PDA

View Full Version : FATIMA - ĐẠO BINH DÀN TRẬN



caoduc
15-09-2008, 09:18 AM
Khởi Điểm



Mẹ Maria Chỉ Còn Biết Khóc


--------Phải, Mẹ Maria chỉ còn biết khóc! Tại sao...?

--------Gần đây chúng ta nghe thấy những hiện tượng lạ liên quan đến Mẹ Maria - Hiện Tượng Mẹ Khóc - khóc qua các bức tượng của Mẹ: Mẹ khóc ở Việt Nam, tại khuôn viên cuối Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn ngày Thứ Bảy 29/10/2005; Mẹ khóc chảy nước mắt máu ở Ý cách đây không bao lâu.

--------Trước khi được Giáo Quyền chính thức công nhận tính cách xác thực của các hiện tượng Thánh Mẫu Châu Lệ này, chúng ta không biết được những hiện tượng này thật hư ra sao. Tuy nhiên, không phải vì thế mà không bao giờ có hiện tượng Thánh Mẫu Châu Lệ như vậy.

--------Đúng thế, vào chiều ngày Thứ Bảy 19/9/1846, ở La Salette Pháp Quốc, 2 thiếu niên, một nữ 14 tuổi là Melanie Mathieu, và một nam 11 tuổi là Maximin Giraud, đã nhìn thấy một người nữ, ở tư thế ngồi, tay ôm mặt khóc, sau đó Bà từ từ đứng lên, hai tay chéo nhau trước ngực, đầu hơi cúi xuống nhìn các em đang bàng hoàng nhìn Bà mà nói:
--------“Hỡi con cái của Mẹ, hãy đến với Mẹ. Đừng sợ. Mẹ đến đây để nói với các con một điều hết sức hệ trọng…. Nếu dân của Mẹ không chịu nghe lời thì Mẹ sẽ buộc phải buông cánh tay Con của Mẹ ra. Mẹ đã từng chịu khổ vì các con đã lâu rồi! Nếu Con Mẹ không triệt hạ các con là vì Mẹ đã phải liên lỉ năn nỉ Người. Thế nhưng các con không hề lưu ý tới điều ấy chút nào cả. Bất kể sau này các con có nguyện cầu sốt sắng tới đâu, có hành động tốt lành đến mấy, các con vẫn không bao giờ có thể đến đáp lại Mẹ những gì Mẹ đã chịu đựng vì các con đâu…”
--------Mẹ còn nói nhiều điều nữa rồi về trời với giọt lệ long lanh.

--------Chưa hết, chị Thánh Faustina (1905-1938), vị thánh đầu tiên cho tân thiên kỷ thứ 3 Kitô giáo, vị được vị Giáo Hoàng đồng hương Balan là Đức Gioan Phaolô II phong thánh ngày 30/4/2000, đã thuật lại trong cuốn Nhật Ký của chị, ở đoạn 686, như sau:
--------“Thứ Sáu Đầu Tháng 9. Vào buổi tối hôm ấy, tôi đã trông thấy Mẹ Thiên Chúa, với lồng ngực lộ ra bị một thanh gươm đâm thâu. Bấy giờ Mẹ chảy những giọt nước mắt xót xa và đang che chở chúng ta cho khỏi bị Thiên Chúa giáng phạt cách kinh hoàng. Thiên Chúa muốn giáng hình phạt khủng khiếp xuống trên chúng ta, nhưng Ngài không thể làm được vì Mẹ Thiên Chúa đang bao che cho chúng ta…”.
--------Trước đó, ở đoạn Nhật Ký 635, chị Thánh Faustina còn tiết lộ như sau:
--------"Ngày 25/3/1936. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã nói với tôi rằng: ‘Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minhấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy’”.
--------Còn nữa, cũng tại Âu Châu, ở Syracuse năm 1953, Mẹ cũng đã khóc, và đã được chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhắc lại trong Huấn Từ Truyền Tin của ngài vào trưa Chúa Nhật 31/8/2003, khi Ngài hiến dâng Âu Châu cho Mẹ Maria, một Âu Châu đang trong thời kỳ bị khủng hoảng đức tin sâu xa:
--------"Trong các Chúa Nhật vừa qua, việc suy tư của Tôi nhắm đến Âu Châu và các căn gốc Kitô giáo của châu lục này, khi xem lại bản văn kiện tông huấn hậu Thượng Hội Giám Mục Âu Châu: 'Giáo Hội Tại Âu Châu'. Bản văn kiện này đã kết thúc ở việc 'Hiến Dâng cho Mẹ Maria' tất cả mọi con người nam nữ của châu lục này, một việc hiến dâng Tôi muốn lập lại ngày hôm nay đây, để Vị Thánh Trinh Nữ làm cho Âu Châu trở thành một bản hợp tấu các quốc gia dấn thân cùng nhau xây dựng một nền văn minh yêu thương và hòa bình. Có vô vàn các đền thờ Thánh Mẫu ở hết mọi xứ sở Âu Châu. Hôm nay Tôi đặc biệt nghĩ đến Đền Đức Mẹ Khóc ở Syracuse, nơi đang cử hành 50 năm Mẹ Maria khóc... Những giọt nước mắt này mầu nhiệm biết bao! Chúng nói lên cho thấy nỗi khổ đau và dịu dàng, đến niềm an ủi và tình thương thần linh. Chúng là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện từ mẫu, và là một lời kêu gọi hoán cải trở về cùng Thiên Chúa, từ bỏ con đường gian ác để trung thành theo Chúa Giêsu Kitô. Hỡi Đức Mẹ Giọt Châu ngọt ngào, chúng con dâng cho Mẹ Giáo Hội và toàn thế giới. Xin Mẹ hãy nhìn đến những ai cần đến ơn tha thứ và sự hòa giải nhất; Mẹ hãy mang hòa hợp đến cho các gia đình và mang bình an đến cho các dân tộc. Xin hãy lau khô nước mắt gây ra bởi hận thù và bạo lực ở nhiều miền đất trên Thế Giới này, nhất là ở Trung Đông và lục địa Phi Châu. Ôi Lạy Mẹ, chớ gì những giọt nước mắt của Mẹ là một bảo chứng cho việc hoán cải và hòa bình nơi tất cả mọi con cái của Mẹ!"
--------Tại sao Mẹ Maria của chúng ta không còn lên tiếng nữa, như Mẹ đã rõ ràng kêu gọi ở Paris năm 1830 với nữ tập sinh Catarina Labourê, hay ở Lộ Đức năm 1858 với thiếu nữ Bernadette, hoặc ở Fatima năm 1917 với thiếu nhi Lucia, Phanxicô và Giaxinta?

--------Phải chăng là vì Mẹ đã nói hết lời hết lẽ rồi, nói đi nói lại rồi, không còn gì để nói nữa, mà loài người nói chung, và con cái Chúa nói riêng, vẫn càng ngày càng lâm vào tình trạng "vì sự dữ gia tăng mà lòng mến nơi nhiều người đã trở nên nguội lạnh" (Mt 24:12), đến nỗi, Mẹ chỉ còn biết khóc?

--------Phải chăng thái độ Mẹ không còn nói gì được nữa, chỉ còn biết khóc là dấu chẳng những chứng tỏ cho thấy cả niềm đau của Mẹ đã lên tới cực độ lẫn mối quan tâm từ mẫu tận cùng của Mẹ đối với con cái loài người, mà còn cho thấy tình trạng tội lỗi của loài người đã lên tới độ cực kỳ trầm trọng, hết sức nguy hiểm cho phần rỗi đời đời của họ. Nước mắt của Mẹ phải chăng còn là dấu báo cho biết đã sắp hết thời xót thương, tức sắp tới lúc Mẹ không còn có thể ngăn tay giáng phạt của Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu song cũng vô cùng công minh được nữa.

caoduc
15-09-2008, 09:21 AM
--------Thật vậy, Mẹ còn nói gì hơn được nữa, nếu không phải chỉ còn biết nghẹn ngào khóc thương cho con cái của mình, khi thấy họ mỗi ngày tiến gần đến hố tự diệt, một tình trạng được tỏ tường thể hiện qua trào lưu văn hóa sự chết từ thế kỷ 20: diệt chủng, phá thai, triệt sản, khủng bố tự sát, diệt mạng an tử v.v...

--------Những gì Thiên Chúa Hóa Công đã thiết lập ngay từ ban đầu, như hôn nhân và sinh sản (x Gen 1:27-28, 2:23-24), thì con người văn minh hầu như tuyệt đỉnh ngày nay, cả về khoa học và kỹ thuật lẫn nhân bản và nhân quyền, chẳng những đã lật đổ, bằng luật cho phép ly dị và phá thai, còn thay thế vào đó bằng những con bò vàng ngẫu tượng do chính họ tạo nên, khi ban bố những thứ luật lệ cho phép hôn nhân đồng tính và tạo sinh vô tính (cloning).

--------Đó là lý do, qua cặp mắt của Giáo Hội Công Giáo, cặp mắt được nhìn bởi những vị Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian, những vị đóng vai trò thừa kế Thánh Phêrô chăn dắt Giáo Hội của Người, nhất là 3 vị gần nhất, từ Công Đồng Chung Vaticanô II (8/12/1965-2005), Mẹ Maria đã thực sự không khỏi ngậm ngùi chứng kiến thấy cảnh loài người đang hỉ hoan hớn hở trình diễn trên khấu trường lịch sử màn "đóng khố đi giầy tây", một màn trình diễn cho thấy con người càng văn minh vật chất và nhân quyền, càng sa đọa về luân thường đạo lý.

--------Trước hết, qua ánh mắt của Vị Giáo Hoàng Tôi Tớ Chúa Phaolô VI (1963-1978), được bày tỏ qua những lời ngài nói trong khóa họp cuối cùng Công Đồng Chung Vaticanô II ngày 7/12/1965, Mẹ đã thấy một nhân loại coi trời bằng vung, coi mình như cái rốn của vũ trụ, nhưng lại là "một con người co quắp lấy bản thân mình… một con người không cảm thấy hạnh phúc với chính bản thân mình, cười cười khóc khóc”. Chính vị Giáo Hoàng bế mạc Công Đồng Chung Vaticanô II cách đây 40 năm này cũng đã phải thốt lên trong buổi triều kiến chung ngày 15/11/1972 là: “Tôi cảm thấy là có một luồng khói Satan đã đột nhập vào Đền Thờ Thiên Chúa qua một kẽ nứt hở nào đó”.

--------Sau nữa, qua ánh mắt của Đức Gioan Phaolô II (1978-2005), được bày tỏ trong Thông Điệp đầu tiên của giáo triều ngài là "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần", ban hành ngày 4/3/1979, đoạn 17, Mẹ đã thấy nhân loại đang sống trong "một thế kỷ của những hủy hoại lớn lao đối với con người, của những tàn phá vĩ đại, chẳng những về vật chất mà còn cả về luân lý, thực sự trên hết là về mặt luân lý... Người ta đã gây ra cho nhau nhiều bất công và khổ đau. Trong thực tế, chúng ta thấy trước mắt có những trại tập trung, bạo lực, hành hạ, khủng bố, và kỳ thị dưới nhiều thể cách..."

--------Sau hết, với ánh mắt của Vị Giáo Hoàng đương kim Biển Đức XVI (2005-), qua bài giảng khai mạc Mật Nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng ngày 18/4/2005, trước ngày ngài được bầu làm giáo hoàng, Mẹ đã thấy nhân loại như đang bị chao đảo bởi một trận bão lụt đầy sóng gió vô thần duy vật, đến nỗi, “con tầu tư tưởng nhỏ bé của nhiều Kitô hữu thường bị xô lấn bởi những cơn sóng này, tung họ từ cực đoan này sang cực đoan kia: từ chủ nghĩa Marxít đến chủ nghĩa tự do, thậm chí đến chủ nghĩa duy tự do; từ chủ nghĩa tập thể đến chủ nghĩa cá nhân cực đoan...”. Đến nỗi, nếu sống sát với “Kinh Tin Kính của Giáo Hội, thì lại thường được gán cho là theo chủ nghĩa bảo thủ”. Trái lại, “một khi để cho mình 'bị xô đẩy theo chiều gió chủ nghĩa'”, thì được cho là “thích hợp với thời đại tân tiến”, nhưng lại là lúc con người chiều theo một thứ “chủ nghĩa tương đối độc đoán, cho rằng không có gì là tuyệt đối cả, và là một chủ nghĩa chỉ biết căn cứ vào cái tôi cùng với những ước muốn của cái tôi mà thôi". Trong Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 1/1/2006, ở đoạn 9 và 10, vị Giáo Hoàng đương kim của chúng ta còn đề cập tới hai chủ nghĩa đang hủy hoại loài người hiện nay, đó là chủ nghĩa bảo thủ cuồng tín, nhất là chủ nghĩa tuyệt mệnh, một chủ nghĩa được Đức Gioan Phaolô II diễn tả trong Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002, ở đoạn 6, là “chán chường về nhân loại, về sự sống, về tương lai. Theo quan điểm của họ thì cần phải thù ghét và hủy diệt đi tất cả mọi sự”.

--------Phải chăng, đó là lý do, ngay từ đầu thể kỷ 20, một thế kỷ xẩy ra 2 Thế Chiến và xuất phát 2 chủ nghĩa tử thần Nazi và Cộng Sản, Mẹ Maria đã hiện ra ở Fatima năm 1917 để thảm thiết vang lên những lời lẽ từ mẫu cuối cùng của Mẹ? Và nếu Nước Nga đã “trở lại”, khi nước này tự động giải thể chế độ Cộng Sản vào chính ngày Lễ Giáng Sinh 1991, thì phải chăng thực sự đã hoàn toàn chấm dứt THỜI ĐIỂM FATIMA?




Khởi viết Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1/2006,



Ngày Hòa Bình Thế Giới



Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

caoduc
15-09-2008, 09:26 AM
ĐẠO BINH DÀN TRẬN



THỜI ĐIỂM FATIMA


Thời Điểm Fatima

--------Theo lịch sử Thánh Mẫu, Biến Cố Fatima là Biến Cố Thánh Mẫu trọng đại nhất trong các Biến Cố Thánh Mẫu, vì Biến Cố Fatima liên quan đến cả vai trò của Giáo Hội cũng như đến vận mệnh thế giới.

--------Trước hết, Biến Cố Fatima liên quan đến vai trò của Giáo Hội là vì, theo ý muốn của Thiên Chúa, được Mẹ Maria tiết lộ cho chung 3 Thiếu Nhi Fatima ở phần Bí Mật Fatima thứ hai ngày 13/7/1917, và cho riêng chị nữ tu Lucia ngày 13/6/1929, thì Thiên Chúa muốn Vị Chủ Chiên Tối Cao của Giáo Hội là “Đức Thánh Cha, hợp cùng với tất cả các vị giám mục trên thế giới, để hiến dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ”.

--------Điều này đã được nữ tu Lucia đệ trình Đức Thánh Cha Piô XII trong thư đề ngày 2/12/1940, và từ đó đã được các vị Giáo Hoàng hết sức khôn ngoan dè dặt thực hiện nhiều lần, thứ tự như sau: Đức Thánh Cha Piô XII - lần nhất vào ngày 31/10/1942 dịp kỷ niệm ngân khánh Biến Cố Fatima, và lần hai vào ngày 7/7/1952, lễ kính hai Thánh Cyrilô và Mêthôđiô là nhị vị tông đồ của sắc chủng Slav (bao gồm cả dân tộc Nga và Balan); Đức Thánh Cha Phaolô VI - lần nhất vào ngày 13/5/1967 tại chính Linh Địa Thánh Mẫu Fatima, và lần hai vào ngày 21/11/1964 ngay trong Công Đồng Chung Vaticanô II, dịp ban hành Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Ánh Sáng Muôn Dân; Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II - lần 1 vào ngày 7/6/1981 ở Đền Thờ Đức Bà Cả, lần 2 ngày 13/5/1982 ở chính Linh Địa Thánh Mẫu Fatima, và lần 3 vào ngày 25/3/1984 ở ngay Giáo Đô Vatican kết Năm Thánh Cứu Chuộc.

--------Sau nữa, Biến Cố Fatima liên quan đến vận mệnh của thế giới cũng như đến phần rỗi của các linh hồn. Bởi vì, như Mẹ Maria tiết lộ ở ngay đầu phần hai Bí Mật Fatima vào lần hiện ra thứ ba ngày 13/7/1917 là: “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu điều Mẹ nói được thực hiện thì thế giới sẽ có hòa bình và nhiều linh hồn được cứu rỗi”.

--------Thiên Chúa quả thực đã muốn thiết lập lòng Tôn Sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới, chứ không phải chỉ ở một nước nào, hay ở trong Giáo Hội mà thôi. Bởi thế, Ngài đã thực hiện ý định này của Ngài bằng việc muốn Đức Thánh Cha hiệp với hàng giáo phẩm thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, sau đó Ngài mới làm và thực sự đã làm cho Nước Nga trở lại, trước sự vô cùng bàng hoàng kinh ngạc của thế giới, nhất là khối tư bản!

--------Như thế, Lịch sử thế giới hiện đại đã hiển nhiên chứng thực là tất cả những gì Mẹ Maria tiên báo ở phần kết Bí Mật Fatima thứ hai từ năm 1917 đều đã được tỏ tường ứng nghiệm từng chữ: “Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”.

--------Nếu căn cứ vào lời tiên báo này của Mẹ Maria thì THỜI ĐIỂM FATIMA chưa chấm dứt sau biến cố “Nước Nga trở lại”. Vì, sau khi Nước Nga trở lại,THỜI ĐIỂM FATIMA còn bao gồm cả giai đoạn “thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình” nữa. Đến đây, vấn đề được đặt ra là thời gian hòa bình thế giới được hưởng sau biến cố Nước Nga trở lại như Mẹ Maria tiên báo đây sẽ kéo dài trong bao lâu?

--------Theo người viết, căn cứ vào lịch sử đang diễn tiến, thì giai đoạn “thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình” này đã hoàn toàn qua đi mất rồi, chỉ vỏn vẹn có 10 năm ngắn ngủi thôi, từ năm 1991 đến 2001. Tức từ chính ngày Lễ Chúa Giáng Sinh 25/12/1991, ngày kỷ niệm Trời Cao loan báo sứ điệp “bình an dưới thế cho người Chúa thương”, qua biến cố Nước Nga tự động giải thể chế độ Cộng Sản, đến biến cố 911 (con số viết theo kiểu của người Mỹ báo hiệu tình trạng lâm nguy) ngày 11 tháng 9 năm 2001, ngày lịch sử thế giới bắt đầu một trận chiến mới, không còn là một thứ Chiến Tranh Lạnh - Chiến Tranh Chủ Nghĩa Chính Trị và Kinh Tế giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản thời hậu Thế Chiến Thứ Hai nữa, mà là Chiến Tranh Nóng - Chiến Tranh Xung Đột Văn Hóa và Tôn Giáo, với cuộc khủng bố tấn công giữa thanh thiên bạch nhật của một số phần tử thuộc thế giới Ả Rập (Hồi Giáo) vào ngay trung tâm kinh tế và chính trị của đệ nhất cường quốc Hoa Kỳ, (đối với thành phần khủng bố) tiêu biểu cho thế giới Tây Phương (Kitô Giáo).

--------Phải chăng lịch sử thế giới đi từ biến cố Nước Nga trở lại đến biến cố Hoa Kỳ bị khủng bố tấn công, từ Chiến Trạnh Lạnh sang Chiến Tranh Nóng như thế, đã và đang là những gì thực sự ứng nghiệm lời tiên đoán của Thánh Long Mộng Phố (Louis de Montfort) trong cuốn “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” của ngài, một tác phẩm ngài đã viết từ đầu thế kỷ 18 và đã được phổ biến giữa thế kỷ 19 (năm 1843), như sau:
-------- “Mẹ Maria, theo lệnh của Đấng Tối Cao, chính là vị sẽ trang bị cho họ (thành phần môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô), để vương quốc của Ngài bao trùm trên vương quốc của người vô đạo, vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng và vương quốc của Tín Đồ Hồi Giáo” (đoạn 59).

caoduc
15-09-2008, 09:30 AM
--------Thật thế, lịch sử đã cho thấy lời tiên báo này của Thánh Long Mộng Phố đã và đang trở thành sự thật, ở chỗ, vương quốc thứ nhất là vương quốc của người vô đạo, được hiện thân nơi chế độ vô thần Cộng Sản, đã bị vương quốc của Thiên Chúa là Giáo Hội Công Giáo nói chung và thế lực thiêng liêng của Đức Gioan Phaolô II nói riêng bao trùm, qua hiện tượng tự động sụp đổ của Khối Cộng Sản Đông Âu năm 1989 và tự động giải thể của Khối Cộng Sản Liên Bang Sô Viết năm 1991. Nếu cả một lực lượng Cộng Sản đầu não của Cộng Sản là Liên Sô và Đông Âu còn bị vương quốc của Thiên Chúa bao trùm như thế, thì vấn đề tồn tại của chế độ Cộng Sản nơi một số quốc gia hiện nay là dấu chứng cho thấy, một khi tới giờ Chúa muốn và theo cách Chúa muốn, chế độ còn lại này sẽ qua đi như quan thày Liên Sô và đàn anh Đông Âu của nó mà thôi. Không phải hay sao, nhân loại đang chứng kiến thấy một hiện tượng Cộng Sản chẳng những đang bị lu mờ trước nạn khủng bố toàn cầu hiện nay, mà còn đang tự lột xác biến dạng theo chủ nghĩa tư bản.

--------Nếu vương quốc của Thiên Chúa, như lịch sử cho thấy, đã quả thực bao trùm vương quốc của thành phần vô đạo là Cộng Sản như thế, thì vương quốc của Thiên Chúa sẽ bao trùm vương quốc thứ hai, vương quốc của lực lượng tôn thờ ngẫu tượng là một thế giới Tây Phương duy nhân bản, chỉ biết tôn thờ con bò vàng tuyệt đối tự do “pro choice” ở mọi lãnh vực của cuộc sống văn minh vật chất và nhân quyền của mình này ra sao? Có thể xẩy ra theo chiều hướng đại kết Kitô Giáo đang diễn tiến hết sức phấn khởi như thế này.

--------Đúng vậy, nếu xuất thân từ Balan, từ Đông Âu, Đức Gioan Phaolô II đã làm cho Cộng Sản Đông Âu Sụp Đổ, kéo theo cả sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh (Berlin Wall) là biểu hiệu cho tình trạng phân cách Châu Âu, một Đông Âu và một Tây Âu, thì Giáo Hoàng Biển Đức XVI, xuất thân từ Tây Âu, từ Đức Quốc, từ một quốc gia gây ra hai Thế Chiến trong thế kỷ 20, và cũng chính là nơi xuất phát ra phong trào Thệ Phản Cải Cách từ đầu thế kỷ 16, có thể là vị cũng sẽ được Thiên Chúa quan phòng sử dụng để thực hiện cho một Âu Châu Hiệp Nhất như vậy. Chính vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI này, trong bài giảng cho Hồng Y Đoàn tại Nguyện Đường Sistine ngày 20/4/2005, ngay sau ngày được bầu làm giáo hoàng, đã minh nhiên khẳng định chủ trương ưu tiên hàng đầu của giáo triều ngài là vấn đề Đại Kết Kitô Giáo. Bởi vì, chỉ khi nào Tây Phương, tiêu biểu là Âu Châu, trở về với căn tính Kitô Giáo của mình, qua việc Hiệp Nhất Kitô Giáo, bấy giờ họ mới có thể làm cho Âu Châu Hiệp Nhất, một Âu Châu hiện đang quằn quại dậm chân tại chỗ theo chiều hướng duy kinh tế và chính trị đầy bất nhất, và một khi Âu Châu Hiệp Nhất, thì Kitô Giáo, hiện thân vương quốc của Thiên Chúa, “vương quốc của Đấng Tối Cao” sẽ có thểvà mới có thể “bao trùm vương quốc của tín đồ Hồi Giáo”.

--------Bằng không, với những cuộc khủng bố tấn công tự sát theo chủ nghĩa tuyệt mạng và bảo thủ cuồng tín của một số con người thuộc tín đồ Hồi Giáo, những cuộc khủng bố tấn công chẳng những vào các cơ sở đầu não về chính trị và kinh tế các cường quốc (Mỹ, Tây Ban Nha, Anh,v.v.), mà còn cả vào các nơi ăn chơi của người Tây Phương, hay theo kiểu Tây Phương, ở bất cứ nơi nào trên thế giới nữa (điển hình nhất ở Bali năm 2002), phần thắng trong cuộc Chiến Tranh Nóng, cuộc Chiến Tranh Xung Đột Văn Hóa và Tôn Giáo này, có thể sẽ về tay Hồi Giáo. Họ thắng không phải vì họ có vũ khí và lực lượng quân sự lẫn kinh tế mạnh hơn Tây Phương, nhưng vì Đấng Quan Phòng Thần Linh muốn dùng họ để trừng phạt thế giới Tây Phương văn minh tội lỗi, như Ngài đã từng sử dụng “cái roi” Cộng Sản để trừng trị con cái của Ngài vì những bất công xã hội xẩy ra từ Thời Cách Mạng Kinh Tế.

--------Bấy giờ, phải, chỉ bấy giờ Kitô giáo, Công Giáo, Chính Thống Giáo, Anh Giáo và các giáo phái Tin Lành, vì định mệnh tồn vong của chung đạo giáo của mình, mới có thể gắn bó với nhau, mới có thể nhờ đó tiến đến chỗ hiệp nhất nên một Giáo Hội duy nhất như Chúa Kitô mong muốn, một tình trạng hiệp nhất mà nếu không ở trong hoàn cảnh như một dân Do Thái bị lưu đầy Babylon như thế, Kitô giáo chắc không thể nào, hay rất khó lòng đạt được, dù có cố gắng đối thoại đại kết với nhau cả 40 năm trời, từ ngay sau Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965). Nếu thực sự cần phải bị trừng trị bởi cái roi “Hồi Giáo”, Kitô giáo mới hiệp nhất nên một, thì không phải là Hồi Giáo chỉ là dụng cụ Thiên Chúa muốn dùng để thưc hiện ý định của Ngài hay sao, trong việc biến dữ nên lành cho những ai tin vào Ngài. Đằng nào thì cuối cùng “vương quốc của Đấng Tối Cao (cũng) bao trùm vương quốc của tín đồ Hồi Giáo” vậy.

--------Nếu Khối Cộng Sản Đông Âu sụp đổ, nhất là “Nước Nga trở lại”, là những gì có liên hệ với Biến Cố Fatima và Bí Mật Fatima, qua sự kiện trực tiếp liên quan tới bản thân của Đức Gioan Phaolô II, thì việc Âu Châu Hiệp Nhất, để “vương quốc của Đấng Tối Cao bao trùmvương quốc của tín đồ Hồi Giáo” cũng liên quan đến Biến Cố Fatima, Bí Mật Fatima và Sứ Điệp Fatima như vậy. Bởi vì, không phải ngẫu nhiên Mẹ Maria chọn địa điểm hiện ra ở một nơi được gọi là “Fatima”, tên của người con gái Giáo Tổ Hồi Giáo Mohammed. Và cũng không phải vô tình mà Mẹ Maria đã tự xưng ở Fatima ngày 13/10/1917 rằng “Ta là Đức Mẹ Mân Côi”, một tước hiệu liên quan đến biến cố quân Kitô Giáo đang yếu thế đã có thể oanh liệt toàn thắng lực lượng dũng mãnh của Hồi Giáo ở trận hải chiến Lepantô năm 1571.

