659-1862)


Theo tuần báo Nam Kỳ Địa Phận số 438 đến 444 phát hành tại Sài Gòn ngày 28 – 6 đến ngày 9 – 8 1917 thì dưới triều đại Tây Sơn từ trước 1976 có một số giáo dân đạo Thiên Chúa theo làn song di dân đến lập nghiệp tại Mặc Bắc và đến 11777 dẫ cso số giáo dân là 30 người dưới sự trông coi của một giáo sĩ người Bình Định tên là Giacobe Phướng, người đã lo lắng và trông coi công việc lập họ đạo lúc ban sơ.
Ban đầu thì họ đạo không có nhà thờ nên cha Giacobe phải làm lể trong nhà bổn đạo, thường là trong nhà mấy chức việc. Về sau do thấy việc cấm đạo đã yên ổn nên bổn đạo cất một nhà thờ tại Giồng Giữa bằng cột cây lợp lá.
Sau Cha Giacobe Phướng thì có nhiều Cha kế tiếp được giáo hội thuyên chuyển đến trông coi họ đạo Mặc Bắc, tiếp tục công việc truyền giáo, xây dựng cơ sở và phát triển họ đạo Mặc Bắc ngày càng lớn mạnh như ngày hôm nay.



IV.II. THỜI KỲ CỦNG CỐ (1862 -1938)

Các niên biểu cần lưu ý:


1862: hòa ước Nhâm Tuất nhường ba tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp. Pháp chiếm luôn ba tỉnh miền Tây Nam Bộ.
1867: phong trào Văn Thân ở Bắc Kỳ
1868: Vua Tự Đức ra chỉ dụ tha đạo.
1874: phong trào Văn Thân lan rộng. Hòa ước Giáp Tuất: triều đình nhượng lục tỉnh cho Pháp.
1883: Vua Tự Đức (1847 - 1883). Hòa ước Quý Mùi: triều đình nhận sự bảo hộ của Pháp. Loạn trong hoàng cung về việc phế phong. Văn Thân hoạt động mạnh.
1885: Văn Thân nổi tiếng lên khắp nước. Vua Hàm Nghi xuất Bôn và ra Hịch Cần Vương.
1888: Vua Hàm Nghi bị phản bội và bị Pháp đài đi Algerie.
1915: thành lập hội thiện tử.
1924: đổi tên các giáo phận thành địa danh của nước Việt Nam.
1932: Đấng Bản Quyền chuẩn y điều lệ Hội Thiện Tử.
1933: Giám Mục tiên khởi Việt Nam: Đức Cha GBt Nguyễn Bá Tòng Giám Mục Tông Tòa Phát Diệm.
1935: Đức Cha Dominic Hồ Ngọc Cẩn Giám Mục phó Tông Tòa Bùi Chu.
1938: thành lập giáo phận Vĩnh Long do Đức Cha Phêrô Ngô Đình Thục đảm nhận Tông Tòa.


IV.III. THỜI KỲ CHUYỂN BIẾN (1938 - 1960)


Các niên biểu cần lưu ý:


Năm 1938 thành lập giáo phận Vĩnh Long (8/1) gồm ba tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và một phần của tỉnh Đồng Tháp (Sa đéc). So với giáo phận mẹ Sài Gòn thì giáo phận Vĩnh Long thật nhỏ bé. Sau này giáo phận còn tế phân ra: Giáo phận Cần Thơ 1955; Giáo phận Đà Lạt 1960; Giáo phận Mỹ Tho 1960; Giáo phận Long Xuyên 1960; Giáo phận Phú Cường 1965; Giáo phận Xuân Lộc 1965; Giáo phận Phan Thiết 1975
Năm 1945 cách mạng tháng 8 thành công (19/8). Tuyên ngôn độc lập và thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2/9). Nam Bộ kháng chiến (25/8).
Năm 1954 cuộc di cư vĩ đại đưa gần 800000 giáo dân Miền Bắc vào Nam làm thay đổi cục diện Công giáo cả Nam lẫn Bắc.
Năm 1960 thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba Tòa Tổng Giám Mục: Hà Nội, Huế, Sài Gòn (24/11).


Đức Cha Phêrô Ngô Đình Thục ra Tòa Tổng Giám Mục Huế.
Đức Cha Antôn Nguyễn Văn Thiện (1960 - 1968) kế vị Đức Cha Thục.


http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114746139.jpg


Đức Cha Phêrô Ngô Đình Thục – Giám Mục tiên khởi giáo phận Vĩnh Long


Trong thời gian này Mặc Bắc có các cha sở sau đây:

1. Cha Phanxicô Nguyễn Văn Binh (1938 - 1941)
Sau khi chia địa phận Tòa Giám Mục Vĩnh Long đặt cho Phanxicô Nguyễn Văn Binh, linh mục bản gốc làm cha sở đầu tiên tại Mặc Bắc. Cha Binh là người rất nhân đức. Ngài đã soạn sách tháng Thánh Giuse. Thấy bổn đạo ngày càng đông, thánh đường chật chội, cha cho mở rộng hai hông Nhà thờ. Vì không chuyên ngành kiến trúc, cha chỉ làm đơn sơ. Ngay tại nhà chung, cha cho xây một cái hồ chứa nước mưa (1940). Hồ bị phá vỡ (2006) ra thay thế bằng một hồ ngầm dưới phòng cơm bây giờ, rộng 26m2. Cha làm cha sở không đầy 3 năm.
2. Cha GBt Nguyễn Văn Hưỡn (1941)
Cha Binh đi cha GBt Hưỡn đến. Cha là người có phong cách quân tử, rộng rãi, đầy bác ái và dịu dàng. Tính tình điềm đạm, văn hoa tao nhã có thể cảm hóa những người ngang ngạnh nhất. Có lẽ người dự định làm nhiều việc lớn, nhưng tiếc thay người chỉ mới bắt đầu làm hàng rào Đất Thánh và trồng cây vú sữa xung quanh nhà thờ, nhà chung thì có lệnh đổi đi. Cha chỉ ở Mặc Bắc có 6 tháng.
3. Cha Giuse Nguyễn Văn Bạch (1941 - 1948)
Cha Hưỡn đổi đi, cha Giuse Bạch đến thay. Cha có một óc kiến trúc nên đã xây dựng cho họ Mặc Bắc rất nhiều và rất đẹp. Xưa kia (1937) cha đã xây cất Nhà thờ Giồng Rùm (Phước Hảo) lộng lẫy, lầu chuông cao vút (37m) và đẹp đẽ. Cha đã sửa lại trong và ngoài nhà thờ Mặc Bắc: cửa lớn cửa sổ, trong và ngoài. Cha làm thêm bàn thờ Đức Mẹ và bàn thờ Thánh Giuse. Đặc biệt cha đã đặt mua ở Nam Định 20 tượng Thánh và Thần rất đẹp. Trên vách trong cung thánh sau bàn thờ chính đặt 4 tượng Thánh sử, một tượng trái tim Chúa Giêsu bổn mạng Nhà thờ, cao khoản 4m, tại mỗi cột hai bên nam nữ đều có tượng thánh đứng trên bệ.
Ngoài Nhà thờ, cha còn dựng núi Calvariô và hang đá Đức Mẹ Lộ Đức sau khi đã lấp hai hồ ao trong sân và lót gạch tại sân Nhà thờ. Năm 1942 dịp lễ lục tuần, ông Clêmentê Nguyễn Văn Huỳnh tức Mười Huỳnh còn gọi là ông Cống Huỳnh hiến dâng tượng Chúa Giêsu Kitô Vua cao 4m và dựng đài giữa sân Nhà thờ. Cha Giuse Bạch còn có công sửa sang Nhà thờ Mặc Bắc, xóa mờ những nét thô sơ của nó. Họ Mặc Bắc ghi ơn cha mãi mãi.



http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114751565.jpg


Dòng Ba Phanxicô tại Mặc Bắc (1938)


http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114808182.jpg


Hội đồng Quới chức giáo phận (1939)



http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114809188.jpg



Lễ Vinh Quy tại Mặc Bắc (1938)



http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114820462.jpg


Một đám tang cách đây hơn 68 năm tại Mặc Bắc



http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114814456.jpg


Lễ Hôn Phối (1938)



http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114825245.jpg


Rước lễ trọng thể năm 1938 tại Mặc Bắc


http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114814196.jpg


Lớp giáo lý trẻ em 1938

4. Cha Giuse Đặng Phước Hai (1948 - 1965)
Cha Giuse Hai kế nhiệm cha Giuse Bạch vào tháng 9/1948. Thuở nhỏ cha học rất giỏi. Thời ở Chủng Viện anh em chủng sinh đã gọi nể nang những người học giỏi trong lớp thứ nhất là Khánh (cháu nội ông Trương Vĩnh Ký). Thứ nhì phải là Hai. Tính người ít hoạt động. Ngài biết rõ Mặc Bắc sau khi đã làm phó cha sở Frison Hoàng 3 năm (1933 - 1936).
Tháng 4/1936 bổn đạo xóm Ngọn (Định Quới A) quá đông và xa Nhà thờ lớn nên cha Giuse lo cất một nhà nguyện tại cuối ấp Định Quới A để tiện bề cho bổn đạo ngoài này đọc kinh. Công việc xây dựng chưa xong thì ngày 10/10/1956 một trận bão dữ dội làm sập nhà nguyện. Cha phó Anrê Hớn đã thu lượm những vật dụng còn có thể dùng được đem về cất nhà trường ở giữa xóm và sau này (1975) có lúc phải mượn nhà trường để làm lễ cho bổn đạo.


IV.IV THỜI KỲ TĂNG TRƯỞNG (1960 - 1975)

Các niên biểu cần lưu ý:


Năm 1960 thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam. Đức Cha Antôn Nguyễn Văn Thiện (1960 - 1968).


http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114757611.jpg

Đức Cha Antôn Nguyễn Văn Thiện


Năm 1963 Công Đồng Vaticanô II (1959 - 1964). Chế độ đệ nhất cộng hòa (1956 - 1963) bị lật đổ (1/11/1963). Tiếp theo là những xáo trộn về mọi mặt ở toàn Miền Nam Việt Nam.



