agapaw
10-06-2012, 08:34 PM
THIÊN CHÚA TRONG ISAIA
Tác giả :PAMELA A. FOULKES
Chuyển ngữ:PIÔ PHAN VĂN TÌNH, CMS
MỤC LỤC
1. Dẫn Nhập
2. Thiên Chúa Lịch Sử
3. Thiên Chúa Sáng Tạo
4. Thiên Chúa Chọn
5. Thiên Chúa Yêu
6. Thiên Chúa Xét Xử
7. Thiên Chúa Cứu Độ
8. Đấng Cứu Chuộc Và Tôi Tớ
9. Thiên Chúa Ban Phúc Lành
1
DẪN NHẬP
CÁC NGÔN SỨ CỦA ISRAEL
Chúng ta thấy nhiều quyển trong bộ Kinh Thánh Do Thái ghi lại “lời sấm” của những nhân vật huyền bí, họ được gọi là ngôn sứ. Họ là những nhân vật rất quan trọng vừa cho đời sống tôn giáo lẫn chính trị của Israel xưa kia, vì rõ ràng lời họ vẫn tiếp tục được giữ gìn và truyền lại. Nhưng họ là ai, và vai trò thực sự của họ là gì? Từ Hy Lạp prophetes có nghĩa là một người nào đó được chỉ định để nói nhân danh một vị thần, trình bày ý muốn và dự phóng thiêng liêng. Nó được Kinh Thánh Cựu Ước tiếng Hy Lạp, bản dịch Hy Lạp của Kinh Thánh Do Thái trưng dụng, từ “nabi” thường được hiểu với ý nghĩa “một người được gọi”. Do đó, các ngôn sứ của Israel thời xưa là những người nhận ra rằng mình được mời gọi để công bố ý định của Thiên Chúa đối với dân Người. Cho nên, chúng ta thấy sách Isaia mở đầu bằng những lời này: “Trời hãy nghe đây, đất lắng tai nào; vì Đức Chúa phán” (Is 1,2), thường lặp lại cụm từ “Đức Chúa phán” ở đầu và kết thúc bằng nhiều lời tuyên bố long trọng.
Thế giới của các ngôn sứ Israel là một thế giới gặp gỡ Thiên Chúa không như một Đấng xa lạ, nhưng luôn gần gũi, đó là điều tất yếu của một dân tộc. Các ngài muốn nói với dân rằng lịch sử không đơn thuần chỉ là một tập hợp những sự kiện ngẫu nhiên trên những gì họ không làm chủ được. Đó luôn là một minh chứng của sự chú tâm thiêng liêng vào những gì Thiên Chúa làm. Như thế, mới có mục đích và ý nghĩa. Tác phẩm của các ngài là một bộ phận toàn diện trong niềm tin của Israel, nó hiện hữu trong một tương quan mật thiết và hiện sinh với Thiên Chúa. Đây là một Thiên Chúa hằng đối thoại với dân, đồng thời bày tỏ thiên ý. Các ngôn sứ là những sứ giả của Thiên Chúa; là những máng thông với thánh ý được mặc khải cho mọi thời đại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chúng ta tìm thấy một bản tóm lược thú vị về nhiệm vụ ngôn sứ trong lời Thiên Chúa dành cho vị đại ngôn sứ thế kỷ VIII, Giêrêmia: “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Hãy xem, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây, để trồng” (Gr1,9-10).
Các ngài chất vấn xã hội nơi các ngài sống, rồi nhắc nhở dân và giúp họ đặt niềm hy vọng vào lề luật Thiên Chúa. Các ngài liên lỉ tuyên bố rằng các ngài phục vụ chính Thiên Chúa chứ không phải phục vụ những quy luật chính trị hay tôn giáo, cũng không có sức mạnh hay sự thuyết phục nào có thể làm cho các ngài đi sai nhiệm vụ được giao.
Vai trò ngôn sứ là công bố ý định Thiên Chúa bắt nguồn từ những nhu cầu thiết yếu chính thức của hình thức tôn giáo chính thống trong thời đại các ngài. Tuy nhiên, thường thường lời các ngài được đào đạt đến với chúng ta nằm ngoài guồng máy tôn giáo và đòi hỏi phản chiếu trung thực hơn các lệnh truyền Thiên Chúa.
Nhưng các ngôn sứ cũng được sai đến để động viên dân trong những lúc khó khăn; để an ủi họ và để nhắc lại cho họ biết rằng Thiên Chúa không quên họ. Trong sách Isaia, Thiên Chúa kêu gọi vị ngôn sứ rằng: “Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta” (40,1), và chúng ta tìm thấy một trong những diễn tả cảm động nhất, ở chương 61, nói về nhiệm vụ ngôn sứ trong Kinh Thánh, khi họ bị ngược đãi:
“Thần khí Đức Chúa là Chúa thượng ngự trên tôi, và Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho những kẻ bị giam cầm và ngày phóng thích cho những tù nhân” (61,1).
