agapaw
20-05-2012, 04:54 PM
CON ĐƯỜNG VƯƠN TỚI THIÊN CHÚA VỚI THÁNH AUGUSTINÔ VÀ ĐHY PHANXCÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN
Piô Phan Văn Tình, CMS.
MỤC LỤC
Dẫn nhập (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279314)
I. TIỂU SỬ THÁNH AUGUSTINÔ VÀ ĐHY PHANXICÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279315)
1. Thánh Augustinô (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279316)
2. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279317)
II. CON ĐƯỜNG DẪN TỚI THIÊN CHÚA (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279319)
1. Nơi thánh Augustinô – Con đường nội tâm (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279320)
a. Siêu hình học về một kinh nghiệm nội tâm (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279321)
b. Con đường vươn tới Thiên Chúa (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279322)
2. Nơi ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận – Con đường hy vọng (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279323)
a. Khái quát niềm hy vọng (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279324)
b. Con đường hy vọng vươn tới Thiên Chúa (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279325)
III. ĐỐI CHIẾU VÀ ÁP DỤNG (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279326)
1. Đối chiếu hai con đường (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279327)
a. Những điểm tương đồng (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279328)
b. Những điểm dị biệt (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279329)
c. Tác động hỗ tương (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279330)
2. Áp dụng vào đời sống tu (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279331)
a. Con đường hy vọng (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279332)
b. Con đường nội tâm (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279333)
Kết luận....................................................................................................................................
Dẫn nhập
Sống làm người, ai cũng có quê hương và cội nguồn, nơi ấy, người ta luôn hướng về như khởi điểm và đích điểm của đời mình. Chẳng vậy mà có những câu ca diễn tả khuynh hướng đó như thường thấy trong ca dao, tục ngữ hay dân ca: "Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh..." hay "...quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người". Nhưng đâu là quê hương đích thực và đâu là cội nguồn phát sinh của con người? Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philiphê trả lời rằng: "Quê hương của chúng ta ở trên trời..." (Pl 3,20). Không có cội nguồn nào lấp đầy khoảng trống khao khát, nhớ nhung của con người cho bằng Thiên Chúa.
Thật vậy, Thiên Chúa chính là khởi điểm và đích điểm của một đời người. Thế mà đã có khởi điểm và đích điểm thì minh nhiên phải có con đường. Do đó đời người là một hành trình thao thức đi về với Thiên Chúa: "Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con sẽ nao nức mãi cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa". Con đường thì nhiều nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là: đâu là con đường khả dĩ giúp con người vươn tới Thiên Chúa?
Trải qua dòng lịch sử, có biết bao con đường đã được vạch ra như: con đường vươn tới Siêu Việt Thể của Karl Jaspers, con đường đạo đức của Emmanuel Kant, con đường tìm Chúa của thánh Biển Đức, linh đạo của thánh Gioan Thánh Giá...Nhưng ở đây, trong lãnh vực thần học, với giới hạn cho phép, bài luận này chỉ xin dừng lại nơi "con đường vươn tới Thiên Chúa với thánh Augustinô và ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận", qua ba phần sau:
Phần I tìm hiểu con người và sự nghiệp của thánh Augustinô và ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Phần II trình bày con đường nội tâm và con đường hy vọng nhằm giải đáp vấn nạn: "đâu là con đường vươn tới Thiên Chúa?"
Phần III đưa ra một vài đối chiếu, nhận định và suy tư cá nhân cùng với việc áp dụng hai con đường vào thực tế đời sống liên quan đến đời sống tu trì.
I. TIỂU SỬ THÁNH AUGUSTINÔ
VÀ ĐHY PHANXICÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN
1. Thánh Augustinô (354-430)
Augustinô sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Thagaste, một thành phố nhỏ miền Bắc Phi, trong một gia đình trung lưu, di cư từ Roma sang. Thân phụ Augustinô là Patricdiô. Ông không phải là kitô hữu. Ông là con người nghiêm khắc với vợ con nhưng lại dễ dãi với chính mình. Thân mẫu Augustinô là thánh Monica, là một mẫu gương đặc biệt về tấm lòng của một người mẹ; chính vì lòng yêu thương con mà Monica đã trở thành một phụ nữ cầu nguyện, một vị thánh của Giáo hội. Bà Monica lo cho con mình được ghi tên vào sổ các dự tòng nhưng Augustinô chưa lãnh ơn bí tích Rửa tội. Augustinô từ bé đã nhiễm những thói xấu của một đứa trẻ thông minh và quậy phá. Năm 370, sau khi học hết các lớp sơ đẳng ở nguyên quán, ngài đi Modaure và Carthago để học môn tu từ và văn chương. Tại đây, Augustinô theo bạn bè, lao vào con đường ăn chơi trụy lạc. Sau này ngài kể lại là “mặc dầu chưa yêu, tôi đã làm tình trước khi yêu”.
Năm 19 tuổi, Augustinô đọc tác phẩm Hortensius của Cicéro, và cảm thấy mình khao khát tìm kiếm một thứ chân lý mang lại hạnh phúc đích thực. Tuy nhiên, cũng năm đó, ngài được tiếp xúc với lạc giáo Manichéisme và tưởng đây là chân lý mình tìm kiếm. Lý thuyết này giúp ngài “an tâm” hơn về những đam mê xác thịt của mình, bởi sự ác cũng được coi là một nguyên lý căn bản như sự thiện, nó cũng có đủ sức mạnh khuất phục con người như nguyên lý Thiện. Ngài không thoả mãn với học thuyết Manichéisme (374-383) và đã từ bỏ giáo phái này.