Năm 1969 Đức Cha Nguyễn Văn Mầu (1969 - 2001) kế vị Đức Cha Thiện.


http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114802891.jpg



Đức Cha Giacobe Nguyễn Văn Mầu


Năm 1974 Tổng Giám Mục phó Hà Nội Giuse Maria Trịnh Văn Căn lần đầu tiên tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới.
Năm 1975 thành lập giáo phận Phan Thiết (31/1). Giám Mục phó Raphae Nguyễn Văn Diệp (1975 - 2000).




http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114758603.jpg





Đức Cha Raphaen Nguyễn Văn Diệp




Thời kỳ này có các cha sở sau đây:





1. Cha Micae Lê Văn Sinh (1965 - 1971)

Cha Micae Lê Văn Sinh đến Mặc Bắc như đi vào vườn nho của Chúa đang cần cắt tỉa cho sum xuê. Cha giúp bổn đạo giải tỏa các ngôi mộ trước Nhà thờ mà khi xưa cha Giuse Bạch chưa thực hiện nổi. Cha vận động các ban hành sự khu xóm san bằng sân trước Nhà thờ cho sạch sẽ. Năm 1969 cha đứng ra xây cất trường trung học với bản hiệu "Trung học tư thục Thăng Tiến" để cho con họ trong họ nhà khỏi phải đi xa đến 8 cây số mới đến trường trung học Tiểu Cần. Trường này cha đang làm lỡ vỡ khoản 50% thì có lệnh đổi đi. Thời kỳ này cha đã có công lãnh đồ viện trợ cho người nghèo và bánh mì cho các học sinh ở các trường tư thục. Thời kỳ này giàn chuồng cối lầu chuông bị mối mọt xuống cấp. Cha trình với cha quản lí địa phận cho thợ đang xây cất nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long đem 5 cái chuông xuống và treo tạm ở chuồng cối đặt trên mặt đất.



Vì những đường hướng mới do Công Đồng Vaticanô II đề xướng chưa được sát lập, nhất là về khía cạnh lịch sử và phụng vụ trong thời buổi canh tân, Cha Micae có nhiều hành động không hợp lắm với truyền thống đạo đức trong họ. Tuy nhiên cha cũng có sáng kiến được bà con tiếp nhận hồ hởi như đào con kênh sau Nhà thờ dài 1500m để xổ phèn tưới ngọt. Nhưng cũng có những sáng kiến làm cho bà con giáo dân bỡ ngỡ như dẹp bớt các tượng thánh, sửa đổi bàn thờ và ghế quỳ trong Nhà thờ...


2. Cha Giacôbê Nguyễn Văn Tỏ (1971 - 1972)

Tháng 6/1971, cha Giacôbê Tỏ đến thay thế cha Micae Sinh. Ngài hiền lành và nhân đức. Cha dạy chở bàn thờ đồng mà vị tiền nhiệm đem gởi ở Định Thuận về nhà thờ lớn và định sửa nhà lại. Nhưng bản thân cha mang nhiều bệnh tật, dầu có thiện chí bao nhiêu cũng không làm gì được. Sau 13 tháng cha đổi về Cù Lao Dài.


3. Cha Tôma Đỗ Minh Tâm (1972 - 1975)

Tháng 7/1972 cha Tôma Tâm đến Mặc Bắc. Ngài rất có thiện chí, nói là làm. Trong 3 năm ở Mặc Bắc cha làm nhiều công việc:


Hoàn tất phần trên trường trung học Thăng Tiến mà cha Micae Sinh đang làm dỡ dang.
Năm 1973, cha cất lại Nhà thờ Lộ Mới, cũng do cha Micae Sinh khởi sự. Cha cất thêm một dãy trường học 4 lớp bên Nhà thờ Lộ Mới và lo cho có Dì Phước dạy.
Cũng trong năm 1973 cha sửa lại Nhà thờ Ba Giồng. Đoạn cha cho Nhà thờ Lộ Mới và Nhà thờ Ba Giồng hai chuông tư và năm của Nhà thờ lớn Mặc Bắc.
Năm 1974 sửa nhà nguyện và cất thêm trường ở Định Thuận.
Cũng năm 1974 khởi công xây cất Nhà thờ Ngọn theo họa đồ đã vạch sẵn nhưng vì thời cuộc nên chỉ hoàn tất khoản 60%.
Cha cho xây hàng rào vững chắc quanh đồi Calvariô, tượng đài Chúa Kitô Vua và núi Đức Mẹ Lộ Đức.
Cha phá vỡ hai tháp chuông và tiền đường Nhà thờ vì trong quá khứ bị chiến tranh và thiếu bảo quản. Gạch ngói cha đem xây Nhà thờ khu vực Ngọn.
Cha Tôma Tâm còn dự trù và vận động kiến thiết ngôi Nhà thờ lớn.


IV.IV THỜI KỲ SAU 1975 ĐẾN NAY




Thời kỳ này có các sự kiện sau đây:



Năm 1993 sửa đổi điều lệ hội Thiện Tử.
Năm 1998 tuột mái Nhà thờ lớn (19/3).
Năm 2000 Giám Mục phó Tôma Nguyễn Văn Tân (2000 - 2001).
Năm 2001 Giám Mục Chánh Tòa Tôma Nguyễn Văn Tân.




http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114752876.jpg



Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Tân



Cha Phêrô Lê Công Rạng hoàn thành Nhà thờ khu vực Ngọn. Cha Giuse Nguyễn Văn Nha hoàn thành Nhà thờ khu vực Lộ Mới.
Năm 2003 năm Thánh giáo phận Vĩnh Long (2003 - 2004).
Năm 2004 cha Tôma Nguyễn Văn Thành hoàn thành Nhà thờ khu vực Ba Giồng và sửa chữa nhà thờ Bàu Hoang.
Năm 2006 kiến thiết nhà chung (nhà cha sở). Cha Dominic Nguyễn Văn Trung hoàn thành Nhà thờ khu vực Định Thuận.
Năm 2007 phục hồi hai tháp Nhà thờ.