Mặc dù sấm ngôn của các ngôn sứ thường tiên báo vận mệnh của dân, nhưng các ngài lại là những người nói điều chẳng lành và tiên báo tương lai mù mịt. Các ngài là những cá nhân ít nhìn xa trông rộng, nhưng lại nhìn thấy những gì đang xảy ra trong xã hội đương thời và biết chấp nhận nhiều hệ lụy không thể tránh khỏi do hành động của mình trước dân. Đây thường không phải là một vai trò dễ hoàn thành. Giêrêmia được mời gọi để từ bỏ vợ con hầu thực thi ý Chúa, nhưng ngài đã bị cười nhạo và bị ngược đãi, hơn nữa những người ngược đãi lại là những phần tử của gia đình mình. Ngài kêu gào trong nỗi khốn cùng:
“Trái tim tôi tan nát, xương cốt tôi rã rời. Tôi như người say, nên như người bứ rượu, cũng chỉ vì Đức Chúa, vì thánh ngôn của Người” (Gr23,9).
Cho dù các ngôn sứ Isaia phải chịu đau khổ và thử thách, nhưng các ngài luôn xác tín rằng những lời mình công bố không phải là của riêng tư cá nhân, mà là lời Thiên Chúa. Đó cũng chính là bổn phận của Israel đối với Thiên Chúa, họ phải lắng nghe các ngôn sứ.
SÁCH ISAIA
Lời của nhiều ngôn sứ Israel không còn trực tiếp đến được với chúng ta. Tất cả được công bố trong thời đại các ngài và được gửi vào một lịch sử đặc biệt và những nhu cầu của dân các ngài, đời sống của các ngài ngắn ngủi như những người thuộc về dân và họ không muốn nói tới. Tuy nhiên, nhiều người trong số các ngài đã được ghi lại, hoặc do chính các ngôn sứ hoặc do môn đệ của các ngài. Các bài tổng hợp lời các ngôn sứ mà chúng ta tìm thấy trong Kinh Thánh đã phải được trải qua một quá trình thay đổi và duyệt lại nhiều thể loại qua nhiều thế kỷ. Trong nhiều trường hợp lời các ngôn sứ trước đây đã được thêm vào với cùng một nội dung tương tự ở những thời điểm sau này. Có lúc các bản sưu tầm về lời các ngôn sứ được sửa lại mới để có thể công bố trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Theo đó, thông điệp các ngôn sứ hiện hữu sống động và phù hợp, đồng thời tiếp tục công bố lời Thiên Chúa cho những hoàn cảnh mới cũng như thay đổi mọi nhu cầu. Đây là cách chúng ta tiếp tục sử dụng lời các ngài hôm nay, cả trong phụng vụ cũng như trong cầu nguyện riêng của chúng ta.
Điều chúng ta biết hẳn thật là: sách Isaia là một chuẩn mực quan trọng của những sưu tầm thực sự về lời ngôn sứ. Tất cả được đúc kết lại ở câu đầu:
“Thị kiến ông Isaia, con ông Amôc, đã được thấy, liên quan đến Giuđa và Giêrusalem, thời các vua Útdigiahu, Giôtham, Akhat, Khitkhigia cai trị Giuđa” (1,1).
Mặc dù được quy chiếu dưới tên một người là ngôn sứ Isaia thế kỷ thứ VIII, nhưng những lời sấm này lại xuất phát từ nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử Israel. Qua những khác biệt trong văn phong và tư tưởng, cùng với phần lớn dòng tư tưởng lịch sử xuyên suốt văn bản, chúng ta có thể chia sách thành 3 phần chính:
Isaia I (chương 1-39).
Isaia II (chương 40-55).
Isaia III (chương 56-66).
Như một bản sưu tầm, các lời sấm này làm chứng cho sự hiểu biết đặc trưng về dự phóng của Thiên Chúa dành cho dân tộc Israel trong vài ba thế kỷ lịch sử của họ. Những lời ấy phản ánh các thời điểm lịch sử, ở đó chúng được viết ra và những lợi ích cùng với nhu cầu của dân có liên quan đến những sự kiện chính trị và xã hội của những giai đoạn này. Chúng cũng phản ánh cuộc đối thoại hiện sinh giữa Thiên Chúa và dân, từ đời nọ đến đời kia, như một sợi chỉ bất tận xuyên suốt lịch sử của họ. Thiên Chúa luôn nhắc nhở họ qua ngôn sứ rằng họ được mời gọi sống trung thành và tuân phục. Mỗi thời, chúng ta đều được chứng kiến dân ngoảnh mặt bỏ Chúa để chạy theo mục đích riêng của họ, để rồi phải nhận lấy những hậu quả bất hạnh. Tuy nhiên, sự trung thành của Thiên Chúa là vô biên vô tận, và dù có thảm khốc thế nào đi chăng nữa thì Thiên Chúa vẫn sai ngôn sứ đến với dân để an ủi và hứa sẽ cứu thoát họ.