--------Biết đâu, THỜI ĐIỂM FATIMA sẽ càng sáng tỏ vào năm 2017, dịp kỷ niệm 100 năm Biến Cố Fatima, cũng là dịp trùng hợp kỷ niệm đúng 500 năm xuất phát Phong Trào Thệ Phản Cải Cách ở Đức, Kitô Giáo sẽ tiến đến chỗ hiệp nhất… cho một Âu Châu Hiệp Nhất, những gì đã được gói ghém nơi danh hiệu Giáo Hoàng Biển Đức XVI, một danh hiệu từ thời Giáo Hoàng Biển Đức XV (1914-1922), mở màn cho THỜI ĐIỂM FATIMA, một thời điểm của Đạo Binh Dàn Trận để chống đại binh Satan.

caoduc
15-09-2008, 09:33 AM
Đạo Binh Dàn Trận


--------Trong tác phẩm Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, ở đoạn 54 Thánh Long Mộng Phố viết về thành phần môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô liên quan tới Mẹ Maria và phe đối thủ như sau:

--------“Quyền năng của Mẹ Maria trên tất cả mọi qủi ma sẽ đặc biệt chiếu sáng vào những thời buổi sau này, khi mà Satan giăng bẫy gót chân của Mẹ: tức là giăng bẫy các tôi tớ khiêm hạ và các con cái nghèo hèn của Mẹ, thành phần Mẹ sẽ lập nên để chống lại với hắn. Họ sẽ nhỏ bé và nghèo hèn trước mắt thế gian, hạ mình xuống như gót chân trước tất cả mọi người, bị các phần thể khác giầy đạp và bắt bớ như một gót chân. Thế nhưng, nhờ vậy mà họ lại trở nên giầu sang trong ân sủng của Thiên Chúa, ân sủng Mẹ Maria sẽ ban phát cho họ một cách dồi dào. Họ sẽ nên cao cả và thăng tiến trong đường thánh đức trước nhan Thiên Chúa, vượt trên tất cả các tạo vật khác ở lòng nhiệt thành sống động của họ, và được ơn phù trợ của Thiên Chúa nâng đỡ đến nỗi, hiệp với Mẹ Maria, bằng việc khiêm hạ như gót chân, họ sẽ đạp nát đầu ma qủi để mang lại chiến thắng cho Chúa Giêsu Kitô”.
--------Ở đoạn 58 Thánh Long Mộng Phố diễn tả về “(thành phần môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô)” liên quan với Thiên Chúa như sau:

--------“Họ sẽ là những vị tông đồ đích thực của những thời buổi sau này, thành phần mà Chúa các Đạo Binh sẽ ban cho họ lời nói và sức mạnh để họ thực hiện những điều kỳ diệu và vinh thắng tước đoạt các chiến lợi phẩm từ tay quân thù của Người...”

--------Và ở đoạn 59, Thánh Long Mộng Phố diễn tả “(thành phần môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô)” liên quan với Chúa Kitô và Mẹ Maria như sau:

--------“Tóm lại, chúng ta biết rằng họ sẽ là thành phần môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô, bước theo gót chân nghèo hèn, khiêm hạ, bị thế gian khinh chê, yêu thương bác ái của Người; họ giảng dạy con đường hẹp của Thiên Chúa bằng sự thật nguyên vẹn của Thiên Chúa theo Phúc Âm thánh hảo, chứ không theo những tâm niệm của thế gian... Họ sẽ ngậm nơi miệng của mình thanh gươm hai lưỡi Lời Thiên Chúa. Họ sẽ vác trên vai mình một thứ Thánh Giá đẫm máu, tay phải của họ cầm Tượng Chuộc Tội, tay trái của họ nắm Tràng Kinh Mân Côi, con tim của họ ghi Thánh Danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, hành vi cử chỉ của họ bộc lộ đức hạnh và khổ hạnh của Chúa Giêsu Kitô. Họ là những con người cao cả sẽ phải đến; còn Mẹ Maria, theo lệnh của Đấng Tối Cao, chính là vị sẽ trang bị cho họ, để vương quốc của Ngài bao trùm trên vương quốc của người vô đạo, vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng và vương quốc của Tín Đồ Hồi Giáo”.
--------Theo diễn tiến của Biến Cố Fatima và Bí Mật Fatima thì Fatima đúng là Thời Điểm Đạo Binh Dàn Trận của Nữ Tướng Thắng Trận Maria, vị mà, vào ngày 13/10/1917, đã tự xưng mình “Ta là Mẹ Mân Côi”. Lịch sử Thánh Mẫu cho thấy, khác với bất cứ một Biến Cố Thánh Mẫu nào trước đó hay sau đó, Biến Cố Thánh Mẫu Fatima mang chiến đấu tính ngay từ ban đầu, đúng như Thánh Louis Montfort đã tiên đoán thật là chính xác trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (đoạn 50) của ngài:

--------“Đối với ma quỉ cùng quân quốc của hắn, Mẹ Maria chắc chắn trở thành kinh hoàng khủng khiếp như một đạo binh dàn trận, nhất là vào những thời gian sau này, vì ma quỉ, khi biết rằng không còn nhiều thời gian, và giờ đây càng ít thời gian hơn nữa, trong việc hủy hoại các linh hồn, sẽ tăng gấp đôi nỗ lực của hắn cũng như những cuộc chiến đấu của hắn”.
--------Lời tiên đoán Thánh Long Mộng Phố viết trên đây đã được âm vang nơi lời chị Lucia nói với vị linh mục đóng vai phó cáo thỉnh viên trong tiến trình điều tra phong Á Thánh cho Phanxicô và Giaxinta là Fuentes ngày 26/12/1957, những lời được linh mục Joaquin Maria Alonso, C.M.F, phổ biến trong cuốn The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, trang 109, như sau:

--------“Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể”.
--------Đúng thế, vì Fatima là Thời Điểm của một Mẹ Maria oai hùng như Đạo Binh Dàn Trận mà, ngay từ lần hiện ra đầu tiên, 13/5/1917, chưa xưng mình là ai và đến để làm gì, Mẹ Maria đã vội vàng triệu tập một đạo binh để chiến đấu với Satan trong việc cứu độ các tội nhân ngay, qua lời kêu gọi 3 Thiếu Nhi Fatima nhỏ bé là Lucia (10 tuổi), Phanxicô (9 tuổi) và Giaxinta (7 tuổi), như sau:

--------- Các con có sẵn lòng dâng mình cho Thiên Chúa hầu chấp nhận mọi đau khổ Ngài để xẩy ra, như một việc đền tạ những xúc phạm Ngài phải chịu mà cầu cho tội nhân ăn năn trở lại không?

--------- Vâng, chúng con sẵn lòng!

--------- Vậy thì các con sẽ chịu nhiều đau khổ, nhưng ơn Chúa sẽ phù trợ các con.

--------Phải, “đạo binh dàn trận” của Đức Mẹ Mân Côi, của Đức Mẹ Thắng Trận, mở màn cho Thời Điểm Fatima chính là 3 Thiếu Nhi Fatima nhỏ bé này. Các em đã “dàn trận” khi thưa “vâng, chúng con sẵn lòng”. Để rồi, các em đã được vị Nữ Tướng Chỉ Huy Trưởng của các em trao cho các em một thứ khí giới vô cùng lợi hại, một thứ khí giới ma quỉ sợ nhất, một thứ khí giới ma quỉ đã phải qui hàng, đó là Thập Giá, là khổ đau. Thật ra, trên danh nghĩa, các em Thiếu Nhi Fatima ở Bồ Đào Nha ấy không trực tiếp dàn trận để chiến đấu với ma quỉ cho bằng để hy sinh “chấp nhận chịu khổ” hầu đền tạ Chúa nhờ đó cứu các tội nhân mà thôi. Tuy nhiên, một khi các em cứu các tội nhân là các em đương nhiên trở thành kẻ thù không đội trời chung của ma quỉ. Cũng như chính ma quỉ, hắn không trực tiếp chống lại và không thể nào chống lại được với Chúa Cứu Thế hay với Mẹ Maria, nhưng chúng vẫn có thể gián tiếp phá hủy công ơn cứu chuộc do hai Mẹ Con này lập được, bằng việc hủy hoại các linh hồn, nhất là thành phần đã lãnh nhận phép rửa, đã được hưởng hoa trái ơn cứu chuộc. Vậy thì ba em Thiếu Nhi Fatima đã dàn trận như thế nào?

caoduc
15-09-2008, 09:39 AM
Ba Thiếu Nhi Fatima


--------Căn cứ vào nội dung và tinh thần của lời hiệu triệu của Mẹ Maria thì ơn gọi chung của cả 3 em Thiếu Nhi Fatima này là Hy Sinh Tự Hiến như một Tế Vật. Thật thế, chị Lucia đã thuật lại những gì 3 em đã sống Ơn Gọi Hy Tế này trong Hồi Ký Thứ Nhất như sau.

--------“Vào một ngày nắng gắt, sau khi cho đi bữa ăn trưa của mình, theo quyết định chung với nhau từ trước, hễ thấy các trẻ nghèo thì cho họ đồ ăn trưa của mình, 3 trẻ cảm thấy khát, song không còn một giọt nước để uống. Đầu tiên các em dâng hy sinh khát nước vì Chúa cho các tội nhân như thường lệ. Sau đó, không chịu khát được nữa, với sự đồng ý của Phanxicô và Giaxinta, Lucia đã ghé vô một nhà ở gần đó để xin nước uống. Thế nhưng, số nước xin được lại bị đổ xuống khe đá cho chiên uống, vì cả ba ai cũng nhất định hy sinh chịu khát để cầu cho các tội nhân. Sau cùng, cơn khát làm cho Giaxinta khó chịu đến nỗi em đã nói với Lucia bảo các tiếng dế và ếch nhái đang kêu im đi vì chúng làm ‘em nhức đầu khủng khiếp’. Nhưng, sau khi nghe Phanxicô nhắc: ‘Em không muốn chịu đựng cho các tội nhân à?’, Giaxinta liền lấy hai bàn tay ôm đầu, mà nói: ‘Có chứ. Thôi để chúng kêu đi!’.”
--------Căn cứ vào các việc và các cách hy sinh của các em, mà, theo như Đức Mẹ đã cho các em biết vào lần hiện ra thứ 5, 13/9/1917, là “Thiên Chúa hài lòng với những hy sinh của các con”, thì “những hy sinh” đã làm đẹp lòng Thiên Chúa của các em có thể phân tách và tóm lược như sau:

1 - Hy sinh là quên mình. Lúc mới bắt đầu tập hy sinh, các em đã đồng ý với nhau là đem đồ ăn trưa của mình cho đàn vật ăn, hay cho các trẻ nghèo mà các em gặp được ăn.

2 - Hy sinh là hãm mình. Các em thắt một đoạn giây thừng ở chung quanh bụng cho thân xác của các em luôn luôn cảm thấy khó chịu và đau đớn, trừ ban đêm như Đức Mẹ dặn.

3 - Hy sinh là cầm mình. Biết anh Phanxicô đang bị bệnh, theo tình anh em tự nhiên, Giaxinta rất muốn sang thăm anh của mình, song em đã cầm mình lại và không làm như thế: “Mẹ em đi khỏi rồi, em muốn sang thăm anh Phanxicô nhiều lần, song em đã không đi” (Hồi Ký Lucia 1).

4 - Hy sinh là ép mình. Giaxinta đã tâm sự với Lucia: “Đêm qua, em đau đớn quá sức, và vì em muốn dâng hy sinh cho Chúa, em đã không trở mình trên giường, làm cả đêm em không ngủ được” (Hồi Ký Lucia 2).

5 - Hy sinh là ẩn mình. Trong thời gian cả Phanxicô và Giaxinta bị bệnh, Giaxinta thường được Lucia vào phòng thăm trước Phanxicô, Gianxinta hay nói với Lucia là “Thôi chị sang thăm anh Phanxicô đi. Em sẽ hy sinh ở đây một mình”.

6 - Hy sinh là dấn mình. Các em vốn không thích, trái lại, còn cảm thấy bị làm phiền và khổ tâm khi người ta cứ tuốn đến hạch hỏi các em về việc Đức Mẹ hiện ra với các em, nhưng, trong khi, theo tính tự nhiên, Lucia và Giaxinta chạy trốn mỗi khi thấy bóng người ta, thì Phanxicô đã đứng lại để tiếp họ.

7 - Hy sinh là bỏ mình. Vốn không thích uống sữa một tí nào cả, thế mà, sau lần từ chối ly sữa mẹ em đưa cho em uống khi em bị bệnh, sau đó, được Lucia nhắc cho, Gianxinta đã ngoan ngoãn uống nó mỗi khi Mẹ của em đưa cho em uống.

8 - Hy sinh là liều mình. Thay vì hy sinh chịu khát, có một lần, Giaxinta đã uống cho đỡ khát, song nước mà Giaxinta uống cho đỡ khát đó không phải là nước ngon lành gì, mà là nước ao hồ bẩn thỉu, nước mà dân chúng vẫn giặt quần áo và thú vật vừa uống vừa lội trong đó.

9 - Hy sinh để đền bù cho tha nhân. Dù đang bị bệnh, Giaxinta cũng cứ đi lễ ngày thường để bù lại việc bỏ lễ Chúa Nhật của các tội nhân, hay cũng vì bị bệnh, Giaxinta cần ăn uống nhiều hơn, song em đã nhịn ăn để bù lại tội tham ăn của các tội nhân.

10 - Hy sinh trong tất cả mọi sự. “Giaxinta quan tâm đến vấn đề hy sinh cầu cho tội nhân ăn năn hối cải đến nỗi em không chịu bỏ qua một dịp hy sinh nào” (Hồi Ký Lucia 1).

Tóm lại, nguyên tắc và đường lối hy sinh của 3 Thiếu Nhi Fatima gương mẫu tiên khởi này đã thực hiện đúng y như lời Thiên Thần dạy các em vào lần hiện ra thứ hai năm 1916, khi các em hỏi Thiên Thần rằng: “Chúng con phải hy sinh như thế nào?”, đó là “làm mọi sự có thể để hy sinh”.

--------Ba Thiếu Nhi Fatima tiên khởi chẳng những tìm hy sinh theo hoàn cảnh riêng có thể của mình, còn cùng nhau hy sinh, (như trường hợp điển hình được đề cập đến đầu tiên), nhắc nhau hy sinh và nhất là nhắc nhau hy sinh vì yêu Chúa nữa.

--------Cùng nhau hy sinh: Mặc dầu vốn thích hát những bài hát dân ca lành mạnh, nhưng, dù được người ta mến và yêu cầu hát, các em đã không hát nữa, theo đề nghị của Phanxicô: “Chúng ta đừng hát bài hát đó nữa. Chúa chúng ta chắc chắn không muốn chúng ta hát những điều như thế này” (Hồi Ký Lucia 3).

caoduc
15-09-2008, 09:43 AM
--------Nhắc nhau hy sinh: “Một ngày kia, khi con đến, Giaxinta hỏi con: ‘Chị có nhiều hy sinh hôm nay không? Em có nhiều lắm.’” (Hồi Ký Lucia 1).

--------Nhắc nhau hy sinh vì yêu Chúa: “Kể từ ngày Đức Mẹ dạy chúng con dâng hy sinh của chúng con cho Chúa Giêsu, thì bất cứ lúc nào chúng con chịu đựng, hay đồng ý hy sinh, Giaxinta đều hỏi: ‘Chị có nói với Chúa Giêsu là Chị làm vì yêu Chúa không?’ Nếu con nói chưa, em liền nói: ‘Vậy em sẽ thưa với Người’, rồi em chắp ta lại, mắt ngước lên trời: ‘Ôi Chúa Giêsu, con làm vì yêu Chúa và cho các tội nhân ăn năn hối cải’”.

--------Vẫn biết lời hiệu triệu “dàn trận” của Mẹ Maria trên đây là ơn gọi chung của ba em Thiếu Nhi Fatima - ơn gọi hy sinh: ở chỗ chịu khổ để đền tạ Chúa và cứu các tội nhân.

--------Tuy nhiên, theo Hồi Ký của chị Lucia thuật lại, thì trong ơn gọi chung này, mỗi em lại được kêu gọi sống ơn gọi chuyên biệt của mình nữa. Căn cứ vào cuộc đời của các em, cũng như căn cứ vào thứ tự của lời Mẹ Maria hiệu triệu các em ngay từ ban đầu của Biến Cố Thánh Mẫu Fatima có tính cách chiến đấu tính ấy, chúng ta thấy ba em đã dàn trận khi sống ơn gọi chuyên biệt của mình để hoàn thành ơn gọi chung là hy sinh này, theo kiểu lớn trước bé sau như sau:
--------Thiếu Nhi Fatima Lucia 10 tuổi “chấp nhận mọi đau khổ”; Thiếu Nhi Phanxicô 9 tuổi “đền tạ những xúc phạm”; Thiếu Nhi Giaxinta 7 tuổi “cầu cho tội nhân ăn năn trở lại”.
--------Ôi, cuộc sống của ba Thiếu Nhi Fatima dễ thương và đáng khâm phục là chừng nào, một gương sống đạo có lẽ đã làm cho nhiều Kitô hữu thành niên hay lão thành cảm thấy hết sức xấu hổ. Thậm chí không thể tin được.

--------Theo Đức Tổng Giám Mục Jose Saraiva Martins, Bộ Trưởng Thánh Bộ Cứu Xét Phong Thánh, thì vụ án phong thánh cho hai Thiếu Nhi Fatima Phanxicô và Giaxinta đã được bắt đầu từ năm 1952 tại giáo phận Leiria-Fatima. Thế nhưng, tiến trình phong thánh này đã bị trì hoãn là vì vấn đề phong thánh cho các em là trẻ em liên quan đến tín lý và giáo luật, ở chỗ, các em chưa ở vào tuổi thiếu niên hay tuổi dậy thì. Trong khi đó, Thánh Bộ Cứu Xét Phong Thánh lại nhận được 180 khẩn nguyện thư thuộc 44 quốc gia trên thế giới, từ các vị hồng y, giám mục, đặc sứ tòa thánh và linh mục coi xứ trình bày cho thấy những lợi điểm của việc phong thánh cho hai em đối với giới trẻ trong thế giới hiện đại.

--------Cuối cùng, chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã rút ngắn tiến trình phong thánh cho hai em, bằng việc công nhận nhân đức anh hùng của hai Đấng Đáng Kính (venerable) này ngày 13/5/1989, một biến cố không ngờ đã xẩy ra như điềm báo trước biến động Đông Âu sau đó ở Balan ngày 19/8/1989 (cũng là ngày kỷ niệm Mẹ Maria hiện ra ở Fatima lần thứ 4 tại Valinhos, chứ không phải ở cây sồi như các lần khác trên đồi Cova da Iria vào ngày 13 như Mẹ muốn ngay từ đầu, vì việc nhúng tay can thiệp của chính quyền địa phương). Mười năm sau, ngày 28/6/1999, hai Thiếu Nhi Fatima Phanxicô và Giaxinta lại được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban bố một sắc lệnh công nhận phép lạ của hai Đấng Đáng Kính này làm, để hai vị có thể được Giáo Hội tuyên phong Á Thánh.

--------Trong bài giảng phong chân phước cho hai Thiếu Nhi Fatima Phanxicô và Giaxinta tại chính Linh Địa Thánh Mẫu Fatima ngày 13/5 Đại Năm Thánh 2000, ĐTC GPII, (ở đoạn 6), đã nhắn nhủ thành phần thiếu nhi như sau:


--------“Cha muốn nói những lời cuối cùng với các em nhỏ: các em trai em gái thân mến, Cha thấy nhiều người trong các em trang phục giống như Phanxicô và Giaxinta vậy. Các em mặc đẹp lắm! Thế nhưng, chút nữa đây hay ngày mai các em sẽ cởi những thứ y phục này ra và... những nhỏ mục đồng ấy không còn nữa. Các nhỏ mục đồng ấy không được mất đi phải không các em? Đức Mẹ cần tất cả các em trong việc an ủi Chúa Giêsu, Đấng buồn phiền vì nhiều điều xấu xa gây ra cho Người; Người cần đến những lời cầu nguyện cũng như những hy sinh cho tội nhân của các em. Các em hãy xin cha mẹ và thầy cô của mình ghi danh của các em vào ‘trường’ của Đức Mẹ, để Đức Mẹ có thể dạy các em nên giống như các bé mục đồng này, những bé mục đồng đã cố gắng làm theo những gì Mẹ xin họ. Cha muốn nói cho các em biết là ‘nhờ phục tùng và lệ thuộc vào Mẹ Maria, trong một thời gian ngắn người ta sẽ tiến bộ hơn là cả bao nhiêu năm theo những sáng kiến cá nhân khi cậy dựa vào mình’ (Thánh Long Mộng Phố – Louis de Montfort, Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn số 155). Đó là lý do tại sao các bé mục đồng ấy đã nên thánh rất nhanh như vậy. Có một người đàn bà tiếp đãi Giaxinta ở Lisbon, khi nghe nhỏ gái này có những lời khuyên răn rất hay ho và khôn ngoan thì hỏi ai đã dạy em điều ấy, em trả lời rằng: ‘Chính là Đức Mẹ’. Bằng tất cả lòng quảng đại của mình trong việc chuyên tâm sống theo đường hướng của một Vị Thầy tốt lành như vậy, Giaxinta và Phanxicô đã sớm đạt tới đỉnh trọn lành”.

caoduc
15-09-2008, 09:48 AM
Đạo Binh Dàn Trận

Ba Thiếu Nhi Fatima


Thiếu Nhi Fatima Lucia

--------Cúng thế, Thiếu Nhi Fatima Lucia đã “chấp nhận mọi đau khổ” hơn hết trong ba em. Vì biến cố Mẹ hiện ra mà em đã phải chịu khổ bởi gia đình, bởi cha xứ và bởi cả ma quỉ nữa. Thiếu Nhi Fatima Lucia về sau đã thuật lại những chịu đựng của mình bấy giờ trong tập Hồi Niệm Thứ Hai như sau:

--------“Vào lúc bấy giờ cha sở nghe đồn thổi về những chuyện đã xẩy ra. Ngài bảo má con dẫn con đến ngài. Má con cảm thấy nhẹ nhõm cả người, tưởng là cha sở sẽ lãnh trách nhiệm về các biến cố xẩy ra. Má con bảo con rằng:

--------- Ngày mai, má và con sẽ đi lễ sớm, sau đó vào nhà cha sở. Chớ gì cha sở buộc mày phải nói ra tất cả sự thật với bất cứ giá nào. Ngài sẽ sửa trị mày và sẽ xử với mày như ngài tùy theo ý muốn của ngài. Nếu ngài mà ép được mày thú thật ra là mày đã nói dối, thì tao hài lòng hết sức.

--------Các chị cũng vào hùa phe với má của con, tạo ra đủ thứ lời lẽ đe dọa, như muốn làm con run sợ về cuộc gặp cho sở. Con báo tin cho Phanxicô và Giaxinta hay chuyện. Cả hai em đã trả lời con rằng:

--------- Chúng em cũng đến cha sở với chị. Cha sở cũng bảo má chúng em dẫn chúng em đến với ngài, nhưng má chúng em không nói gì với chúng em cả. Chúng ta hãy cứ nhẫn nại, nếu người ta đánh chúng ta, chúng ta sẽ có dịp để được chịu đau khổ vì Chúa và vì các tội nhân.

--------Hôm sau, con theo má của con đến nhà thờ, trên đường đi má con không hề nói một câu. Phải thú thật là bấy giờ con cảm thấy run sợ không biết chuyện gì sẽ xẩy ra đây. Trong Thánh Lễ, con đã dâng lên Chúa nỗi thống khổ của con. Sau lễ, con qua sân nhà thờ để đến nhà cha sở cùng với má của con. Vừa leo lên mấy bậc thang, má con đã quay lại bảo con rằng:

--------- Con đừng làm khổ má nữa nghe con! Bây giờ con hãy nói thẳng với cha sở là con đã nói dối đi, để Chúa Nhật tới đây cha có thể tuyên bố ở nhà thờ rằng mọi chuyện xẩy ra chỉ là dối trá mà thôi chứ thật ra không hế có chuyện này. Như vậy là sẽ chấm dứt hết mọi chuyện. Như vậy không tốt hay sao. Cần gì mà mọi người phải ùa tới cầu nguyện trước cây sồi.

--------Không nói gì thêm, má con gõ cửa nhà cha sở. Bà chị của cha sở ra mở cửa. Bà nói chúng con ngồi đợi một chút. Sau cùng cha sở đến bảo chúng con vào văn phòng của ngài. Ngài mời má con ngồi ghế và bảo con đến gần chỗ bàn ngài làm việc. Khi thấy cha sở hỏi con một cách chẳng những hoàn toàn bình tĩnh mà còn tỏ ra âu yếm nữa, con lấy làm ngỡ ngàng. Tuy nhiên con vẫn tiếp tục chờ đợi xem những gì sẽ xẩy ra. Cha sở hỏi con tỉ mỉ về mọi chuyện. Sau cùng ngài kết luận:

--------- Theo cha, những chuyện đó không phải là mạc khải bởi trời cao. Khi một việc như vậy xẩy tới, thường Chúa đòi hỏi các linh hồn Chúa chọn phải trình lại việc đã xẩy ra cho cha giải tội hay cho cha sở biết. Đằng này con bé này cứ giữ kín bao nhiêu có thể. Có thể đó là sự lừa bịp của ma quỉ. Rồi chúng ta sẽ thấy. Tương lai sẽ cho chúng ta thấy những gì chúng ta đang nghĩ về tất cả câu chuyện này.

--------Nghĩ đến điều này làm con cảm thấy thấm thía khổ đau. Chỉ có một mình Chúa biết, vì chỉ có Ngài mới thấu suốt được tận đáy lòng của chúng ta mà thôi. Bấy giờ con bắt đầu có những ngờ vực là không biết có phải những cuộc hiện ra này phát xuất từ ma quỉ hay chăng, thành phần luôn sử dụng cách này để làm hư đi linh hồn của con. Khi con nghe thấy người ta nói rằng ma quỉ bao giờ cũng gây ra xung khắc và lệch lạc, con bắt đầu nghĩ rằng thế thì đúng rồi, vì con chưa hề thấy những điều ấy xẩy ra bao giờ nơi gia đình của con, nơi không còn như trước nữa, niềm vui và an bình đã biến mất. Con cảm thấy buồn thật là buồn! Con cho các đứa em của của con biết về những ngờ vực của con:

Giaxinta nói:

--------- Không, không phải là ma quỉ đâu! Không thể nào lại như vậy được! Họ nói rằng ma quỉ thì rất ghê rợn và nó ở dưới lòng đất trong hỏa ngục cơ mà. Đằng này Đức Bà của chúng ta thật là đẹp đẽ, và chúng ta đã thấy rằng Bà đi lên trời đấy thê!

--------Chúa đã dùng những lời ấy để đánh tan phần nào những ngờ vực của con. Thế nhưng, trong tháng ấy, con đã mất đi tất cả phấn khởi để làm việc hy sinh cũng như thực hiện những hành động hãm mình, để rồi đi tới chỗ do dự không biết có nên thú rằng con đã nói dối để chấm dứt tất cả mọi chuyện cho xong hay chăng.

Giaxinta và Phanxicô đã kêu lên:

--------- Xin chị chớ làm như thế! Chị không thấy rằng giờ đây chị đang tính nói dối hay sao mà nói dối là có tội đó chị?

--------Trong khi con đang lâm vào tâm trạng này thì con có một giấc mơ cgỉ làm tăng thêm tăm tối cho tâm thần con mà thôi. Con thấy thằng quỉ cười con bị nó đánh lừa, khi nó cố gắng lôi con xuống hỏa ngục. Thấy mình bị nó giữ chặt, con bắt đầu la lên xin Đức Mẹ cứu con to đến nỗi con đã làm cho má con tỉnh giấc. Bà lo lắng lay con dạy và hỏi con làm sao thế. Con không nhớ con con đã nói với bà những gì, thế nhưng con thực sự nhớ rằng con đã sợ hãi quá sức đến không thể nào ngủ được nữa trong đêm hôm ấy. Giấc mơ này làm cho linh hồn con thực sự tràn ngập những hãi sợ và sầu thảm. Con chỉ có thể tìm thấy khuây khỏa bằng cách lẩn mình ở một nơi vắng vẻ để nức nở khóc cho hả hê cõi lòng. Thậm chí những người em họ của con cũng trở thành gánh nặng cho con, nên con cũng bắt đầu lẩn trốn chúng. Thật là tội nghiệp cho chúng! Có những lúc chúng đi tìm con, gọi tên con nhưng không được hồi đáp, nhưng con bao giờ cũng nghe thấy, ẩn mình ngay bên cạnh chúng, ở một góc xó nào đó, nơi chúng không hề nghĩ tới.