Thời kỳ này có các cha sở sau đây:

1. Cha Anrê Nguyễn Bá Hớn (1975 - 1993)
Do thời cuộc đòi hỏi, Đức Cha Giacôbê đã đưa cha Anrê Hớn từ Mai Phốp về Mặc Bắc. Ngài vốn hiền lành và có kinh nghiệm về Mặc Bắc vì ngài đã làm phó tại đây từ 1956 - 1961. Lúc bấy giờ sau cơn bão tháng 10/1956 cha Anrê đã thu góp những vật liệu của Nhà thờ Ngọn vừa bị sập về dựng nên trường học để dạy con em trong xóm Ngọn.
Năm 1986 chính quyền cách mạng mượn sườn nhà mà cha Tôma Tâm đã làm Nhà thờ dang dỡ để xây trường học. Cũng chính cha Anrê xây cất lại Nhà thờ khu vực Ngọn và Đức Giám Mục địa phận đã thân hành đến làm phép Nhà thờ này. Nhà thờ này được thay thế bằng Nhà thờ hiện tại (2001).
Thuở còn làm phó xứ Mặc Bắc cha đã dựng nhà máy xay lúa cho nhà chung và nay cha đến tiếp tục phát triển, đến nay (1987) vẫn còn.
Sau tiếp thu họ Mặc Bắc chỉ còn có 12 công ruộng để canh tác...
Về phụng vụ, năm 1986 cha Anrê đóng một bàn thờ dài 3m cùng với giảng đài và giá đọc sách bằng gỗ cẩm lai rất đẹp. Đây là một kỳ công của cha trong thời gạo châu củi quế.
Cha còn hoàn thành một tháp chuông (1990) với dự tính sẽ hoàn thành ngôi Nhà thờ sau, phù hợp với tháp chuông mới.
2. Cha Phêrô Nguyễn Phước Lợi (1993 – 2009)
Tháng 6/1993 cha Phêrô Lợi được điều về Mặc Bắc với lời van xin không làm gì ngoài mục vụ thiêng liêng. Nhưng do nhu cầu các khu vực Nhà thờ nên:


Nhà thờ Ngọn được cha Phêrô Lê Công Rạng hoàn thành (2001).
Dịp năm Thánh giáo phận Vĩnh Long (2003 - 2004) họ Mặc Bắc mừng lễ giỗ Thánh Giuse Trùm Lựu, được chính quyền tỉnh Trà Vinh cho phép tổ chức trọng thể khắp liên tỉnh và được tiếp tục mãi hàng năm.
Nhà chung do cha Montmayeur khởi công (1874) với thời gian đã xuống cấp trầm trọng và nhất là mối mọt đụt phá nên đã được Hội Đồng Quới Chức phá dỡ và dựng lại ngôi nhà mới (2006) với đầy đủ tiện nghi.
Nhà thờ Định Thuận đã được cha Dominic Huỳnh Văn Trung trùng tu (2006).
Tháp Nhà thờ Mặc Bắc cũ đã được tháo gỡ vì chiến tranh và thiếu bảo trì (1965 - 1974) thì nay được một người thiện chí như ông Tư Hưng, anh Tám Hoàng...hội ý với Hội Đồng Quới Chức phục hồi lại như xưa, đúng 120 năm sau khi nhà thờ lớn được hoàn thành (1887 - 2007).


http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114710907.jpg



Tháp Chuông nhà thờ Mặc Bắc được phục hồi sau đúng 120 năm (1887 – 2007)


http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114659467.jpg


Nhà Thờ Mặc Bắc nhìn từ hang Lộ Đức


http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114659445.jpg


Tượng Chúa Kito Vua cao 4m do ông Cống Quỳnh dâng năm 1942


http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114708304.jpg


Núi Calvariô

3. Cha Toma Nguyễn Văn Thành
Sau khi cha Phero Lợi qua đời cha Toma Thành tiếp tục công việc xây dựng và cơ sở vật chất của nhà thờ Mặc Bắc.

4. Cha Luy Nguyễn Văn Kỉnh
Cha mới về nhận Họ Mặc Bắc trong năm nay (2011)


V. HẠNH TÍCH VÀ GIAI THOẠI CÁC NHÂN VẬT MẶC BẮC



V.I. Cha Thánh Giuse Marchand Du (1803 - 1835)