ISAIA I
Phần thứ nhất của sách hầu như là tác phẩm của Isaia, con ông Amôc, sống và làm việc ở Giêrusalem khoảng từ năm 750-700 trước công nguyên. Vào thời của ngài một lần nữa vương quốc vĩ đại và quyền lực của Salomon đã bị chia cắt làm đôi: nước Israel ở phía bắc, thủ đô là Samari, còn Giuđa ở phía nam, thủ đô là Giêrusalem. Isaia hoạt động trong một thời điểm quyết định của lịch sử Israel, trải dài các thời đại của bốn vị vua Giuđa: Útdigiahu, Giôtham, Akhat, và Khítkhigia. Đầu thế kỷ thứ VIII do một sự suy sụp trong quyền lực của đế quốc láng giềng hùng mạnh Assiri, nên hai nước Do Thái được hưởng một giai đoạn thịnh vượng về kinh tế, không còn mối đe dọa từ bên ngoài.
Giai đoạn bình an không còn được bao lâu. Dưới thời Tiglathpileser III và kéo dài về sau dưới thời Sennacherib, Assiri đã tìm lại được đỉnh cao của sự ảnh hưởng quyền lực, đã chinh phục hầu như toàn bộ vùng Trung Đông.
Nửa thế kỷ thứ VIII chứng kiến vương quốc bắc Israel, có thủ đô Samari bị xâm chiếm vào năm 722 và vương quốc Giuđa phía nam cũng bị khuất phục. Vua Khitkhigia có sức kéo dài tự do của thủ đô Giêrusalem của mình bằng cách nộp thật nhiều cống phẩm cho vua ngoại bang. Lời ngôn sứ phác họa một bức tranh ảm đạm do sự thay đổi đột ngột của những năm tháng này về sức ép và sự đau khổ:
“Xứ sở các ngươi hoang tàn, thành thị các ngươi bị lửa thiêu. Đất đai các ngươi, kẻ ngoại bang thôn tính ngay trước mặt, khiến trở nên hoang tàn như bị quân ngoại bang giày xéo” (1,7).
Isaia báo cho dân biết rằng họ đang ở dưới cuộc phán xét thiêng liêng và mời gọi họ trở về với Thiên Chúa của họ.
ISAIA II
Phần thứ hai của sách xuất phát từ giai đoạn cuộc thất thủ của Giêrusalem trước Babylon vào năm 587 trước công nguyên và sự bại trận cuối cùng của Babylon trước người Ba Tư, đứng đầu là vua Kyrô vào năm 539. Nó được định vị trước cộng đồng con cái Israel trong cuộc lưu đày Babylon. Dưới thời vua Nabucôđônôxô vĩ đại, người Babylon lần đầu tiên đã bao vây Giêrusalem vào năm 598-597 trước công nguyên. Giôhôgiakin vua Giuđa đã phải bỏ thành cùng với 10 ngàn người quý tộc, binh sĩ và những người thợ lành nghề, tất cả đều được đưa đi lưu đày. Người Babylon đã đặt một vị vua mới ở Giêrusalem là Giêđêkia. Sau đó, trong vòng mười năm ông đã nổi dậy chống lại Babylon, năm 587-586 vua Nabucôđônôxô phẫn nộ dập tắt trước toàn dân Giuđa một lần nữa. Tường thành Giêrusalem bị tàn phá, đền thờ bị phá bình địa, vùng đất và sự yên nghỉ của thành phố cũng bị quấy nhiễu. Hàng ngàn người trong dân đã bị lưu đày đến Babylon. Xuyên qua lời ngôn sứ, chúng ta bắt gặp lời thề nguyền của họ:
“Thế nhưng dân này lại bị cướp phá bóc lột, mọi người bị nhốt dưới hố sâu, tất cả bị giam trong ngục tối. Họ bị cướp mà không người cứu nguy, bị bóc lột mà không ai lên tiếng đòi: trả lại!” (42,22).
Nhưng thông điệp mà ngôn sứ được truyền phải đem đến cho dân này là một trong những niềm an ủi và hy vọng:
“Thiên Chúa anh em phán: Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hãy hô lên cho thành rằng thời phục dịch của thành đã mãn, tội của thành đã đền xong” (40,1-2).
Ngài chứng kiến những cuộc vận động quân sự và chính trị của Kyrô thuộc Ba Tư lên đến đỉnh điểm trong sự bại trận của Babylon vào năm 539 trước công nguyên, như một tiến trình xa hơn trong dự phóng cứu chuộc dành cho Israel. Bởi vậy, ngài đã tiên báo cuộc hồi hương của dân như một bằng chứng hùng hồn về quyền lực thiêng liêng và một hành động phi thường của cuộc sáng tạo mới:
“Có tiếng hô:
Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa,
giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng
cho Thiên Chúa chúng ta.
Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy,
mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,
nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng,
chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.
Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện,
và mọi người phàm sẽ được thấy
rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (40,3-5).
ISAIA III
Sách Isaia III và đoạn cuối sách phản ảnh thời điểm sau cuộc trở về từ Babylon vào nửa cuối thế kỷ VI trước công nguyên. Kyrô, vua Ba Tư ra sắc chỉ vào năm 538, theo đó mọi người được trả tự do có thể hồi hương trong bình an nếu họ muốn, và họ có thể tái thiết đền thờ ở Giêrusalem. Không biết có bao nhiêu người tuyển lựa trở về quê hương, nhưng đối với họ quả không dễ chút nào. Thành phố vẫn còn phủ một màu hoang tàn đổ nát, hoàn cảnh kinh tế, nông nghiệp thì nghèo nàn. Hơn nữa có sự xung đột giữa những người hồi hương từ nơi lưu đày và dân đến sau hiện đang cư ngụ ở Giêrusalem trong khoảng hơn 50 năm về sau kể từ khi con cái Israel bỏ xứ sở đi lưu đày. Lắm lúc những người này đã chiếm được đất, đất một lần nữa thuộc về quân đội hồi hương. Isaia III gầy dựng một cộng đoàn ở Giêrusalem, cộng đoàn đang gánh chịu sự rối loạn cả về kinh tế lẫn thiêng liêng. Ngài kêu lên Thiên Chúa trong nỗi tuyệt vọng:
“Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan” (63,19).
Tuy nhiên, ngài cũng được mời gọi loan báo niềm hy vọng. Tiếp bước Isaia II, ngài loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa đã gần đến. Ngài hân hoan đợi chờ ngày ấy, khi ấy con cái Israel sẽ trở về, khi chỉ có số ít còn sót lại thực hiện hành trình ấy cho đến nay. Và rồi nhờ Giêrusalem, nơi quy tụ niềm vui, Israel một lần nữa sẽ vui mừng trong một kỷ nguyên bình an, bảo đảm cho thịnh vượng.
Ngay cả trong ba phần lớn của sách Isaia, đôi lúc chúng ta vẫn thấy đề cập đến những yếu tố cho thấy sách xuất xứ từ nhiều tác giả hơn là một tác giả. Nhưng tại sao cái tên Isaia thế kỷ thứ VIII, con ông Amôc lại được đặt cho toàn bộ sách? Rõ ràng tác phẩm của Isaia ở Giêrusalem đã được tác giả Isaia II biết đến, và ngài đã coi mình như là người tiếp nối cùng một truyền thống ấy. Cũng vậy, tác giả Isaia III coi mình là người thừa kế và phát triển tác phẩm ngôn sứ đi trước, tác phẩm đã được Isaia II mở rộng. Chúng ta có thể thấy đây là một bản văn hoàn chỉnh như một tác phẩm của một trường học các ngôn sứ và các tác giả được bồi đắp từng lớp rất chu đáo theo truyền thống mà khởi đầu là tiếng nói ngôn sứ thứ nhất.
Mặc dù lời sấm khác nhau có nguồn gốc từ những thời điểm lịch sử cũng khác nhau nhưng chúng ta sẽ bắt gặp cùng những chủ đề được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Như vậy, bản văn có thể đọc như một quyển sách nói về cùng một thông điệp xuyên qua mọi thời đại; lời mà Thiên Chúa ban ra có liên hệ tới lịch sử của họ. Tất cả ba bản văn đều có nguồn gốc trong những thời điểm nhấn mạnh, khi tương lai của Israel và dân tộc trở nên mù mịt. Đây là những thời điểm biến động đột ngột về kinh tế và chính trị, khi Thiên Chúa như rời xa họ. Đó là vai trò của ngôn sứ trong những thời điểm như thế để lời Thiên Chúa luôn hiện sinh và đây là điều hướng dẫn các vị đã nói qua quyển sách này.
Chúng ta cũng sống trong một giai đoạn mà Thiên Chúa như bỏ xa chúng ta vậy. Mỗi ngày phương tiện truyền thông đều cung cấp cho chúng ta những tin tức chiến tranh, đói kém, bạo lực, sự bất ổn về chính trị và xã hội. Có nhiều lúc việc duy trì một khả năng hy vọng trong một thế giới như thế quả là khó. Nhưng vai trò của ngôn sứ không bao giờ lỗi thời.