--------Ngày 13 tháng 7 đã gần mà con vẫn còn lưỡng lự không biết mình có nên tới hay chăng. Con nghĩ bụng: ‘Nếu là ma quỉ thì tại sao tôi lại đến để nhìn thấy nó nhỉ? Nếu chúng hỏi con tại sao con không đi, con sẽ nói rắng con sợ có thể đó là ma quỉ đang hiện ra cho chúng mình, nên con không đi. Cứ để cho Giaxinta và Phanxicô làm gì tùy chúng; con không trở lại đồi Cova da Iria nữa’. Con đã quyết định như thế, và con cương quyết làm theo quyết định này.

--------Vào tối ngày 12/7, dân chúng đã tụ họp lại, mong ngóng thấy được những biến cố xẩy ra của ngày hôm sau. Bởi thế con đã gọi Giaxinta và Phanxicô mà nói với chúng về quyết tâm của con. Chúng đáp:

--------- Chúng em sẽ đi. Đức Bà nói chúng ta phải đến đó.

--------Giaxinta tình nguyện làm người thân thưa chuyện với Đức Bà, thế nhưng em cảm thấy buồn về việc con không đi, đến nỗi em đã bật lên tiếng khóc. Con hỏi em tại sao em khóc. Em nói:

--------- Tại vì chị không chịu đi!

--------- Đúng, chị không đi đâu. Nghe đây! Nếu Đức Bà hỏi chị đâu, xin các em nói với Người rằng chị không đến vì chị sợ việc này là do ma quỉ làm.

--------Thế rồi con bỏ các em ở đó mà đi ẩn mình để tránh nói chuyện với tất cả những người đến tìm con hỏi han này nọ. Mẹ của con nghĩ rằng con đang chơi đùa với các trẻ em trong làng, vì bao giờ con cũng ẩn nấp ở đằng sau những bụi gai nơi phần đất của người hàng xóm… Bà đã mắng tôi khi tôi vừa về đến nhà đêm hôm đó:

--------- Thật là một bà thánh nhỏ khéo che đậy! Suốt thời gian bà không chăn nuôi đàn chiên nữa, bà chỉ có biết chơi thôi, và bà còn phải chơi làm sao để không ai có thể thấy được bà nữa kìa!

--------Ngày hôm sau, lúc gần đến giờ phải ra đi, đột nhiên con cảm thấy cần phải đi, như bị thúc đẩy bởi một mãnh lực nào đó không thể nào cưỡng lại được. Thế rồi con lên đường và gọi vào nhà chú con xem Giaxinta có còn ở đó hay chăng. Con thấy em vẫn đang còn ở trong phòng của em với cả Phanxicô nữa, đang quì bên giường khóc. Con lên tiếng hỏi

caoduc
15-09-2008, 09:53 AM
--------- Ủa các em không đi à?

--------- Chúng em không dám đi nếu không có chị! Chị hãy đi nhé!

--------Con trả lời:

--------- Được, chị đi.

--------Mặt chúng sáng lên niềm vui và chúng cùng con lên đường…”

--------Ngoài vụ cả 3 em, sau lần hiện ra thứ ba, lần Mẹ Maria tiết lộ cho 3 em Bí Mật Fatima, các em đã bị rắc rối với chính quyền địa phương, đến nỗi các em đã không đến nơi hẹn hò với Mẹ vào đúng ngày. Riêng với gia đình của Thiếu Nhi Fatima Lucia lớn nhất mang thân phận “chấp nhận mọi đau khổ” còn bị đay nghiến bởi Biến Cố Thánh Mẫu Fatima này nữa, như những gì được chính Lucia thuật lại trong cùng Hồi Niệm Thứ Hai của chị sau đây:

--------“Trong nội bộ của gia đình con còn có một rắc rối mới nữa, với những lời trách móc đổ hết lên đầu của con. Đồi Cova da Iria là một mảnh đất thuộc sở hữu của cha mẹ con. Ở dưới lũng phì nhiêu hơn, chúng con trồng ngô, cỏ, đậu và các thứ rau khác. Trên sườn đồi có những cây dầu và những cây sồi. Giờ đây, từ ngày người ta bắt đầu kéo tới đó, chúng con đã không còn trồng cấy gì được nữa. Mọi sự đã bị chà đạp giầy xéo. Nhiều người cỡi lừa tới để cho thú vật của họ ăn hết những gì còn lại. Mẹ con đã thảm thiết về những gì bà mất mát nên đã nói với con rằng:

--------- Giờ đây nếu mày muốn ăn gì thì cứ đi xin Đức Bà mà ăn nhé!

--------Chị của con châm biếm thêm:

--------- Đúng đấy, mày có thể tìm thấy những gì trồng ở đồi Cova da Iria mà!

--------Những lời trách móc này làm con nhức nhối cả tâm can, đến nỗi con không dám cầm lấy miếng bánh mà ăn nữa. Để bắt con phải nói ra sự thật theo ý của bà, mẹ của con thường đánh con bằng những cán chổi hay bằng một cái roi ở đống gỗ gần lò sưởi. Thế rồi, đúng là một người mẹ, bà đã gắng phục hồi lại sức khỏe sa sút của con. Bà rất quan tâm tới con khi thấy con quá gầy còm xanh xao, sợ rằng con có thể ngã bệnh. Tội nghiệp cho bà! Thật vậy, bây giờ con đã hiểu được tình trạng thực sự của bà, tôi cảm thấy cảm thương bà biết bao! Bà thực đã nghĩ đúng khi cho rằng con bất xứng với một hồng ân như vậy, nên mới nghĩ là con nói dối.

--------Nhờ ơn đặc biệt Chúa ban, con không bao giờ có một chút xíu tư tưởng hay cảm giác bất mãn nào về cách bà cử xử với con. Như Thiên Thần đã báo cho con biết rằng Thiên Chúa sẽ gửi đau khổ đến cho con, con luôn thấy bàn tay Thiên Chúa nơi tất cả những điều này. Tình yêu, lòng cảm mến và kính trọng của con đới với bà tiếp tục tăng phát, như thể tôi được bà ưu ái nhất vậy. Giờ đây, tôi càng phải biết ơn bà vì việc bà đã đối xử với tôi như thế, hơn là bà tiếp tục dồn cho tôi những thứ chiều chuộng và âu yếm”.

--------Thiếu Nhi Fatima Lucia đã qua đời năm hưởng thọ gần 98 tuổi (22/3/1907- 13/2/2005).

--------Sự kiện vị nữ tu mang tên Lucia này sống lâu trên trần gian một cách hiếm có so với tuổi đời của con người hiện nay là vì sứ mệnh của chị được Mẹ Maria cho chị biết từ ngày 13/6/1917, đó là sứ mệnh: “Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”. Đó là lý do, như Mẹ tiết lộ cho chị hay là “Phanxicô và Giaxinta sẽ được đưa về trời sớm, còn con phải ở lại thế gian lâu hơn”. Và khi thấy chị tỏ ra buồn tủi lên tiếng: “Con phải ở lại đây một mình hay sao?”, Mẹ Maria liền an ủi chị rằng: “Đừng buồn, hỡi con gái của Mẹ. Con cảm thấy đớn đau lắm phải không? Đừng nản lòng. Mẹ sẽ không bỏ rơi con đâu. Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa”.

--------Thật vậy, chính vì ơn gọi riêng của Thiếu Nhi Fatima Lucia trong 3 em Thiếu Nhi Fatima năm 1917 là “chấp nhận mọi đau khổ”, mà em đã được liên kết với Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, một Trái Tim, như Mẹ an ủi em và hứa với em trở thành “nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa”.

--------Chính vì sứ mệnh của chị là “cần phải ở lại thế gian lâu hơn, vì Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”, mà chị đã hết sức nỗ lực để chu toàn sứ mệnh chuyên biệt của mình này, qua việc vận động để giáo quyền chấp nhận (ngày 13/9/1939) việc giữ các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng, việc xin Giáo Hội thành lập (ngày 4/5/1944) Lễ Kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ cho toàn thể hoàn vũ, và việc Đức Thánh Cha (ngày 25/3/1984) hiệp cùng hàng giáo phẩm hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Và cuối cùng, chị phải sống cho tới khi Bí Mật Fatima phần thứ ba được Tòa Thánh chính thức tiết lộ vào ngày 26/6/2000, vì chị chính là người đã viết ra phần Bí Mật Fatima này và đã xác nhận với Tòa Thánh tất cả những gì chị đã viết trước khi phần bí mật hằng được thế giới nóng lòng muốn biết này được tiết lộ.

--------Trong Lời Giới Thiệu Bí Mật Fatima phần thứ ba của Đức Tổng Giám Mục Bertone, chúng ta biết rằng Bí Mật Fatima phần thứ ba được chị Lucia viết ra ngày 3/1/1944, và bản chép tay duy nhất phần bí mật ấy đã được Đức Giám Mục địa phương Leiria niêm ấn trong một bao thư, và sau cùng đã được Tòa Thánh cất giữ trong Lưu Mật Viện ngày 4/4/1957. Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã đọc phần bí mật này ngày 17/8/1959, và Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng đã đọc phần bí mật ấy ngày 27/3/1965, song cả hai đều quyết định không công bố gì.

--------Thật thế, vì thấy rằng đã đến lúc thích hợp và cần thiết, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chẳng những cho công bố phần Bí Mật Fatima thứ ba này, (hé mở vào ngày 13/5/2000 tại Fatima qua Đức Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh), mà còn nhờ Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin giải thích rõ ràng phần bí mật này nữa. Tại sao? Phải chăng vì ngài là nhân vật chính trong phần Bí Mật Fatima còn lại này? Trong cuộc trao đổi với hai vị đại diện của Đức Thánh Cha ngày 27/4/2000, chị Lucia đã xác nhận vấn đề được đặt ra là: “Bộ mặt chính trong thị kiến phải chăng là Đức Giáo Hoàng?”

caoduc
15-09-2008, 09:58 AM
Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
về Chị Lucia trong Lễ An Táng của Chị


Kính gửi Huynh Khả Kính
Albino Mamede Cleto,
Giám Mục giáo phận Coimbra

-------Tôi rất xúc động khi nghe tin Chị Maria Lucia của Chúa Giêsu và Trái Tim Vô Nhiễm, vào tuổi 97, đã được Cha trên trời gọi về nơi trường sinh thiên đình. Như thế là chị đã đạt đến cùng đích chị luôn mong mỏi trong nguyện cầu và trong tĩnh lặng của viện tu.

-------Phụng vụ đã nhắc nhở chúng ta trong những ngày này rằng sự chết là gia sản chung của con cái Adong, thế nhưng đồng thời nó cũng bảo đảm với chúng ta rằng Chúa Giêsu, bằng hy tế thập giá, đã mở ra cho chúng ta cửa sự sống bất tử. Chúng ta nhớ lại những niềm xác tín này của đức tin vào lúc chúng ta vĩnh biệt con người nữ tu Carmêlô khiêm hạ và sốt mến này, con người đã tận hiến cuộc đời của mình cho Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế.

-------Việc Trinh Nữ Maria hiện ra mà nhỏ Lucia đã được thị kiến thấy ở Fatima cùng với các người em họ của mình là Phanxicô và Giaxinta năm 1917, đối với chị, là khởi điểm của một sứ vụ đặc thù được chị trung thành cho tới cuối đời của mình. Chị đã để lại cho chúng ta một tấm gương trung thành cao cả đối với Chúa cũng là tấm gương hân hoan gắn bó với ý muốn thần linh của Ngài.

-------Tôi cảm động nhớ đến những lần gặp gỡ chị và những liên hệ thân hữu thiêng liêng mỗi ngày một gia tăng. Tôi luôn luôn cảm thấy mình được nâng đỡ bởi việc chị nguyện cầu hằng ngày cho tôi, nhất là trong những giây phút gay go thử thách và khổ đau. Xin Chúa thưởng công cho nỗ lực của chị trong việc phục vụ cao cả và âm thầm chị làm cho Giáo Hội.

-------Tôi thích nghĩ rằng vị đón nhận Chị Lucia trong cuộc vượt qua từ trần gian đến thiên đình cũng chính là Đấng chị đã thấy ở Fatima rất nhiều năm trước đây. Chớ gì Vị Trinh Nữ Thánh này dìu linh hồn của người còn gái dấu yêu của Người đây đến cuộc hội ngộ diễm phúc với Vị Phu Quân thần linh.

-------Tôi xin ủy thác cho Huynh Đáng Kính công việc bày tỏ với các nữ đan sĩ Carmêlô ở Coimbra việc tôi chắc chắn gắn bó thiêng liêng với họ, và để họ được an ủi nội tâm trong giây phút chia lìa này, tôi ưu ái muốn ban một phép lành được gửi đến cho cả các gia đình, cho Huynh Khả Kính, cho ĐHY Tarcisio Bertone, đặc sứ của tôi, cũng như cho tất cả mọi người tham dự nghi thức an táng linh thánh này.

Vatican ngày 14/2/2005
Gioan Phaolô II

caoduc
17-09-2008, 08:32 AM
Thiếu Nhi Fatima Phanxicô



-------Trong Đạo Binh Dàn Trận của Đức Mẹ Mân Côi Fatima, nếu Thiếu Nhi Fatima Lucia lớn nhất đóng vai trò tiền đạo theo ơn gọi “chấp nhận mọi đau khổ” riêng của mình, như đã được trình thuật trong chương vừa rồi, thì Thiếu Nhi Fatima Phanxicô đóng vai trung đạo theo ơn gọi “đền tạ những xúc phạm” của mình.

-------Thật thế, Nếu Lucia thực hiện ơn gọi hy sinh của Thiếu Nhi Fatima bằng việc “chấp nhận mọi đau khổ” thế nào, thì Phanxicô cũng thực hiện ơn gọi hy sinh của Thiếu Nhi Fatima bằng việc “đền tạ những xúc phạm” như vậy. Theo Hồi Niệm Thứ Bốn của mình, chị Lucia đã cho chúng ta thấy hình ảnh một Phanxicô ngày xưa, ngày trước Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, thích ngồi ở một tảng đá trên đồi cao để thổi sáo, nhưng sau đó đã bỏ thói quen và sở thích lành mạnh của mình này, thậm chí bỏ cả những giây phút chơi đùa vui vẻ hữu ích với chị Lucia và em Giaxinta của mình để tìm chỗ cầu nguyện an ủi Đấng được em gọi là “Chúa Giêsu ẩn thân” của em. Sở dĩ em tự nhiên xu hướng về việc đền tạ và chú ý đến việc đền tạ nhất, đền tạ cả Chúa Giêsu Thánh Thể lẫn Mẹ của Người, là vì em bị cảm kích trước hình ảnh của gương mặt thảm sầu của Mẹ Maria khi Mẹ nói lời kết thúc Biến Cố Thánh Mẫu Fatima cũng là lời làm nên cốt lõi của Sứ Điệp Fatima: “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Ngài đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”.

-------Thật ra, theo lời Đức Mẹ nói, việc hiến mình hy sinh chịu mọi đau khổ của 3 Thiếu Nhi Fatima có hai mục đích rõ ràng, đó là,

-------thứ nhất, để đền tạ Thiên Chúa bị tội lỗi xúc phạm,

-------thứ hai, để cầu cho tội nhân ăn năn cải thiện đời sống.
-------Thế nhưng, đối với Phanxicô là Thiếu Nhi Fatima chú trọng đến Thiên Chúa hơn các tội nhân, thì mục đích thứ nhất vẫn quan trọng và khẩn thiết hơn. Hồi Ký Lucia 4 thuật lại điều này như sau:
-------“Ngày kia, con hỏi em: 'Phanxicô, điều nào em thích hơn, an ủi Chúa chúng ta hay cải hối các tội nhân để không một linh hồn nào phải xuống hoả ngục nữa?'. 'Em thích an ủi Chúa chúng ta hơn. Chị không để ý đến tháng vừa rồi Đức Mẹ của chúng ta buồn lắm sao, khi Người nói rằng người ta không được xúc phạm đến Chúa của chúng ta nữa, vì Ngài đã bị xúc phạm nhiều rồi? Em thích an ủi Chúa chúng ta rồi mới cải hối các tội nhân để họ đừng xúc phạm đến Ngài nữa.

-------“Có một lần, con và Giaxinta vào phòng của em, em nói với chúng con: 'Hôm nay đừng nói nhiều nghe vì em nhức đầu lắm đó. Giaxinta nhắc anh: 'Nhưng đừng quên dâng cầu cho tội nhân nghe'. 'Ừ. Nhưng anh phải dâng để an ủi Chúa chúng ta và Đức Mẹ của chúng ta trước đã, rồi sau đó mới dâng cho các tội nhân và Đức Thánh Cha'”.
-------Đền tạ, đối với Phanxicô, cũng như với Giaxinta và Lucia, trước hết ở tại việc hy sinh chịu mọi đau khổ Chúa gửi đến cho. Chị Lucia đã đề cập đến điều này như sau:
-------“Một ngày kia, khi con tỏ cho em biết rằng con bất hạnh là chừng nào khi bị những tấn công đầu tiên bắt nguồn từ cả trong gia đình lẫn bên ngoài, Phanxicô đã phấn khích con bằng những lời này: 'Không sao đâu! Đức Mẹ đã chẳng nói là chúng ta sẽ phải chịu nhiều đau khổ đó sao, để đền tạ Chúa của chúng ta và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Người, vì tất cả những tội lỗi mà các Ngài phải chịu? các Ngài buồn quá đi! Nếu chúng ta ủi an các Ngài bằng những chịu đựng này thì chúng ta sung sướng biết bao!'”
-------Riêng trường hợp của em, em đã chịu khổ để đền tạ như được chị Lucia thuật lại như sau:

-------“Trong khi bị bệnh, em lúc nào cũng tỏ ra vui vẻ và bằng lòng. Có những lần con hỏi em rằng:

-------- Phanxicô ơi em có đau lắm không?

-------- Đau lắm chị, nhưng không sao! Em đang chịu khổ để an ủi Chúa, để rồi sau đó, một thời gian ngắn nữa thôi, em sẽ về trời mà!

-------- Khi em lên đó rồi, đừng quên xin Đức Mẹ đem chị lên trên ấy sớm nhé.

-------- Em không xin điều đó đâu! Chị quá rõ là Người chưa muốn chị ở đó mà.

-------Trước khi em chết 1 ngày, em nói với con rằng:

-------- Chị coi! Em bệnh quá sức; giờ đây không còn lâu nữa em sẽ về trời.

-------- Vậy thì em hãy nghe đây. Khi em lên đó rồi, đừng quên cầu nguyện thật nhiều cho các tội nhân nhé, cho Đức Thánh Cha, cho chị và cho Giaxinta nữa.

-------- Vâng, em sẽ cầu nguyện. Thế nhưng, tốt hơn chị hãy xin Giaxinta cầu nguyện cho những điều này, vì em sợ rằng em sẽ quên mất khi em được thấy Chúa. Vào lúc ấy em chỉ muốn an ủi Chúa mà thôi”.

-------Phải, đền tạ, đối với Phanxicô, không những là hy sinh chịu khổ vì Chúa, còn chính là an ủi, là thông cảm với Chúa, Đấng đã bị xúc phạm và tỏ ra buồn sầu.
-------Phanxicô đã an ủi và thông cảm với Chúa là Đấng Quá Sầu Buồn ở chỗ thích sống gần gũi với Chúa. Đối với em, gần gũi, kề cận với Chúa Giêsu cũng là một việc cần thiết để an ủi Chúa. Do đó, hễ có dịp là Phanxicô tìm đến với Chúa Giêsu Thánh Thể mà em gọi là Chúa Giêsu Ẩn Thân. Chị Lucia kể lại rằng:

-------“Ngày kia, em ra khỏi nhà gặp con… Con bắt đầu đi đến trường, và trên đường đi, con đã nói với các người em họ của con về tất cả những điều này (cầu nguyện cho một người mẹ có đứa con trai bị tố cáo phạm tội có thể bị tù đầy, như bà này đã nhờ chị Têrêsa là chị ruột của Lucia xin Lucia cầu với Đức Mẹ cứu con của bà). Khi chúng con tới Fatima, Phanxicô nói với con rằng:

-------- Chị ơi! Trong khi chị đi đến trường, em sẽ ở lại với Chúa Giêsu Ẩn Thân, và em sẽ xin Người ban ơn ấy cho.

-------Tan học, con đến gọi em mà hỏi:

-------- Em có cầu xin Chúa ban cho ơn ấy không vậy?

-------- Có, em có cầu nguyện. Xin chị nói với chị Têrêsa rằng anh ấy sẽ được về nhà mấy ngày nữa.

-------Thật thế, mấy ngày sau, người con trai đáng thương ấy trở về. Vào ngày 13, anh ta và cả nhà đến tạ ơn Đức Mẹ về điều ấy.

-------Một lần khác, con nhận thấy là, sau khi chúng con đã rời nhà, Phanxicô bước đi rất chậm. Con hỏi em:

-------- Làm sao vậy. Em hầu như không thể bước đi nổi nữa rồi!

-------- Em bị nhức đầu quá đi, em cảm thấy sắp ngã đến nơi rồi nè.

-------- Vậy thì đừng đi nữa. Em hãy ở nhà đi!

-------- Em không muốn đâu. Em thích ở trong nhà thờ với Chúa Giêsu Ẩn Thân trong khi chị đi học”.

caoduc
17-09-2008, 08:37 AM
-------Đối với Phanxicô, đền tạ chẳng những ở tại việc hy sinh vì Chúa, gần gũi với Chúa, mà còn tránh làm bất cứ điều gì làm mất lòng Chúa nữa.
Chị Lucia thuật lại như sau:

-------“Khi thấy con bối rối và ngờ vực, em khóc và nói: 'Nhưng làm sao mà chị lại có thể cho rằng đó là việc của ma qủi? Chị không thấy là Đức Mẹ và Thiên Chúa ở trong ánh sáng cao vời đó sao? Không có chị làm sao chúng em tới đó được, vì chị là người đối đáp mà'. Đêm đó, sau khi dùng cơm tối, em đến nhà con, gọi con ra hiên nhà mà nói: 'Này! Mai chị không đi thật à?' 'Chị không đi thật mà. Chị đã bảo với các em là chị sẽ không trở lại đó nữa thây'. 'Thế thì xấu hổ thật! Tại sao bây giờ chị lại có thể nghĩ như vậy được? Chị không thấy rằng việc đó không thể nào là việc của ma qủi ư? Thiên Chúa đã buồn sầu vì bao tội lỗi đủ rồi, bây giờ chị không đi, Người lại còn buồn hơn nữa! Thôi, chị nói đi đi!'”
-------Riêng trường hợp của em, vì chuyên tâm an ủi Chúa, nên em cũng rất sợ làm điều mất lòng Người, như chị Lucia thuật lại như sau:

-------“Hôm ấy, ngay từ sáng sớm, chị Têrêsa của em đến tìm con.

-------- Chị hãy mau đến nhà của chúng em! Phanxicô nguy lắm rồi nên em muốn nói với chị điều gì đó.

-------Con vội vàng mặc quần áo đi ngay. Em xin mẹ em cũng như anh chị em hãy đi ra ngoài, vì em muốn xin con một điều bí mật. Họ đi ra rồi, em nói với con thế này:

-------- Em sẽ xưng tội để có thể rước Lễ rồi chết. Em xin chị nói cho em biết là chị có thấy em phạm bất cứ một tội nào chăng, rồi chị cũng đi hỏi cả Giaxinta cho em nữa xem nó có thầy em phạm lỗi gì không nhé.

-------Con trả lời em:

-------- Em đã không vâng lời mẹ em một ít lần khi bà bảo em ở nhà nhưng em đã bỏ nhà đi với chị hay bỏ đi trốn.

-------- Đúng thế. Em có nhớ đến nó. Vậy chị đi hỏi Giaxinta xem nó có nhớ điều gì khác nữa không.

-------Con ra đi, và Giaxinta, sau khi suy nghĩ một chút đã trả lời rằng:

-------- Xin chị nói với anh ấy rằng, trước khi Đức Mẹ hiện ra với chúng ta, anh ấy đã ăn cắp một xu của bố để mua một hộp nhạc của ông José Marto ở Casa Velha; và có lần bị những đứa con trai ở Aljustrel ném đá vào những đứa khác ở Boleiros, anh ấy cũng đã lấy đá ném họ nữa!

-------Khi con cho em biết điều em Giaxinta của em nói, em đã trả lời rằng:

-------- Em đã xưng những điều ấy rồi, nhưng em sẽ xưng lại nữa. Có thể vì những tội này của em mà Chúa đã quá buồn rầy! Cho dù em không chết đi nữa, em sẽ không bao giờ tái phạm những tội này nữa. Em hết sức đau lòng về những tội ấy”.

-------Chắp tay lại, em đã nguyện rằng: ‘Ôi Chúa Giêsu, xin Chúa tha tội chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn’”.


-------Phanxicô chẳng những để ý đền tạ Chúa Giêsu Ẩn Thân bằng việc hy sinh vì Chúa và gần gũi với Chúa, em còn để ý đến Mẹ Maria nữa, Đấng mà em cũng gọi là Đấng Quá Sầu Bi.
-------Hồi Ký Lucia 4 cũng đề cập đến điều này nơi Phanxicô: “Trong khi Giaxinta có vẻ chỉ quan tâm đến một điều là cải hối các tội nhân để cứu các linh hồn cho khỏi sa hỏa ngục, thì Phanxicô lại tỏ ra chỉ nghĩ đến an ủi Đức Mẹ, Đấng mà em cảm thấy quá sầu bi”.

-------Đối với cả Chúa Giêsu và Đức Mẹ mà em đều cho là Đấng quá Sầu Buồn, cũng như Giaxinta và Lucia, Phanxicô đã làm mọi sự có thể để hy sinh, như lời Thiên Thần dạy, với ý chỉ mà Đức Mẹ đã dạy các em vào lần hiện ra thứ ba, 13/7/1917: Hãy đọc nhiều lần, nhất là khi các con làm việc hy sinh: 'Ôi Chúa Giêsu, vì yêu Chúa, cho các tội nhân ăn năn hối cải và để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Tuy nhiên, đối với riêng Chúa Giêsu, để đền ạ Chúa, Phanxicô còn tìm dịp ở gần Chúa nữa. Cũng thế, đối với riêng Đức Mẹ, để đền tạ Người, Phanxicô cũng tìm dịp để lần hạt Mân Côi như Đức Mẹ đã dặn em vào lần hiện ra thứ nhất. Mỗi lần thấy vắng Phanxicô, Lucia và Giaxinta đi tìm gọi, thường thấy Phanxicô đang lẩn trốn đi cầu nguyện một mình, và thấy em giơ tràng hạt lên làm hiệu cho cả hai biết là Phanxicô đang lần hạt đấy.

-------Trong bài giảng phong Chân Phước cho Thiếu Nhi Phanxicô, người đã qua đời lúc gần 11 tuổi (11/6/1908-4/4/1919) tại Linh Địa Thánh Mẫu Fatima ngày 13/5/2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói (nhất là ở đoạn 2) về vị Á Thánh nam trẻ nhất Giáo Hội này như sau:

-------“Theo dự án thần linh, ‘một người nữ mặc mặt trời’ (Rev 12:1) từ trời xuống mặt đất này để viếng thăm các trẻ em diễm phúc của Chúa Cha. Bằng một giọng nói và con tim từ mẫu, Bà đã nói với các em rằng Bà xin các em hãy dâng mình làm vật hy sinh đền tạ, khi cho các em biết là Bà đã sẵn sàng dẫn các em đến với Thiên Chúa rồi. Thế nên, các em đã thấy một luồng ánh sáng phát ra từ bàn tay từ mẫu của Bà thấu vào nội tâm của các em, nhờ đó các em cảm thấy mình được chìm ngập trong Thiên Chúa, theo các con cho biết, như một người thấy mình trong gương soi vậy.

-------“Sau đó, Phanxicô, một trong ba trẻ em diễm phúc, đã than lên rằng: ‘Chúng ta nóng lên trong luồng ánh sáng là Thiên Chúa đó mà chúng ta không bị thiêu rụi đi. Thiên Chúa giống như cái gì nhỉ? Không thể nào nói được. Thật vậy, chúng ta không thể nào có thể nói cho người ta biết được’. Thiên Chúa: một ánh sáng bừng cháy mà không thiêu hủy. Moisen cũng đã có cùng một cảm nghiệm khi ông thấy Thiên Chúa trong bụi cây cháy; ông đã nghe thấy Thiên Chúa nói rằng Ngài quan tâm đến việc dân Ngài phải làm nô lệ nên đã quyết định nhờ ông giải cứu họ: ‘Ta sẽ ở cùng ngươi’ (x Ex 3:2-12). Những ai nhận được sự hiện diện này đều trở nên một nơi trú ngụ để thành một ‘bụi cây cháy’ của Đấng Tối Cao.