Sau cha Lân thì Cha Marchand coi họ Mặc Bắc. Có kẻ nói rằng Cha Marchand đi viếng các họ như cha Bề Trên, mà bởi thời ấy số các Cha hy hữu lắm nên Cha Marchand phải ngồi tòa làm phước, cử hành các bí tích trong mỗi họ, người viếng như là cha sở vậy.
Tương truyền rằng khi họ Mặc Bắc được tin cha Marchand đến thì bổn đạo hiệp nhau làm một cái nhà vuông chỗ khuất tịch trên rừng, gọi là "Sẫm Đền", gần bên Rạch Vồn. Hễ lần nào Cha tới thì ở tại đó làm lễ ngồi tòa, rửa tội, dạy giáo lý và có ban phép thêm sức nữa. Nơi rừng bụi ấy cọp ở nhiều nên có kẻ hỏi cha: ở vậy mà cha có sợ không? Cha trả lời: cha không sợ cọp 4 chân nhưng cha chỉ sợ cọp 2 chân mà thôi! Dầu Cha nói vậy chớ cũng có 4, 5 người giúp việc ở với cha luôn và khi có ai tới rước cha đi kẻ liệt, thì các chức việc phải đi trước dẫn đường.
Bổn đạo nói Cha Marchand tánh vui vẻ lắm, lại biết làm nhiều trò ảo thuật nữa. Bài ca "Cái vè" của bổn đạo đặt ra mừmg cha Marchand khi mới đến tại nhà vuông "Sẫm Đền" thì một bà già còn sống, tuổi hơn bảy mươi ở tại họ Mặc Bắc còn nhớ (1917).
Cha Marchand qua lại coi họ Mặc Bắc thì đến năm 1833, tướng ngụy Lê Văn Khôi cho quân đến ép người về Chợ Quán.
Trong 117 thánh tử đạo Việt Nam, cuộc tử đạo của thánh Marchand Du mang màu sắc bi tráng nhất. Với gần ba tháng trong chiếc cũi chật hẹp, và những cuộc tra tấn chết đi sống lại, ngài là vị duy nhất bị án bá đao, nghĩa là bị cắt xẻo 100 nhát trước khi bị chặt ra làm bốn phần, còn thủ cấp bị nghiền nát đổ xuống biển.



http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114643551.jpg
Cha Thánh Marchand Du bị xử bá đao

Tuy nhiên, chúng ta không nên quá nhấn mạnh đến những đau thương trong cuộc tử nạn, mà quên mất chứng từ đời sống của thánh nhân : sự nhiệt tâm truyền giáo, lòng yêu mến các tín hữu và chí cương quyết chỉ phục vụ Tin Mừng.

Ngày 30.11.1835 cũng là ngày kính thánh Anrê. Các thánh lễ hôm đó đều đọc lại đoạn sách Isaia (Is. 52,7): "Đẹp thay bước chân người rao giảng Tin Mừng" như lời chúc tụng vị thừa sai đã hoàn tất sứ mạng tông đồ của mình. Giáo Hội đã rất thận trọng khi nghiên cứu hồ sơ cha Marchand Du, căn cứ vào các buổi tra khảo, nhất là cuộc thẩm vấn cuối cùng, Giáo Hội khẳng định ngài đã hiến mạng sống vì đức tin.

Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.



VI.II. Cha Thánh Philipphê Phan Văn Minh(1815 - 1853)




http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114820774.jpg


Cha Thánh Philipphê Phan Văn Minh

Thánh Philipphê Phan Văn Minh, Sinh năm 1815 tại Cái Mơn, Cha đã tới coi họ Mặc Bắc trong một tháng và mười tám ngày mà thôi, kế cha phải bị bắt tại nhà ông trùm Lựu. Quan quân dẫn cha qua ở Vĩnh Long

Tại đây quan tổng đốc hạch hỏi cha về các linh mục khác, những nơi đã trú ẩn, nhưng không khai thác được gì cả. Những ngày sau quan dùng mọi cách, khi thì dụ dỗ khi thì dọa nạt, khi quân lính kéo cha qua khỏi Thập Giá để bắt cha chối đạo. Nhưng cha Minh vẫn giữ lập trường của mình, trung thành với Đức Kitô và gíao hội. Thấy cha còn trẻ mới 38 tuổi, lại hiền lành học thức, các quan muốn tìm cách cứu cha, họ không bắt cha bước qua Thập Giá nữa chỉ cần cha nói miệng là "đã bỏ đạo" cũng được tha. Nhưng cha Minh một mực từ chối đề nghị này.

Không thể làm gì hơn được, các quan cho lính đưa cha về giam tại Tuyên Phong chờ ngày lãnh án. Nghe án xử từ kinh đô đã gửi về cha Minh quỳ gối tạ ơn Chúa, rồi an ủi các anh em bạn tù nên vui lòng tuân theo ý Chúa, hẹn tái ngộ trên nước trời. Cha nói : "Xin anh em vững dạ cậy trông Chúa, ngài chẳng từ bỏ ai và ngài sẽ thưởng công bội hậu cho những ai tận tâm tôn thờ ngài". Cha cũng căn dặn một tín hữu ở ngoài : tiền bạc của cha nếu còn lại, đừng phí tổn ma chay lớn làm chi, cứ đem phân phát hết cho người nghèo.

Cuối cùng ngày mong đợi của cha đã đến. Cha vui vẻ lần chuỗi tiến ra pháp trừơng, qua bờ Sông Long Hồ đến Cái Sơn Bé, quân lính dọn bữa ăn sau cùng, nhưng cha Minh không thiết gì nữa. Cha chăm chú cầu nguyện, sau hồi chiêng trống rền vang. Lưỡi gươm lý hình đã đưa linh hồn vị anh hùng tiến thẳng về thiên Quốc. Lời nguyện cầu thánh thiện sau hết của cha Minh còn âm vang trong lòng những người hiện diện.