Ở mọi thời đại Thiên Chúa đều mời gọi dân can đảm kêu to cả trong sự phân định lẫn trong niềm hy vọng. Chúng ta cần phải tỉnh thức và mở lòng ra đón nhận tiếng nói ngôn sứ trong xã hội chúng ta và nhờ sự hiện diện của các ngài, chúng ta nhận ra sự bảo đảm rằng Thiên Chúa vẫn ở với chúng ta.
Câu hỏi
1. Bạn có nghĩ thế giới hôm nay cần nhiều ngôn sứ không? Tại sao?
2. Bạn xem ai là những ngôn sứ trong thời đại chúng ta?
3. Đâu là một vài khía cạnh của đời sống hôm nay làm cho vai trò ngôn sứ trở nên nan giải?
2
THIÊN CHÚA LỊCH SỬ
THIÊN CHÚA CỦA LỊCH SỬ
Nếu chú ý trong dẫn nhập, chúng ta thấy các ngôn sứ Israel tin rằng lịch sử Israel và dân Chúa được tổ chức bền chắc nơi những miền đất của Thiên Chúa Israel. Đối với các ngài, mỗi sự kiện đều có ý nghĩa bắt nguồn từ mối tương quan mà các ngài đã hiểu như sự hiện hữu giữa dân tộc và Thiên Chúa. Sự xác tín này nổi bật xuyên suốt cả sách Isaia. Thị kiến Isaia, con ông Amôc, và những vị tiếp bước ngài chính là một hoạt động của Thiên Chúa trong và qua tất cả các sự kiện chính trị và quân sự thuộc thời đại các ngài. Đây là sự thật không chỉ thuộc những hoạt động của các vua Giuđa; thuộc các chiến lược quân sự và nhiều quan hệ chính trị của họ; mà tin chắc còn thuộc về lịch sử chính trị của các nước láng giềng gần Israel, ngay cả thuộc về quân đội của những kẻ thù hùng mạnh đã nổi cơn thịnh nộ xuyên qua thế giới cổ đại trong nhiều thế kỷ được trải ra trong sách. Có nhiều trong các lời sấm ngôn sứ trình bày chi tiết những chiến công và các cuộc hủy diệt của các dân tộc khác, cả vĩ mô lẫn vi mô. Cụ thể, Ai-cập là một trong những kẻ thù truyền kiếp của Israel đã được Isaia I mô tả:
“Lời sấm hạch tội Ai-cập.
Này, Đức Chúa ngự trên đám mây bay,
Người đến Ai-cập.
Các tà thần Ai-cập rúng động trước nhan Người,
và tự đáy lòng Ai-cập rụng rời kinh khiếp” (19,1).
Ngày xưa mỗi dân tộc đều có những thần minh riêng, các vị ấy là những chỗ dựa an toàn và thuận lợi mà dân tìm kiếm và cũng là điểm đến mỗi lần họ gặp đau khổ và nguy hiểm. Họ tin rằng định mệnh của họ có thể thay đổi hoặc tai họa được ngăn chặn nhờ thực hiện phương pháp thích hợp đối với bất cứ vị thần nào họ nhận làm hộ mệnh của mình. Còn Thiên Chúa mà sách Isaia nói với Israel không chỉ là một vị thần địa phương nhưng là Đấng điều khiển toàn bộ lịch sử nhân loại. Đây là luật của một vị thần mà tất cả quy luật trái đất phải quy phục:
“Nói lên đi những gì sẽ xảy đến sau này,
cho chúng tôi nhận ra quý vị là thần, là chúa!
Bất kể quý vị làm điều lành hay điều dữ,
chúng tôi cũng sẽ đáng tởm kinh hồn” (40,23).
Rõ ràng cuộc phán xét của Thiên Chúa Israel bao trùm mọi dân tộc trên trái đất. Isaia loan báo cho họ biết rằng đây là một Thiên Chúa hùng mạnh đến nỗi không một thế lực đối nghịch nào có thể chống lại cơn thịnh nộ của Ngài:
“Chư dân hỡi, hãy lại mà nghe,
các sắc tộc nào cùng lưu ý.
Hãy nghe đây, hỡi trái đất và mọi loài trên đó,
hỡi địa cầu cùng muôn vật từ đất nảy sinh:
Này, Đức Chúa nổi giận với chư dân hết thảy,
Người thịnh nộ với toàn thể đạo binh của chúng,
cho chúng bị tru diệt và tiêu vong” (34,1-2).
Còn Isaia III lớn tiếng gọi Thiên Chúa:
“Khi thấy Ngài làm những điều kinh hồn táng đởm
mà chúng con không ngờ:
Ngài ngự xuống, và núi non
rung chuyển trước thánh nhan!” (64,2).
Tri thức thuần túy về danh Thiên Chúa Israel được nhận thức trong tất cả luật lệ quyền lực trái đất này, nó cũng hiển nhiên trong lịch sử của họ.