-------“Điều gây ấn tượng nhất và đã hoàn toàn chiếm đoạt Chân Phước Phanxicô là việc Thiên Chúa ở trong luồng ánh sáng vô tận đã thấu nhập tận thâm tâm ba em ấy. Thế nhưng, Thiên Chúa chỉ nói với một mình Phanxicô, như em cho biết, là Ngài “buồn biết bao”. Có một đêm kia, bố của em nghe thấy em thổn thức thì hỏi em tại sao em khóc; người con của ông liền trả lời rằng: “Con đang nghĩ đến Chúa Giêsu là Đấng rất buồn phiền vì các tội lỗi đã xúc phạm đến Người”. Em đã được thúc đẩy bởi một ước vọng duy nhất đó là “an ủi Chúa Giêsu và làm cho Người được vui” – thật lạ lùng về ý nghĩ của các trẻ em.

-------“Một cuộc biến đổi đã xẩy ra trong cuộc đời em, một cuộc đổi thay chúng ta có thể gọi là tận gốc rễ: một cuộc biến đổi hoàn toàn khác thường đối với trẻ nhỏ ở vào lứa tuổi của em. Em hăng say dấn mình vào cuộc sống thiêng liêng, được biểu lộ bằng việc chuyên tâm sốt sắng cầu nguyện, và đã đạt tới một thứ thần hiệp thực sự với Chúa. Cuộc sống thiêng liêng này thôi thúc em tiến đến việc thanh tẩy tâm linh bằng việc từ bỏ những thích thú riêng tư và ngay cả những trò chơi vô tội của thuở thiếu thời.

-------”Phanxicô không hề than phiền khi chịu đựng các đau đớn cả thể do bệnh nạn gây ra làm cho em phải chết. Để an ủi Chúa Giêsu, tất cả hầu như là quá ít đối với em, ở chỗ, em đã chết với một nụ cười trên môi. Bé Phanxicô đã có một ước vọng cả thể trong việc đền bồi những xúc phạm của các tội nhân, bằng việc nỗ lực sống tốt lành và hiến dâng các hy sinh và lời cầu nguyện. Đời sống của Giaxinta, đứa em gái của em, nhỏ hơn em gần hai tuổi, cũng được những cảm thức này tác động”.

caoduc
18-09-2008, 09:32 AM
Thiếu Nhi Fatima Giaxinta


-------Trong Đạo Binh Dàn Trận của Đức Mẹ Mân Côi Fatima, nếu Thiếu Nhi Fatima Lucia lớn nhất đóng vai trò tiền tuyến theo ơn gọi “chấp nhận mọi đau khổ” riêng của mình, và Thiếu Nhi Fatima Phanxicô đóng vai trung phong theo ơn gọi “đền tạ những xúc phạm” của mình, thì Thiếu Nhi Fatima Giaxinta đóng vai trò hậu tuyến theo ơn gọi “cầu cho tội nhân ăn năn trở lại” của mình.

-------Thật thế, nếu Lucia thực hiện ơn gọi hy sinh của Thiếu Nhi Fatima bằng việc “chấp nhận mọi đau khổ” thế nào, và Phanxicô cũng thực hiện ơn gọi hy sinh của Thiếu Nhi Fatima bằng việc “đền tạ những xúc phạm”, thì Giaxinta cũng thực hiện ơn gọi hy sinh bằng việc “cầu cho tội nhân ăn năn trở lại” như vậy.

-------Trong Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, nếu hình ảnh Mẹ Sầu Bi vào lần hiện ra cuối cùng 13/10/1917, đã ảnh hưởng đến tâm thần của Thiếu Nhi Fatima Phanxicô, khiến em chuyên chú vào việc đền tạ theo ơn gọi chuyên biệt của em, thì thị kiến hỏa ngục vào lần Mẹ hiện ra thứ ba 13/7/1917, đã làm cho Thiếu Nhi Fatima Giaxinta nhỏ nhất kinh hoàng khiếp đảm hết sức, đến nỗi em đã hăng say khao khát sống ơn gọi chuyên biệt của em là hy sinh “cầu cho tội nhân ăn năn trở lại” cùng Chúa. Ngoài những gì đã được đề cập đến riêng Giaxinta trong phần Hy Sinh là ơn gọi chung của 3 Thiếu Nhi Fatima ở bài “Fatima: Đạo Binh Dàn Trận – Ba Thiếu Nhi Fatima” (TTĐM 341, 5/2006), Giaxinta còn thực hiện nhiều việc hy sinh với mục đích rõ ràng là để cứu các tội nhân, như chị Lucia thuật lại trong Hồi Ký Thứ Nhất và Thứ Ba của chị.

-------“Hôm ấy chúng con đang chơi ở chỗ giếng nước con đã đề cập tới. Gần đó, có một cây nho của mẹ Giaxinta. Bà đã cắt một ít chùm để mang lại cho chúng con ăn. Nhưng Giaxinta không bao giờ quên các tội nhân cả. Em nói:

-------- Chúng ta sẽ không ăn những chùm nho này. Chúng ta hãy dâng hy sinh này để cầu nguyện cho các tội nhân.

-------Rồi em cầm những trái nho chạy đi cho những trẻ em khác đang chơi trên đường đi. Em trở về mặt mày hớn hở, vì em đã thấy các trẻ em nghèo của chúng con để trao cho họ những trái nho.

-------Lần khác, bà dì của con gọi chúng con lại để ăn những trái vả bà mang về nhà, và thật sự là những trái ấy ai ăn cũng cảm thấy ngon miệng. Giaxinta hớn hở ngồi xuống bên giỏ trái cây cùng với chúng con rồi cầm trái vả đầu tiên lên. Em gần ăn trái vả này thì sực nhớ lại đã nói:

-------- Đúng rồi! Hôm nay chúng ta chưa làm được một hy sinh nào cho các tội nhân hết! Chúng ta phải dâng hy sinh này.

-------Em bỏ trái vả lại giỏ trái cây để thực hiện việc hy sinh; cả chúng tôi cũng bỏ những trái vả vào giỏ để cầu nguyện cho các tội nhân ăn năn cải thiện đời sống. Giaxinta đã thực hiện nhiều hy sinh như thế rất là thường, nhưng con xin thôi không kể đến nữa kẻo con sẽ không bao giờ ngừng được.

-------Đó là cách Giaxinta đã sống hằng ngày của mình cho đến khi Chúa gửi đến cho em chứng bệnh cúm làm em phải nằm yên ở trên giường, cả anh Phanxicô của em cũng bị nữa. Tối hôm trước khi ngã bệnh, em đã nói rằng:

-------- Em cảm thấy nhức đầu quá đi và rất là khát nước! Thế nhưng em sẽ không uống nước, vì em muốn chịu khổ cho các tội nhân.

-------Tuy nhiên, Giaxinta đã khá hơn một chút. Em thậm chí đã có thể chỗi dậy và nhờ đó có thể bỏ cả ngày ra ngồi bên giường của Phanxicô. Một lần kia em nhắn con tới gặp em lập tức. Con chạy ngay lại. Em đã nói với con rằng:

-------- Đức Bà đã đến gặp em. Người bảo cho chúng ta biết rằng chẳng còn bao lâu nữa Người sẽ đến đem anh Phanxicô về trời, và Người hỏi em rằng em có còn muốn hoán cải các tội nhân hay chăng. Em đã nói rằng có. Người bảo em là em sẽ phải đi đến nhà thương, ở đó em sẽ chịu nhiều đau khổ; và em phải chịu khổ để hoàn cải các tội nhân, hầu đền tạ tội lỗi đã phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria và vì yêu Chúa Giêsu. Em hỏi Người là chị có đi với em không. Người nói là không, và đó là những gì em cảm thấy khó nhất. Người nói rằng mẹ em sẽ đưa em đi, rồi em sẽ phải ở lại đó một mình!

-------Nói xong em ngẫm nghĩ một chút rồi thêm:

-------- Giá chị có thể ở với em nhỉ! Chỗ khó nhất đó là đi không có chị…. Thế nhưng không sao! Em sẽ chịu vì yêu Chúa, để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, để cầu cho các tội nhân cũng như cho Đức Thánh Cha.

-------Vào lúc người anh của em về trời, em đã tỏ cho anh những lời nhắn gửi này:

-------- Anh hãy dâng lên Chúa và Mẹ tất cả tình yêu của em nhé, và thưa với các Ngài rằng em sẽ chịu khổ bao lâu các Ngài muốn, để cầu cho các tội nhân ăn năn hối cải cũng như để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.

-------Giaxinta đã hết sức đau khổ trước cái chết của Phanxicô. Em cảm thấy vô cùng thấm thía trong lòng một thời gian dài, đến nỗi nếu có ai hỏi em đang nghĩ gì thì em đáp: ‘Nghĩ về Phanxicô. Tôi hy sinh tất cả để mong gặp lại anh!’ Rồi em rướm nước mắt.

-------Ngày kia con nói với em rằng:

-------- Giờ đây chẳng còn bao lâu nữa em sẽ về trời. Thế còn chị thì sao đây!

-------- Tội nghiệp cho chị! Chị đừng có khóc! Em sẽ cầu thật nhiều cho chị khi em lên đó. Phần chị, đó là cách Đức Mẹ muốn chị phải sống. Nếu Người muốn điều ấy cho em, em sẽ hân hoan ở lại để chịu đau khổ hơn nữa cho các tội nhân.

-------Ngày Giaxinta phải đi nhà thương đã đến. Ở đó em thật sự đã phải chịu đựng rất nhiều. Khi mẹ em đến thăm em, bà hỏi em có cần gì chăng. Em nói rằng em muốn gặp con. Đây không phải là một điều dễ dàng đối với dì của con, song dì cũng đem con đi ngay khi có dịp. Vừa thấy con, em đã hớn hở ôm chầm lấy con, và nói với mẹ của em hãy đi mua đồ và để con lại với em. Con hỏi thăm em có khổ đau nhiều lắm chăng. Em đáp:

-------- Có chứ. Thế nhưng em dâng tất cả mọi sự để cầu cho các tội nhân cũng như để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.

-------Thế rồi, đầy nhiệt tình, em đã nói về Chúa và Đức Mẹ như sau:

-------- Ôi em yêu thích được chịu khổ vì yêu các Ngài biết bao, chỉ để làm cho các Ngài hài lòng mà thôi! Các Ngài rất yêu thương những ai chịu khổ cho các tội nhân ăn năn cải thiện đời sống.

-------Em được trở về nhà với cha mẹ em trong một thời gian. Em có một vết thương lớn ở ngực cần phải được chữa trị hằng ngày, nhưng em đã chịu đựng không hề phàn nàn hay tỏ ra một dấu hiệu khó chịu nào. Điều làm em khó chịu nhất là những cuộc viếng thăm thường xuyên và những câu hỏi của nhiều người đến thăm em, những người em không thể nào tránh né được nữa.

caoduc
18-09-2008, 09:35 AM
-------- Em cũng dâng cả những hy sinh này nữa để cầu nguyện cho các tôi nhân ơn ăn năn hối cải.

-------Có lần dì của con xin con một điều “Cháu hỏi xem Giaxinta nghĩ gì khi nó lấy tay ôm mặt bất động một lúc lâu. Dì đã hỏi nó nhưng nó chỉ mỉm cười không nói năng gì”. Con đã hỏi Giaxinta. Em trả lời con như sau:

-------- Em nghĩ đến Chúa, đến Đức Mẹ, đến các tội nhân, và đến… (em đề cập tới một số điều của Bí Mật). Em thích suy nghĩ.

-------Một lần nữa, Đức Trinh Nữ lại chiếu cố đến thăm Giaxinta, để nói với em về những thánh giá mới cùng những hy sinh mới đang chờ đợi em. Em đã cho con biết những điều ấy mà rằng:

-------- Đức Mẹ bảo em rằng em sẽ đi Lisbon tới một bệnh viện khác; rằng em sẽ không thấy chị nữa, cũng chẳng được thấy cha mẹ em nữa, và sau khi đã chịu nhiều đau khổ, em sẽ chết cô đơn một mình. Thế nhưng Người nói rằng em không cần gì phải sợ hãi, vì chính Người đến đem em về trời.

-------Em đã ôm ghì lấy con mà khóc:

-------- Em sẽ không bao giờ được thấy chị nữa! Chị sẽ không đến đó thăm em. Ôi xin chị cầu nguyện nhiều cho em, vì em sẽ bị chết cô đơn một mình!

-------Giaxinta đã chịu đựng kinh khủng cho tới ngày em lên đường đi Lisbon. Em cứ gắn liền lấy con mà khóc nấc lên:

-------- Em sẽ không bao giờ được thấy chị nữa! Không bao giờ được thấy mẹ em nữa, các anh của em nữa, cha của em nữa! Em sẽ không bao giờ được thấy mọi người nữa! Thế rồi em sẽ chết lủi thủi một thân một mình.

-------Một hôm con khuyên em:

-------- Em đừng nghĩ đến nó nữa.

-------Em trả lời:

-------- Hãy để em nghĩ đến nó, vì càng nghĩ em càng khổ, song em muốn chịu khổ vì yêu Chúa và cho các tội nhân. Dù vậy, em cũng không sao! Đức Mẹ sẽ đến đó để đưa em về trời.

-------Có những lúc em hôn và ôm cây thánh giá mà than lên rằng: “Ôi Chúa Giêsu ơi! Con yêu Chúa, và con muốn chịu khổ thật nhiều vì yêu Chúa”. Em rất thường hay nói rằng: “Ôi Chúa Giêsu! Giờ đây Chúa có thể hoán cải nhiều tội nhân, vì đây thật sự là một hy sinh to lớn!”

-------Cuối cùng ngày em phải bỏ nhà đi Lisbon đã đến (21/2/1920). Thật là một cuộc giã biệt đoạn trường. Em đã ôm chặt lấy con rất lâu mà khóc nấc lên:

-------“Chúng ta sẽ không bao giờ được thấy nhau nữa! Xin chị cầu nguyện nhiều cho em cho đến khi em về trời. Bấy giờ em sẽ cầu nguyện cho chị. Chị đừng bao giờ nói Bí Mật ấy cho bất cứ một ai nghe, dù họ có giết chị đi nữa. Chị hãy yêu mến Chúa Giêsu và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria thật nhiều, và hãy kiếm nhiều hy sinh cho các tội nhân”.

-------Trong bài giảng phong Chân Phước cho Thiếu Nhi Giaxinta, người đã qua đời lúc gần 10 tuổi (11/3/1910-20/2/1920) tại Linh Địa Thánh Mẫu Fatima ngày 13/5/2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói về vị Á Thánh nữ trẻ nhất Giáo Hội này (ở đoạn 4) như sau:

-------“Bé Giaxinta đã cảm được và nghiệm thấy nơi bản thân mình nỗi sầu thương của Đức Mẹ, bằng việc anh hùng hiến mình như một vật hy sinh cho các tội nhân. Một ngày kia, khi em và Phanxicô bị bệnh làm cho các em phải nằm giường, Đức Maria đã đến thăm các em ở nhà, như bé gái thuật lại: ‘Đức Mẹ đã tới thăm chúng con và nói rằng chẳng mấy chốc nữa Người sẽ đến mang Phanxicô về trời. Và Người hỏi con có muốn hoán cải các tội nhân hơn nữa không. Con thứa Người là có’. Rồi tới lúc Phanxicô ra đi, nhỏ gái nói với anh mình rằng: ‘Xin anh cho em gửi lời chào Chúa và Đức Mẹ nhé, và thưa cùng các Ngài rằng em đang chịu đựng mọi sự các Ngài muốn để cầu cho các tội nhân ăn năn cải thiện đời sống’. Giaxinta đã bị kích động sâu xa bởi thị kiến hỏa ngục vào lần Đức Mẹ hiện ra 13/7, đến nỗi không một việc hy sinh hãm mình hay đền tội nào là quá sức đối với em trong việc cứu lấy các tội nhân.

-------“Em có thể xứng đáng cùng với Thánh Phaolô kêu lên rằng: ‘Tôi hân hoan trong những nỗi đớn đau tôi phải chịu vì anh em, và trong xác thịt của mình, tôi làm trọn những gì còn thiếu nơi những khổ nạn của Chúa Kitô phải chịu vì thân thể của Người là Giáo Hội’ (Col 1:24). Chúa Nhật vừa qua, tại Hí Trường Colosseum ở Rôma, chúng ta đã tưởng niệm rất nhiều chứng nhân đức tin thuộc thế kỷ 20, bằng cách nhớ lại những hoạn nạn họ đã phải chịu với những chứng từ sáng tỏ họ để lại cho chúng ta. Đám mây vô vàn các vị tử đạo đức tin can trường đã lưu lại cho chúng ta một di sản phải được tiếp tục bảo tồn trong thiên niên thứ ba. Ở Fatima đây, nơi đã báo trước cho thấy những lúc hoạn nạn này và đã được Đức Mẹ lên tiếng xin cầu nguyện cùng thống hối để rút ngắn chúng lại, hôm nay Tôi xin cám ơn trời cao về chứng từ mãnh liệt đã được tỏ ra qua tất cả những cuộc sống ấy. Một lần nữa, Tôi chúc tụng lòng lành Chúa đã thương cứu Tôi thoát chết sau khi bị trọng thương ngày 13/5/1981. Tôi cũng muốn nói lên lòng tri ân của Tôi đối với Chân Phước Giaxinta về những hy sinh và lời cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, vị mà Chân Phước đã thấy trước là phải chịu đau khổ rất nhiều”.

caoduc
19-09-2008, 10:45 AM
Đạo Binh Dàn Trận

Đức Gioan Phaolô II



Vị Giáo Hoàng “Totus tuus”

-----------Theo người viết thì Thời Điểm Fatima có liên quan trực tiếp và đặc biệt đến bản thân Đức Gioan Phaolô II, qua ít là 3 sự kiện nổi bật sau đây.

-----------Sự kiện thứ nhất, đó là biến cố ngài bị ám sát vào ngày 13/5/1981, ngày Mẹ Maria hiện ra lần đầu tiên ở Fatima năm 1917, và ngài đã cảm nhận được Mẹ Maria đã cứu ngài, nên ngài đã sang Linh Địa Fatima hai lần, lần nhất vào năm 1982, dịp kỷ niệm 1 năm sau khi bị ám sát, và lần hai vào năm 1991, dịp kỷ niệm 10 năm sau khi bị ám sát, (chưa kể lần thứ ba vào Đại Năm Thánh 2000 để phong Chân Phước cho Thiếu Nhi Fatima Phanxicô và Giaxinta). Trong tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (ấn bản Anh ngữ 1994, trang 130,131-132), ngài trả lời vấn nạn “phải chăng Thiên Chúa đã nhúng tay vào việc sụp đổ của Cộng sản?” như sau:

-----------"Chúng ta phải nói sao về 3 trẻ ở Fatima, những em nhỏ, ngay trước cuộc bùng nổ của Cách Mạng Tháng Mười, đột nhiên nghe thấy rằng: 'Nước Nga sẽ trở lại' và 'Cuối cùng, Trái Tim Mẹ sẽ thắng'...? Chúng không thể nào tạo ra những tiên đoán này. Chúng không biết đầy đủ về lịch sử hay địa dư, cũng không biết về những biến chuyển trong xã hội cũng như những phát triển về ý thức hệ. Thế mà, việc đã xẩy ra đúng như chúng đã nói. Có thể đây cũng là lý do tại sao mà một vị Giáo Hoàng từ 'một xứ sở xa xôi' đã được kêu gọi đến, đó có thể là lý do tại sao cần phải có một cuộc cố sát xẩy ra tại Công Trường Thánh Phêrô ngay vào ngày 13-5-1981, ngày kỷ niệm biến cố hiện ra lần thứ nhất ở Fatima - để tất cả mọi sự được trở nên thông suốt và thấu đáo, để tiếng của Thiên Chúa nói trong lịch sử loài người qua những 'dấu chỉ thời đại' có thể dễ nghe và dễ hiểu hơn".
-----------Sự kiện thứ hai, đó là biến cố ngài đọc Bí Mật Fatima phần thứ ba, sau khi bị ám sát, và từ đó ngài cảm thấy hình ảnh “vị giám mục mặc áo trắng” trong phần Bí Mật Fatima thứ ba này chính là ngài, để rồi ngài đã tích cực đáp ứng lời yêu cầu của Trời Cao trong việc hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ 3 lần, như bài Thời Điểm Maria lần trước đã đề cập tới, “lần 1 vào ngày 7/6/1981 ở Đền Thờ Đức Bà Cả, lần 2 ngày 13/5/1982 ở chính Linh Địa Thánh Mẫu Fatima, và lần 3 vào ngày 25/3/1984 ở ngay Giáo Đô Vatican kết Năm Thánh Cứu Chuộc”. Hôm Thứ Tư 24/3/2004, ngài đã dùng buổi triều kiến chung hằng tuần này để nhắc lại mục đích của việc Ngài tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ 20 năm trước đây, vào dịp kết thúc Năm Thánh Cứu Chuộc, 25/3/1984, như sau:
-----------“Tôi đặc biệt nhớ đến ngày 25/3 năm 1984, Năm Thánh Cứu Chuộc. Hai mươi năm đã qua đi từ ngày ở Quảng Trường Thánh Phêrô, hiệp nhất về tinh thần với tất cả các giám mục trên thế giới được ‘triệu tập’ trước đó, Tôi đã hiến dâng tất cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria để đáp ứng lời yêu cầu của Đức Mẹ ở Fatima”.
-----------Sự kiện thứ ba, đó là việc ngài nhận khẩu hiệu Giáo Hoàng “totus tuus” từ cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của Thánh Long Mộng Phố và theo Linh Đạo Thánh Mẫu của t ác phẩm nổi tiếng này, như ngài đã thú nhận trong tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (ấn bản Anh ngữ 1994, trang 212-215) và trong cuốn “Tặng Ân và Mầu Nhiệm” (ấn bản Anh ngữ trang 28-30). Trong Thư ngày 8/12/2003 gửi Gia Đình Dòng Montfort do Thánh Long Mộng Phố sáng lập nhân dịp kỷ niệm 160 năm (1843-2003) xuất bản tác phẩm Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, ngài đã xác nhận như sau:
-----------“Hai chữ này diễn tả việc hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu qua Mẹ Maria: ‘Tuus totus ego sum, et omnia mea tua sunt’, Thánh Louis Marie đã viết như thế, và ngài đã chuyển dịch câu này theo ngôn từ của ngài như sau: ‘Ôi Chúa Giêsu chí ái, qua Mẹ Maria là Người Mẹ rất thánh của Chúa, toàn thân con thuộc về Chúa, và tất cả những gì con có đều là của Chúa’ (Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 233). Giáo huấn của vị Thánh này đã có một tầm ảnh hưởng sâu xa về việc sùng kính Thánh Mẫu nơi nhiều tín hữu cũng như nơi cuộc đời của tôi”.
Vị Giáo Hoàng “Đừng sợ”
-----------Đức Gioan Phaolô II, ngoài việc cho biết nguồn gốc khẩu hiệu giáo phẩm của ngài là “Totus Tuus” xuất phát từ Linh Đạo Thánh Mẫu của Thánh Long Mộng Phố, ngài còn cho biết thêm một chi tiết hết sức quan trọng nữa, một chi tiết chẳng những liên quan tới chủ đích của việc ngài chọn khẩu hiệu “Totus Tuus”, mà còn cho thấy tác hiệu vô cùng mãnh liệt của khẩu hiệu này nơi giáo triều của ngài, một giáo triều được mở màn bằng lời ngài kêu gọi thế giới “Đừng sợ!” trong Thánh Lễ Đăng Quang của ngài hôm Chúa Nhật 22/10/1979, một lời kêu gọi, theo ngài, liên quan đến cả vai trò hiện đại của Mẹ Maria cũng như đến Fatima. Trong cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (ấn bản Anh ngữ, trang 220-221), ngài đã thành thật bày tỏ niềm cảm nhận đầy xác tín của ngài như thế (những chỗ in đậm ở đây và sau đó là do người viết tự ý muốn nhấn mạnh):
-----------“Đến đây, một lần nữa, chúng ta cần trở lại với Totus Tuus. Nơi những câu hỏi trước đây của bạn về Người Mẹ của Thiên Chúa cũng như về nhiều mạc khải tư đã xẩy ra, nhất là trong hai thế kỷ vừa qua, tôi đã giải đáp bằng việc giải thích lòng tôn sùng Mẹ Maria đã phát triển ra sao nơi cuộc sống của bản thân tôi, bắt đầu từ tỉnh lỵ tôi sinh sống, đến đền thánh Kalwaria, sau cùng là tới Jasna Góra. Jasna Góra đã thuộc về lịch sử của quê hương tôi trong thế kỷ thứ 17, như một thứ ‘Đừng sợ!’ được Chúa Kitô nói qua môi miệng của Mẹ Người. Vào ngày 22/10/1978, khi tôi thừa kế Tác Vụ của Thánh Phêrô ở Rôma, thì đó chính là cái cảm nghiệm và lòng tôn sùng Mẹ Maria nơi đất nước của tôi, những gì tôi đã mang theo mình hơn bất cứ một cái gì khác.

-----------“’Đừng sợ!’ Chúa Kitô nói với các vị tông đồ (x Lk 24:36) cũng như nói cùng các người phụ nữ (x Mt 28:10) sau khi Phục Sinh. Theo các Phúc Âm thì những lời này không được ngỏ cùng Mẹ Maria. Đức tin của Mẹ mãnh liệt, Mẹ không biết sợ. Việc Mẹ Maria thông dự vào cuộc vinh thắng của Chúa Kitô đã sáng tỏ đối với tôi trước hết từ cảm nghiệm của dân tộc tôi. Đức Hồng Y Stefan Wyszynski đã nói với tôi rằng vị tiền nhiệm của ngài là Đức Hồng Y August Hlond, đã nói những lời tiên tri này trước khi chết: ‘Nếu có được một cuộc chiến thắng thì cuộc chiến thắng này xẩy ra nhờ Mẹ Maria’. Trong khi thi hành thừa tác mục vụ của mình ở Balan, chính tôi thấy được rằng những lời này xẩy ra đúng biết bao.

.-----------“Sau khi được bầu làm Giáo Hoàng, lúc tôi có liên hệ hơn nữa với các vấn đề của Giáo Hội hoàn vũ, tôi đã tiến đến chỗ có cùng một niềm xác tín như thế: Ở tầm cấp hoàn vũ này, nếu có được cuộc chiến thắng nào thì đều là những cuộc chiến thắng được Mẹ nhúng tay vào. Chúa Kitô sẽ chiến thắng qua Mẹ, vì Người muốn các cuộc chiến thắng của Giáo Hội hiện nay và tương lai đều liên hệ với Mẹ.

-----------“Tôi có được niềm xác tín này cho dù tôi không biết nhiều về Fatima. Tuy nhiên, tôi có thể thấy rằng có một sự liên tục nào đó giữa La Salette, Lộ Đức và Fatima – và trong quá khứ trước nữa, với cả Jasna Góra Balan nước tôi nữa.

-----------“Vậy là chúng ta tiến đến với ngày 13/5/1981, ngày tôi bị đã thương bởi những viên đạn bắn vào người ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Mới đầu, tôi không để ý tới sự kiện là cuộc cố sát này đã xẩy ra vào ngay ngày kỷ niệm Mẹ Maria hiện ra với 3 thiếu nhi Fatima ở Bồ Đào Nha và nói với các em những lời mà giờ đây, vào cuối thế kỷ này, dường như đã gần được nên trọn.