Năm 383, Augustinô sang Rôma dạy tu từ học. Thời gian này ngài tìm thấy giải đáp cho thắc mắc của mình trong học thuyết Cái-Nhiên. Năm sau, nhờ người bạn giới thiệu, ngài dành được ghế giáo sư tại Milan. Tuy Augustinô đã vượt xa khỏi tầm kiểm soát của mẹ mình, nhưng không thể vượt ra khỏi trái tim yêu thương của mẹ. Bà Mônica góa chồng, đã theo con đến tận Milan và không ngừng tác động để con mình trở lại với niềm tin Kitô giáo. Một lần tình cờ, Augustinô đọc được tác phẩm Ennéades của Plotin và khám phá ra thế giới khác, thế giới chỉ xuất phát từ Đơn Nhất (L’UN), thế giới “siêu nhiên”, thế giới của sự Thiện, là nguồn suối của mọi hiện hữu. Sự ác chỉ là một sự khiếm khuyết sự thiện mà thôi. Ngài thấy rằng lý thuyết Manichéisme chỉ dẫn tới hoài nghi mà thôi. Ngài thú nhận rằng chính lý thuyết của những triết gia Tân Platon đã giúp tìm thấy một số chân lý Kitô giáo trước khi đọc Kinh Thánh và chuẩn bị tâm hồn đến với niềm tin Kitô giáo.
Tuy nhiên, một lý thuyết sáng suốt như thế vẫn chưa đủ sức bứt Augustinô khỏi những đam mê xấu. Ngài còn phải chiến đấu với các dục vọng và chưa bao giờ cảm thấy mình bất lực như lúc này. Rồi tất cả những dằn vặt suốt 33 năm tuổi đời đó chợt đến một cách đột ngột. Ngài không còn do dự nữa và quyết định gia nhập Giáo hội và từ khước thế tục. Ngài còn dạy học một ít tuần rồi từ biệt học đường: cùng với thân mẫu và một ít bạn hữu đi lên mạn Bắc thành Milan, chuẩn bị lãnh ơn Thánh tẩy. Như thánh Ambrôsiô đã tiên đoán, bà Monica đã chẳng mất công than khóc cho số phận sa đọa của đứa con mình. Bà đã được toại nguyện: Augustinô lãnh bí tích Thánh tẩy năm 386, và hai mẹ con lên đường trở về quê quán. Tại Ostie, đang khi ngài và thân mẫu đàm đạo với nhau thì các ngài được xuất thần. Đây là cuộc xuất thần nổi tiếng vẫn được gọi là “cuộc xuất thần ở Ostie”. Monica qua đời một vài ngày trước khi khởi hành. Sau khi an táng mẹ, Augustinô trở về thành Thagaste, bán gia tài, tụ tập một số bạn hữu trung thành và quyết định khởi sự một đời sống cộng đoàn khắc khổ suốt 3 năm trời.
Năm 395 Augustinô được chọn làm Giám Mục. Ngài tiếp tục sống chung với giáo sĩ trong khuôn khổ dòng tu, lo giảng dạy và cứu trợ kẻ nghèo. Trong suốt 10 năm (cho đến năm 400), ngài lưu ý đặc biệt đến lạc giáo Manicheisme và về sau là lạc giáo Donatisme, một lạc giáo đã gây nhiều sóng gió cho Giáo hội Phi Châu suốt thế kỷ IV. Ngài từ trần tại Hippone ngày 28-9-430, đương lúc dân Vandales đang vây hãm thành Hippone.
Cuộc đời của thánh Augustinô là một cuộc đời tìm kiếm; tìm kiếm bằng chính kinh nghiệm bản thân của mình cũng như tìm kiếm qua sách vở, suy tư. Tuy trải qua cuộc đời khá phóng đãng, nhưng ta nhận thấy tâm hồn của Augustinô cũng rất bén nhạy, rất “mở”, rất “mềm” hầu có thể để cho Chân Lý soi tỏ. Chúng ta nhận thấy nhiều lần, do nhiều biến cố khác nhau, chẳng hạn người bạn qua đời, qua việc đọc Cicéro, đọc Plotin, việc gặp Ambrôsiô…lòng Augustinô đã rung lên xao xuyến…Chính cuộc tìm kiếm không ngừng, tìm kiếm trong thái độ mở đã đưa Augustinô đến với Chân Lý đích thực. Cuộc đời đó có thể đúc kết lại trong chính châm ngôn của ngài: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con vì Chúa, nên tâm hồn con xao xuyến mãi cho tới khi nào nghỉ yên trong Chúa mà thôi!”
* Về các tác phẩm: Có thể phân hai loại:
- Một là loại nhỏ gồm:
+ Contra Acacdemicos (chống đối các triết gia Hàn lâm), viết năm 386, nói về cuộc tranh luận với trường phái Hoài Nghi của Hàn lâm viện mới.
+ De beata vita (cuộc sống hạnh phúc), viết năm 386, bàn về những vấn đề khoái lạc cổ điển.
+ Soliloquia (tự niệm), viết năm 386, nói tới những cuộc đàm thoại về tri thức, chân lý, minh triết, bất tử.
+ De vera religione (về tôn giáo chính thống), năm 388, trình bày về tín ngưỡng và tri thức.
+ De libero arbitrio (về tự do quyết định), năm 288-395, bàn về sự tự do của ý muốn và nguồn suối sự ác một cách đặc biệt.
* Hai là loại lớn gồm có 3 tác phẩm đáng kể là:
+ Confessiones (Tự Thuật)Thánh nhân viết tác phẩm này khoảng năm 400 nhằm tạ ơn Thiên Chúa về ơn gọi của ngài. Trong tác phẩm Augustinô tỏ bày rất rõ những yếu đuối, tội lỗi của mình và làm nổi bật lên sự cao cả vĩ đại của Thiên Chúa.
