PDA

View Full Version : Nguồn gốc Tết nguyên đán.



Gia Nhân
21-01-2012, 08:12 PM
NGUỒN GỐC TẾT NGUYÊN ĐÁN (http://www.blogphongthuy.com/?p=1282)


http://files.myopera.com/aihuuninhthuan2/blog/datthiengsinhkhi_IMG%202.gif


Trong một năm Việt Nam có rất nhiều lễ Tết, ứng với tiết trời và mùa vụ khác nhau, nhưng lớn nhất, trọng đại nhất vẫn là Tết Nguyên đán.Cái Tết bắt đầu cho năm mới, hy vọng về mọi sự may mắn tốt lành của mùa xuân nảy lộc đâm chồi, đồng thời cũng bỏ lại tất cả những rủi ro, đen đủi của năm cũ.


Lẽ trời đất có thuỷ phải có chung, có bắt đầu thì phải có kết thúc, cho nên trong Tết Nguyên đán, đón lễ Giao thừa chính là thời khắc thiêng liêng nhất, giao lại cái cũ, đón nhận cái mới.

Vì vậy lễ Giao thừa còn gọi là Lễ Trừ tịch. Tết Nguyên đán của ta tiến hành vào phút cuối cùng của năm cũ, phút đầu tiên bước sang năm mới, tức là giữa giờ Hợi ngày 30 hoặc nếu tháng thiếu thì ngày 29 tháng Chạp năm trước và Giờ Tý ngày mùng 1 tháng Giêng năm sau.

Mâm cỗ của ngày tết
Xưa kia, ở các triều đại phong kiến, ông vua nào cũng tự xưng mình là “Thiên tử” (con trời) thay trời trị dân. Vì thế vua nào tối tăm, hôn ám, trời sẽ gieo tai hoạ để trừng trị.
Điều này đã được ghi rõ trong những bộ Chính sử của Nhà nước phong kiến để giải thích những hiện tượng như sao Chổi (điềm chiến tranh), mất mùa, lụt lội… Và tất nhiên các ông Vua đều phải trai giới lập đàn sám hối…
Cũng với quan niệm trên, người xưa cho rằng trên thiên đình có 12 vị Đại vương hành khiển, mỗi người phụ trách một năm, hết một giáp tức 12 năm lại trở lại từ đầu, vì vậy các vị Đại vương này còn được gọi là Đương niên chi thần.
Trách nhiệm của mỗi vị là theo dõi nhân gian trong cả năm, xem xét việc hay, dở của từng người, từng gia đình, từng địa phương trong cả nước để định công, luận tội, tâu lên Thượng đế.
Mỗi vị hành khiển có một vị phán quan giúp việc ghi chép sổ sách cho rành mạch. Lễ giao thừa ngoài ý nghĩa “tiễn năm cũ đón năm mới” còn là lễ tiễn Đại vương hành khiển cũ và đón vị Đại vương mới, cho nên nghi thức lễ giao thừa vừa linh thiêng vừa trọng đại. Lễ được làm ở đình làng, ở thôn xóm, ở nhà thờ họ và mỗi gia đình.
Hiện trong thư tịch Hán nôm còn lưu lại khá nhiều bài văn khấn trong lễ giao thừa ngoài phần niên tuế, tính danh chủ lễ, địa chỉ… Cuối cùng bao giờ cũng phải vọng bái.
- Đương niên đương cảnh Đại vương hành khiển
- Lâm tào phán quan
- Bản địa Thổ địa thần kỳ
- Bản cảnh Thành Hoàng
Sở dĩ phải khấn như trên bởi khi đức Đại Vương hành khiển đại diện cho Thượng đế đã giáng trần thì Thổ thần và Thành Hoàng phải nghênh tiếp, do đó cũng được phối hưởng.
Chắc chắn quan niệm “Thiên địa vạn vật nhất thể” hay “Thiên nhân tương dữ” trong dân gian chẳng mấy ai để tâm nghiên cứu hay tìm hiểu về “lý nọ”, “sự kia”, mà người ta làm theo lệ tục từ một lẽ rất đơn giản: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Ở đây chúng tôi muốn đề cập đến một số kiêng kị trong Tết Nguyên đán xưa.

Kiêng quét nhà trong 3 ngày Tết
Họ sợ rằng sẽ quét hết vận đỏ đi. Vì thế ai cũng quét dọn nhà cửa, vườn tược, bao sái đồ thờ tự trước lúc giao thừa. Ở Nam Bộ sau khi quét dọn phải cất hết chổi, nếu trong ngày Tết bị mất chổi có nghĩa là năm đó nhà sẽ bị trộm quét sạch của cải.
Ở nông thôn ngày Tết nhà nào cũng rắc vôi bột ở bốn góc vườn, rồi vẽ mũi tên hướng ra cổng để xua đuổi ma quỷ, hung thần bốn phương kéo đến gieo tai hoạ. Còn thành thị thường hay treo “quả bùa gỗ” để trấn ma quỷ