-----------“Qua biến cố ấy, không phải hay sao, Chúa Kitô có lẽ muốn nói lại một lần nữa rằng: ‘Đừng sợ’? Không phải hay sao, Người đã lập lại lời huấn dụ Phục Sinh ấy cho vị Giáo Hoàng này, cho Giáo Hội, và một cách gián tiếp cho toàn thể nhân loại?”.

yeuthuongvaphucvu_89
27-04-2009, 01:05 AM
Bí Mật Fatima thứ ba do chính chị Lucia viết ra


ngày 3 tháng 1 năm 1944




Trước hết chúng ta hãy đọc nguyên văn bản dịch về Bí Mật Fatima thứ ba, do chính chị Lucia viết ra, ngày 3 tháng 1 năm 1944, như sau:
Con viết ra trong sự vâng lời Ngài, lạy Thiên Chúa của con, Ngài ra lệnh cho con làm việc nầy qua Ðức Giám Mục của giáo phận Leiria, và qua Ðức Maria, Mẹ Chúa và là Mẹ của con.
Sau hai phần (bí mật Fatima I và II ) mà con đã nói ra, chúng con đã nhìn thấy phía bên trái của Ðức Mẹ, và hơi cao hơn một chút, một Thiên Thần cầm một gươm lửa nơi tay trái; gươm nầy chớp sáng và chiếu ra những tia lửa dường như thể muốn đốt rụi thế giới; nhưng những tia lửa nầy bị tắt đi, khi gặp phải ánh sáng phát ra từ tay phải của Ðức Mẹ chỉ về phía Thiên Thần; Tay mặt của vị Thiên Thần chỉ vào trái đất, và vị Thiên Thần nói lớn: Ðền tội, Ðền tội, Ðền tội! Và chúng con đã nhìn thấy trong một ánh sáng bao la là Thiên Chúa: "một cái gì giống như thể người ta xuất hiện trong tấm gương khi họ đi ngang qua nóù" một vị Giám Mục mặc Áo trắng, "chúng con có cảm giác như thể đó chính là Ðức Thánh Cha". Nhiều vị giám mục khác nữa, những Linh Mục, những tu sĩ nam nữ, đang leo lên một núi dốc cao, trên chóp núi nầy có một cây Thập Giá lớn có thân sần sù, giống như thể bằng cây sồi có võ cứng; trước khi lên đến nơi, Ðức Thánh Cha đi ngang qua một thành phố lớn phân nửa đã bị tàn phá và phân nửa bị rung động, ÐTC bước đi run rẩy, chịu đau đớn và sầu muộn, Ngài cầu nguyện cho những linh hồn của các người chết mà ngài gặp trên đường; khi lên đến chóp núi, quỳ gối phủ phục dưới chân Thập Giá lớn, ngài bị giết bởi một toán lính cầm súng bắn vào ngài và phóng các mủi tên vào ngài; và cũng bằng cách thức như vậy, hết người nầy đến người khác, các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và nhiều giáo dân thuộc hàng ngủ và địa vị khác nhau, cũng lần lượt bị giết chết nơi đó. Bên dưới hai cánh của Thập Giá, có hai Thiên Thần, mỗi vị cầm nơi tay một bình thủy tinh, trong đó các vị hứng máu của những người tử đạo, và dùng máu nầy rảy lên các linh hồn đang tiến lên gần Thiên Chúa.
Ðó là nguyên văn của phần thứ ba của Bí Mật Fatima, (Bí Mật Fatima thứ ba), được Bộ Giáo Lý Ðức Tin công bố trong Tập Tài Liệu có tựa đề là "Sứ Ðiệp Fatima", dày khoảng 40 trang, được giới thiệu cho báo chí trưa thứ Hai 26 tháng 6/2000. Tập Tài liệu nầy được phổ biến bằng bảy thứ tiếng.
Nội dung của Tập Tài Liệu nầy gồm có những bài như sau:
1. Lời Nhập Ðề của Ðức TGM Tarcisio Bertone, Tổng thư ký của Bộ Giáo Lý Ðức Tin.
2. Bản văn ghi lại Bí Mật Fatima thứ nhất và thứ hai, (phần I và II của Bí Mật Fatima), như được chị Lucia viết trong "Tập Ký Ức Thứ Ba", ngày 31 tháng 8 năm 1941, cho Ðức Giám Mục giáo phận Leiria-Fatima.
3. Bản Văn Bí Mật Fatima thứ ba (phần thứ III của Bí mật Fatima).
4. Bức Thơ của ÐTC Gioan Phaolô II gởi cho chị Lucia, ngày 19 tháng 4 năm 2000, trong đó ÐTC nói là ngài sai ÐTGM Bertone đến gặp chỉ để hỏi thêm về những điều có liên hệ đến việc giải thích "Bí Mật Fatima thứ ba".
5. Bản Văn ghi lại cuộc trao đổi giữa Ðức TGM Bertone và chị Lucia, ngày thứ Năm 27 tháng 4 năm 2000, tại tu viện Camêlo ở COIMBRA, với sự hiện diện của Ðức Giám Mục giáo phận Leiria Fatima.
6. Lời công bố của ÐHY Sodano, về Bí Mật Fatima thứ ba, vào cuối Thánh lễ Phong Chân Phước cho Phanxicô và Giaxinta, tại Fatima ngày 13 tháng 5 năm 2000.
7. Bài Chú Giải Thần Học của ÐHY Ratzinger, Tổng Trưởng Bộ Giáo Lý Ðức Tin, để giúp hiểu Bí Mật thứ ba.
Vài điểm căn bản đã được nêu ra trong buổi Họp Báo
Trưa Thứ Hai ngày 26 tháng 6/2000 về bí mật Fatima thứ ba
Bản văn "Phần III của Bí Mật Fatima" (Bí Mật Fatima thứ ba), đã được chị Lucia viết ra, bằng tiếng Bồ Ðào Nha. Chị là một trong ba trẻ mục đồng đã được thấy Ðức Mẹ hiện ra tại Fatima, hiện còn sống trong tu viện Camêlô ở COIMBRA, bên Bồ Ðào Nha. Nội dung của phần III nầy, cũng như của phần I và II, của Bí mật Fatima, đã được Ðức Mẹ cho cả ba trẻ "Lucia, Phanxicô và Giaxinta" nhìn thấy, trong lần hiện ra ngày 13 tháng 7 năm 1917.
Phần I và II của Bí Mật Fatima đã được chị Lucia viết ra ngày 31 tháng 8 năm 1941. Và phần III của Bí mật Fatima, được chị viết ra ngày 3 tháng Giêng năm 1944
Trong phần nhập đề của Tập Tài liệu công bố Bí Mật Fatima, ÐTGM Bertone cho biết là "Bí Mật Fatima thứ ba nầy" đã được Ðức Giám Mục Giáo Phận LEIRIA-FATIMA cất giữ trong vòng 13 năm, trước khi được gởi đến Vatican ngày 4 tháng 4 năm 1957.
Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã đọc Bí Mật Thứ Ba nầy ngày 17 tháng 8 năm 1959; và Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã đọc qua Bí Mật nầy ngày 27 tháng 3 năm 1965; nhưng cả hai vị Giáo Hoàng nầy đã quyết định không công bố. Ðức Gioan Phaolô II quan tâm đến Bí Mật thứ III nầy sau khi ngài bị mưu sát ngày 13 tháng 5 năm 1981. Ngày 13 tháng 7 năm 1981, Vị Tổng Trưởng bộ Giáo Lý Ðức Tin lúc đó là ÐHY Franjo Seper, đã trao cho ÐTC Gioan Phaolô II, hai bao thơ, một có đựng nguyên bản văn Bí Mật Fatima III do chị Lucia viết ra, và một chứa bản dịch Bí Mật thứ III sang tiếng Ý.
Ngày 12 tháng 5 năm 1982, chị Lucia đã đích thân viết thơ cho ÐTC Gioan Phaolô II -- bức thơ nầy đến nay chưa được công bố, nhưng giờ đây được công bố trong tập tài liệu nầy - trong đó chị nói đến những gì có thể giúp cho việc giải thích Bí Mật Fatima thứ ba.
Ðiểm đặc biệt chúng ta có thể lưu ý trong Tập Tài Liệu công bố Bí mật Fatima, là cả ba bản văn ghi lại ba phần của Bí mật Fatima, ngoài hình thức in chữ, còn được in trong thể thức "chụp hình nguyên bản viết tay của Chị Lucia". Như thế, chúng ta có ba bản in chụp hình ba nguyên bản viết tay của chị Lucia: bản viết tay thứ nhất vào năm 1941, ghi lại phần I và II của Bí Mật Fatima; bản viết tay thứ hai vào năm 1944, ghi lại phần III của Bí mật Fatima; và bản viết tay thứ ba là bức thơ của chị Lucia gởi cho ÐỨC Gioan Phaolô II, ngày 12 tháng 5 năm 1982.
Trong lần trao đổi với chị Lucia hôm 27 tháng 4/2000, Ðức TGM Bertone, đã hỏi chị Lucia tại sao chị ghi bên ngoài bì thư lưu giữ Bí Mật Thứ III, được viết ra năm 1944, rằng bí mật thứ III nầy chỉ có thể được mở ra sau năm 1960 mà thôi, thì chị Lucia đã trả lời như sau: "Chính tôi đã đề ra thời điểm năm 1960; bởi vì, theo trực giác của tôi, trước thời điểm năm 1960, người ta có lẽ không hiểu được bí mật nầy; người ta có lẽ hiểu được chỉ sau năm 1960. Bây giờ người ta có thể hiểu rõ hơn. Tôi đã viết ra điều tôi đã thấy; việc giải thích bí mật nầy không phải là việc của tôi, nhưng là việc của Ðức Thánh Cha".
Trong cuộc họp báo trưa thứ Hai 26 tháng 6/2000, ÐHY Ratzinger đã nhận định rằng: "Bí Mật Fatima thứ ba" là "tổng hợp thật sâu xa của một lịch sử câu chuyện đi xa hơn cuộc mưu sát ngày 13 tháng 5 năm 1981". Theo giải thích của ÐHY Ratzinger, thì việc Bí Mật III nhắc đến cái chết của ÐTC, của các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, là một ám chỉ cách chung đến lịch sử cuộc bách hại của những chế độ vô thần chống lại nhân loại và chống lại những người kitô thế kỷ thứ 20. ÐHY cho biết rằng ngài chia sẻ xác tín với ÐTC Gioan Phaolô II rằng cuộc mưu sát ngày 13 tháng 5 năm 1981 là một cao điểm của cuộc bách hại nầy.
Tuy nhiên, ÐHY lưu ý rằng người ta không nên đọc bí mật Fatima một cách quá "lịch sử". Những biến cố được loan báo trong Bí mật Fatima không phải là như một cuồn phim "ghi lại tương lai", nhưng giải thích khả thể có thể có (potentialité) của lịch sử, vừa đồng thời cũng mở ngỏ cho những điều khác có thể xảy ra. Tự do quyết định và hành động của con người vẫn luôn còn đó. Vì thế, không nên hiểu "bí mật Fatima" như một thứ định mệnh mù quáng, dường như thể "mọi việc bị bắt buộc phải xảy ra như vậy", và không còn có thể quy trách cho những cá nhân đã tự do gây ra sự việc nữa. Sứ điệp Fatima muốn nhắc đến cách chung những đau khổ của nhân loại, và mang đến một câu trả lời có thể cho những đau khổ đó, vừa gây ý thức rằng "sức mạnh của tình yêu còn mạnh hơn sức mạnh của sự dữ, và rằng "cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng". Sỡ dĩ các Ðức Giáo Hoàng Gioan 23 và Phaolô VI đã không muốn công bố Bí mật Thứ Ba của Fatima, là vì các ngài đã có thái độ thận trọng. Lúc đó đã có những dự đoán, những xách dộng lèo lái... vì thế cần thận trọng. Rồi với thời gian qua đi, ý nghĩa chung của bí mật được sáng tỏ từ từ. Lễ Phong Chân Phước cho Phanxicô và Giaxinta, và thời điểm kết thúc Thế Kỷ 20 là những dịp thuận tiện để công bố Bí Mật Fatima.
Cuối cùng, ÐHY Ratzinger đã lưu ý đến vai trò quan trọng của Mẹ Maria trong lịch sử cứu rỗi, cũng như trong lịch sử con người. Hai yếu tố cột trụ của lịch sử nhân loại, mà chúng ta không thể bỏ qua được, đó là "hành động của Thiên Chúa và sự đồng trách nhiệm của con người có tự do, một sự tự do có thể gây thảm họa nhưng đồng thời cũng là một sự tự do có thể làm trổ sinh những hoa trái tốt.
Trong bài "chú giải thần học" được đăng trong Tập Tài Liệu giới thiệu "Sứ Ðiệp Fatima", ÐHY Ratzinger đã trình bày vài quan niệm nền tảng để hiểu đúng "Bí mật Fatima". ÐHY nhắc đến trước hết sự phân biệt giữa hai loại mạc khải của Thiên Chúa cho con người, mạc khải chung công khai, và mạc khải riêng cho cá nhân.
Mạc Khải Công Khai được tích chứa trong Kinh Thánh và đã kết thúc. Những gì được tích chứa trong Mạc Khải công khai nầy đều bắt buộc ta phải tin. Còn Mạc khải riêng thì quy hướng về mạc khải công khai, và là một trợ giúp để hiểu thêm về mạc khải công khai. Tuy mạc khải riêng không có tính cách bắc buộc phải tin như mạc khải công khai, nhưng các tín hữu cũng không nên coi thường nó.
Quan niệm nền tảng thứ hai được nhắc đến là quan niệm về lời nói tiên tri. "Lời tiên tri" không hẳn là lời nói trước về tương lai, nhưng đúng hơn là lời "giải bày Thánh Ý của Thiên Chúa cho hiện tại, và như thế nêu chỉ cho ta biết con đường ngay thẳng để tiến đến tương lai". Trong những mạc khải riêng tư, được Giáo Hội nhìn nhận, chẳng hạn như những mạc khải của Bí Mật Fatima, thì điều được nhắm đến là giúp chúng ta hiểu được những dấu chỉ của thời đại và gặp được câu trả lời đúng cho những dấu chỉ đó, trong đức tin.
Quan niệm nền tảng thứ ba là về những thị kiến. Những "Thị Kiến" ở đây không phải là những "nhìn thấy bình thường ngoại tại của giác quan", cũng không phải là "cái nhìn thuần túy trí thức" (sự lĩnh hội trí thức), nhưng là như một tổng hợp, giữa "nhìn thấy giác quan và lĩnh hội nội tâm". Những thị kiến nầy không phải là như "những bức chụp hình" của điều gì nằm ở bên kia, cũng không phải là những "biểu lộ của sự tưởng tượng mờ ảo".
Áp dụng vào trong việc giải thích Bí mật Fatima, ÐHY quả quyết rằng chìa khóa để hiểu bí mật thứ I và bí mật thứ II là "sự cứu rỗi các linh hồn"; và chìa khóa của bí mật thứ III là "việc Ðền Tội", là "Ăn năn Trở Lại". ÐHY lần lượt lướt qua những hình ảnh biểu tượng trong bí mật thứ III như sau:
"Thiên Thần cầm gươm lửa" nhắc ta nhớ lại những hình ảnh tương tự trong sách Khải Huyền. Viễn cảnh về một thế giới có thể bị chìm đắm trong biển lửa, ngày nay không còn là một điều hoàn toàn do trí tưởng tượng bày vẽ nữa. Con người ngày nay đã chuẩn bị cho mình những lưỡi gươm lửa, với những phát minh tối tân".
"Ánh sáng" chiếu tỏa từ Ðức Mẹ, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tự do con người. Thật vậy, tương lai không phải là cái gì tuyệt đối bị định đoạt trước một cách bất biến. Hình ảnh mà ba trẻ em mục đồng tại Fatima đã nhìn thấy, không phải là một "bộ phim ghi ra tương lai" không còn có thể thay đổi được nữa. Ngược lại, thị kiến của ba trẻ là một lời mời gọi "hãy tận dụng những năng lực để thay đổi mọi sự nên tốt đẹp".
Những hình ảnh về "núi có dốc cao", "thành phố bị tàn phá", "các giám mục, linh mục, tu sĩ bị giết chết", đó là những hình ảnh nói đến sự bách hại mà Giáo Hội phải chịu trong thế kỷ 20. Hình ảnh về "Ðức Thánh Cha", "vị giám mục mặc áo trắng" được nhắc đến cách nổi bật, và có thể đúng cho nhiều vị giáo hoàng khác nhau, từ Ðức Piô X cho đến Ðức Gioan Phaolô II hiện nay. Tuy nhiên, biến cố mưu sát ngày 13 tháng 5 năm 1981 đã được Ðức Gioan Phaolô II đưa vào gần với những biến cố trong Bí mật thứ III. Nhưng, ÐHY Ratzinger cũng lưu ý rằng sự kiện Ðức Gioan Phaolô II đã bị mưu sát mà không chết, trong khi Thị Kiến của bí mật III thì nói là "chết", (sự kiện nầy) chứng minh một lần nữa rằng "không có định mệnh bất biến không thể thay đổi được".
Cách chung, Bí Mật Fatima là một lời mời gọi hãy cầu nguyện, hãy "ăn ăn trở lại". Ðây là một lời mời gọi luôn luôn còn có giá trị, mặc dù những hoàn cảnh mà Bí mật Fatima nhắc đến, "xem ra như đã thuộc về quá khứ". Ðối với ÐHY Ratzinger, Bí Mật Fatima nhắc lại câu Chúa Giêsu đã nói, và được ghi lại trong Phúc âm: "Trong thế gian, chúng con sẽ phải điêu đứng. Nhưng chúng con hãy tin tưởng, vì Ta đã chiến thắng thế gian". Sứ điệp Fatima không nhằm thỏa mãn tính tò mò của con nguời, nhưng mời gọi chúng ta tin tưởng vào lời hứa chiến thắng của Chúa.

yeuthuongvaphucvu_89
27-04-2009, 01:06 AM
Fatima : Bí mật thứ ba của Fatima
Lm Nguyễn Hữu Thy

«Lửa và khói sẽ từ trời rơi xuống; nước trong đại dương sẽ bốc hơi và phun bọt lên tận tới trời. Tất cả những gì đang đứng sẽ gục ngã xuống. Hàng triệu triệu người bị tiêu diệt trong từng giờ. Khắp nơi trên mặt đất sẽ có hoạn nạn đói khổ và các dân tộc sẽ trở nên hoang mang sợ hãi. Kìa xem, thời giờ đang mỗi lúc mỗi tiến gần.»
Những loại tin tức như trên hay những lời đồn thổi giả tạo khác về bí mật thứ ba của Fatima đã từng bành trướng mau lẹ ra khắp nơi. Nhưng vào ngày 26.06.2000, Đức Hồng Y tổng trưởng thánh bô Giáo lý Đức tin, Josef Ratzinger, và nay là ĐTC Bênêđíctô XVI, đã cho công bố bản văn chính thức của bí mật thứ ba Fatima, mà Đức Trinh Nữ đã nói với ba trẻ trong lần hiện ra vào ngày 13.07.1917.
Bản văn đó được viết như sau: «Sau hai phần trước mà tôi đã trình bày, chúng tôi đã nhìn thấy phía bên trái Đức Bà một vị Thiên Thần đang cầm trong tay trái một chiếc gươm bằng lửa; và từ lưỡi gươm có lửa bốc ra như thể muốn đốt cháy cả thế giới. Nhưng khi những ngọn lửa chạm phải ánh hào quang từ tay phải Đức Bà chiếu ra trên vị Thiên Thần, thì ngọn lửa bị dập tắt. Còn vị Thiên Thần thì giơ tay phải chỉ vào mặt đất mà hô to: Hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội! Và chúng tôi đã thấy một ánh sáng kỳ lạ, đó chính là Thiên Chúa: ‘một cái gì’ xem như thể những con người trong một tấm gương, khi họ đã đi qua tấm gương rồi thì chúng tôi thấy một Vị Giám Mục mặc áo trắng, và chúng tôi biết ngay đó là Đức Thánh Cha. Nhiều vị Giám Mục, Linh mục và Tu sĩ Nam Nữ khác trèo lên một ngọn núi dốc, trên đỉnh núi có dựng một tượng Thánh Giá được làm bằng gỗ thô, hình như bằng gỗ cây sồi còn để cả vỏ nữa. Trước khi Đứcc Thánh Cha đến chỗ đó, ngài đi qua một thành phố lớn, mà một nửa đã bị phá hủy còn một nửa cũng sắp đổ, với những bước đi run rẩy do bị đau đớn và lo lắng, ngài cầu nguyện cho linh hồn của những xác chết ngài đã gặp trên đường đi. Khi đến được ngọn núi, ngài quỳ xuống dưới chân tượng Thánh Giá khổng lồ. Ở đó người bị một đám lính giết chết: Họ bắn súng và mũi tên vào ngài. Sau đó các vị Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ Nam Nữ và nhiều người đời khác, cả đàn ông lẫn đàn bà thuộc mọi giai cấp và địa vị, cũng chết cách tương tự như thế. Dưới hai cánh tay Thánh Giá có hai vị Thiên Thần, mỗi vị cầm một chiếc bình bằng thủy tinh trên tay. Các vị hứng máu các vị Tử Đạo vào trong bình và đưa cho các linh hồn ở gần Chúa uống!»
Từ lời khai của ba trẻ Fatima trong bản văn trên người ta có thể tóm tắt lại trong ba điểm :
1. Một biển lửa đang đe dọa thiêu hủy cả thế giới. Nhưng nhờ lời bầu cử của Mẹ Maria, thế giới đã thoát được cơn hoạn nạn đó. Phải chăng chúng ta không cần khẩn thiết chạy đến xin Đức Mẹ bầu cử cho? Phải chăng thị kiến trên đã không muốn nói cho chúng ta biết rằng nhờ lời cầu thay nguyện giúp của Mẹ Maria mà thảm cảnh thế chiến thứ ba bằng bom nguyên tử đã bị ngăn chặn lại và không xảy ra?

2. Nhờ lời bầu cử của Mẹ Maria, mà một cơn hoạn nạn khủng khiếp đã được ngăn chặn không xảy ra. Nhưng lời cảnh cáo khẩn thiết là mọi người phải ăn năn hối cải thì vẫn còn đó. Vì thế, sứ điệp Fatima luôn luôn có tính cách thời sự. Và ăn năn hối cải có nghĩa là đổi mới cuộc đời và quay trở về cùng Thiên Chúa nhân từ. Tràng hạt Mân Côi, mà chúng ta hằng suy gẫm và tự hỏi mỗi mầu nhiệm trong đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta, sẽ dẫn đưa chúng ta từng bước tiến tới một cuộc sống hoàn hảo hơn.

3. Sau cuộc ám sát ngày 13.05.1981 tại quãng trường Thánh Phêrô ở Roma, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho mở bản văn của bí mật thứ ba của Fatima và ngài đã nhận ra vị Giám Mục mặc áo trắng được nói đến trong đó là chính ngài và định mệnh của ngài. Quả thực, chưa hề có một Giáo Hoàng nào trong lịch sử Giáo Hội đã gắn bó mật thiết với Fatima như Đức Gioan Phaolô II :
Ngày 13.05.1981: ngài bị ám sát;


Ngày 13.05.1982: ngài dâng hiến cả thế giới cho Trái Tim vô Nhiễm Nguyên tội Mẹ Maria ;
Ngày 25.03.1984: cùng với tất cả các Giám Mục trên khắp thế giới, ngài đã dâng hiến cả thế giới cho Mẹ Maria.

Có lẽ sẽ có người còn tìm cách thoái thác: Vị Giám Mục mặc áo trắng bị bắn, tuy nhiên Đức Gioan Phaolô II chỉ bị trọng thương, chứ không chết.
Chúng ta phải biết rằng khi một lời nói tiên tri về tương lai của một người nào đó, thì không thể nói hết được tất cả mọi chi tiết; nếu không, sự tự do của người liên hệ sẽ bị tổn thương. Đàng khác hàng triệu người thành tâm trên thế giới đã cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng được thoát nguy hiểm.
Bây giờ chúng ta quay trở lại với những suy tư trên. Đức Giám Mục Karol Wojtyla (ĐGH Gioan Phaolô II) đã từng nói với các Linh mục sinh viên: “Cha muốn kết hiệp với Đưc Kitô trong thiên chức Linh mục qua Đức Maria, Mẹ Thánh của Người. Vị trí của Mẹ trong lịch sử cứu độ rất ít được biết đến. Vì thế, chúng ta muốn mỗi ngày tìm hiểu vị trí đó cách sâu xa hơn và đem hoà nhập vào công việc của chúng ta, bởi vì Đức Maria giữ một vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc cứu thế của Đức Kitô.»
Trong khi đó, chính Fatima lại khẩn thiết chỉ cho chúng ta nhận chân được vai trò vô cùng quan trọng đó của Mẹ Maria. Tiếp đến, kinh nguyện và lòng tôn sùng của chúng ta đối với Mẹ Maria cũng là một đóng góp cần thiết bất khả thiếu, để làm nổi bật vai trò và địa vị đồng công cứu chuộc của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Trong Đức Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, chính Mẹ là nhịp cầu nối kết con cái loài người chúng ta lại với Thiên Chúa. Per Mariam ad Jesum!

yeuthuongvaphucvu_89
27-04-2009, 01:07 AM
SỐNG SỨ ÐIỆP FATIMA


Trần Mỹ Duyệt


Năm 1917, Ðức Mẹ hiện ra tại Fatima , Bồ Ðào Nha ban cho nhân loại 3 mệnh lệnh:
- Cải thiện đời sống
- Lần hạt Mân Côi
- Tôn sùng Trái Tim Mẹ

Ba mệnh lệnh trên chính là 3 đòi hỏi căn bản và cần thiết mà nhân loại cần phải thực hiện để thế giới được thái bình, chấm dứt nạn Cộng Sản Vô Thần, một chủ thuyết sẽ gieo rắc lầm than, đau khổ và khốn khó cho nhân loại. Ngoài ra, Ðức Mẹ còn tiết lộ cho ba trẻ được thị kiến lúc bấy giờ là Lucia, Giaxinta, và Phanxicô 3 điều bí mật, được gọi là Bí Mật Fatima.

Từ ngày đó, nhân loại đã trải qua những năm tháng chờ đợi trong sự tò mò. Nhiều người muốn biết những điều bí mật ấy là gì, có liên quan như thế nào đến vận mệnh của mình, vận mệnh thế giới? Gần đây, nhân loại đã thở phào nhẹ nhõm khi biết tất cả 3 điều bí mật ấy đã được công bố, nước Nga đã từ bỏ chủ thuyết Cộng Sản, và Cộng Sản Ðông Âu cũng đã tan rã. Không còn Cộng Sản Nga nữa, và 3 điều bí mật ấy cũng không liên quan gì đến con người, và không ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế giới nên Fatima bắt đầu đi vào quên lãng. Sứ điệp Fatima , vì thế, cũng có ít người quan tâm đến.

Nhưng thật bất ngờ, ngày 8 tháng 1 năm 2009 vừa qua, trong buổi triều yết dành cho các nhân viên ngoại giao của 177 quốc gia có liên lạc ngoại giao với Tòa Thánh, Ðức Bênêđíctô XVI đã phát biểu như sau: “Tương lai bây giờ bị lâm nguy hơn trong quá khứ, nhưng chúng ta không nên ngã lòng, đúng hơn, phải tăng gấp đôi sự dấn thân cho hòa bình.”


Nhân loại lâm nguy:

“Tương lai bây giờ bị lâm nguy hơn trong quá khứ”. Thật vậy, chủ thuyết Cộng Sản do Nga khởi xướng tuy đã được giải thể ở Nga và Ðông Âu, nhưng nó vẫn còn tồn tại ở Trung Hoa, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba . Chủ thuyết Cộng Sản tạm thời chấm dứt, nhưng chủ thuyết Hồi Giáo Cựu Ðoan đang làm cho nhân loại hoảng sợ. Nạn Cộng Sản Vô Thần tuy đã lui vào bóng tối, nhưng một lối sống vô thần khác lại đang ảnh hưởng trầm trọng đến tương lai nhân loại, đó là tư tưởng và lối sống tự do quá khích. Tự do ly dị, phá thai, đồng tính, và hôn nhân đồng tính. 4 chọn lựa này là 4 quái thai của tư tưởng nhân loại thời đại đang tạo nên một bầu tử khí bao trùm sinh hoạt tâm linh con người, khiến Ðức Gioan Phaolô II đã phải đặt cho nó một tên gọi rùng rợn, đó là “văn hóa sự chết”. Và trong thực tế, không mấy ai mà không bị ảnh hưởng, hoặc trở thành nạn nhân của nền văn hóa này.