+ De Trinitate (Mầu nhiệm Ba Ngôi)Người ta nhận ra phương pháp suy tư của Augustinô: “Tin để hiểu”. Ngài không có tham vọng “tát cạn đại dương đổ vào một cái lỗ”. Ngài không theo lập trường Duy Tín (fidéisme); ngược lại, ngài luôn muốn đào sâu thêm về huyền nhiệm với tất cả khả năng của trí khôn.
+ De civitate Dei (Thành Đô Thiên Chúa)Có thể nói đây là một khảo luận đầu tiên về một thứ “sử quan”. Trước sự xâm lăng của các dân man di, Augustinô nghĩ rằng tất cả các thành đô của nhân loại, cũng giống như Rôma, đều phải chung số phận diệt vong. Chỉ có thành đô của Thiên Chúa, được xây dựng trên nền tảng tình yêu của Thiên Chúa mới có thể bền vững và sẽ chiến thắng khải hoàn: “Cuộc sống trần gian là nhà tập của cuộc sống đời đời.”
Ngoài ra, Augustinô còn để lại rất nhiều thư quan trọng, gồm 218 văn thư, hơn 500 bài giảng, trong số đó có thư 118 bàn về triết học và các thư 187, 147 bàn về sự hiện diện và thấu thị của Thiên Chúa. Posidius nghĩ rằng không biết có ai đủ can đảm và thời giờ để đọc trọn bộ văn phẩm của thánh nhân?
2. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (1928 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1928) - 2002 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2002))
Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận sinh tại Phủ Cam, Huế (http://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BA%BF) ngày 17 tháng 4 (http://vi.wikipedia.org/wiki/17_th%C3%A1ng_4) năm 1928. Ngài là anh cả trong một gia đình có 8 anh chị em, cha là ông Nguyễn Văn Ấm, mẹ là bà Ngô Đình Thị Hiệp - là em ruột của giám mục Ngô Đình Thục (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Th%E1%BB%A5c) và tổng thống Ngô Đình Diệm (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Di%E1%BB%87m).
Ngài theo học tại Tiểu chủng viện An Ninh, Quảng Trị (http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3ng_Tr%E1%BB%8B) và đại chủng viện Kim Long, Huế. Ngày 11 tháng 6 (http://vi.wikipedia.org/wiki/11_th%C3%A1ng_6) năm 1953 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1953), ngài được thụ phong linh mục và ngay sau đó được bổ nhiệm làm cha phó xứ tại họ đạo Phanxicô.
Năm 1956 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1956), giám mục của giáo phận Huế cử ngài đi du học giáo luật tại đại học Urban (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Urban&action=edit&redlink=1), Roma (http://vi.wikipedia.org/wiki/Roma). Năm 1959 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1959), ngài đậu bằng tiến sĩ giáo luật với luận án tiến sĩ "Tổ chức Tuyên úy Quân đội trên thế giới", và trở về dạy tại tiểu chủng viện Hoan Thiện, Huế. Một năm sau ngài được cử làm giám đốc (Bề trên) tiểu chủng viện. Từ năm 1963 đến năm 1967 ngài còn đảm nhận chức vụ tổng đại diện giáo phận Huế.
Ngày 24 tháng 6 (http://vi.wikipedia.org/wiki/24_th%C3%A1ng_6) năm 1967 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1967), ngài được tấn phong giám mục tại Huế, và nhậm chức giám mục chính tòa giáo phận Nha Trang (http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ph%E1%BA%ADn_Nha_Trang) thay thế giám mục Raymond Paul Piquet, vào ngày 10 tháng 7 (http://vi.wikipedia.org/wiki/10_th%C3%A1ng_7) cùng năm. Ngài đã chọn khẩu hiệu trong cuộc đời làm giám mục theo như tên một hiến chế của Công đồng Vatican II là "Vui mừng và Hy vọng" (Gaudium et Spes). Trong thời gian làm giám mục giáo phận Nha Trang (http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ph%E1%BA%ADn_Nha_Trang), ngài còn được trao các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban Truyền thông xã hội của Hội đồng Giám mục Việt Nam (1967-1975), Chủ tịch Ủy ban Phát triển của Hội đồng Giám mục Việt Nam (1967-1975), Cố vấn Ủy ban Giáo hoàng về giáo dân (1971-1978). Huy hiệu Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, có khẩu hiệu Latinh (http://vi.wikipedia.org/wiki/Latinh) là: "Gaudium et spes" (Vui mừng và hi vọng).
Năm 1970, Giám mục Nguyễn Văn Thuận sáng lập Chủng viện Truyền Giáo Lâm Bích (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Ch%E1%BB%A7ng_vi%E1%BB%87n_Truy%E1%BB%81n_Gi%C3%A1o_L%C3%A2m_B%C3%ADch&action=edit&redlink=1). Danh xưng này vừa nhắc nhớ Giám mục Lambert De La Motte (phiên âm tên Việt là Lâm Bích), mà giáo phận mừng 300 năm, ngày ngài tới Nha Trang, còn mang ý nghĩa màu xanh hy vọng của rừng núi bạt ngàn và sông biển bao la của vùng đất Nha Trang.
Ngày 23 tháng 4 (http://vi.wikipedia.org/wiki/23_th%C3%A1ng_4) năm 1975 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1975), ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn (http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng_gi%C3%A1o_ph%E1%BA%ADn_S%C3%A0i_G%C3%B2n) với quyền kế vị. Ngài đến Sài Gòn ngày 7 tháng 5 (http://vi.wikipedia.org/wiki/7_th%C3%A1ng_5) năm 1975 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1975) để nhận nhiệm vụ mới, ngài được chính quyền tạm thời lúc bấy giờ chấp nhận.