Tranh Tết
Kiêng không treo những tranh “xui xẻo” như đánh ghen, kiện tụng mà phải tìm bằng được những tranh lợn, gà, cậu bé, vinh hoa phú quý… hy vọng năm mới sẽ có nhiều điều tốt lành, trâu bò chật ních, thóc lúa đầy bồ. Ngày Tết nhà nào cũng có lọ hoa, tuỳ theo gia cảnh mà trang trí bày biện.
Ở nông thôn thì phần nhiều là những cành hoa giấy, hoa lông gà lông vịt màu sắc rực rỡ mua ở những phiên chợ Tết hàng tổng, hàng huyện.
Song ở thành thị nhiều nhà cầu kì và kĩ tính, kén chọn những cành đào bích không những đầy hoa mà còn phải có nhiều nụ, nhiều lộc. Hoặc những cây sung thế lúc lỉu quả.
Hình như trong sâu thẳm đáy lòng ta vẫn tin vào một sự huyền bí, siêu nhiên nào đó sẽ đáp ứng được mong mỏi và nguyện vọng của mỗi người

Xông nhà
Xông nhà ngày Tết là một việc hết sức trọng đại vì thế hầu như nhà nào cũng kiêng kị rất cẩn thận. Bởi nếu không những điều xấu sẽ vận vào bản thân, gia đình mình. Vì sợ “dông” nên phải chọn người xông nhà, tuổi tính theo hàng can không xung với năm đó và không xung tuổi với chủ nhà.
Người ta thường chọn những người gia cảnh song toàn, con cháu đông đàn dài lũ, làm ăn thịnh vượng, vì thế mới có lệ “hẹn trước”, mời đến xông nhà.
Người Nam Bộ còn có thói quen chọn người có tên đẹp như Phúc, Lộc, Thọ, Tài, Lợi… mời đến xông nhà để cả năm sẽ thuận lợi, may mắn.
Thật không may cho nhà ai bị những người nặng vía xông nhà, hoặc mùng một Tết (http://www.blogphongthuy.com/?p=2477) có người đến nhà xin lửa, xin nước. Thường thì trước khi bước sang năm mới ở nông thôn nhà nào cũng lo đổ đầy nước vào bể, vào chum hoặc vại.
Từ trong tâm thức người ta tin rằng năm mới đến sẽ đem theo của cải nhiều như nước. Chẳng thế mà sáng mùng một Tết rất nhiều nhà, nhất là ở phố phường xưa kia hay thuê người gánh nước đến. Họ được mừng tuổi đôi ba hào, thế là cả chủ nhà lẫn người quẩy thuê cả năm sẽ đều may mắn.

Một điều nữa cần nói đến là trong ngày Tết mọi người đặc biệt quan tâm đến cách ứng xử với hàng xóm láng giềng, bạn bè và những người trong gia đình

Ai cũng tỏ ra vui vẻ, hồ hởi, thân tình trong không khí ấm áp của mùa xuân. Ai cũng ngại và sợ to tiếng hoặc xô xát thì quanh năm sẽ bị dông. Giá như điều kiêng kị này cứ giữ được trong cả năm thì hay biết bao.

BPT.St.

duoc1706
21-01-2012, 10:35 PM
Tết - Nguồn gốc ra đời

Tết cổ truyền Việt Nam là một lễ hội truyền thống có liên quan đến việc trồng cấy cây nông nghiệp trong tập tục của người Việt cổ. Cụ thể hơn Tết cổ truyền (Tết Cả) có từ thời Hồng Bàng, trước cả thời Hùng Vương, trong đó nổi bật là câu chuyện Lang Liêu gói bánh chưng bánh dày mừng Tết vua Hùng. Điều đó thể hiện Tết cổ truyền Việt Nam đã có gần 5000 năm.
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau.
Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Nói thêm về ảnh hưởng của Tết cổ truyền Việt nam lên Trung quốc, Khổng Tử là bậc tổ sư cho lễ nhạc của Trung Hoa viết trong sách Kinh Lễ như sau: “:”Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là “TẾ SẠ” (Tế Sạ là Khổng Tử phát âm chữ Thêts, là lễ hội năm mới của người Thái đất Phong Châu- TN)
Sách Giao Chỉ Chí cũng có đoạn viết “Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, chúng gọi ngày đó là Nèn- Thêts, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này. Chỉ có bọn man di mới có ngày hội mà người trên kẻ dưới cùng nhau nhảy múa như cuồng vậy, bên ta không có sự Quân thần điên đảo như thế.”
Hai đoạn trích từ hai cuốn Kinh sử nổi tiếng của Văn hóa Trung Hoa đều khẳng định Tết của Việt có trước ngày “Tân Niên”-“Chinese new Year”-“Thrếts Chìn” của người Tần Trung Hoa rất xa và Tết nguyên đán Trung quốc thay đổi rất nhiều so với Tết gốc của dân tộc Việt. Trong khi đó ngày Tết cổ truyền của dân tộc Việt vốn không thay đổi từ thời thượng cổ cho đến nay.

(Trích Wikipedia)