PDA

View Full Version : Người Hy Lạp mở lại phiên tòa xét xử triết gia Socrate



hongbinh
05-06-2012, 06:48 AM
Người Hy Lạp mở lại phiên tòa xét xử triết gia Socrate


http://www.viet.rfi.fr/sites/viet.filesrfi/dynimagecache/0/18/310/232/344/257/sites/images.rfi.fr/files/aef_image/Trial%20of%20Socrates.jpg
Phiên tòa tại Athens xử lại Socrate (-470-399), triết gia quá cố cách đây hơn 2000 năm (DR)



Trọng Thành (http://www.viet.rfi.fr/auteur/trong-thanh)
RFI.Giữa lúc Hy Lạp đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị chưa từng có, ngày 25/05/2012 vừa qua, tại Athens, đã diễn ra một phiên tòa đặc biệt, với sự tham gia của 10 thẩm phán quốc tế và cử tọa 800 người. Phiên tòa tại Athens được tiến hành nhằm xét xử một con người đã qua đời cách đây gần 2500 năm : triết gia Socrate.




Như chúng ta biết, vào năm -399 trước Công lịch, nhà triết học Socrate bị buộc nhiều tội danh quan trọng, và phải đối diện với án tử hình. Phiên tòa xử Socrate đã diễn ra trước một cử tọa gồm 500 công dân thành Athens.
Nhà triết học bị buộc tội báng bổ các thần linh của thành Athens, đưa các niềm tin mới vào thành phố và làm hư hỏng giới trẻ. Socrate đã chọn lấy án tử hình, thay vì làm ngược lại những gì mà ông tin tưởng và theo đuổi.
Cái chết của Socrate cách đây hơn 2000 năm trở thành một biểu tượng cho cuộc đấu tranh của người trí thức, sẵn sàng đánh đổi sinh mạng của mình để khẳng định lý tưởng, khẳng định các giá trị của con đường đi tìm chân lý. Phiên tòa xử nhà triết học cũng để lại cho hậu thế rất nhiều câu hỏi, về quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, về mối quan hệ giữa nghĩa vụ công dân, giữa đức tin với khát vọng truy tìm chân lý, …
Tại phiên tòa tưởng tượng nói trên, những chủ đề này đã được đưa ra tranh luận quyết liệt.
Trong phiên tòa xử lại vụ án Socrate, bởi triết gia không còn nữa, hai luật sư đã đứng ra bào chữa cho bị cáo trước hội đồng thẩm phán mười người, dưới sự chủ tọa của Loretta A. Preska, thẩm phán New York.
Trong số 10 thành viên hội đồng thẩm phán, có năm người ủng hộ tha bổng, năm người phản đối.
Kết luận cuối cùng của phiên tòa là : Bị cáo vô tội.


Quyền tự do tư tưởng và nền dân chủ đang lâm vào khủng hoảng
Một trong những người buộc tội nhà triết học – ông Anthony Papadimitriou (chủ tịch hiệp hội Onassis, cơ sở tổ chức nên sự kiện này) khẳng định, Socrate chỉ đòi hỏi quyền lợi của mình trong một xã hội dân chủ, nhưng lại không có trách nhiệm gì với xã hội này. Người cáo buộc Socrate giải thích, tự do phải có giới hạn, trong xã hội ngày nay không ai có thể ca ngợi Hitler hay phủ nhận nạn diệt chủng của nước Đức Phát xít, lời nói này ám chỉ đến đảng quốc xã mới ở Hy Lạp, hiện giờ đã bắt đầu có chân trong quốc hội nước này, với 7% số phiều bầu.
Trong khi đó, luật sư Patrick Simon thì bảo vệ cho quan điểm cho rằng, lập trường tư tưởng của một người không thể nào bị coi là một tội lỗi. Socrate là con người đi tìm chân lý. Theo luật sư, thân chủ của ông chỉ có một khuyết điểm duy nhất là thích chỉ trích, thích nhạo báng một cách cay độc. Việc tòa án tha bổng cho Socrate không làm mất đi giá trị của một nền dân chủ, mà ngược lại chỉ khiến cho nền dân chủ trở nên vững mạnh và đáng tin cậy.
Phiên tòa tưởng tượng xử lại vụ án Socrate làm sống dậy cuộc tranh luận xung quanh những chủ đề ám ảnh văn minh nhân loại, trước hết là nền văn minh phương Tây từ hơn hai thiên niên kỷ, đó là mối quan hệ giữa thể chế dân chủ và thể chế tập quyền, quyền tự do ngôn luận vào thời điểm xã hội đang rơi vào khủng hoảng, cũng như sự sáng suốt của các công dân.
Những người tổ chức phiên tòa xử lại triết gia Socrate cho rằng, phiên tòa tưởng tượng vừa diễn ra có thể có ích cho xã hội Hy Lạp, hiện đang trong cơn khủng hoảng rất trầm trọng. Ông Anthony Papadimitriou, đứng đầu hiệp hội tổ chức phiên tòa, nói : Hy Lạp đang sống trong một giai đoạn khó khăn, nhưng chúng tôi tin tưởng rằng, chúng tôi sẽ vượt qua, giống như chúng tôi đã từng chiến thắng người La Mã, người Thổ, người Đức, … cũng như vượt qua chén thuốc độc đã giết chết nhà triết học.
Theo các nhà nghiên cứu, Socrate bị một số người coi là kẻ phản bội, trong khi nhiều người khác tôn làm bậc thầy tinh thần. Sinh thời Socrate không để lại trước tác, nhưng tư tưởng của ông về chính trị và đạo đức, đã được một trong các học trò là nhà triết học Platon thuật lại.