Dù phải đối mặt với những quân đội hùng mạnh của vua Assiri nhưng Isaia I vẫn không chút sợ hãi, ngài vẫn công bố ngay cả vận mệnh của vị vua quyền lực này đang ở trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa:
“Đức Chúa các đạo binh đã thề rằng:
quả thật, Ta định làm sao, sẽ nên như thế;
Ta quyết thế nào sẽ thành như vậy.
Ta sẽ đập tan At-sua trên đất của Ta,
và trên các núi đồi của Ta, Ta sẽ chà đạp nó;
Ta sẽ gỡ ách của nó khỏi cổ dân Ta
và cất gánh nặng của nó khỏi vai chúng” (14,24-25).
Ngài tiên báo bí mật về việc Thiên Chúa sẽ hủy diệt ngay cả đế chế hùng cường Babylon trong tương lai:
“Babylon, hòn ngọc các vương quốc,
niềm tự hào kiêu hãnh của Can-đê,
sẽ bị Thiên Chúa phá đổ như Xơ-đôm và Gô-mô-ra.
Thành ấy sẽ mãi mãi không có người ở,
từ đời này qua đời khác sẽ chẳng ai cư ngụ.
Tại đó người Ả-rập sẽ không cắm lều,
người chăn chiên sẽ không cho súc vật nằm nghỉ” (13,19-20).
Một trong những thông điệp mạnh mẽ nhất, đặc biệt để lại dấu ấn trên luật Giuđa, đó là nhu cầu tín thác vào Thiên Chúa, đúng hơn trong tầm cỡ quân đội hoặc quan hệ chính trị:
“Khốn thay những kẻ xuống Ai-cập cầu viện,
những kẻ cậy dựa vào chiến mã,
tin tưởng vì có lắm chiến xa,
vì kỵ binh hùng mạnh,
mà không chịu nhìn Đức Thánh của Israel,
không tìm kiếm Đức Chúa” (31,1).
Đây là một thông điệp mang tính thụ động. Lề luật của Israel được chờ đợi để thực thi tối đa hầu bảo vệ đời sống của dân và lợi ích của dân tộc. Nhưng để nắm được vận mệnh độc nhất được đi vào miền đất dành riêng cho họ, ngoài tương quan dân tộc với Thiên Chúa, còn là một sự thất bại tột cùng của sự tín thác và là một tội kiêu ngạo. Họ được nhắc cho biết rằng họ là dân tộc được Thiên Chúa cưu mang, một dân tộc luôn ở trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
KYRÔ, NGƯỜI ĐƯỢC THIÊN CHÚA XỨC DẦU
Sự xác tín rằng Thiên Chúa Israel vĩ đại hơn các thần của các dân tộc khác được diễn tả mạnh mẽ nhất trong nội dung chính của sách Isaia II. Ngay cả khi Israel bị cầm tù bởi đế chế hùng mạnh Babylon, thì ngài vẫn có thể lặp lại cách xác tín cuộc phán xét trên đế chế ấy như vị ngôn sứ đi trước đã từng làm:
“Hỡi trinh nữ, con gái Babylon, xuống đi,
ngồi trên cát bụi;
hỡi con gái Can-đê, ngồi phệt xuống đất,
không ngai không bệ,
là cô gái yêu kiều đài các nữa” (47,1).
“Hỡi con gái Can-đê, hãy ngồi lặng lẽ,
lùi vào bóng tối,
vì thiên hạ không bao giờ gọi ngươi
là nữ hoàng muôn nước nữa” (47,5).
Một lần nữa nhìn cách tổng thể rõ ràng định mệnh của một đế chế đang ở trong bàn tay Thiên Chúa Israel.
Niềm tin vào Thiên Chúa Israel như Thiên Chúa lịch sử là một phần quan trọng trong Isaia II với sự trình diện của Kyrô, vua Ba Tư. Nhờ vực dậy luật quyền lực này mà một trong những nhà lãnh đạo quân sự uy lực nhất trong thế giới cổ đại thời bấy giờ đã giải thoát con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Babylon. Thật ngạc nhiên khi vị ngôn sứ áp dụng cho vị vua ngoại giáo một tước hiệu riêng thường được luật Israel ban bố, đó là danh hiệu dành riêng cho các thành viên thuộc dòng dõi vua Đavít. Vị vua Ba Tư này được dân nhắc tới và phải là một trong những vị vua riêng của họ được Đức Chúa xức dầu:
“Đức Chúa phán với kẻ Người đã xức dầu,
với vua Kyrô
– Ta đã cầm lấy tay phải nó,
để bắt các dân tộc suy phục nó,
Ta tước khí giới của các vua,
mở toang các cửa thành trước mặt nó,
khiến các cổng không còn đóng kín nữa” (45,1).
Đây là Thiên Chúa Israel và sẽ không còn chúa nào khác nữa, chính Ngài đã an bài cho quân đội chiến thắng và cho sự nghiệp chính trị của vua ngoại bang, dù chính Kyrô không hiểu nguồn gốc quyền lực của mình và nguồn mạch những chiến công của mình:
“Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác;
chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta.