Thật vậy, nền hòa bình nhân loại hiện đang trên bờ vực thẳm, và tương lai nhân loại không sáng sủa không phải do những vũ khí nguyên tử của Mỹ, Nga, Trung Cộng, và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Không phải do ngòi nổ từ Trung Ðông, hoặc nền kinh tế thế giới kiệt quệ như hiện nay. Nhưng sự bấp bênh, nguy hiểm của tương lai nhân loại nằm trong ảnh hưởng của một nền văn hóa toàn cầu, trong đó, người ta cố tình loại bỏ ảnh hưởng và sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Lịch sử nhân loại đã minh chứng điều này, trong thế kỷ của chúng ta đang sống, mạng người đã bị cướp đi nhiều hơn nhân mạng đã bị giết vì chiến tranh của tất cả các cuộc chiến tranh từ trước cộng lại. Nhìn vào những con số thống kê của các vụ phá thai trên toàn thế giới, con số lên đến hàng chục triệu mỗi năm. Có cuộc chiến nào suốt trong chiều dài lịch sử đã giết chết hàng chục triệu mạng người một năm? Nhân danh tự do lựa chọn, nhân danh quyền làm mẹ, có đến 60 triệu thai nhi bị giết mỗi năm trên khắp thế giới bằng hành động phá thai. Một hành động dã man, lạnh lùng đến kinh hãi nếu chúng ta nhìn bằng cặp mắt của tâm linh, của trái tim biết rung động. Và hệ quả của nó là gia đình tan nát, hôn nhân mất ý nghĩa, tình yêu bị lợi dụng, luân lý bị suy đồi.

Lịch sử cũng đang chứng minh rằng, con người ngày nay đang trải qua những khủng hoảng trầm trọng về niềm tin. Ðối với những ai tin vào Thiên Chúa họ cũng đang trải qua những cơn bắt bớ, trù dập, và tử đạo mọi ngày. Tại các quốc gia Hồi Giáo cực đoan, tại một vài tiểu bang ở Ấn Ðộ, và tại các quốc gia mà chủ thuyết Cộng Sản còn rơi rớt lại như Trung Hoa, Cuba, Bắc Hàn... sinh hoạt tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo vẫn đang bị cấm cách, trù dập với trăm ngàn mánh khóe và thủ đoạn của những nhà cầm quyền. Những Kitô hữu vẫn đang phải tử đạo vì niềm tin và tôn giáo của mình.

Trở lên là tội lỗi và hậu quả của những tín hữu, những người không tin vào Thiên Chúa. Còn thành phần tận hiến thì sao? Câu trả lời mà ai cũng tìm thấy rõ ràng qua biến cố lạm dụng tình dục của các giáo sỹ, và một số giáo phẩm ở Hoa Kỳ, cũng như trên khắp thế giới. “Hương khói Satan đã lọt vào Giáo Hội qua những kẽ hở của đời sống tận hiến”.

Những bấp bênh của những giải pháp chính trị, kinh tế, cộng với ảnh hưởng của nền văn hóa sự chết, càng làm cho đời sống Kitô hữu ngày càng trở nên hết sức khó khăn và đầy thách đố. Chiến tranh, loạn lạc và hồng thủy không chỉ diễn ra trên mặt nổi của cuộc đời, mà còn là một trận hồng thủy âm ỷ, sâu lắng trong cõi lòng Giáo Hội, và con người. Ðiều này đã được 3 vị Giáo Hoàng cận đại nhìn thấy và đã từng lớn tiếng cảnh báo. Trước đây hơn nửa thế kỷ, Ðức Piô XII đã phát biểu rằng: “Tội lớn nhất của con người thời đại, là đánh mất đi ý thức tội lỗi”. Tiếp đến, Ðức Gioan Phaolô II thì cho rằng, nền văn hóa ngày nay là một “nền văn hóa sự chết”. Và Ðức Bênêđíctô XVI thì cảnh giác thế giới về triết lý sống “tương đối”.

Sống sứ điệp Fatima :

Do việc đánh mất ý thức tội lỗi, nên con người ngày nay làm điều sai trái mà cứ tưởng mình làm đúng. Làm điều tội lỗi mà vẫn cho mình là sống thánh thiện. Thiên Chúa và Satan. Tà và thiện. Tội và phúc được định giá như nhau và đồng đều theo nhu cầu và sự cần thiết của mỗi người. Trong nền “văn hóa sự chết” này, hôn nhân và đồng tính là hai lối sống được quan niệm đều tốt như nhau, và con người có quyền chọn lựa theo nhu cầu và lối sống. Người ta có quyền mang hoặc hủy bỏ một mạng sống, dù đó là mạng sống của con mình nhân danh quyền tự do lựa chọn. Và người ta cũng có quyền cắt đứt sự sống của một người già cả, nhân danh sức khỏe, sự tốn kém trị liệu, và rất nhiều những lý do nhân đạo.

Những điều xấu xa ấy, trước những vấn nạn không thể giải quyết bằng khả năng con người ấy, Kitô hữu chúng ta phải làm gì? Bỏ cuộc? Hay ngồi nguyền rủa cuộc đời? Nguyền rủa bóng tối?

Rất may, sứ điệp Fatima vẫn là sứ điệp mà con người có thể dùng để giải quyết những vấn nạn của xã hội, và những khó khăn cuộc sống. Trong sứ điệp Fatima , 3 phương thế thực hành đã được Ðức Maria nhắc đến: Cải thiện đời sống. Tôn sùng Trái Tim Mẹ và Lần Hạt Mân Côi. Tuy nhiên, cả ba điều kiện trên đều không dễ thực hiện mặc dù xem ra như nhỏ mọn và tầm thường.

Trên thực tế, chẳng mấy ai nhận mình có lỗi và vì thế cũng chẳn mấy ai nghĩ mình cần phải sửa lỗi. Ðiều này dễ hiểu, vì một khi đã đánh mất niềm tin, đánh mất ý thức tội lỗi, thì làm gì còn thấy mình có lỗi để sửa lỗi. Ðiểm trùng hợp giữa hai nhận xét của Ðức Piô XII và Ðức Bênêđíctô XVI là vì đánh mất ý thức tội lỗi, nên con người thời đại nhìn gì cũng chỉ thấy những giá trị tương đối.

Nhận ra cái tuyệt đối. Phân biệt giữa đen và trắng thì tương đối dễ hơn là phân biệt giữa trắng nhiều và trắng ít, giữa đen nhiều và đen ít. Giữa một cái áo trắng nếu có vết bẩn nào dính vào, nó hiện ra rõ ràng, nhưng trên một mảnh vải đen thì một vài vết bẩn không còn là điều khiến cho ta quan tâm nữa. Cái nguy hiểm của quan niệm và lối sống này làm cho con người không cảm thấy nhu cầu cần phải sửa sai hay thăng tiến. Ảnh hưởng của nó đã biến thành một độc dược tỏa lan trong không khí sinh hoạt để biến nền văn hóa sự sống thành “nền văn hóa sự chết”.

Do đó, để nhận ra điều cần phải sửa đổi cần thiết con người phải tìm gặp và tiếp cận với Ðấng thiêng liêng, cao cả. Và sự tiếp cận ấy là lời cầu nguyện. Mẹ Maria đã giới thiệu phương thế cầu nguyện rất đơn sơ bằng chuỗi Mân Côi. Mẹ cũng lôi kéo tâm hồn con người về với tình thương Thiên Chúa qua hình ảnh trái tim của một hiền mẫu.

Ðể phục hồi nền văn hóa sự sống, để cứu vãn nhân loại và thế giới khỏi đi sâu vào con đường diệt vong, con đường tự hủy diệt, cần phải có một phép lạ. Nhưng phép lạ ấy sẽ không thể nào sẩy ra nếu không có sự can thiệp của Mẹ. “Người bảo gì hãy làm như vậy” (Gio 2:5), đó là lời của Ðức Trinh Nữ Maria đã nói với các gia nhân trong bữa tiệc cưới tại Canna, và vì làm như lời Mẹ dậy bảo, nên phép lạ nước lã hóa rượu đã được thực hiện.

Nhân loại ngày nay cần những phép lạ của niềm hy vọng để có thể tin tưởng vào Con của Ðức Trinh Nữ Maria giữa một thế giới đã đánh mất niềm tin. Nhân loại ngày nay cũng cần những phép lạ của tình thương giữa một thế giới chết chóc, giữa một thế giới mà nghi kỵ, thù hận gây ra bởi mất niềm tin vào Ðấng đã yêu thương con người nên đã hóa thân làm người. Tất cả những phép lạ này đều được thực hiện bởi Chúa Giêsu, Con Mẹ Maria.

Sứ mạng của hồn nhỏ là yêu thay và đền thay.
Nghề của hồn nhỏ là cầu nguyện.

Nhưng chúng ta không thể yêu được, đền được, cũng như cầu nguyện sốt sắng được nếu như chúng ta không tiếp cận với Chúa qua Mẹ Maria. “Per Mariam ad Jesum”. Nếu Chúa Giêsu là đấng làm nên phép lạ, thì Mẹ Maria là người đề nghị và cầu xin phép lạ ấy cho chúng ta: “Họ hết rượu rồi” (Gio 2:3). Vậy hãy nghe lời Mẹ dậy: “Cải thiện đời sống. Siêng năng lần hạt, và Ðền Tạ Trái Tim Mẹ”. Sứ điệp Fatima vẫn chưa phải là sứ điệp lỗi thời và nó không thể bị quên lãng, vì: “Tương lai bây giờ bị lâm nguy hơn trong quá khứ, nhưng chúng ta không nên ngã lòng, đúng hơn, phải tăng gấp đôi sự dấn thân cho hòa bình.” (Bênêđíctô XVI).

yeuthuongvaphucvu_89
27-04-2009, 01:08 AM
Bối cảnh lịch sử của biến cố Fatima:
Sự bùng nổ của phong trào cộng sản vô thần
Lm Nguyễn hữu Thy
Chúng ta đã biết rằng vào năm 1917 vì tình mẫu tử đậm đà tha thiết đối với con cái loài người, Mẹ Maria đã đích thân hiện ra tại Fatima với ba trẻ chăn chiên đơn sơ thánh thiện để qua trung gian của các em, Mẹ nhắn gửi đến nhân loại Sứ Điệp khẩn cấp của Trời Cao. Nhưng để hiểu rõ được Sứ Điệp cao cả ấy, trước hết chúng ta cần tìm hiểu bối cảnh lịch sử của nó, tức hoàn cảnh thực tiễn cụ thể của xã hội vào lúc Đức Mẹ công bố Sứ Điệp của Ngài. Hay có lẽ nói đúng hơn, hoàn cảnh thực tiễn cụ thể của xã hội đã đòi buộc Đức Mẹ phải công bố những biện pháp cần thiết để giúp cho các con cái loài người của Mẹ có điều kiện ứng phó kịp thời và hữu hiệu. Đó chính là sự bùng nổ của phong trào cộng sản vô thần tại Mạc-tư-khoa, thủ đô nước Nga.
Đúng vậy! Nếu quả thực Ernst Hello có lý khi ông đã có lần viết rằng sự sợ hãi là con đẻ của tội lỗi, thì chúng ta sẽ hiểu rõ được tại sao bộ mặt của thời đại chúng ta ngày nay đang biểu lộ một sự sợ hãi mà không sao diễn tả hết bằng lời được, thì bấy giờ chúng ta mới ý thức được rằng điều kiện để có thể vượt lên trên được sự sợ hãi đó chính là phải nhìn nhận tội lỗi của mình, tương tự như Ét-ra trong khi dâng Của Lễ Chiều Hôm lên bàn thờ Thiên Chúa, đã công khai xưng thú tội bất trung của dân tộc ông: «Lạy Chúa, con thật xấu hổ thẹn thùng khi ngẩng mặt lên Ngài. Lạy Chúa, vì tội chúng con quá nhiều, đến nỗi ngập đầu ngập cổ, tội lỗi chúng con cứ chồng chất lên mãi tới trời. Từ thời tổ tiên chúng con cho tới ngày nay, vì chúng con đã mắc tội nặng nề và phạm tội, …nên chúng con đã bị nộp cho gươm giáo, phải đi đày, bị cướp bóc và bẽ mặt xấu hổ như ngày nay» (Er 9,6-7).
Đi vào cụ thể, tội lỗi của lục địa Âu Châu, «một nơi ánh sáng văn minh Kitô giáo từng đã chiếu tỏa trong bao thế kỷ qua »(1), chính là đã loại bỏ căn tính Kitô giáo của mình để hoàn toàn chạy theo vật chất, tôn thờ vật chất và tìm cách tục hóa mọi lãnh vực trong các sinh hoạt xã hội của mình. Trong Thông điệp đầu tay của ngài gởi toàn thế giới khi vừa lên ngôi Giáo Hoàng, ĐTC Piô XII đã so sánh bóng đêm tội lỗi đang bao trùm lấy nhân loại với sự tối tăm đã phủ xuống trên khắp nơi khi Đức Giêsu tắt thở trong đau thương trên Thánh giá (x. Mt 27,45). Trong bức Thông điệp đó, Đức Piô XII cũng cho thấy rằng thế giới Kitô giáo thời trung cổ đã nhận ra được «những bất hòa, những xáo trộn và các cuộc chiến tranh», nhất là đã nhìn nhận được rằng những tiêu cực đó là hậu quả của tội lỗi. Trong khi đó, thời đại tân tiến lệch lạc, vật chất và vô thần ngày nay thì ngược lại, đã tự cho mình hoàn toàn lành mạnh, ổn định và hợp lý trong mọi lãnh vực, từ lãnh vực cá nhân cho đến lãnh vực xã hội.

Do đó, cái thảm họa vô cùng nguy hại của kỷ nguyên chúng ta ngày nay, trước hết không do ở chỗ nó đã phạm bao tội lỗi và còn tái phạm nữa, nhưng là do ở chỗ nó đã không nhận ra được tội lỗi của mình và không biết ăn năn hối cải. Như thế, kỷ nguyên ngày nay của chúng ta đã phạm một tội vô cùng nặng nề đến nỗi không thể tha thứ được, đó chính là tội đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần (x. Mt 12,31). Và cũng vì vậy, thế kỷ XX đã trở thành kỷ nguyên của phong trào cộng sản vô thần, mà các hậu quả tai hại của nó còn kéo dài đến ngày nay, mặc dù đế quốc đỏ Sô Viết đã hoàn toàn tan rã.
1. Bản tuyên ngôn của phong trào cộng sản
Bản tuyên ngôn của phong trào cộng sản được công bố vào tháng 2 năm 1848 tại Luân Đôn/Anh Quốc, đã một thời là khởi đầu của niềm hy vọng tràn trề cho một cuộc cách mạng trên khắp thế giới trong tương lai, là bản kinh Tin Kính đầy hứa hẹn cho giai cấp vô sản, cho những người vô gia cư, bần cùng đói khổ. Người ta có thể nói được rằng đó là một bản Tin Mừng vẹn toàn, bất khả ngộ, cho công cuộc cách mạng đổi mới xã hội nhân loại với một niềm xác tín mới: Con người chiếm giữ quyền lực tuyệt đối, ngoài con người ra không còn gì nữa! Đúng như Ludwig Feuerbach (1804-1872), triết gia vô thần người Đức đã khẳng định: «Homo hominis Deus est» - con người là Thiên Chúa của con người!
Nhưng người ta cũng phải xác nhận rằng bản tuyên ngôn cộng sản này không phải là một bản văn chứa đựng tính cách khoa học cũng không phải là một sự biểu lộ quan điểm cá nhân của tác giả. Trước hết, bản tuyên ngôn là một bản cáo trạng, mãnh liệt lên án chống lại sự áp chế của một trật tự xã hội theo hệ thống chủ nghĩa cá nhân tự do, đã thẳng tay bóc lột tầng lớp nghèo và tạo điều kiện cho tầng lớp giàu càng giàu thêm.
«Hỡi tầng lớp công nhân thợ thuyền trên khắp thế giới, hãy đoàn kết lại! Hãy làm cho thế giới phải rùng mình khiếp sợ trước cuộc cách mạng cộng sản!»
Đó là một trong những lời hô hào ở Luân Đôn xưa kia, được gởi tới tầng lớp công nhân ở Âu Châu và trên khắp thế giới, là phải đứng lên đạp đổ chế độ phong kiến và bẻ gãy ách nô lệ. Đó cũng chính là dấu hiệu manh nha cho công cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu trong tương lai, một cuộc đấu tranh đã từng để lại những hậu quả vô cùng tang thương, bi thảm và vô nhân đạo tại một số lớn các nước trên thế giới, nhất là tại Nga Sô, tại Đông Âu, tại Trung Cộng hay tại các nước cộng sản khác, đã khiến cho hàng triệu người dân lành bị chết cách oan uổng. Cũng vì thế, ở miền Bắc Việt Nam vào các năm 1953-1954, sau khi nhà nước ra chính sách «Cải cách ruộng đất và phát động quần chúng đấu tranh», hàng trăm ngàn người dân lành đã bị ghép vào thành phần «địa chủ bóc lột» hay «cường hào ác bá», và đã bị đấu tố trước các tòa án nhân dân, bị đày ải khổ sai chung thân hay bị xử tử cách bất công, khiến nhà nước đã phải ra chính sách «Sửa sai», để làm nguôi sự căm phẩn của dân chúng.
Chính do tinh thần đấu tranh giai cấp quá khích, người ta đã không ngần ngại biện minh cho bao cuộc nội chiến quốc-cộng (quốc gia và cộng sản) thảm khốc tại một số lớn các nước, khiến cho bao gia đình: con cái mất cha, vợ mất chồng, cha mẹ mất con trai. Những sự cố đó đánh dấu sự khởi đầu công khai của kỷ nguyên phong trào cộng sản.
Dĩ nhiên, người ta sẽ thiếu khách quan khi tìm cách cho rằng phong trào chống đối lại sự đàn áp và bóc lột bất công do những người cộng sản khởi xướng là hoàn toàn xấu và tiêu cực. Chính Đức Giáo Hoàng Piô XI trong Thông điệp gởi thế giới để chống lại phong trào cộng sản vô thần, cũng đã phải nhìn nhận rằng người ta không khỏi ngạc nhiên khi chứng kiến chủ thuyết cộng sản đã mạnh mẽ lan rộng khắp nơi, bởi vì với một lý tưởng sai lầm về sự công bằng và quyền bình đẳng, phong trào cộng sản đã thực sự chống lại những bất công trong xã hội và nhất là đã hứa hẹn sẽ xóa bỏ những bất công đó cũng như sẽ cải thiện cuộc sống của giai cấp công nhân(2).
Đức Giám Mục Fulton Sheen đã thẳng thắn nhìn nhận rằng mặc dù là một ý thức hệ vô thần, nguồn gốc của chủ thuyết cộng sản đã xuất hiện như một sự hiện thực cách mạng trong một thế giới Tây phương tội lỗi. Ngài viết: «Thế giới Tây phương chịu trách nhiệm về sự xuất hiện của triết lý chủ thuyết cộng sản và về cuộc cách mạng cộng sản. Trong toàn thể nền triết học cộng sản không hề tìm thấy một ý tưởng nào có tính cách Nga Sô cả. Xét từ bản chất của nó, nền triết học đó hoàn toàn mang tính cách trưởng giả tây phương, duy vật và tư bản.»(3). Đúng vậy, chính thế giới Tây phương chắc chắn phải chịu trách nhiệm về tình trạng tồi tệ thảm hại của giai cấp công nhân cách đây hơn hai thế kỷ. Nikolai Berdjajew (1874-1948), triết gia người Nga về tôn giáo và lịch sử, đã có lý khi ông đánh giá chủ thuyết cộng sản là một sự biến dịch cụ thể của những sứ mệnh bất thành nơi Kitô giáo, ông viết: «Khi chê trách những người cộng sản là vô thần và đàn áp chống đối tôn giáo, các Kitô hữu không thể bắt những người cộng sản phải gánh chịu trách nhiệm một mình về làn sóng vô thần đó được. Khi phải ra đứng trước toà án tối cao, các Kitô hữu chắc chắn sẽ không thể là quan toà hay kẻ tố cáo được, nhưng là xuất hiện như những tội nhân đầy thống hối»(4).
Khuynh hướng tục hóa càng ngày càng bành trướng của não trạng Âu Châu, vốn đã bắt nguồn từ thời phục hưng và thực sự đã đạt tới tột đỉnh của nó vào đầu thế kỷ 19 và rồi qua triết học và qua toàn bộ văn chương trong hàng chục thập niên qua, đã được coi như một hình thức bày tỏ tư tưởng và thái độ sống một cách duy nhất bất khả kháng. Qua sự chối bỏ Thiên Chúa, con người vào thế kỷ 18 đã tuyên bố loại trừ tất cả mọi tính chất luân lý đạo đực do tôn giáo truyền bá. Sự phân biệt giữa tốt và xấu theo quan niệm cổ truyền bị bãi bỏ, nếu không nói là hoàn toàn bị phủ nhận. Tốt là điều làm lợi cho con người, còn xấu là điều làm hại con người. Giai cấp chiếm hữu mới phủ nhận một cách vô ý thức trách nhiệm bó buộc của luật luân lý Kitô giáo trong tất cả mọi lãnh vực của đời sống thương mại và đời sống kinh tế. Giai cấp chiếm hữu còn chối bỏ mọi can thiệp của Nhà Nước vào trong các nghiệp vụ buôn bán của họ, vì họ đã quan niệm lầm lẫn về quyền tự do cá nhân của mình.
Vâng, người ta còn biện minh cho cả những cách thức thu tích của cải trần thế một cách bất công trên sự đau khổ của đồng loại với những ngụy biện giả dối cho rằng sự giàu có thịnh vượng là dấu chỉ hữu hình sự kén chọn đặc biệt của Thiên Chúa, còn sự đói nghèo rõ ràng là sự chúc dữ của Thiên Chúa(5). Như thế, Phúc Âm Đức Giêsu Kitô hoàn toàn mất hết giá trị và không còn đất đứng nữa, và phải nhường chỗ cho chủ nghĩa vật chất thô thiển. Cả đến lời chúc phúc cho tinh thần nghèo khó của Phúc Âm cũng bị loại bỏ và được thay thế vào đó là sự thần thánh hóa việc chiếm giữ của cải vật chất đời này. Như vậy, qua đó các giá trị luân lý Kitô giáo bị phá đổ. Điều đó cho thấy rằng bây giờ - xét một cách tổng quát - sự tiến bộ mang tính cách đa dạng và bất ngờ trong lãnh vực kỹ thuật rất có thể là một rào cản cho sự thăng tiến của con người trong lãnh vực luân lý và đạo giáo.
Đàng khác, một số lớn quần chúng nhân dân cũng đã tỏ ra xa lạ với Giáo Hội. Bởi vậy, họ đã dễ dàng bị lôi cuốn bởi những lý thuyết và chủ trương sai lầm đó và họ đã thích thú đón nhận chúng như một học thuyết mới mẻ. Về điểm này, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã viết: «Có lẽ nhiều người đã không ý thức được khi lìa bỏ giáo huấn của Đức Kitô là sẽ bị thu hút và bị lôi cuốn bởi những hình ảnh giả dối mới mẻ khác trong những cách thức trình bày hấp dẫn. Những cách thức trình bày đó đã coi sự lìa bỏ giáo huấn của Đức Kitô như một sự giải phóng khỏi vòng nô lệ từng giam cầm con người từ trước tới nay. Nếu thế, hoặc họ đã không nhìn thấy trước được những hậu quả đau đớn khi người ta tìm cách thực hiện một sự thay đổi thật đáng buồn giữa sự thật có khả năng giải phóng con người, với sự sai lạc chỉ chực nô lệ hóa con người; hoặc họ đã không nghĩ rằng ai chối bỏ luật lệ vô cùng khôn ngoan và đầy tình phụ tử của Thiên Chúa cũng như chối bỏ giáo huấn luôn có tác dụng hợp nhất và nâng cao con người của tình yêu Đức Kitô, thì sẽ vô tình bị rơi vào ách độc đoán của một sự khôn ngoan nghèo nàn giới hạn và hay thay đổi của phàm nhân. Một đàng người ta nói đến sự tiến bộ, nhưng đàng khác người ta lại làm điều thụt lùi; từ tình trạng phát triển, người ta lại hạ thấp xuống; từ sự tiến lên cho tới tột đỉnh cao, người ta lại trở thành nô lệ. Người ta đã không chịu nhận ra rằng tất cả mọi nỗ lực vất vả của con người trong việc tìm cách thay thế luật lệ Đức Kitô bằng luật lệ phàm nhân, sẽ là một việc làm hoàn toàn vô ích »(7).