Ngày 15 tháng 8 (http://vi.wikipedia.org/wiki/15_th%C3%A1ng_8) năm 1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn-Gia Định bắt giam ngài. Ngài bị giam giữ tại nhiều nơi khác nhau, cho đến ngày 23 tháng 11 (http://vi.wikipedia.org/wiki/23_th%C3%A1ng_11) năm 1988 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1988) thì được thả tự do và bị quản chế tại Hà Nội (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_N%E1%BB%99i).
Năm 1989 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1989) ngài được phép xuất ngoại sang Úc (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%9Ac) thăm cha mẹ đang sống tại đó, sau đó sang Roma gặp Giáo hoàng. Quay trở về Việt Nam, tháng 11-1989 ngài mắc bệnh viêm tiền liệt tuyến, đã được nhập viện Bệnh viện Việt Đức (http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh_vi%E1%BB%87n_Vi%E1%BB%87t_%C4%90%E1%BB%A9c) Hà Nội và được giải phẫu, nhưng bệnh tình nặng kéo dài, nên mới được phép đi Roma tiếp tục điều trị. Ngài đến Roma tháng 4-1990. Trong khi đang được điều trị, Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố ngài không còn được trở lại Việt Nam. Tại Roma, ngài được mời làm thành viên Ủy ban Quốc tế về Di trú và Di dân.
Ngày 9 tháng 4 (http://vi.wikipedia.org/wiki/9_th%C3%A1ng_4) năm 1994 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1994), Tòa thánh bổ nhiệm ngài làm Phó chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình. Ngày 11 tháng 5 (http://vi.wikipedia.org/wiki/11_th%C3%A1ng_5) năm 1996 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1996), ngài được nhận bằng Tiến sĩ Danh dự tại Đại Chủng Viện Notre Dame (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=%C4%90%E1%BA%A1i_Ch%E1%BB%A7ng_Vi%E1%BB%87n_Notre_Dame&action=edit&redlink=1) ở New Orleans (http://vi.wikipedia.org/wiki/New_Orleans), Louisiana (http://vi.wikipedia.org/wiki/Louisiana), Hoa Kỳ (http://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_K%E1%BB%B3). Ngày 24 tháng 6 (http://vi.wikipedia.org/wiki/24_th%C3%A1ng_6) năm 1998 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1998), ngài được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, thay thế cho Hồng y Y. R. Etchegaray nghỉ hưu.
Ngày 21 tháng 1 (http://vi.wikipedia.org/wiki/21_th%C3%A1ng_1) năm 2001 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2001), Giáo hoàng Gioan Phaolô II (http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Gioan_Phaol%C3%B4_II) công bố tuyển chọn ngài vào Hồng y đoàn, tước hiệu Hồng Y nhà thờ Santa Maria della Scala. Thời gian này, dư luận Công giáo trên thế giới đặc biệt chú ý đến ngài. Trong số phát hành ngày 21 tháng 2 (http://vi.wikipedia.org/wiki/21_th%C3%A1ng_2) năm 2001 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2001), Nhật báo The Los Angeles Times có bài với nhan đề "The Men Who Would Be Pope?" (Người có thể lên ngôi Giáo hoàng?) đã dự đoán danh sách 14 vị hồng y có nhiều khả năng kế vị giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong đó có Nguyễn Văn Thuận.
Ngày 16 tháng 9 (http://vi.wikipedia.org/wiki/16_th%C3%A1ng_9) năm 2002 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2002), ngài qua đời tại Roma do bệnh ung thư ruột. Ngày 17 tháng 9 (http://vi.wikipedia.org/wiki/17_th%C3%A1ng_9) năm 2007 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2007), Giáo hội Công giáo Rôma bắt đầu những thủ tục đầu tiên cho việc tuyên phong chân phước và phong thánh cho ngài. Đây cũng là lần đầu tiên có một người Việt Nam được khởi sự án phong chân phước mà không phải là Thánh tử đạo.
Theo tiến trình phong thánh của Giáo hội Công giáo Rôma thì Hồng y Nguyễn Văn Thuận đang ở bậc Tôi tớ Chúa (một trong bốn bậc phong thánh: Tôi tớ Chúa, Đấng Đáng kính, Chân phước, Thánh). Ngày 16 tháng 1 (http://vi.wikipedia.org/wiki/16_th%C3%A1ng_1) năm 2009 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2009), Tòa giám quản Rôma ban Án lệnh chính thức để vận động thu thập những chứng cứ, tài liệu, tác phẩm của/về Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận để phục vụ cho án phong chân phước cho ngài. Ngày 22 tháng 10 (http://vi.wikipedia.org/wiki/22_th%C3%A1ng_10) năm 2010 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2010), án phong chân phước cho Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã được chính thức khởi sự.
Tác phẩm
- Đường Hy Vọng (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_hy_v%E1%BB%8Dng&action=edit&redlink=1) (1975)
- Đường hy vọng dưới ánh sáng Lời Chúa và Công Đồng Vaticano II (1979)
- Những người lữ hành trên Đường Hy Vọng (1980)
- Đường Người đưa ta đi: đường hy vọng dẫn giải (1992)
- Năm chiếc bánh và hai con cá (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=N%C4%83m_chi%E1%BA%BFc_b%C3%A1nh_v%C3%A0_hai_con_c%C3%A1&action=edit&redlink=1)
- Cầu nguyện
- Hãy trao tặng tuổi trẻ nụ cười
- Niềm vui sống đạo
- Sứ Điệp Đức Mẹ La Vang
- Chứng nhân hy vọng.