Dù ngươi không biết Ta,
Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ,
để từ đông sang tây, thiên hạ biết rằng
chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.
Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (45,5-6).
Ông có thể thành công được là vì Thiên Chúa Israel muốn vậy và Người đã dẫn đưa ông đến chiến thắng. Thiên Chúa đã mặc khải cho Kyrô biết nhiều yếu tố phi thường trong dự phóng thiêng liêng của Người:
“Đức Chúa phán thế này:
Chính Ta sẽ đi trước mặt ngươi,
nơi gồ ghề, Ta sẽ san phẳng,
cửa đồng, Ta đập phá, then sắt, Ta bẻ tung.
Ta sẽ ban tặng ngươi những kho tàng bí ẩn,
những bảo vật dấu kín, để ngươi biết rằng,
Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel,
Đấng đã gọi ngươi đích danh” (45,2-3).
Đây không chỉ là một hành động chiến thắng trong công việc của Thiên Chúa. Dự phóng dành cho Kyrô có mục đích rất rõ ràng. Ông được chọn như khí cụ của Thiên Chúa để giải thoát Israel. Tất cả những hành động uy hùng của Thiên Chúa nhân danh vua Ba Tư đều vì một mục đích và một mục đích duy nhất sau:
“Ta sẽ ban tặng ngươi những kho tàng bí ẩn,
những bảo vật dấu kín, để ngươi biết rằng,
Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel,
Đấng đã gọi ngươi đích danh.
Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,
và của người Ta chọn là Israel,
Ta đã gọi ngươi đích danh,
đã ban cho ngươi một tước hiệu,
dù ngươi không biết Ta” (45,3-4).
CON GÁI GIÊRUSALEM
Đối với Israel, Thiên Chúa của lịch sử cũng là Đấng bảo vệ thành Giêrusalem. Thông thường trong thế giới cổ đại, mỗi thành đều có nhận một đấng bảo trợ thiêng liêng đặc biệt. Ví dụ như nữ thần Athena được người Hylạp nhận làm đấng bảo trợ của thành Athen. Tất cả các khía cạnh của đời sống thành phố đều được tin tưởng đặt dưới sự giám hộ thiêng liêng này, và sự thịnh vượng cũng như sự bình an của thành đều được đặt dưới quyền của nam hay nữ thần. Khi nào thành gặp mối nguy nào thì lời cầu nguyện đặc biệt sẽ được bày tỏ với đấng bảo vệ thiêng liêng để được giúp đỡ. Từ khi vua Đavít chinh phục được Giêrusalem và biến thành thủ đô của vương quốc mình thì thành này nằm trên núi Sion, đây là một nơi đặc biệt trong truyền thống của con cái Israel. Nơi đây được xem như trái tim của dân tộc cả về mặt chính trị lẫn tôn giáo, bởi Thiên Chúa Israel sẽ ngự nơi đền thờ và đền thờ sẽ là trung tâm của con cái Thiên Chúa.
Trong sách Isaia cũng như trong một số bản văn Kinh Thánh khác, hình ảnh người phụ nữ được dùng để diễn tả thành phố. Ở một thông điệp trong sách Isaia I, ngôn sứ an ủi đối với Hêgiêkia, một vị vua khiếp đảm và tuyệt vọng của Giuđa, Giêrusalem được nhân cách hóa thành con gái yêu của Thiên Chúa. Ngài diễn tả một hình ảnh hết sức ấn tượng về người con gái lộng lẫy này, thành phố như người con gái dám thách thức thế lực Sennacherib, vua Assiri:
“Đây lời Đức Chúa kết tội nó:
Trinh nữ, cô gái Si-on,
khinh dễ nhạo báng ngươi;
sau lưng ngươi, cô gái Giêrusalem lắc đầu” (37,22).
Nhưng ngài cũng thương tiếc cho sự trung thành của nó:
“Đô thị vốn trung tín xưa kia
sao nay lại trở thành con điếm?
Đô thị xưa kia vốn chính trực,
vốn là nơi ngự trị của đức công minh,
sao nay lại đầy lũ giết người?” (1,21).