http://www.viet.rfi.fr/sites/viet.filesrfi/imagecache/rfi_169_medium/sites/images.rfi.fr/files/aef_image/socrates.jpeg
Vụ án Socrate thành Athens phải uống thuốc độc tự sát cách đây gần 2500 năm vẫn còn ám ảnh nhân loại (DR)

hongbinh
05-06-2012, 07:05 AM
Socrates (469-399 TCN)

Triết gia Hi Lạp. Người thành Athens.

Socrates được xem là người khai mở thời kỳ thứ hai của triết học Hi Lạp và bắt đầu triết học Tây phương từ gần 25 thế kỷ nay. Có người so sánh ông với Khổng Tử, vị vạn thế sư biểu á đông.

Nổi tiếng vì quan điểm nhìn triết học như cuộc tìm kiếm thích đáng và thiết yếu cho mọi người có trí tuệ, ông là gương mẫu vĩ đại và có tính lịch sử của một người sống theo niềm tin, sứ mệnh và nguyên tắc của mình cho dẫu phải trả giá bằng mạng sống, vì cái chết lúc ấy chỉ như một cam kết bảo đảm cho chân lý của lời mình phát biểu.

Những gì hậu thế biết về con người và lời giảng của Socrates đều gián tiếp qua các đối thoại, khi rõ nét khi thấp thoáng, của Platon và cuốn Memorabilia của Xenophon; cả hai đều là môn đệ ông. Bất chấp những thông giải không giống nhau về lời giảng của sư phụ, tường trình của hai tác giả ấy bổ sung nhau trên một qui mô lớn, biến con người và niềm tin của Socrates trở thành bất tử.

Socrates là con của Sophroniscus, một người tạc tượng. Người ta nói rằng những năm mới vào đời, ông theo nghề nghệ thuật của phụ thân. Tới tuổi trung niên, ông kết hôn với Xanthippa, người theo truyền thuyết là một phụ nữ đanh đá dù những chuyện kể về bà ít có cơ sở thực tế xác minh — Will Durant cho rằng bà là người yêu Socrates và rất đau buồn trước cái chết của người bạn tinh thần.

Cũng không thể biết chắc các vị thầy dạy triết cho Socrates là ai, nhưng dường như ông đã làm quen với các học thuyết của Parmenides, Heraclitus, Anaxagoras cùng những người theo thuyết nguyên tử; họ ở trong những vị được hậu thế xếp vào hàng ngũ ‘các triết gia tiền Socrates’.

Trước năm 40 tuổi, Socrates nổi tiếng về năng lực trí tuệ. Theo tường trình của Plato về lời biện minh của Socrates trong phiên tòa xử ông, lời sấm ở đền Delphi tuyên bố Socrates là người thông thái nhất Hi Lạp. Trong diễn từ đó, Socrates quả quyết rằng lời sấm nói ông sáng suốt có lẽ là vì ông nhận ra rằng mình chẳng biết gì cả trong khi những người tự xưng thông thái không nhận ra sự ngu dốt của họ.

Socrates bắt đầu tin rằng thiên hướng của ông là tìm kiếm minh triết và đức hạnh chân chính để qua đó ông có thể hướng dẫn người dân thành quốc Athens cải thiện đạo đức và trí tuệ. Vì thế, hoàn toàn bỏ sang một bên sinh kế cùng những công việc riêng tư, ông dành trọn thì giờ thảo luận về đức hạnh, công bình, lòng mộ đạo ở bất cứ nơi nào đồng bào ông hằng ngày tụ họp. Ông thường qui tụ quanh mình một nhóm thanh niên và truyền cho họ tình yêu tra vấn, dẫn tới tri thức và công chính.