Piô Phan Văn Tình, CMS.
MỤC LỤC
Dẫn nhập (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279314)
I. TIỂU SỬ THÁNH AUGUSTINÔ VÀ ĐHY PHANXICÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279315)
1. Thánh Augustinô (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279316)
2. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279317)
II. CON ĐƯỜNG DẪN TỚI THIÊN CHÚA (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279319)
1. Nơi thánh Augustinô – Con đường nội tâm (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279320)
a. Siêu hình học về một kinh nghiệm nội tâm (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279321)
b. Con đường vươn tới Thiên Chúa (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279322)
2. Nơi ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận – Con đường hy vọng (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279323)
a. Khái quát niềm hy vọng (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279324)
b. Con đường hy vọng vươn tới Thiên Chúa (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279325)
III. ĐỐI CHIẾU VÀ ÁP DỤNG (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279326)
1. Đối chiếu hai con đường (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279327)
a. Những điểm tương đồng (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279328)
b. Những điểm dị biệt (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279329)
c. Tác động hỗ tương (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279330)
2. Áp dụng vào đời sống tu (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279331)
a. Con đường hy vọng (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279332)
b. Con đường nội tâm (https://thanhcavietnam.net/forum/#_Toc320279333)
Kết luận....................................................................................................................................
Dẫn nhập
Sống làm người, ai cũng có quê hương và cội nguồn, nơi ấy, người ta luôn hướng về như khởi điểm và đích điểm của đời mình. Chẳng vậy mà có những câu ca diễn tả khuynh hướng đó như thường thấy trong ca dao, tục ngữ hay dân ca: "Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh..." hay "...quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người". Nhưng đâu là quê hương đích thực và đâu là cội nguồn phát sinh của con người? Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philiphê trả lời rằng: "Quê hương của chúng ta ở trên trời..." (Pl 3,20). Không có cội nguồn nào lấp đầy khoảng trống khao khát, nhớ nhung của con người cho bằng Thiên Chúa.
Thật vậy, Thiên Chúa chính là khởi điểm và đích điểm của một đời người. Thế mà đã có khởi điểm và đích điểm thì minh nhiên phải có con đường. Do đó đời người là một hành trình thao thức đi về với Thiên Chúa: "Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con sẽ nao nức mãi cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa". Con đường thì nhiều nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là: đâu là con đường khả dĩ giúp con người vươn tới Thiên Chúa?
Trải qua dòng lịch sử, có biết bao con đường đã được vạch ra như: con đường vươn tới Siêu Việt Thể của Karl Jaspers, con đường đạo đức của Emmanuel Kant, con đường tìm Chúa của thánh Biển Đức, linh đạo của thánh Gioan Thánh Giá...Nhưng ở đây, trong lãnh vực thần học, với giới hạn cho phép, bài luận này chỉ xin dừng lại nơi "con đường vươn tới Thiên Chúa với thánh Augustinô và ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận", qua ba phần sau:
Phần I tìm hiểu con người và sự nghiệp của thánh Augustinô và ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Phần II trình bày con đường nội tâm và con đường hy vọng nhằm giải đáp vấn nạn: "đâu là con đường vươn tới Thiên Chúa?"
Phần III đưa ra một vài đối chiếu, nhận định và suy tư cá nhân cùng với việc áp dụng hai con đường vào thực tế đời sống liên quan đến đời sống tu trì.
I. TIỂU SỬ THÁNH AUGUSTINÔ
VÀ ĐHY PHANXICÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN
1. Thánh Augustinô (354-430)
Augustinô sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Thagaste, một thành phố nhỏ miền Bắc Phi, trong một gia đình trung lưu, di cư từ Roma sang. Thân phụ Augustinô là Patricdiô. Ông không phải là kitô hữu. Ông là con người nghiêm khắc với vợ con nhưng lại dễ dãi với chính mình. Thân mẫu Augustinô là thánh Monica, là một mẫu gương đặc biệt về tấm lòng của một người mẹ; chính vì lòng yêu thương con mà Monica đã trở thành một phụ nữ cầu nguyện, một vị thánh của Giáo hội. Bà Monica lo cho con mình được ghi tên vào sổ các dự tòng nhưng Augustinô chưa lãnh ơn bí tích Rửa tội. Augustinô từ bé đã nhiễm những thói xấu của một đứa trẻ thông minh và quậy phá. Năm 370, sau khi học hết các lớp sơ đẳng ở nguyên quán, ngài đi Modaure và Carthago để học môn tu từ và văn chương. Tại đây, Augustinô theo bạn bè, lao vào con đường ăn chơi trụy lạc. Sau này ngài kể lại là “mặc dầu chưa yêu, tôi đã làm tình trước khi yêu”.
Năm 19 tuổi, Augustinô đọc tác phẩm Hortensius của Cicéro, và cảm thấy mình khao khát tìm kiếm một thứ chân lý mang lại hạnh phúc đích thực. Tuy nhiên, cũng năm đó, ngài được tiếp xúc với lạc giáo Manichéisme và tưởng đây là chân lý mình tìm kiếm. Lý thuyết này giúp ngài “an tâm” hơn về những đam mê xác thịt của mình, bởi sự ác cũng được coi là một nguyên lý căn bản như sự thiện, nó cũng có đủ sức mạnh khuất phục con người như nguyên lý Thiện. Ngài không thoả mãn với học thuyết Manichéisme (374-383) và đã từ bỏ giáo phái này.