Và người ta đã không chờ đợi lâu những hậu quả tai hại cụ thể của sự thoái hóa đó. Qua sự đàn áp vẫn được tiếp tục kéo dài trong một chế độ tư bản kiểu mới với chiếc «mặt nạ dân chủ», các tầng lớp công nhân vẫn nghèo, vẫn phải tiếp tục sống trong sự khốn cùng và vẫn mang nặng trên mình nỗi lo lắng cho miếng cơm manh áo của cuộc sống hằng ngày. Như vậy, ngày nay bên cạnh giai cấp trưởng giả vô thần lại xuất hiện thêm giai cấp vô sản vô thần nữa. Và qua đó sân khấu cho thảm họa của cuộc cách mạng thế giới đã được dàn dựng. Nếu Đức Giáo Hoàng Piô XI đã có lần gọi tình trạng đó là «Xì-căn-đan của thế kỷ», thì nay đã trở thành thực tại cụ thể. Nhiều người công nhân là tầng lớp đã quay lưng lại với Giáo Hội, đã bỏ đạo. Họ đã xa lìa tôn giáo chân chính của Đức Giêsu Kitô đã từ Trời Cao mang đến và cúi đầu chạy theo một thứ tôn giáo hão huyền của Các-Mác và Ăng-ghen. Những người công nhân bồng bột đó gia nhập phong trào cộng sản vốn thù nghịch chống đối Tôn Giáo, mà biểu tượng không phải là tượng Thánh Giá, nhưng là liềm búa.
Bản tuyên ngôn cộng sản năm 1948 không những đã kích động được con tim của tầng lớp công nhân, nhưng còn cống hiến cho họ một chương trình hành động cụ thể, dễ hiểu và khả thi. Những người công nhân vốn từng bị khinh bỉ và bị xúc phạm một cách vô cùng đau đớn, bỗng nhiên giờ đây lại tìm gặp được ý nghĩa sâu xa cho cuộc sống bất hạnh của mình. Họ nhìn thấy được lý tưởng của đời mình không phải được ghi tạc tận các ngôi sao trên vòm trời, nhưng đang nằm gọn trong bàn tay một cách rõ ràng và cụ thể; một lý tưởng mà họ có thể diễn tả được bằng những lời nói đơn sơ, bằng những khẩu hiệu đầy quyến rủ, và nhất là vì lý tưởng đó họ còn có thể hăng hái lao động không chút mệt mỏi, còn có thể chấp nhận chịu đau khổ và sẵn sàng chấp nhận cả cái chết nữa. Ngay cả khi phải đối mặt với một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, hầu như bất khả chịu đựng, họ vẫn cảm thấy như được chính lý tưởng đó nâng đỡ và dìu dắt, họ vẫn cảm nhận được tận sâu trong đáy linh hồn mình sức mạnh của một sứ mệnh thiêng liêng, cao cả và mới mẻ củng cố, đó là: Họ cần phải giải phóng thế giới ra khỏi mọi bất công và thiết lập lại một thiên đường đã bị đánh mất: Thiên đường cộng sản!
2. Học thuyết cộng sản
Dựa trên nền tảng duy vật biện chứng, học thuyết cộng sản cho rằng dòng lịch sử nhân loại hoàn toàn lệ thuộc vào sự đồng nhất và bất đồng của những lực lượng đối kháng, và cũng vì thế, tinh thần bản tuyên ngôn cộng sản năm 1848 đã hoàn toàn loại trừ tất cả mọi giải pháp ôn hòa trong lãnh vực cách mạng xã hội, đồng thời gạt bỏ tất cả mọi hình thức dung hòa dựa theo sự hợp lý của sự việc như một hành động thiếu thực tế. Tinh thần cách mạng theo chủ thuyết cộng sản không bao giờ chấp nhận biện pháp nửa vời, tức biện pháp hòa giải hay dung hòa. Trong trường hợp nếu có hòa giải, thì đó cũng chỉ là một giải pháp vá víu tạm thời và chỉ có tính cách chiến thuật trong khi chờ đợi thắng lợi cuối cùng mà thôi. Cách mạng cộng sản chân chính là phải phá đổ hoàn toàn cái cũ tận nền móng, để xây dựng lên cái mới trên một nền móng mới. Nói cách khác, giai cấp tư bản và giai cấp công nhân vô sản không thể cùng đội trời chung. Một trong hai giai cấp đó bắt buộc phải hoàn toàn bị đào thải hay hoàn toàn bị loại trừ, và nhất định đó phải là giai cấp tư bản.
Bởi vậy, công cuộc phát động mặt trận đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa tư bản và tầng lớp công nhân cần phải được hiện thực như một đòi hỏi cấp bách của sự diễn biến và tiến triển lịch sử, trong đó không loại trừ tính cách bạo động. Vâng, để đẩy nhanh cuộc chiến thắng sau cùng của tầng lớp vô sản và để thiết lập được một xã hội mới vô giai cấp, tất cả mọi phương tiện chẳng những đều được coi là hợp pháp, mà còn cần thiết phải sử dụng nữa, nếu như tình huống đòi hỏi, vì tất cả «cuộc thánh chiến đó chỉ nhắm phục vụ sự tiến bộ của nhân loại»(8).
Qua đó, chúng ta thấy rằng một động lực khủng khiếp, phát xuất từ học thuyết chủ nghĩa duy vật biện chứng sử quan đã được thành hình. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thẳng thắn gọi đó quả là «một chủ thuyết thần bí đã khéo léo biết dùng những lời hứa hão huyền để lôi kéo các tầng lớp quần chúng hào hứng chạy theo mình»(9). Chủ thuyết thần bí hay người ta cũng có thể gọi là sự mong đợi được giải thoát này thực ra là một đóng góp của não trạng người dân Nga lúc bấy giờ vào công trình xây dựng lên tòa nhà chủ thuyết cộng sản. Walter Schubart đã so sánh thái độ của não trạng người dân Nga như là một sự tự hiến, ngược lại với sự tự chủ của người Tây Âu. Tự thẳm sâu trong đáy lòng mình, người Nga sống thiên về tình cảm hơn là lý trí. Cũng vì thế, chủ thuyết duy vật khô khẳng phát xuất từ Tây Âu lẽ ra khó lòng đâm rễ sâu được vào quan niệm của người Đông Âu như Nga Sô. Hơn nữa, vì người Nga sống thiên về tình cảm, chứ không nặng óc suy lý theo khoa học tự nhiên, nên thường dễ bị ảnh hưởng bởi những sự kỳ bí lạ lùng. Vì thế, người Tây Âu nhiều khi đã không khỏi bỡ ngỡ trước bản tính hay thay đổi thất thường của người Nga. Hơn nữa, khác với bản tính tự lập và thiên về cá nhân của người Tây Âu, người Nga mang nhiều sắc thái đoàn thể xã hội hơn và luôn mong muốn cho xã hội nơi mình sinh sống phải đạt được tình trạng hoàn hảo. Vì thế, một khi xã hội đó không đạt tới được mức độ hoàn hảo lý tưởng như họ mong muốn, thì họ tỏ ra bất đồng và giận dữ, và họ hăng say đem hết mọi nỗ lực để cải thiện. Đó cũng là lý do tại sao văn hào cách mạng Fjodor M. Dostojewskij (1821-1881) được gọi là «nhà triết học vĩ đại nhất của nước Nga»(10).
Vì lý do đó, thời gian từ hậu bán thế kỷ XIX đến gần hết hậu bán thế kỷ XX mà chúng ta đang đề cập đến ở đây, phải được gọi là kỷ nguyên cộng sản, bởi vì chủ nghĩa Mác-xít đã tìm gặp được tại Nga Sô chỗ đứng vững chắc và thuận lợi cho học thuyết cách mạng về kinh tế và xã hội của mình.

Một cách khách quan mà nói, những người cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản không hề nghĩ rằng học thuyết cách mạng vô sản mang tính cách toàn cầu của họ lại có thể tìm gặp được Nga Sô như là một «bản doanh» hay như một «ngòi châm» cần thiết. Thực ra, dựa theo nền tảng của học thuyết cộng sản, thì ngọn lửa cách mạng phải được bùng cháy trước hết tại các nước có nền kỹ nghệ hàng đầu thế giới ở Tây Âu, tức là một nơi những căng thẳng và mâu thuẩn giữa tầng lớp tư bản và tầng lớp công nhân đã lên đến tột đỉnh. Trong khi đó, người ta có thể nói được rằng Nga Sô vào lúc bấy giờ hãy còn là một nước nông nghiệp lạc hậu.
Nhưng dưới các triều đại thối nát của Nga Hoàng bất tài lúc bấy giờ, Nga Sô bị rơi vào một tình trạng cực kỳ khó khăn: Xã hội và nền kinh tế của đất nước hoàn toàn bị băng hoại, bị phá sản. Và thảm họa to lớn cuối cùng đã thực sự xảy ra, là vào đúng khi đức tin Kitô giáo đã từ lâu chỉ còn hiện diện trên hình thức, còn trong thực tế đã trở nên xa lạ và mất hết sức lôi cuốn đối với đại đa số người dân, thì nước Nga - vì muốn đạt được những canh tân kinh tế và xã hội cần thiết - bó buộc phải chạy theo các nước Tây Âu, những nước mà vào lúc bấy giờ cũng đang đem hết mọi nỗ lực vào công cuộc cải cách xã hội và kinh tế, nên càng ngày càng lơ là và bỏ bê lãnh vực tôn giáo(11); trong khi đó các luồng tư tưởng cấp tiến, tự do và vô thần lại bành trướng mạnh mẽ.
Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác-xít duy vật đã được xâm nhập vào nước Nga như một miền đất phì nhiêu mầu mỡ. Và do sự nối kết chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy vật Tây Âu với nguyện vọng mong được giải thoát của Đông Âu, một phong trào quá khích đẫm máu đã bùng nổ như chúng ta đã từng chứng kiến trong suốt lịch sử Liên Sô và các nước cộng sản chư hầu kể từ năm 1917.
Như vậy, từ những học thuyết cộng sản về kinh tế và xã hội đã dần dà biến thành một thứ đức tin cộng sản. Bởi vậy, Hamish Fraser, một đảng viên cộng sản kỳ cựu đã viết: «Một sự kiện quá rõ ràng là nước Nga Sô Viết được coi như biểu tượng cụ thể của đức tin mang tính cách thiên sai, một đức tin tiềm ẩn trong chủ nghĩa Mác-xít cách mạng»(12).
Ngoài Đức GM Fulton J. Sheen, còn có Linh Mục Gustav A. Wetter, dòng Tên - qua các sách báo và các bài thuyết trình của ngài – cũng đã lôi kéo sự chú ý của Tây Phương về tính chất ngụy tôn giáo của chủ nghĩa duy vậy biện chứng sử quan(13). Linh Mục G.A. Wetter đã trình bày cho thấy chủ nghĩa duy vật biện chứng hoàn toàn khác với chủ nghĩa duy vật thông thường, vì nó mang tính cách loại trừ hoàn toàn niềm xác tín tôn giáo. Nói cách khác, vật chất được thay thế cho Thiên Chúa, nghĩa là vật chất được đặt vào địa vị Thiên Chúa. Vật chất là Thiên Chúa. Vật chất là sự thiện hảo tối thượng; ngoài vật chất ra không còn gì tốt lành nữa. Trong một sự phát triển liên tục và không bao giờ ngừng, vật chất sản xuất ra từ đời đời tất cả những gì đang hiện hữu, kể cả tinh thần. Khả năng sáng tạo của sự tiến hóa vô tận này – một sự tiến hóa luôn tìm tiến tới sự hoàn hảo cao độ - là chính vật chất mang tính cách nội tại, nghĩa là vật chất tự hiện hữu và tự tồn tại trong chính mình.
Qua đó, người ta thấy rằng, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì không hề có đệ nhất tác nhân ngoại tại, mà Kitô giáo gọi là Thiên Chúa. Tự bản chất của nó, vật chất là Thiên Chúa của chính mình; vật chất được vận hành bởi những sức mạnh đối kháng nội tại trong chính mình. Chính những sức mạnh đối kháng đó luôn luôn tự sản sinh ra không ngừng và nhờ thế chúng đã sản xuất ra được khả năng cần thiết cho sự phát triển cao độ.
Điều đó dẫn tới một hậu quả là chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tất cả mọi hữu thể đều «từ dưới» mà có, ngược lại với giáo lý của Kitô giáo vốn dạy rằng vũ trụ được tạo dựng nên «từ trên», tức do một vị Thiên Chúa, Đấng tự hữu và hằng hữu, ngoại tại và vượt trên vật chất.
Nếu Phúc Âm Kitô giáo quả quyết: «Từ ban đầu đã có Ngôi Lời», thì chủ nghĩa duy vật biện chứng lại khẳng định: «Từ ban đầu đã có vật chất». Cả hai, Kitô giáo và chủ nghĩa cộng sản, đều nhắm tới việc giải phóng con người và tự thần thánh hoá chính mình như mục đích sau cùng. Tuy nhiên, cả hai lại tìm đạt tới mục đích bằng những cách thế và trong những tình huống hoàn toàn khác nhau.
Kitô giáo mong đợi sự giải thoát con người khỏi vòng nô lệ của tội nguyên tổ «từ trên cao», như là ơn thánh của Thiên Chúa ban cho. Trong khi đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng lại chờ đợi sự giải phóng như hiệu quả chín mùi của một sự phát triển «từ dưới thấp», nghĩa là từ phía con người. Nói cách khác, đối với người Kitô hữu, sự giải thoát khỏi tội lỗi là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa ban; trái lại, đối với người cộng sản, sự giải phóng nhân loại khỏi tội nguyên tổ của hệ thống tư bản, phải là kết quả tất yếu của những phát triển thuần túy nhân loại. Vì thế, hậu quả chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa là một điều không thể tránh được, như Linh Mục Wetter đã viết: «Chính sự thể đó chứng minh cho thấy rằng, khi tranh đấu dưới ngọn cờ duy vật biện chứng sử quan, chủ nghĩa cộng sản đương nhiên tự coi mình có thể trở thành một thể loại tương tự tôn giáo, và vì thế phải tìm cách loại trừ bằng bất cứ giá nào mọi hình thức tôn giáo khác. Ngoài vị thần duy nhất là vật chất với tất cả những yêu sách tuyệt đối của nó, chủ nghĩa cộng sản không chấp nhận bất cứ thần thánh nào khác nữa»(14).
Và như trong các cuộc đấu tranh cụ thể cho công cuộc cách mạng toàn cầu, trong sự xung đột về ý thức hệ của kỷ nguyên cộng sản cũng không thể có sự dung hòa được. Chỉ có hai mặt trận, đó là:
1. Một bên là lời mời gọi của đức tin Kitô giáo, của lòng tin tưởng phó thác và của tình bác ái, với khẩu hiệu: «Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi.»
2. Một bên khác là lòng kiêu hùng và sự hận thù bất hòa giải trước giai cấp đối kháng của mình, với khẩu hiệu ngược lại: «Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ta.»
Đó là hai quan điểm hoàn toàn đối kháng nhau và vì thế chúng sẽ không bao giờ có thể đi tới một sự hòa hợp hay một thỏa hiệp sống chung chân thành và bền lâu. Giữa hai bên sẽ không bao giờ có sự đồng hữu thực sự. Vâng, xét về mặt lý thuyết, về mặt ý thức hệ hay giáo lý, thì khoảng cách giữa Kitô giáo và chủ nghĩa cộng sản là quá lớn, khó có thể bắc lên một nhịp cầu được. Tuy nhiên, trong lãnh vực thực hành của cuộc sống cụ thể hằng ngày, như việc bài trừ các tệ nạn xã hội, việc lành mạnh hoá xã hội, hay việc xoá đói giảm nghèo, xây dựng nhân sinh, v.v… sự cộng tác giữa những người cộng sản và những người Kitô hữu không những là một điều có thể, nhưng còn là một điều cần thiết và phải làm. Hơn nữa, ngày nay - như chúng ta đều chứng kiến - ý thức hệ cộng sản đã mất hết tính chất quá khích thủa ban đầu và đang trên đường thoái hóa và biến thể để tiến tới một tân chủ nghĩa xã hội tự do; nhưng nhất là sứ mệnh Phúc Âm hóa mà Chúa Cứu Thế đã trao phó cho Giáo Hội «các con hãy đi khắp thế gian và làm cho muôn dân thành môn đệ của Thầy» (x.Mt 28,19) không hề chủ trương phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, ý thức hệ hay chính kiến.
3. Thế giới cộng sản
Đối với chủ nghĩa cộng sản, thế giới nhân loại đang chìm đắm trong trầm luân khốn khổ. Vâng, đối với người Kitô hữu những bất hạnh do tội nguyên tổ gây ra cho nhân loại thế nào, thì đối với những người cộng sản đó lại chính là hệ thống kinh tế tư bản. Vì thế, để đổi mới và kiện toàn thế giới, người cộng sản thâm tín rằng mình có bổn phận phải tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa tư bản. Và phương tiện hữu hiệu để hiện thực được những mục tiêu «thiêng liêng» đó là cuộc cách mạng toàn cầu; còn tất cả mọi phương tiện khác đều chỉ dùng để phục vụ cho phương tiện trọng yếu duy nhất đó mau đạt tới thắng lợi sau cùng mà thôi. Tiếp đến, cũng thế, tất cả mọi mục tiêu khác chỉ còn là những mục tiêu thứ yếu trên con đường tiến tới sự hoàn tất cuối cùng của một thế giới đại đồng và vô giai cấp, một thiên đường cộng sản. Về điểm này một đảng viên cộng sản khác đã viết: «Toàn bộ ý thức hệ của chủ nghĩa cộng sản và bao gồm trong đó cả nền luân lý cộng sản nữa, đều tùy thuộc công cuộc giải phóng tầng lớp công nhân thợ thuyền. Mục tiêu sau cùng của người cộng sản là xây dựng chế độ cộng sản, là mang lại hạnh phúc tối đa cho tầng lớp công nhân, và dĩ nhiên không chỉ trong huyền thoại ảo tưởng, nhưng là thực sự thiết lập một cuộc sống đầy sung sướng hạnh phúc trên quả đất này. Cuộc chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản không tự nhiên mà có được, nhưng người ta chỉ có thể đạt tới được sự chiến thắng đó bằng cuộc xả thân đấu tranh chống lại tất cả những sức mạnh và những hủ tục phản động của thế giới cũ. Trên con đường tiến tới được mục tiêu cao cả và đúng đắn đó với một mức độ tột đỉnh, người ta cần phải có nhiều pháo đài kiên cố, cần phải trung kiên trong các thử thách khó khăn và cần phải hy sinh gian khổ nhiều. Đối với những người chiến sĩ chiến đấu cho quyền lợi của tầng lớp công nhân, chiến đấu cho quyền lợi của tầng lớp thợ thuyền, thì việc chỉ thụ động ngồi chờ một tương lai tốt đẹp sáng sủa và một niềm hy vọng trống rỗng, hoàn toàn là một điều xa lạ, không thể chấp nhận được. Các chiến sĩ cộng sản không bao giờ chờ đợi sẽ đạt tới được mục tiêu đấu tranh của mình bằng một khuôn mẫu có sẵn, chứ không cần phải đấu tranh gian khổ và không cần phải vất vả lao động.» Trên đây là một đoạn quan trọng nói về vũ trụ quan của chủ nghĩa cộng sản, được trích từ bản Quốc Tế Hùng Ca «L’Internationnale», với những lời đáng ghi nhận như sau:
«Không Đấng nào cao cả cứu được ta,
«Chẳng Thần thánh, chẳng vua chúa, chẳng quan tòa.
«Để thoát khỏi cảnh khốn cùng ô trọc,
«Tự chúng ta phải vùng lên tranh đấu, hỡi các bạn!»(15).
Điều đó chứng minh cho thấy rằng một người cộng sản chân chính, nghĩa là một người cộng sản đầy thâm tín về ý thức hệ của mình, sẽ không bao giờ có thể thay đổi được quan điểm của mình để tiếp nhận một quan điểm khác vì nhận ra quan điểm đó tốt và hợp lý hơn quan điểm của mình. Đối với anh, hoặc chỉ có anh hiện hữu với quan điểm ý thức hệ của anh, hoặc là anh phải chết, chứ không thể có giải pháp thứ ba, chẳng hạn như sự liên hiệp hay dung hòa, v.v... Đó chính là điểm quá khích và sai lầm của một ý thức hệ. Và hậu quả tai hại của nó cũng đã được chứng minh qua sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Sô cũ và ở các nước Đông Âu vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Ở đây người ta nghi ngờ đặt ra một câu hỏi: Giá như chế độ cộng sản ở Liên Sô và ở Đông Âu khi ý thức được cao trào dân chủ của con người hôm nay đang bùng lên như vũ bão, mà biết tự canh tân và tự thích nghi với tình huống mới, thì có lẽ sự sụp đổ mau lẹ đó đã không xảy ra? Nhưng sự thể đã không thế!
Vì vậy, phải chăng đó là một bài học đắt giá mà các nước cộng sản cuối cùng hiện nay, như Trung Quốc, Việt Nam và Cu-Ba đã biết lợi dụng được, khi các nước này đang từ từ loại bỏ một số lớn quan điểm ý thức hệ ảo tưởng và sai lạc của mình, hầu không bị tụt hậu trong đà tiến bộ nhảy vọt của cả nhân loại ngày nay, như chấp nhận mở cửa hội nhập quốc tế, sống chung hòa bình với các dân tộc khác trong tinh thần bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, loại bỏ chính sách bao cấp độc đoán và chấp nhận nền kinh tế thị trường tự do của tư bản, v.v…?
Nhưng điều đó lại kéo theo một thực tại mâu thuẫn khác, đó là một khi chủ nghĩa cộng sản từ bỏ mục tiêu chính yếu từng được theo đuổi của mình là thống trị thế giới, cùng với phương tiện chủ yếu duy nhất là cuộc cách mạng toàn cầu, và nhất là chủ trương sống chung với chế độ tư bản, nếu không nói là tự tư bản hóa chính mình, thì mặc nhiên chủ nghĩa cộng sản đã tự tuyên bố cáo chung và giải thể!
Nếu thế, phải chăng ngày nay chúng ta sẽ không còn phải lo lắng bận tâm tới học thuyết cộng sản nữa, một học thuyết đã từng chi phối não trạng và cuộc sống của gần một phần hai nhân loại trong suốt trên dưới bảy thập niên qua?
Dù cho học thuyết cộng sản đã chính thức tự giải thể, và nếu ngày nay còn hiện diện thì chỉ hiện diện trên giấy tờ và trên hình thức mà thôi, nhưng người ta cũng đừng quên rằng, các ảnh hưởng và các hậu quả tiêu cực hiện nay, như: nền kinh tế của đất nước bị rơi vào tình trạng lạc hậu, chậm tiến, bị băng hoại, nhưng nhất là tình trạng luân lý và tôn giáo hoàn toàn bị suy đồi phá sản, v.v…, do học thuyết đó để lại ở Nga cũng như ở các nước thuộc khối Đông Âu, thì còn cần phải nỗ lực trong rất nhiều thế hệ nữa mới mong hàn gắn lại được phần nào. Vì thế, Đức GM Sheen đã có lần gọi thế giới cộng sản là «thân mình mầu nhiệm của Antichristus».
Cuối cùng, một điều quan trọng mà chúng ta không được phép quên, là mọi biến cố - dù to hay nhỏ và dù quan trọng hay tầm thường – đã, đang và sẽ xảy ra trong vũ trụ, trong cuộc sống của từng người hay của cả nhân loại, đều không xảy ra ngoài sự an bài của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa Toàn Năng, Đấng tự hữu và luôn hiện hữu trong vũ trụ cũng như trong cuộc sống của nhân loại và của mỗi người, dù cho nhân loại có tin nhận và thờ kính Người hay không. Vâng, tất cả mọi sự xảy ra trong vũ trụ này, đều nằm trong tầm kiểm soát tuyệt đối và đầy uy quyền của Thiên Chúa Toàn Năng.
Điều đó được chứng minh rõ ràng qua hiện tượng: Trong khi vào ngày 10.10.1917, Hội đồng Cách mạng Bôn-xờ-vít ở Nga Sô đã nhất trí quyết định sẽ dùng bạo lực tổ chức một cuộc nổi dậy vào đêm 25. rạng ngày ngày 26.10.1917, để lật đổ chế độ Nga Hoàng và thiết lập một chế độ cộng sản vô thần, hoàn toàn chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, thì vào ngày 13.10.1917, qua trung gian của Đức Trinh Nữ Maria, Thiên Chúa đã công khai thực hiện một phép lạ vĩ đại trước sự chứng kiến của hàng trăm ngàn người trong khắp toàn vùng Fatima: Phép lạ mặt trời vào đúng ngọ đã bỗng chốc quay cuồng múa nhảy một cách kỳ lạ và bắn tung toé ra chung quanh đủ mọi thứ màu sắc rực rỡ, giữa những tiếng kêu la đầy hoảng hốt sợ hãi của đám đông.
Phải chăng khi Thiên Chúa đã công khai thực hiện một phép lạ cả thể như thế - ngoài mục đích là để mọi người tin sự kiện Fatima là thật, như lời Đức Mẹ đã hứa cùng ba trẻ - lại không muốn chứng minh rằng: Dù cho con người có chối bỏ sự hiện hữu của Người, thì Thiên Chúa vẫn luôn còn đó, thì Thiên Chúa vẫn luôn là Thiên Chúa, vẫn luôn là Chúa Tể càn khôn, và vẫn luôn là Thẩm Phán Tối Cao cầm quyền xét xử muôn dân thiên hạ? Tiếp đến, sự thể chủ nghĩa cộng sản vô thần ở Liên Sô cũ và ở các nước Đông Âu bị sụp đổ toàn diện vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước và nước Nga đã thực sự ăn năn trở lại, cũng chính là một chứng từ hùng hồn biện minh cho sự kiện Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên ở Fatima vào năm 1917 để gởi tới toàn thể nhân loại những sứ điệp quan trọng và khẩn cấp, là một sự thật hiển nhiên. Vì chính tại Fatima, Đức Mẹ đã loan báo trước là: «Sau cùng Trái Tim Mẹ sẽ toàn thắng… Nước Nga sẽ ăn năn trở lại.»
Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Đức Hồng Y Joachim Meisner, Tổng Giám Mục giáo phận Köln ở Đức đã tâm sự: «Tôi chỉ biết đến Fatima qua nghe nói mà thôi, nên tôi phải thú thật là tôi chẳng thấy tâm hồn rung động gì cả. Nhưng vì tôi mới chuyển từ Berlin về Köln được 9 tháng, trước khi chế độ cộng sản Đông Đức sụp đổ, nên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhờ tôi chủ sự cuộc hành hương vĩ đại vào ngày 13.5.1990 tại Fatima, sau khi chế độ cộng sản cáo chung. Ngài nói rằng tôi là Giám Mục của Berlin, nên cũng làm Giám Mục của hai hệ thống xã hội khác nhau, hệ thống cộng sản và tư bản. Và Đức Thánh Cha nói: ‘Đức Hồng Y rất xứng đáng chủ sự cuộc hành hương Fatima’. Chính ở đây tôi đã khám phá ra được Sứ Điệp đặc biệt của Fatima đối với thế giới tân tiến ngày nay là gì, đó là: Một nửa năm trước khi chế độ cộng sản ở Đông Âu dập tắt đi ánh sáng – ánh sáng đức tin – thì ở phía tận cùng Âu Châu, tức ở Fatima, qua sự hiện ra của Mẹ Thiên Chúa, ánh sáng đó lại được thắp sáng lên cho cả Âu Châu. Và Mẹ Maria đã không hiện ra ở các Đại Học, Mẹ không mang đến cho các vị giáo sư Sứ Điệp của mình, nhưng Mẹ đã hiện ra trong khung cảnh bình thường của cuộc sống hằng ngày vất vả, đến với những em bé nghèo khó, nhưng lại có một tâm hồn đạo đức sống động. Chính các em bé đó đã được Mẹ Maria trao phó cho một Sứ Điệp làm thay đổi Âu Châu và cả thế giới; nói cách khác, nhờ sự phù trợ của Mẹ, chế độ cộng sản đã giải thể, và Mẹ Maria lại thắp sáng lên ánh sáng ở Đông âu. Chính Sứ Điệp siêu nhiên Fatima đã có sức mạnh làm thay đổi cuộc sống chính trị và nhân bản tân tiến ngày nay một cách lạ lùng mà không một nhà chính trị nào có thể ngờ tới được.»(16)
Nếu vậy, ở đây, người ta có cần tự hỏi nữa hay không, là: Phải chăng sự kiện chế độ cộng sản thuộc khối Đông Âu, bắt đầu từ Đông Đức, đã tự thoái hóa và tan rã hoàn toàn cũng vào tháng 10 (năm 1989) chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên thuần túy nhân loại?
Nhưng một điều mà người ta có thể khẳng định được một cách chắc chắn rằng, hai biến cố quan trọng có liên quan đến vận mệnh và sự tồn vong của cả nhân loại, cùng đã xảy ra vào tháng 10 năm 1917 – biến cố Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn chiên ở Fatima và cuộc nổi dậy của phong trào cộng sản vô thần ở Nga Sô – phải có liên hệ chặt chẽ với nhau, mặc dù hai biến cố đó mang trong mình hai sứ điệp của hai thế giới hoàn toàn đối kháng:
* Một bên đã công khai minh chứng rằng, ngoài thế giới vật chất hữu hình, còn có thế giới siêu nhiên vô hình và vĩnh cửu nữa, và qua đó chứng minh cách mặc nhiên sự hiện hữu của Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng đã tạo dựng nên con người và toàn thể vũ trụ, hữu hình cũng như vô hình, trong tình yêu vô biên của Người. Chính Người là Đấng chỉ muốn con người luôn yêu thương nhau và tha thứ cho nhau, để cùng nhau xây dựng một cuộc sống hạnh phúc ngay trên cõi đời này.
* Còn một bên khác lại khẳng định chỉ có thế giới vật chất hữu hình mà thôi. Ngay từ khởi nguyên đã có vật chất, vật chất đã hiện hữu và ngoài vật chất ra không còn gì khác nữa. Qua đó, họ đã phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu của Thiên Chúa Tạo Hóa. Theo họ, tất cả những gì xảy ra trong vũ trụ đều là kết quả tất yếu phát xuất từ những sức mạnh đối kháng nội tại tiềm ẩn trong vật chất, chứ không do bất cứ một sức mạnh toàn năng ngoại tại nào khác. Cũng vì thế, để thiết lập một thế giới lý tưởng và thuần nhất, thế giới cộng sản đại đồng, họ hoàn toàn dựa vào nguyên tắc đối kháng cố hữu, tức sự đấu tranh giai cấp và loại trừ giai cấp bằng bạo động.
Nhưng ngày nay, tuy chủ nghĩa cộng sản không còn là mối đe dọa nguy hiểm thực tiễn cho nhân loại như vào đầu tiền bán thế kỷ XX nữa, nhưng chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa xác thịt, chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa khủng bố đội lốt tôn giáo do những phần tử Hồi giáo quá khích chủ xướng, v.v…,vẫn luôn là những mối đe dọa vô cùng nguy hiểm cho tương lai và cho sự hạnh phúc chân chính của nhân loại hơn bao giờ hết. Bởi vậy, đối với chúng ta, những con người ngày nay, những lời nhắn nhủ đầy tình mẫu tử của Mẹ Maria ở Fatima xưa kia, càng trở nên thời sự và khẩn trương hơn bao giờ hết, đó là: Ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống; Siêng năng cầu nguyện và lần hạt Mân Côi mỗi ngày; Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.

yeuthuongvaphucvu_89
27-04-2009, 01:09 AM
Sự khả tín của Sứ Điệp Fatima
Lm Nguyễn Hữu Thy

Với biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, người ta có thể nói được một cách chắc chắn rằng kỷ nguyên của Mẹ Maria đã đạt tới điểm cao tột đỉnh. Và tất nhiên, cũng không một ai có thể cho rằng đó là một việc tình cờ hay một sự ngẫu nhiên được, khi những biến cố siêu nhiên lạ lùng xảy ra từ ngày 13 tháng 5 cho tới ngày 13.10.1917 tại Fatima, lại xảy ra hoàn toàn trùng hợp cùng một thời điểm với cuộc cách mạng Bôn-xờ-vít, cuộc bùng nổ của phong trào cộng sản vào tháng 10 năm 1917 tại Mạc-tư-khoa, khởi đầu cho kỷ nguyên cộng sản quốc tế vô thần, chủ trương duy vật biện chứng và hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa cũng như toàn bộ công trình sáng tạo vũ trụ của Người. Từ đây hai kỷ nguyên mới đại diện cho hai thế lực hoàn toàn đối lập nhau đã bắt đầu.