"Lạy Chúa xin thương xót con, lạy Đức Giêsu, xin cho con sức mạnh và can đảm chịu khổ để vinh danh ngài. Lạy Mẹ Maria xin nâng đỡ con ".Hôm đó là ngày 03.07.1853. thi thể vị tử đạo được an táng dưới nền một nhà lớn vừa được đốt phá ở Cái Mơn. Năm 1960, di cốt ngài được đưa về Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn trong dịp lễ cung hiến.

Đức Cha Lêo XIII suy tôn cha Philiphê Phan Văn Minh lên bậc chân phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Chủng viện giáo phận Vĩnh Long đã nhận thánh Philiphê Minh làm bổn mạng.


VI.III. Cha Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu ( ? - 1861)



http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114829619.jpg


Cha Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu

Cha Lựu coi họ Mặc Bắc cho tới năm 1853. Khi cha ở đó, thì có Cha Pernot tới viếng mấy họ miệt ấy. Lúc nầy tại họ có Nhà thờ, mà cha Lựu thường thì ở tại mấy nhà hương chức, nhất là nhà ông Trùm Lựu. Tưởng là Cha đã bị bắt tại đó, mà sau thì cha Minh tiếp kế người mới phải bắt. Chuyện như vầy: khi ấy cha Lựu đang lo coi dọn nền đặng dời Nhà thờ lại chỗ mới (sau là chỗ nhà ông thôn Thân); bổn đạo đem cây cột tới đó để dựng lên; kế đó Bếp Nhẫn tới xớ rớ làm bộ như là muốn phụ giúp vô, và lấy cây đo chỗ nền coi lòng kèo, lòng trính có vừa không, rồi nó lại gần cha Lựu mà than thở túng rối, cùng xin cha giúp nó 300 quan tiền. Cha Lựu biết danh tánh nó rõ lắm, nên cha đoán nó đi đo, giả chước xin tiền đặng mà nộp cha. Vậy cha trả lời cho nó như vầy: "Mầy là đạo dòng đạo dõi, mầy muốn bán tao như Giudà sao? Mầy muốn cáo tao thì cáo đi, tao ham mũ triều thiên tử đạo lắm". Bếp Nhẫn nghe cha quở mấy lời nhằm tâm mình, nên hổ thẹn và lui ra, cùng quyết đi cáo cha mà thôi. Vậy nó bèn tuốt qua tỉnh Vĩnh Long, đâm đơn cáo cùng quan, rằng có đạo trưởng Lựu ở tại mặc Bắc.
Song quan tỉnh không chấp đơn, trả lại cho nó và biểu phải cho có ba người đứng đơn cáo, thì quan mới chịu sai quân lính đi bắt, vì một người đứng đơn thì không chắc sự vào đâu. Cho nên bếp Nhẫn phải trở về mà lòng quyết một, thế nào cũng làm cho cha Lựu phải bị bắt mà thôi. Vậy nó mới bàn tính với tên Xã Hiệp và một tên lính cựu là Lý Vấp, cả ba đứng vào đơn mà cáo cha Lựu. Bởi đó cho nên khi các việc tính toán xong; ba tên ấy đem nhau qua tỉnh Vĩnh Long mà vô đơn, thì đã cách lâu ngày với phen bếp Nhẫn đã vô đơn cáo cha lần trước; và trong lúc đó thì cha Lựu đổi đi Ba Giồng, Cha Minh ở Cái Mơn qua thế tại Mặc Bắc.
Lúc bấy giờ, cơn cấm bách và bắt bớ vô cùng khốc liệt dưới triều vua Tự Đức, một số giáo dân Ba Giồng bị bắt giam tại Định Tường.

Cha Phêrô Lựu thường mặc áo thường dân đến các nhà giam thăm viếng, an ủi giáo dân. Vào một ngày tháng 12 năm 1860, lính canh đã phát hiện thân thế của Cha do một phong thư chữ viết kiểu Âu Châu. Cha đã bị bắt tại nhà giam tỉnh Định Tường Mỹ Tho.

Đòn roi và cả những lời khuyến dụ vẫn không lay chuyển được Cha. Trước quan quyền Cha dõng dạc “Đạo đã thấm nhập vào trong xương trong tủy, tôi làm sao bỏ được, một Thầy giảng còn không có quyền bỏ đạo, huống nữa tôi đây là Đạo trưởng’’. Nên sáng ngày 07 tháng 4 năm 1861, bảng án tử hình dành cho Cha Phêrô Lựu đã được thực hiện.

Thi hài Cha được các tín hữu an táng cùng với gông cùm và chiếc bình đất vấy máu Ngài. Về sau, hài cốt Cha được dời đến đặt tại bàn thờ chính của Thánh Đường Mỹ Tho. Năm 1960, hài cốt Ngài được cải táng về nhà thờ chánh Tòa Sài Gòn.

Ngày 02 tháng 5 năm 1909, Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn Cha Phêrô Nguyễn văn Lựu lên bậc Chân Phước. Và ngày 19 tháng 6 năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn vinh Ngài lên bậc Hiển Thánh.