Năm 383, Augustinô sang Rôma dạy tu từ học. Thời gian này ngài tìm thấy giải đáp cho thắc mắc của mình trong học thuyết Cái-Nhiên. Năm sau, nhờ người bạn giới thiệu, ngài dành được ghế giáo sư tại Milan. Tuy Augustinô đã vượt xa khỏi tầm kiểm soát của mẹ mình, nhưng không thể vượt ra khỏi trái tim yêu thương của mẹ. Bà Mônica góa chồng, đã theo con đến tận Milan và không ngừng tác động để con mình trở lại với niềm tin Kitô giáo. Một lần tình cờ, Augustinô đọc được tác phẩm Ennéades của Plotin và khám phá ra thế giới khác, thế giới chỉ xuất phát từ Đơn Nhất (L’UN), thế giới “siêu nhiên”, thế giới của sự Thiện, là nguồn suối của mọi hiện hữu. Sự ác chỉ là một sự khiếm khuyết sự thiện mà thôi. Ngài thấy rằng lý thuyết Manichéisme chỉ dẫn tới hoài nghi mà thôi. Ngài thú nhận rằng chính lý thuyết của những triết gia Tân Platon đã giúp tìm thấy một số chân lý Kitô giáo trước khi đọc Kinh Thánh và chuẩn bị tâm hồn đến với niềm tin Kitô giáo.
Tuy nhiên, một lý thuyết sáng suốt như thế vẫn chưa đủ sức bứt Augustinô khỏi những đam mê xấu. Ngài còn phải chiến đấu với các dục vọng và chưa bao giờ cảm thấy mình bất lực như lúc này. Rồi tất cả những dằn vặt suốt 33 năm tuổi đời đó chợt đến một cách đột ngột. Ngài không còn do dự nữa và quyết định gia nhập Giáo hội và từ khước thế tục. Ngài còn dạy học một ít tuần rồi từ biệt học đường: cùng với thân mẫu và một ít bạn hữu đi lên mạn Bắc thành Milan, chuẩn bị lãnh ơn Thánh tẩy. Như thánh Ambrôsiô đã tiên đoán, bà Monica đã chẳng mất công than khóc cho số phận sa đọa của đứa con mình. Bà đã được toại nguyện: Augustinô lãnh bí tích Thánh tẩy năm 386, và hai mẹ con lên đường trở về quê quán. Tại Ostie, đang khi ngài và thân mẫu đàm đạo với nhau thì các ngài được xuất thần. Đây là cuộc xuất thần nổi tiếng vẫn được gọi là “cuộc xuất thần ở Ostie”. Monica qua đời một vài ngày trước khi khởi hành. Sau khi an táng mẹ, Augustinô trở về thành Thagaste, bán gia tài, tụ tập một số bạn hữu trung thành và quyết định khởi sự một đời sống cộng đoàn khắc khổ suốt 3 năm trời.
Năm 395 Augustinô được chọn làm Giám Mục. Ngài tiếp tục sống chung với giáo sĩ trong khuôn khổ dòng tu, lo giảng dạy và cứu trợ kẻ nghèo. Trong suốt 10 năm (cho đến năm 400), ngài lưu ý đặc biệt đến lạc giáo Manicheisme và về sau là lạc giáo Donatisme, một lạc giáo đã gây nhiều sóng gió cho Giáo hội Phi Châu suốt thế kỷ IV. Ngài từ trần tại Hippone ngày 28-9-430, đương lúc dân Vandales đang vây hãm thành Hippone.
Cuộc đời của thánh Augustinô là một cuộc đời tìm kiếm; tìm kiếm bằng chính kinh nghiệm bản thân của mình cũng như tìm kiếm qua sách vở, suy tư. Tuy trải qua cuộc đời khá phóng đãng, nhưng ta nhận thấy tâm hồn của Augustinô cũng rất bén nhạy, rất “mở”, rất “mềm” hầu có thể để cho Chân Lý soi tỏ. Chúng ta nhận thấy nhiều lần, do nhiều biến cố khác nhau, chẳng hạn người bạn qua đời, qua việc đọc Cicéro, đọc Plotin, việc gặp Ambrôsiô…lòng Augustinô đã rung lên xao xuyến…Chính cuộc tìm kiếm không ngừng, tìm kiếm trong thái độ mở đã đưa Augustinô đến với Chân Lý đích thực. Cuộc đời đó có thể đúc kết lại trong chính châm ngôn của ngài: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con vì Chúa, nên tâm hồn con xao xuyến mãi cho tới khi nào nghỉ yên trong Chúa mà thôi!”
* Về các tác phẩm: Có thể phân hai loại:
- Một là loại nhỏ gồm:
+ Contra Acacdemicos (chống đối các triết gia Hàn lâm), viết năm 386, nói về cuộc tranh luận với trường phái Hoài Nghi của Hàn lâm viện mới.
+ De beata vita (cuộc sống hạnh phúc), viết năm 386, bàn về những vấn đề khoái lạc cổ điển.
+ Soliloquia (tự niệm), viết năm 386, nói tới những cuộc đàm thoại về tri thức, chân lý, minh triết, bất tử.
+ De vera religione (về tôn giáo chính thống), năm 388, trình bày về tín ngưỡng và tri thức.
+ De libero arbitrio (về tự do quyết định), năm 288-395, bàn về sự tự do của ý muốn và nguồn suối sự ác một cách đặc biệt.
* Hai là loại lớn gồm có 3 tác phẩm đáng kể là:
+ Confessiones (Tự Thuật)Thánh nhân viết tác phẩm này khoảng năm 400 nhằm tạ ơn Thiên Chúa về ơn gọi của ngài. Trong tác phẩm Augustinô tỏ bày rất rõ những yếu đuối, tội lỗi của mình và làm nổi bật lên sự cao cả vĩ đại của Thiên Chúa.