Như thế người ta thấy rằng trong suốt hơn 2000 năm lịch sử của Giáo Hội, chưa bao giờ thị kiến mang tính cách tiên tri của tác giả Sách Khải Huyền về cuộc chiến giữa Người Nữ «khoác áo mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội mười hai ngôi sao» và con «rồng đỏ khổng lồ» lại trở nên hiện thực một cách rõ rệt như thế (x. Kh 13,1tt).

Ở Mạc-tư-khoa, thủ đô Nga Sô, bộ Chính trị Trung ương Bôn-xờ-vít đã nhất trí dùng bạo lực phát động một cuộc nổi dậy vào ngày 10.10.1917. Chương trình của cuộc nổi dậy: «Vào đêm 25 rạng ngày 26.10 sẽ đột chiếm dinh Mùa Đông, bản doanh của chính phủ lâm thời Nga Hoàng đang do Alexander Kerenskij lãnh đạo và sẽ bắt giam tất cả mọi thành viên của chính phủ này. Bắt buộc Hạ viện Quốc hội Sô-viết thực thi khẩu hiệu của Bôn-xờ-vít ‘Tất cả mọi quyền lực là của người Sô-viết’ và đồng thời thành lập một chính phủ cách mạng do Lê-nin lãnh đạo»(1). Mục đích của cuộc cách mạng Tháng Mười Bôn-xờ-vít là lật đổ chế độ Nga Hoàng và thành lập một chế độ cộng sản vô thần, hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, và tìm cách loại bỏ tôn giáo bằng mọi giá. Nhưng dĩ nhiên Mạc-tư-khoa chỉ là bước khởi đầu, hay nói đúng hơn là bàn đạp cho những phong trào cộng sản sử dụng để nhuộm đỏ phần thế giới còn lại bằng chủ thuyết vô thần và duy vật của họ.

Nhưng 10 ngày trước đó, ngày 13.10.1917, hàng trăm ngàn người đã chứng kiến tận mắt một phép lạ vĩ đại chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại, mà Thiên Chúa đã thực hiện tại Fatima do sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, phép lạ mặt trời quay cuồng bay lộn một cách vừa ngoạn mục vừa khủng khiếp. Qua đó, Thiên Chúa muốn minh chứng một cách hùng hồn cho toàn thể nhân loại về sự hiện hữu cũng như về quyền năng tối thượng bất khả phủ nhận của Người, đồng thời đó cũng là một câu trả lời rõ ràng và trực tiếp cho phong trào cộng sản vô thần và duy vật chất do Lê-nin lãnh đạo đã bùng nổ ở Nga Sô và đang trở thành một mối đe dọa nguy hiểm cho cả thế giới nói chung và cho Kitô giáo nói riêng.

Tuy nhiên, không chỉ sự thành công của cuộc cách mạng Tháng Mười của Bôn-xờ-vít vô thần, nhưng cả những sự sửa soạn của họ trước đó, cũng đã không xảy ra ngoài con mắt của «Vị Nữ Tướng bách chiến bách thắng của Thiên Chúa!» (Đức Piô XII).

Thật vậy, vào tháng tư trước đó, với sự dàn xếp và giúp đỡ của các sĩ quan quân đội Đức, Lê-nin đã rời bỏ Thụy Sĩ, nơi ông đang lánh nạn, và trở lại Nga sô. Ông bắt đầu công bố các tư tưởng cách mạng và phương thức hành động của ông - mà người ta thường gọi là các «Luận Đề Tháng Tư» - để giải thích cho các thuộc hạ hiểu rõ mục đích cuộc cách mạng và vạch ra cho họ con đường rõ ràng để dẫn cuộc cách mạng đến chỗ thành công(2). Trong những tuần lễ đó, chính phủ lâm thời do Kerenskij lãnh đạo luôn luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn to lớn, trong khi đó ảnh hưởng của Lê-nin mỗi ngày mỗi bành trướng mạnh mẽ trong dân chúng. Vì thế, mặc dù nhờ vào sự hỗ trợ của các đoàn quân từ mặt trận kéo về, quân đội của chính phủ Kerenskij lại một lần nữa đã dẹp tan được cuộc nổi dậy Tháng Bảy(3), nhưng Lê-nin luôn luôn xác tín rằng cuộc cách mạng cộng sản do ông ta lãnh đạo chỉ tạm thời bị thất bại, vì đã khởi động quá sớm mà thôi, chứ sự thất bại đó sẽ không còn có thể ngăn cản được sự thành công một ngày gần đây.

Vì thế, ông đã không nản lòng, trái lại còn kêu gọi thuộc hạ cần phải tăng cường mọi nỗ lực và phải hy sinh vất vả hơn nữa. Từ Phần Lan, ông ta đã soạn thảo các văn bản và những lời hiệu triệu soạn sửa hành động để trong vòng ba tháng nữa sẽ cướp chính quyền.

Vào đúng thời điểm đó – ngày 13.5.1917 - tại Fatima thuộc nước Bồ Đào Nha, Đức Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi đã hiện ra lần thứ nhất với ba trẻ chăn chiên và công bố những luận đề riêng của Mẹ để chỉ dạy cho con cái loài người nhận ra được mục đích và chiều hướng của cuộc cách mạng chân chính duy nhất mà Phúc Âm Đức Kitô đã đề xướng, đó là: Con người phải từ bỏ tội lỗi, canh tân nội tâm, sửa đổi cuộc sống và quay trở về cùng Thiên Chúa. Và vào ngày 13 tháng 7, ngay trước khi tại thành phố Peterburg ở Nga Sô những dòng máu đầu tiên của hàng ngàn dân chúng vô tội đổ ra do các bộ hạ Lê-nin gây ra, thì tại Fatima Đức Maria đã công bố Sứ Điệp của Mẹ gồm ba mệnh lệnh đơn sơ và ngắn gọn, để cho nhân loại thực thi, hầu nhờ thế bước tiến hung hăng, đầy tham vọng và vô cùng nguy hiểm của đoàn quân Lê-nin sẽ bị ngăn chận kịp thời; đó là:

1. Ăn năn sám hối, hoàn lương và cải thiện cuộc sống.
2. Tôn kính Mẫu Tâm Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
3. Sốt sắng lần hạt Mân Côi mỗi ngày.

Và chính Đức Mẹ cũng đã quả quyết rằng: «Nếu nhân loại biết nghe theo lời yêu cầu của Mẹ, nước Nga sẽ ăn năn trở lại và sẽ có hòa bình.»

Như vậy, năm 1917 quả thực là một «năm định mệnh»(4) cho cả nhân loại. Nhưng đối với toàn thể thế giới Kitô giáo, năm 1917 còn là một năm đã nêu rõ trách nhiệm to lớn của họ đối với lục địa Âu Châu và đối với toàn thế giới qua những biến cố đã xảy ra ở Đông cũng Tây phương.

Một sự thể không thể chối cãi được là chủ thuyết cộng sản vô thần được bắt đầu năm 1917 tại Ngay Sô và đang trên đường bành trướng đến một số quốc gia trên thế giới, nhất là ở những nơi mà Sứ Điệp Fatima không được quan tâm thực thi. Cách riêng là do lục địa Kitô giáo Âu Châu đã phản bội Đức Kitô, vì đã:

· tạo điều kiện cho kỷ nguyên của chủ thuyết cộng sản vô thần khởi động;
· thiếu lòng sùng kính đối với Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa;
· làm lu mờ vẻ huy hoàng sự chiến thắng vinh quang của kỷ nguyên Mẹ Maria bằng sự chạy theo vật chất xác thịt và bằng các tội ác khác của mình.

Những ai thành tâm tìm hiểu và suy niệm Sứ Điệp Fatima sẽ khám phá ra được rằng, không chỉ động lực thiêng liêng mạnh mẽ được chứa đựng trong đó, nhưng còn nhận rõ được cả tầm quan trọng mang tính cách lịch sử liên hệ nữa. Đức Giám Mục Fulton J. Sheen viết: «Sự mặc khải Fatima là cả một nhắn nhủ hết sức nghiêm trọng được gửi đến tất cả mọi Kitô hữu, đó là:

· Vấn đề vốn được xem là của nước Nga, lại chính là vấn đề của các Kitô hữu.
· Người ta cần phải chinh phục nước Nga và giúp họ quay trở lại với xã hội tự do dân chủ của các dân tộc bằng lời cầu nguyện, bằng sự hãm mình và ăn chay đền tội, chứ không phải bằng thái độ khiêu khích nhục mạ, bằng gây hấn và chiến tranh.»(5)

Nhưng vì nhân loại chúng ta vẫn không thực thi Sứ Điệp và «những lời nhắn nhủ hết sức nghiêm trọng» của Mẹ Thiên Chúa, vẫn không thay đổi thái độ sống lệch lạc của mình, nên chúng ta khó có thể bào chữa cho mình được trước tòa án lịch sử, vì:

· chúng ta đã không ngăn cản được cuộc thế chiến II tàn khốc khỏi xảy ra;
· hàng triệu sinh mạng người vô tội đã phải hy sinh một cách vô ích;
· và hơn một phần ba thế giới đã bị rơi vào gông cùm của Liềm- Búa.

Ngày nay, sau hơn 70 năm hoành hành tại nước Nga, tại Liên Bang Sô Viết, tại các nước Đông Âu, tại Trung Hoa và một số các nước khác trên thế giới, chế độ cộng sản vô thần đã chính thức tự giải thể và cáo chung tại các phần đất này, nhưng các ảnh hưởng tai hại khủng khiếp của nó để lại cho các dân tộc liên hệ trong mọi lãnh vực thật khôn lường:

· Về kinh tế: đất nước rơi vào tình trạng tụt hậu, kém mở mang, nghèo đói và lạc hậu;
· Về văn hóa: đại đa số dân chúng ngu dốt, thiếu sáng kiến cá nhân, kiến thức hẹp hòi, xa lạ với nền văn minh tiến bộ của nhân loại, vì chỉ sống trong bầu không khí tuyên truyền một chiều;
· Về xã hội: rời rã, thiếu tổ chức, thiếu kỷ luật luân lý, thiếu năng động, kém mở mang, đồng dạng, một chiều, thiếu óc phê bình;
· Về tôn giáo: trên 80% dân chúng tại Liên Sô cũ và các nước Đông Âu vô tôn giáo, tâm hồn hoàn toàn trống rỗng, lạc lõng, vô định hướng, thiếu hẳn sự an ủi và cậy dựa về mặt tinh thần. Do đó, đã đưa tới hậu quả, là:
· Về luân lý đạo đức: vật chất, tầm thường, thiển cận, ích kỷ, hưởng thụ, vô trách nhiệm.

Vì thế, người ta phải tự hỏi: Phải chăng nhân loại đã có thể tránh được tất cả những hậu quả đau thương như thế, nếu họ đã biết lắng nghe những lời nhắn nhủ và yêu cầu của Mẹ Thiên Chúa ở Fatima? Vâng, lời cảnh giác của Đức Mẹ đã quá rõ ràng: «Nếu nhân loại không muốn đáp lại lời yêu cầu của Mẹ, nước Nga sẽ gieo rắc các lạc thuyết ra khắp nơi, sẽ gây ra chiến tranh và các cuộc đàn áp Giáo Hội. Các người lành sẽ bị tàn sát, Đức Thánh Cha sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Nhiều dân tộc sẽ bị tiêu diệt».(6)

Thật là một điều vô cùng đáng sợ khi chỉ nghĩ tới hành động của bao nhiêu người đã và đang khinh thường Sứ Điệp Fatima của Mẹ Thiên Chúa, nếu không muốn nói là họ còn tìm cách chống đối và kết án, và không chỉ những kẻ thù của Giáo Hội hành động như thế, nhưng còn có cả một số không nhỏ con cái Giáo Hội nữa. Vì thế, ở đây chúng ta cần nhắc lại lời tuyên bố của ông Hamisch Fraser - một cựu đảng viên cộng sản đã ăn năn trở lại - trước đại hội Đạo Binh Xanh Đức Mẹ tại Paris vào ngày 8.12.1952 như sau: «Chúng ta hoàn toàn được tự do phủ nhận Đức Mẹ Fatima. Nhưng nếu chúng ta làm điều đó, và rồi mọi hậu quả khủng khiếp xảy ra, thì bấy giờ chúng ta đừng nói rằng mình đã không được nhắc bảo trước. Chớ gì Thiên Chúa rộng lòng tha thứ cho chúng ta, nếu chúng ta phủ nhận Sứ Điệp Mẹ Fatima.»

Dĩ nhiên, ở đây chúng ta cũng cần phải xác định rằng Sứ Điệp Fatima là một sự mặc khải tư riêng, chứ không phải là một chân lý mặc khải đã được Giáo Hội công khai tuyên xưng như một tín điều. Nói cách khác, Sứ Điệp Fatima không được Giáo Hội công bố – với uy quyền của Thiên Chúa và với ơn vô ngộ đã được Người ban cho - như những chân lý đòi buộc phải tin, và vì thế, các tín hữu cũng không nhất thiết bó buộc phải tin theo. Nhưng tất nhiên, điều đó không có nghĩa là: nếu các tín hữu luôn trung thành và sốt sắng liên kết gắn bó với Giáo Hội lại được phép coi Sứ Điệp Fatima như bất cứ sự mặc khải tư riêng nào khác và vì thế được phép dễ dàng coi thường hay phủ nhận.

Một điều khác cũng quá hiển nhiên và không thể phủ nhận được, đó là các mặc khải tư riêng đã có những ảnh hưởng rất sâu rộng trên sự sống và chương trình Phụng Vụ của Giáo Hội từ hàng bao thế kỷ nay. Ở đây, chúng ta thử đan cử một vài ví dụ cụ thể, như: phong trào sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, và từ đó đã dẫn tới việc thiết lập Lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu; hay như việc thiết lập Lễ Mình và Máu Thánh Chúa, v.v… Tất cả đều đã được bắt nguồn từ các mặc khải tư(7). Chính Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên bố trước Hồng Y Đoàn vào ngày 1.6.1946 những lời như sau: «Chúng tôi cảm thấy bó buộc lại phải lên tiếng kêu gọi mọi con cái của Giáo Hội cần ghi nhớ sự cảnh giác, mà Chúa Cứu Thế trong suốt hàng bao thế kỷ đã luôn luôn tiếp tục nhắc bảo qua những mặc khải của Người cho các tâm hồn đặc biệt mà Người đã ưu tuyển: Hãy giảm nhẹ án phạt công minh của Thiên Chúa bằng việc phát động một chương trình ăn năn đền tội trên khắp thế giới»(8).

Qua những trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng trong các Vị Giáo Hoàng hiện đại, thì Đức Piô XII và Đức Gioan Phaolô II đã có một mối tương quan rất mật thiết với Fatima. Đức Piô XII suốt trong thời gian trên ngôi Giáo Hoàng đã viết vô số Tông Thư, Sắc Lệnh và các bài diễn thuyết đề cập đến Fatima. Còn Đức Gioan Phaolô II - tuy viết rất ít các văn thư về Fatima - nhưng chính ngài đã ba lần liên tiếp đích thân đi hành hương Fatima. Nhất là sau vụ ngài bị Ali Agca, một tên khủng bố Hồi Giáo, ám sát và làm trọng thương trên chính quảng trường Thánh Phêrô ở Roma vào ngày 13.5.1981, Đức Gioan Phaolô II đã hoàn toàn xác tín rằng chính Đức Mẹ Fatima đã cứu sống ngài; chính Sơ Lucia cũng công nhận như thế. Bởi vậy, sau đó ngài đã đi hành hương Fatima để tạ ơn Đức Mẹ. Trong cuộc hành hương này Đức Gioan Phaolô II cũng đã mang theo một trong 4 viên đạn mà tên khủng bố đã bắn vào ngài và cho gắn vào mũ triều thiên trên đầu Đức Mẹ. Và một sự lạ lùng làm mọi người kinh ngạc là trên mũ triều thiên Đức Mẹ đã có một cái lỗ hoàn toàn vừa vặn với viên đạn đó, như thể đã dự trù và làm sẵn cho viên đạn đó từ trước rồi.

Ngày 13.5.1955, Đức Hồng Y Angelo G. Roncalli, Thượng Phụ thành Venise - mà ba năm sau đó đã được bầu làm Giáo Hoàng Gioan XXIII – khi đến kính viếng trung tâm hành hương quốc tế Fatima, đã có được một ấn tượng sâu xa trước bầu không khí đạo đức tại ngọn đồi Cova Da Iria và Sứ Điệp siêu nhiên phát xuất từ đó. Trong bài giảng trước biển người hành hương vào khoảng 700.000 người, ngài đã nói: «Cho tới nay, tôi chỉ biết được rằng Bồ Đào Nha là một quốc gia có đội thuyền hàng hải nổi danh, có nhiều thuộc địa, có các nhà truyền giáo và là đất nước của vô số thánh nhân. Nhưng bây giờ tôi đã khám phá ra được rằng Bồ Đào Nha còn là một đất nước đầy huyền nhiệm, một đất nước đã phát động một phong trào tông đồ mới, nhắc lại lời mời gọi thực thi những chân lý vĩnh cửu của Phúc Âm – từng được loan báo cho toàn thế giới qua lời nói và mẫu mực của Đức Kitô – nhưng nay lại đã được tín thác cho những trẻ thơ, đơn sơ và nghèo hèn. Đó là điều gây nơi tôi một ấn tượng sâu xa.» Và cuối bài giảng của ngài, Đức Thượng Phụ đã cầu nguyện: «Lạy Mẹ Fatima, một lần nữa, con xin cảm tạ Mẹ đã thương mời con đến tham dự vào bữa tiệc của lòng thương xót và của tình yêu trọng đại này. Chính nơi đây, làn gió nhẹ buổi trưa xưa kia đã từng loan báo các lần Mẹ hiện đến trên cây sồi, và nay chính nơi Mẹ từng nhắn nhủ, từng ban cho con cái loài người mọi ơn lành đó, Mẹ đã cho con cảm nghiệm được sự ngọt ngào của những lời chúc phúc của Mẹ.»(9)

Phải chăng những sự kiện đó đã không muốn chứng minh rằng Sứ Điệp Fatima thật là một điều hoàn toàn khả tín?

Đàng khác, chúng ta đừng quên rằng biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima là một sự kiện lịch sử hiển nhiên. Thật vậy, người ta đã có thể chứng minh được những lần hiện ra của Đức Mẹ một cách rõ ràng hơn bao biến cố lịch sử khác, khiến cả những người vốn hoài nghi một cách cố chấp cũng phải chấp nhận. Trong vòng 8 năm trời, hiện tượng Đức Mẹ hiện ra ở Fatima đã được một Ủy Ban - do chính Đức Giám Mục giáo phận Leiria-Fatima đứng đầu – điều tra một cách hết sức thận trọng, nghiêm chỉnh và khách quan. Còn ba trẻ đã được thị kiến Đức Mẹ - những đứa trẻ nông thôn đơn sơ, tâm sinh lý hoàn toàn lành mạnh và không hề có chút mảy may bị ảo tưởng – thì từng em một đã phải trải qua những cuộc hỏi cung hết sức nghiêm ngặt, tinh vi và phức tạp bởi chính quyền có khuynh hướng thù nghịch Giáo Hội lúc bấy giờ, cũng như bởi những nhà chuyên môn, nhưng các câu trả lời của ba em khi được hỏi cung riêng rẽ như thế, đều hoàn toàn trùng hợp với nhau, chứ không hề có chút khác biệt hay mâu thuẫn nhau, hoặc có bất cứ dấu hiệu gian trá nào. Ngay khi ba em phải đối mặt trực tiếp với cái chết đang sẵn chờ trước mắt, cả ba trẻ đều giữ vững sự xác tín của mình. Vâng, các em sẵn sàng thà chịu ném vào một chảo dầu sôi để chết, chứ dứt khoát không chịu thổ lộ bí mật mà «Bà Đẹp» đã tin tưởng giao phó cho các em.

Nhưng nhất là phép lạ mặt trời quay vào ngày 13.10.1917 trước sự chứng kiện tận mắt của gần 70.000 người có mặt hôm đó tại hiện trường và chưa kể hàng ngàn người khác trong khắp các vùng kế cận. Đặc biệt nhất là phép lạ mặt trời quay xảy ra hôm đó đã được chính các phóng viên của rất nhiều tờ báo lớn thù nghịch với Giáo Hội ở Bồ Đào Nha chứng kiến, những phóng viên vốn tìm đến Cova Da Iria hôm đó chỉ với mục đích là tìm cách chấm dứt lần cuối cùng cái «trò hề mê tín» từng xảy ra mấy tháng nay bằng những bài báo đầy giọng châm biếm và chế giễu. Nhưng rồi chính mắt họ đã chứng kiến tại hiện trường một sự lạ lùng xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, ngoài sức tưởng tượng và dự đoán của họ, nhất là đã làm đảo lộn hoàn toàn mọi tư duy và quan điểm của họ, khiến họ đã làm ngược lại với dự định ban đầu của mình khi mới tới Cova Da Iria, tức thay vì viết những bài báo chế giễu và phỉ báng, thì họ đã cho đăng tải ở trang nhất những bài báo đầy vẻ kính cẩn và hết lời ca ngợi.

Ở đây, người ta cũng không thể bỏ qua một chi tiết quan trọng đã góp phần làm cho biến cố Fatima thêm tính cách khả tín mà chúng tôi vừa nhắc qua ở trên, đó là thái độ chống đối khe khắt và quá khích của chính quyền địa phương quận Ourem lúc bấy giờ. Thật vậy, chính quyền quận Ourem vào lúc xảy ra biến cố Fatima, hoàn toàn nằm trong tay những kẻ thuộc bè Tam Điểm, vô thần và công khai chống đối Giáo Hội. Vì thế, họ đã không một chút nương tay trước những sự kiện mang tính cách tôn giáo như biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Cova Da Iria. Họ đã tìm đủ mọi biện pháp – kể cả bắt bớ, giam cầm, ngăm đe dọa nạt, khủng bố tinh thần ba trẻ - hầu để ngăn chận và dập tắt sự cố, chứ không thể để xảy ra, kẻo quan điểm vô thần và thái độ thù nghịch Giáo Hội của họ khỏi bị đe dọa và khỏi bị thiệt hại. Nhưng chính cách thức và thái độ hành xử cực kỳ khe khắt đến bất công của họ đối với ba trẻ thơ ngây vô tội Fatima lại là một đóng góp tích cực cho tính cách khả tín của biến cố Fatima. Như thế, họ đã vô tình đi ngược lại mục đích của mình, và thay vì dập tắt được biến cố như họ mong muốn, họ lại làm cho biến cố thêm khả tín hơn và vì thế càng bành trướng, càng lan rộng một cách nhanh chóng hơn.

Cuối cùng, đúng 13 năm sau đó, tức vào ngày 13.10.1930, với sự nhất trí và đồng thuận của Hội Đồng Giám Mục Bồ Đào Nha, Đức Cha Don José Correira da Silva, Giám Mục Giáo phận Leiria-Fatima đã công khai và chính thức nhìn nhận biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Cova Da Iria là sự thật và hoàn toàn khả tín.

Còn Toà Thánh Vatican, dưới triều đại các Đức Giáo Hoàng Piô XI và Bênêđíctô XV, luôn có thái độ ủng hộ biến cố Fatima.(10) Nhưng đặc biệt nhất là dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Piô XII, biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima đã chính thức được Giáo Hội công nhận là sự thật. Trong cuộc gặp gỡ các phái đoàn hành hương từ khắp thế giới kéo về giáo đô Roma vào tháng 6.1951, khi được phái đoàn đông đảo đến từ Bồ Đào Nha lớn tiếng tung hô: «Vạn tuế vị Giáo Hoàng của Fatima!», thì Đức Piô XII đã mỉm cười trả lời: «Vị Giáo Hoàng Fatima đó chính là Cha đây!» Ngày 13.5.1942, Đức Hồng Y Cerejeira, Thượng Phụ thủ đô Lissabon, đã quả quyết rằng Fatima đối với mỗi tín hữu Bồ Đào Nha hiển nhiên là một biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử của cả đất nước. Và vào năm 1947, chính Đức Hồng Y lại bổ túc thêm bằng những lời tuyên bố như sau: «Fatima không chỉ thuộc về một mình nước Bồ Đào Nha, nhưng thuộc cả thế giới. Fatima đã trở thành Trung tâm của đức tin, của lòng ăn năn thống hối và của niềm hy vọng cho toàn thể nhân loại. Fatima, bàn thờ của thế giới, đứng trực diện đương đầu với Mạc-tư-khoa, sào huyệt của những kẻ thù vô thần và nguy hiểm của Kitô giáo. Fatima đã cảnh cáo cho nhân loại biết rằng những nguy hiểm của chiến tranh, của ách nô lệ và của sự tiêu diệt chết chóc, đang đe dọa họ, nếu họ xa lìa Thiên Chúa. Nhân loại sẽ được hưởng hạnh phúc, sự tự do và nền hòa bình, nếu họ biết hối cải quay trở về cùng Đức Kitô. Một điều đã xảy ra trong cùng một năm là trong khi màu cờ đỏ của cuộc cách mạng vô thần tung bay ngập trời với những hứa hẹn cho một cuộc giải phóng thế giới không cần tới Đức Kitô, thì Fatima lại mang trên mình ấn tín sự can thiệp cụ thể và rõ ràng của Thiên Chúa. Vâng, người ta rất khó có thể tìm thấy trong lịch sử Giáo Hội lại có được một biến cố có thể so sánh được với biến cố xảy ra ở Fatima. Người ta có thể nói mà không sợ quá lời rằng, ở Fatima nhân loại đã nhìn thấy được sự bảo đảm cho sự cứu rỗi của mình!»(11).

yeuthuongvaphucvu_89
27-04-2009, 01:10 AM
Thơ : Dâng Lời Cảm Tạ Mẹ Fatima



Fatimá ngày xưa, một lần Mẹ đã đến
Thương đoàn con, trong tội lỗi xiết rên
Ban mệnh lệnh, dậy con mau thống hối
Hãy cải thiện, tôn sùng, chuỗi Mân côi

Fatimá hôm nay, con hân hoan bước tới
Cùng với Mẹ, tán tạ Chúa Ba Ngôi
Luôn phù trợ, những khi con yếu đuối
Ban ơn lành, trong khúc rẽ cuộc đời
Bước hành trình, Mẹ luôn cùng đi với
Nguồn ủi an, khi lệ đắng trên môi
Ðỉnh danh vọng, Mẹ ban cho một lối
Cuộc tình đầy, con tới uống thảnh thơi

Ðến bên Me, vui thoả sức nhiệm mầu
Ngàn lời kinh, xin trọn suốt đêm thâu
Maria Mẹ ơi!, trời cao Mẹ đã thấu
Tấm lòng con, cảm ta biết bao sâu

“Tấu lậy Bà” , cùng phẩm trật thiên thần
Dâng về Mẹ, Thiên Mẫu Ðấng từ nhân
Lòng cảm mến, trường tấu khúc tri ân
Trọn tình con, yêu Mẹ đến muôn ngàn
************
Một đoá hồng, con dâng lời cảm tạ
Mối ân tình, xin trọn khúc huyền-ca
Bỏ sau lưng, cả thanh-ái nhạt nhoà
Cùng với Mẹ, tri ân khối tình Cha
(Kẻ tri ân, May 2007)