VI.IV. Thánh Giuse Nguyễn Văn Lựu – Trùm Nhất họ Mặc Bắc (1750 – 1854)



http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114802698.jpg


Thánh Giuse Trùm Lựu



Một cuộc đời tốt đẹp

Sáu mươi tư tuổi đời, bao nhiêu là kỷ niệm, bao nhiêu là niềm vui, bai nhiêu là tình thương. 64 tuổi đời với những trách vụ và công việc xen lẫn với những khó khăn gian khổ, đói khát và bệnh tật của một người dân bình thường. Ông trùm Giuse Lựu tạ ơn Chúa vì 64 năm đó, và rồi ông chỉ còn chờ giây phút sau cùng để "Trả lại những quãng đời trần gian Chúa đã ban cho mình". Giây phút đó đã đến sớm hơn lòng ông mong chờ. Sau cuộc tra tấn trong ngục tối im lặng âm thầm ông cảm thấy rõ giây phút đó từ từ đến. 64 tuổi đời sống làm con Chúa, còn lại chút hơi thở cuối cùng, ông cũng muốn thành kính dâng lên trọn vẹn chi Ngài. Ông bám vào bờ tường, cố gắng đứng dậy ngước mắt lên trời kêu tên cực trọng Chúa Giêsu và Đức Maria ba lần, và từ từ ngã xuống nền nhà ngục, hoàn tất 64 năm dương thế một cách tốt đẹp.


Sống để phục vụ

Chào đời năm 1790 tại họ Cái Nhum, tỉnh Vĩnh Long. Ngay từ thời niên thiếu, cậu Giuse Nguyễn Văn Lựu đã được hấp thụ một nền giáo dục gia đình Công Giáo đạo đức. Nhờ vậy sau này khi kết hôn, Giuse Lựu đã đem lại cho gia đình một nề nếp cao quý, môt bầu khí đầm ấm, yêu thương thấm nhuần tinh thần đạo hạnh Kitô giáo.
Khi Giuse Lựu nên mười tuổi, vì công việc làm ăn tại Cái Nhum nghèo khổ, vất vả quá, nên ông Sách đem gia đình ra đi tìm kế sinh nhai. Gia đình ông Sách đến cư ngụ tại họ Bò Ót, (xưa thuộc địa phận Nam Vang, nay thuộc tỉnh Cần Thơ, địa phận Long Xuyên). Bởi bản tính làm ăn thật thà, biết thờ phụng Chúa, nên Chúa thưởng cho người chồng gầy được sự nghiệp cơ đồ. Ông Sách cũng lo tạo lập nhà thờ, giúp đỡ bổn đạo, giàu nhân đức, nên dù đến xứ lạ quê người, ông cũng đạt địa vị cao. Ông được đề cử giúp việc làng, lên chức Hương Cả; về việc đạo, ông cũng qua chức Giáp, Biện, Câu cho tới bực Trùm họ.
Ngụ Bò Ót độ 5 năm, vì công việc làm ăn làm không mấy khá giả, nên ông Sách đến cư ngụ ở Cần Chuông, Mặc Bắc, thuộc làng Long Định, tỉnh Vĩnh Long, (nay là Long Thới, Tiểu Cần, Trà Vinh). Lúc đó Giuse Lựu được 15 tuổi, ngày đêm chăm lo giúp đỡ cha mẹ, khai khẩn đất ruộng hoang, qui dân lập ấp, phát triên xã hội.
Về ngụ tại Mặc Bắc, gia đình ông Cả Sách ngày càng thêm khá giả. Ông Sách dùng lời lẽ êm dịu mà khuyên vợ dạy con, gia đình luôn đầm ấm yêu thương, thấm nhuần tinh thần Kitô giáo.
Được đề cử làm trùm họ Mặc Bắc, ông tỏ ra xứng đáng với lòng tín nhiệm. Quý mến của mọi người. Đặc biệt ông có tài hòa giải những cuộc xích mích. Nhờ uy tín cá nhân, ông phân tích rõ ràng ai phải, ai trái, rồi dẫn lời Chúa dạy trong Phúc Âm, ông mời gọi mọi người hãy tha thứ và làm hoà với nhau. Thế là mọi người nghe theo các lời chí tình, chí thiết của ông. Hơn nữa trong trách vụ này, ông còn thể hiện một tâm hồn nhiệt thành với việc tông đồ, một Kitô hữu đầy lòng bác ái. Cộng tác với các linh mục trong việc điều hành họ đạo, coi sóc các em thiếu nhi, giúp đỡ người nghèo. Ông đã hiến tất cả vườn ruộng để xây dựng một nữ tu viện. Hằng ngày ông vẫn rộng tay làm phúc cho những người nghèo khó. Cuộc đời của ông thật giống những người tôi tớ trung tín luôn luôn làm sinh lời những nén bạc Chúa ban.
Những nguy hiểm gây ra do sắc chỉ cấm đạo không làm cho ông Trùm họ Mặc Bắc sợ hãi. Trước biết bao hiểm nguy khó khăn, ông vẫn lo liệu để các linh mục có nơi ẩn náu, hầu có thể cử hành và trao ban các bí tích cho giáo hữu.