+ De Trinitate (Mầu nhiệm Ba Ngôi)Người ta nhận ra phương pháp suy tư của Augustinô: “Tin để hiểu”. Ngài không có tham vọng “tát cạn đại dương đổ vào một cái lỗ”. Ngài không theo lập trường Duy Tín (fidéisme); ngược lại, ngài luôn muốn đào sâu thêm về huyền nhiệm với tất cả khả năng của trí khôn.
+ De civitate Dei (Thành Đô Thiên Chúa)Có thể nói đây là một khảo luận đầu tiên về một thứ “sử quan”. Trước sự xâm lăng của các dân man di, Augustinô nghĩ rằng tất cả các thành đô của nhân loại, cũng giống như Rôma, đều phải chung số phận diệt vong. Chỉ có thành đô của Thiên Chúa, được xây dựng trên nền tảng tình yêu của Thiên Chúa mới có thể bền vững và sẽ chiến thắng khải hoàn: “Cuộc sống trần gian là nhà tập của cuộc sống đời đời.”
Ngoài ra, Augustinô còn để lại rất nhiều thư quan trọng, gồm 218 văn thư, hơn 500 bài giảng, trong số đó có thư 118 bàn về triết học và các thư 187, 147 bàn về sự hiện diện và thấu thị của Thiên Chúa. Posidius nghĩ rằng không biết có ai đủ can đảm và thời giờ để đọc trọn bộ văn phẩm của thánh nhân?
2. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (1928 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1928) - 2002 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2002))
Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận sinh tại Phủ Cam, Huế (http://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BA%BF) ngày 17 tháng 4 (http://vi.wikipedia.org/wiki/17_th%C3%A1ng_4) năm 1928. Ngài là anh cả trong một gia đình có 8 anh chị em, cha là ông Nguyễn Văn Ấm, mẹ là bà Ngô Đình Thị Hiệp - là em ruột của giám mục Ngô Đình Thục (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Th%E1%BB%A5c) và tổng thống Ngô Đình Diệm (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Di%E1%BB%87m).
Ngài theo học tại Tiểu chủng viện An Ninh, Quảng Trị (http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3ng_Tr%E1%BB%8B) và đại chủng viện Kim Long, Huế. Ngày 11 tháng 6 (http://vi.wikipedia.org/wiki/11_th%C3%A1ng_6) năm 1953 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1953), ngài được thụ phong linh mục và ngay sau đó được bổ nhiệm làm cha phó xứ tại họ đạo Phanxicô.
Năm 1956 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1956), giám mục của giáo phận Huế cử ngài đi du học giáo luật tại đại học Urban (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=%C4%90%E1%BA%A1i_h%E1%BB%8Dc_Urban&action=edit&redlink=1), Roma (http://vi.wikipedia.org/wiki/Roma). Năm 1959 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1959), ngài đậu bằng tiến sĩ giáo luật với luận án tiến sĩ "Tổ chức Tuyên úy Quân đội trên thế giới", và trở về dạy tại tiểu chủng viện Hoan Thiện, Huế. Một năm sau ngài được cử làm giám đốc (Bề trên) tiểu chủng viện. Từ năm 1963 đến năm 1967 ngài còn đảm nhận chức vụ tổng đại diện giáo phận Huế.
Ngày 24 tháng 6 (http://vi.wikipedia.org/wiki/24_th%C3%A1ng_6) năm 1967 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1967), ngài được tấn phong giám mục tại Huế, và nhậm chức giám mục chính tòa giáo phận Nha Trang (http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ph%E1%BA%ADn_Nha_Trang) thay thế giám mục Raymond Paul Piquet, vào ngày 10 tháng 7 (http://vi.wikipedia.org/wiki/10_th%C3%A1ng_7) cùng năm. Ngài đã chọn khẩu hiệu trong cuộc đời làm giám mục theo như tên một hiến chế của Công đồng Vatican II là "Vui mừng và Hy vọng" (Gaudium et Spes). Trong thời gian làm giám mục giáo phận Nha Trang (http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ph%E1%BA%ADn_Nha_Trang), ngài còn được trao các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban Truyền thông xã hội của Hội đồng Giám mục Việt Nam (1967-1975), Chủ tịch Ủy ban Phát triển của Hội đồng Giám mục Việt Nam (1967-1975), Cố vấn Ủy ban Giáo hoàng về giáo dân (1971-1978). Huy hiệu Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, có khẩu hiệu Latinh (http://vi.wikipedia.org/wiki/Latinh) là: "Gaudium et spes" (Vui mừng và hi vọng).
Năm 1970, Giám mục Nguyễn Văn Thuận sáng lập Chủng viện Truyền Giáo Lâm Bích (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Ch%E1%BB%A7ng_vi%E1%BB%87n_Truy%E1%BB%81n_Gi%C3%A1o_L%C3%A2m_B%C3%ADch&action=edit&redlink=1). Danh xưng này vừa nhắc nhớ Giám mục Lambert De La Motte (phiên âm tên Việt là Lâm Bích), mà giáo phận mừng 300 năm, ngày ngài tới Nha Trang, còn mang ý nghĩa màu xanh hy vọng của rừng núi bạt ngàn và sông biển bao la của vùng đất Nha Trang.
Ngày 23 tháng 4 (http://vi.wikipedia.org/wiki/23_th%C3%A1ng_4) năm 1975 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1975), ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn (http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng_gi%C3%A1o_ph%E1%BA%ADn_S%C3%A0i_G%C3%B2n) với quyền kế vị. Ngài đến Sài Gòn ngày 7 tháng 5 (http://vi.wikipedia.org/wiki/7_th%C3%A1ng_5) năm 1975 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1975) để nhận nhiệm vụ mới, ngài được chính quyền tạm thời lúc bấy giờ chấp nhận.