Một số người cảm thấy Socrates cũng lơ là nghĩa vụ công cộng vì ông không bao giờ tìm cách tham chính dù nổi tiếng can trường trong các chiến dịch thời ông đi nghĩa vụ quân sự. Trong công tác tự mình đề ra cho mình như một người châm biếm những kẻ nổi tiếng về chính trị và trí thức của thành Athens, Socrates tạo nên nhiều kẻ thù,

Aristophane nhại diễu Socrates trong vở kịch The Clouds (Các đám mây) của mình, và qui cho ông một số khuyết điểm của các biện sĩ, là những người giỏi ngụy luận, nhận thù lao để dạy khoa hùng biện. Dù Socrates thường trêu tức các biện sĩ, nhưng những người kết án ông dường như duy trì một quan điểm chung với Aristophane.

Năm 399 TCN, Socrates bị đem ra tòa án Athens, xử về cáo giác tội làm hư hoại thanh niên, đặc biệt những môn đệ hằng ngày ở bên ông, và tội bất kính thần linh thành Athens cùng giới thiệu các thần linh xa lạ. Phiên tòa bị vây phủ các vấn đề chính trị phức tạp nhưng dường như Socrates bị xử như một người bạn và người thầy của hai kẻ đã phản bội Athens là Critias và Aleibiades. Diễn tiến vụ xử án và cái chết của Socrates được mô tả trong cuốn Apology, Crito và Phaedo của Platon với sức mạnh đầy kịch tính. Những giờ đi vào cõi chết của ông được Plato kể lại với giọng cảm động như một bài thơ bi tráng. Bạn đọc Việt ngữ có thể tìm thấy trong cuốn Câu chuyện triết học của Trí Hải và Bửu Ðích (bản dịch từ cuốn The Story of Philosophy của Will Durant).

Socrates đóng góp cho triết học một định hướng nhân văn cùng phương pháp mới mẻ tiếp cận tri thức, một khái niệm về linh hồn như tâm điểm của ý thức tỉnh táo bình thường lẫn đặc tính đạo đức và về ý nghĩa vũ trụ như một tinh thần ngăn nắp có chủ ý. Kỹ thuật tra vấn của ông — được gọi là phương pháp Socrates — là yêu cầu người đối thoại định nghĩa các khái niệm có ý nghĩa đạo đức, thí dụ công bình, dũng cảm, mộ đạo, v.v. để cho thấy những mâu thuẩn trong câu trả lời, qua đó phô bày sự ngu dốt của kẻ trả lời, và thúc đẩy phải tra vấn thêm nữa các khái niệm. Phương pháp đó, gọi là biện chứng pháp, cốt ở chỗ dùng hình thức vấn đáp để khảo sát những lời phát biểu, bằng cách tra xét định nghĩa, đào sâu khái niệm, truy nã nội hàm của chúng, với giả định rằng một lời phát biểu đúng không thể nào dẫn tới hệ quả sai. Phương pháp này có thể do triết gia Zeno thành Elea gợi ra từ trước, nhưng được Socrates cải tiến và áp dụng vào các vấn đề luân lý.

Socrates thường nhấn mạnh câu châm ngôn khắc trên cửa đền Delphi là ‘Người ơi, hãy tự biết mình’. Khác với những triết gia về trước, Socrates quan tâm chủ yếu các vấn đề thuộc nội tâm con người; ông xem chúng ưu tiên hơn các vấn đề thuộc thế giới vật lý. Học thuyết của Socrates đưa ông tới niềm tin rằng mọi đức hạnh đều qui về một mối, đó là cái thiện, hoặc sự tự am hiểu bản ngã — ‘cái tôi’ chân chính của ta — cùng những cứu cánh của nó qua quá trình diễn tiến cuộc đời mình. Rồi tới lượt tri thức tùy thuộc vào bản tính hoặc yếu tính của vạn vật đúng như chúng hiện hữu, thí dụ hình thái của vật thì thật hơn bản sao mà chúng ta có được từ kinh nghiệm cảm giác.

Khái niệm ấy dẫn tới một thế giới quan có tính cứu cánh luận, cho rằng hết thảy các hình thái đều dự phần vào và dẫn tới một hình thái cao nhất, đó là hình thái của cái thiện. Các ý tưởng ấy về sau được Plato trau chuốt tỉ mỉ thành tâm điểm cho học thuyết triết lý của mình.

Quan điểm của Socrates thường được mô tả bằng lập trường cho rằng mục đích của tri thức là đức hạnh — tri thức và đức hạnh là một — khiến con người không thể làm điều sai trái một cách chủ tâm. Vì đức hạnh đồng hóa với tri thức nên có thể giảng dạy nó. Nhưng việc giảng dạy ấy không phải là một nghề mưu sinh như các biện sĩ chuyên nghiệp và trá ngụy đem ra dạy bảo.

Tuy thế, trước khi đưa chén thuốc độc lên môi, chấp nhận cái chết như một hình thức làm chứng cho chân lý và bảo vệ quyền tự do tư tưởng, dù có thể bỏ trốn sang thành quốc khác, bản thân Socrates không đưa ra câu trả lời dứt khoát làm thế nào con người có thể học hỏi về đức hạnh.
Dũng lạc
Nguyễn Ước