Ý chí sắt đá

Ngày 26-03-1853, quan quân vây làng Mặc Bắc để tìm bắt cha Lựu (thực ra bấy giờ cha Minh đã thay thế cha Lựu mà quan quân không biết), nhưng ngay lúc đó ông trùm Lựu can đảm trả lời : "Thưa các quan không có đạo trưởng Lựu ở đây. Lựu chính là tên tôi làm trùm họ này". Quan quân nhìn ông chỉ thấy dáng dấp một nông dân nhà quê không có vẻ gì là đạo trưởng. Họ bèn lục soát kỷ hơn. Biết không thể trốn được cha Minh liền ra trình diện, mà họ nghĩ là cha Lựu và 6 giáo hữu bị giải về tỉnh Vĩnh Long.
Những hình khổ trong tù đã làm bốn người thối chí, họ muốn sống dễ dãi hơn. Những người yếu lòng ấy không chỉ phản bội Thiên Chúa họ còn đổ tội cho ông trùm Mặc Bắc là người tiếp đón và cho đạo trưởng chú ẩn. Họ nguyền rủa ông như là người gây ra mọi tang tóc, mọi khổ cực của họ. Riêng ông trùm Lựu, trước sau vẫn một mực trung kiên với Thiên Chúa, ông đón nhận những lời sĩ nhục và mọi đau khổ một cách khiêm tốn để đền bù những tội lỗi mình. Ông sẵn sàng đón nhận tất cả vì ông tin tưởng vào Thiên Chúa. Tín thác hoàn toàn nơi Ngài, lời tâm sự cùng linh mục cùng bị giam cho thấy ông có một niềm tin vững mạnh và tấm lòng hy sinh cao cả : "Thưa cha, xin cha cầu nguyện cùng Chúa để Chúa ban cho con sức mạnh và can đảm cần thiết. Con sắp phải đi đày, con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con, con bằng lòng dâng cho Ngài hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình vợ con, chính Chúa sẽ săn sóc vợ con của con."
Còn gì cao quý và giá trị cho bằng một tình yêu trong Thiên Chúa. Đấng chính là Tình Yêu…
Đức Piô X đã suy tôn ông Trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu lên bậc chân phước Ngày 02-05-1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 2/05.

VI.V. Cha Felix Frison bắt cọp (1900 - 1938)

Lúc làm sở Mặc Bắc có lần bổn đạo báo tin cho cha hay là có cọp về trên mé rừng Đồng Lác. Cha mang súng hai nòng đi bắn cọp. Mặc dù đi đâu cha vẫn mặc áo dòng bằng xuyến. Bắn cọp phát thứ nhất cọp bị thương. Cọp phóng tới chụp cha. Cha bắn phát thứ hai đạn không nổ. Cha phải dí đầu súng vào họng cọp. Cọp cào cha rách áo dòng. Khi ấy bổn đạo đi theo có sẵn mác thông cầm tay nhào vô đâm cọp chết. Cha không bị thương tích gì hết. Cha sống rất đơn sơ giản dị trầm tĩnh tắm ao hồ trong đêm khuya, uống nước lã trong cái bình con gà rất cỗ. Năm 1935 họ Mặc Bắc tổ chức mừng lễ kim khánh cha hết sức long trọng ngày 20/11/1935. Khi chia địa phận thì cha đổi về Thủ Dầu Một (20/10/1938) lại cất nhà thờ và qua đời tại đó.



VII. NHÀ THỜ MẶC BẮC HÔM NAY

Nhờ lời cầu bàu của Đức Mẹ Maria, Các Thánh Giuse Marchand Du, Thánh PhilipPhê Minh, Thánh Phêrô Lựu, và Thánh Giuse Trùm Lựu mà công việc kiến thiết lại họ Mặc Bắc sau hơn 120 năm đã có được nhiều thành công tốt đẹp
Một Số Hình Ảnh Nhà Thờ Mặc Bắc hôm nay:


Thêm Sức tại Mặc Bắc ngày 16-06-2011 (http://vn.rd.yahoo.com/blog/mod/art_title/*http:/vn.360plus.yahoo.com/andrew_lephuoclinh/article?mid=259)


http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114716670.jpg




http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114723273.jpg




http://seablogs.zenfs.com/u/Bsp1kpmTHhPD.BiCZSQirmqcHGtFgF3173s-/photo/ap_20111022114726587.jpg




Xem Thêm Hình ảnh về Nhà Thờ Mặc Bắc:

http://vn.360plus.yahoo.com/andrew_lephuoclinh/article?mid=259&prev=274&next=240


Một Số Video Trong VCD Tôn Vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam – Thánh Giuse Trùm Lựu


Nơi Đầy Phúc Ân

http://www.youtube.com/watch?v=Y8Alj7CQp3o



Mặc Bắc Có Ông Trùm Lựu

http://www.youtube.com/watch?v=LSxywNk0zk0

Nhân Chứng Đức Tin

http://www.youtube.com/watch?v=VknD-yj1EUQ

Bông Hoa Mồng Gà (một hài hát rất thú vị mượn hình ảnh một đó hoa mọc lên từ một hóc đá dưới chân tượng Thánh Giuse Trùm Lựu)

http://www.youtube.com/watch?v=HufQtb6-xdM

Noi gương thánh Giuse Trùm Lựu

http://www.youtube.com/watch?v=hFDSPEN4TZU



Viết theo:


Tuần báo Nam Kỳ Địa Phận (Sài Gòn) các số từ 438 - 444 ngày 28/6 - 9/8/1917
Sưu tầm lịch Công giáo (giáo phận Sài Gòn) từ năm 1924 của các ông trùm Giacôbê Tống, trùm nhất Mặc Bắc. Phêrô Trịnh Văn Trơn, trùm nhất Cái Nhum
Tìm tòi của giới trẻ Mặc Bắc (1996)
Sưu Tập và Tổng Hợp Từ Internet


Nguồn: giaophanvinhlong.net