Ngày 15 tháng 8 (http://vi.wikipedia.org/wiki/15_th%C3%A1ng_8) năm 1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn-Gia Định bắt giam ngài. Ngài bị giam giữ tại nhiều nơi khác nhau, cho đến ngày 23 tháng 11 (http://vi.wikipedia.org/wiki/23_th%C3%A1ng_11) năm 1988 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1988) thì được thả tự do và bị quản chế tại Hà Nội (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_N%E1%BB%99i).
Năm 1989 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1989) ngài được phép xuất ngoại sang Úc (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%9Ac) thăm cha mẹ đang sống tại đó, sau đó sang Roma gặp Giáo hoàng. Quay trở về Việt Nam, tháng 11-1989 ngài mắc bệnh viêm tiền liệt tuyến, đã được nhập viện Bệnh viện Việt Đức (http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh_vi%E1%BB%87n_Vi%E1%BB%87t_%C4%90%E1%BB%A9c) Hà Nội và được giải phẫu, nhưng bệnh tình nặng kéo dài, nên mới được phép đi Roma tiếp tục điều trị. Ngài đến Roma tháng 4-1990. Trong khi đang được điều trị, Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố ngài không còn được trở lại Việt Nam. Tại Roma, ngài được mời làm thành viên Ủy ban Quốc tế về Di trú và Di dân.
Ngày 9 tháng 4 (http://vi.wikipedia.org/wiki/9_th%C3%A1ng_4) năm 1994 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1994), Tòa thánh bổ nhiệm ngài làm Phó chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình. Ngày 11 tháng 5 (http://vi.wikipedia.org/wiki/11_th%C3%A1ng_5) năm 1996 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1996), ngài được nhận bằng Tiến sĩ Danh dự tại Đại Chủng Viện Notre Dame (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=%C4%90%E1%BA%A1i_Ch%E1%BB%A7ng_Vi%E1%BB%87n_Notre_Dame&action=edit&redlink=1) ở New Orleans (http://vi.wikipedia.org/wiki/New_Orleans), Louisiana (http://vi.wikipedia.org/wiki/Louisiana), Hoa Kỳ (http://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_K%E1%BB%B3). Ngày 24 tháng 6 (http://vi.wikipedia.org/wiki/24_th%C3%A1ng_6) năm 1998 (http://vi.wikipedia.org/wiki/1998), ngài được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, thay thế cho Hồng y Y. R. Etchegaray nghỉ hưu.
Ngày 21 tháng 1 (http://vi.wikipedia.org/wiki/21_th%C3%A1ng_1) năm 2001 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2001), Giáo hoàng Gioan Phaolô II (http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Gioan_Phaol%C3%B4_II) công bố tuyển chọn ngài vào Hồng y đoàn, tước hiệu Hồng Y nhà thờ Santa Maria della Scala. Thời gian này, dư luận Công giáo trên thế giới đặc biệt chú ý đến ngài. Trong số phát hành ngày 21 tháng 2 (http://vi.wikipedia.org/wiki/21_th%C3%A1ng_2) năm 2001 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2001), Nhật báo The Los Angeles Times có bài với nhan đề "The Men Who Would Be Pope?" (Người có thể lên ngôi Giáo hoàng?) đã dự đoán danh sách 14 vị hồng y có nhiều khả năng kế vị giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong đó có Nguyễn Văn Thuận.
Ngày 16 tháng 9 (http://vi.wikipedia.org/wiki/16_th%C3%A1ng_9) năm 2002 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2002), ngài qua đời tại Roma do bệnh ung thư ruột. Ngày 17 tháng 9 (http://vi.wikipedia.org/wiki/17_th%C3%A1ng_9) năm 2007 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2007), Giáo hội Công giáo Rôma bắt đầu những thủ tục đầu tiên cho việc tuyên phong chân phước và phong thánh cho ngài. Đây cũng là lần đầu tiên có một người Việt Nam được khởi sự án phong chân phước mà không phải là Thánh tử đạo.
Theo tiến trình phong thánh của Giáo hội Công giáo Rôma thì Hồng y Nguyễn Văn Thuận đang ở bậc Tôi tớ Chúa (một trong bốn bậc phong thánh: Tôi tớ Chúa, Đấng Đáng kính, Chân phước, Thánh). Ngày 16 tháng 1 (http://vi.wikipedia.org/wiki/16_th%C3%A1ng_1) năm 2009 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2009), Tòa giám quản Rôma ban Án lệnh chính thức để vận động thu thập những chứng cứ, tài liệu, tác phẩm của/về Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận để phục vụ cho án phong chân phước cho ngài. Ngày 22 tháng 10 (http://vi.wikipedia.org/wiki/22_th%C3%A1ng_10) năm 2010 (http://vi.wikipedia.org/wiki/2010), án phong chân phước cho Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã được chính thức khởi sự.
Tác phẩm
- Đường Hy Vọng (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_hy_v%E1%BB%8Dng&action=edit&redlink=1) (1975)
- Đường hy vọng dưới ánh sáng Lời Chúa và Công Đồng Vaticano II (1979)
- Những người lữ hành trên Đường Hy Vọng (1980)
- Đường Người đưa ta đi: đường hy vọng dẫn giải (1992)
- Năm chiếc bánh và hai con cá (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=N%C4%83m_chi%E1%BA%BFc_b%C3%A1nh_v%C3%A0_hai_con_c%C3%A1&action=edit&redlink=1)
- Cầu nguyện
- Hãy trao tặng tuổi trẻ nụ cười
- Niềm vui sống đạo
- Sứ Điệp Đức Mẹ La Vang
- Chứng nhân hy vọng.