Vì thế ngôn sứ diễn tả ấn tượng sâu sắc phái nữ truyền thống được xác định bằng tư cách đạo đức giới tính, có thể nguyên nhân này hệ lụy đến phụ nữ ngày nay. Nhưng cũng nên nhắc lại rằng nó xuất hiện bên ngoài một thế giới tìm kiếm điều khiển tư cách đạo đức của người phụ nữ, đặc biệt là giới tính, trong một cấu trúc xã hội theo chế độ phụ hệ nghiêm khắc. Các ngôn sứ ngày xưa đã dùng tất cả khả năng của mình để nhìn thấy xuyên qua những thái độ đạo đức giả của xã hội các ngài mà không thoát ra khỏi điều kiện văn hóa. Đối với các ngài đời sống dâm ô, như một sự diễn tả về khả năng không thể điều khiển giới tính nữ, được nhìn nhận như một ẩn ý đối với đời sống của toàn thành, rằng thành không tự chủ được, và nhờ chống lại điều mà Isaia I nhận ra như một sự trung thành của thành ấy mà lời phán xét của Thiên Chúa được công bố như sau:
“Ta sẽ bao vây ngươi tứ phía,
sẽ đắp lũy chung quanh ngươi,
sẽ dựng công sự đánh ngươi” (29,3).
Nhưng cuối cùng Đức Chúa sẽ dủ lòng thương Giêrusalem và sẽ phục hồi thành, ưu ái như một nơi cư ngụ của Thiên Chúa; một thành phố bình an và bảo đảm:
“Hãy nhìn ngắm thành Si-on,
nơi chúng ta cử hành các đại lễ,
mắt bạn sẽ thấy Giêrusalem, một nơi ở thảnh thơi,
một cái lều sẽ không bị tháo gỡ;
cọc lều sẽ không bao giờ bị nhổ đi,
không một giây lều nào sẽ bị đứt.
Vì tại đó, Đức Chúa sẽ cho chúng ta thấy
Người là Đấng oai hùng.
Người sẽ như một miền có sông ngòi rộng lớn,
nhưng không có thuyền bè tới lui,
và tàu to đẹp cũng không qua lại” (33,21-22).
Đối với Isaia II cũng vậy, Thiên Chúa ưu ái phục hồi Giêrusalem là điều quan trọng bậc nhất:
“Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho thành:
Thời phục dịch của thành đã mãn,
tội của thành đã đền xong,
vì thành đã bị tay Đức Chúa
giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (40,2).
Ngài hứa hẹn một cuộc trở về, Đấng thống trị và bảo trợ thiêng liêng của thành sẽ phục hồi, sẽ mang lại niềm vui cho tất cả những ai cư ngụ ở đó:
“Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi
cùng cất tiếng reo hò vang dậy;
họ sẽ được tận mắt thấy Đức Chúa
đang trở về Si-on.
Hỡi Giêrusalem điêu tàn hoang phế,
hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng,
vì Đức Chúa an ủi dân Người,
và cứu chuộc Giêrusalem” (52,8-9).
Tuy nhiên thị kiến hùng hồn nhất về giải phóng Giêrusalem được tìm thấy trong Isaia III. Ngài phải đương đầu với một thành bị chiếm đóng, một thành phố đã bị hủy hoại 50 năm. Nhưng ngài tuyên bố rằng ngài sẽ không ngừng lại cho tới khi được nhìn thấy dấu chứng của thành phố xinh đẹp này:
“Vì lòng mến Si-on, tôi sẽ không nín lặng,
vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành,
ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (62,1).
Ngài công bố một kỷ nguyên khôi phục sẽ nhìn thấy thành thịnh đạt, huy hoàng và sẽ là đối tượng của sự tôn kính đối với tất cả chư dân:
“Con cái ngoại kiều sẽ tái thiết thành lũy của ngươi,
việc tế tự của ngươi, vua chúa của chúng sẽ góp phần.
Phải, trong lúc giận dữ, Ta đã đánh phạt,
nhưng vì ân tình, Ta lại xót thương ngươi.
Các cửa thành ngươi sẽ luôn luôn mở rộng,
ngày đêm không đóng lại bao giờ,
để người ta đem nộp cho ngươi của cải muôn dân,
để vua chúa của chúng đến trình diện” (60,10-11).
Thậm chí ngài kêu gào dân cư trong thành hãy cầu xin với Đấng bảo trợ thiêng liêng của thành để thành được khôi phục cho tới khi Thiên Chúa không còn chọn lựa nào khác:
“Giêrusalem hỡi, trên tường thành ngươi,
Ta đã đặt lính gác,
suốt ngày đêm, chúng sẽ chẳng bao giờ nín lặng.
Hỡi những người có phận sự nhắc nhở Đức Chúa,
anh em đừng nghỉ ngơi.
Cũng đừng để Đức Chúa nghỉ ngơi
bao lâu Người chưa tái lập,
chưa đặt Giêrusalem
làm lời khen ngợi trên khắp địa cầu” (62,6-7).
Đối với dân Israel, không có thành phố nào trong thế giới cận đại có thể thỉnh cầu một đấng cứu độ quyền thế và đầy trắc ẩn như là Đức Chúa của họ:
“Vì Đức Chúa phán như sau:
Này Ta tuôn đổ xuống thành đô
ơn thái bình tựa dòng sông cả,
và Ta khiến của cải chư dân
chảy về tràn lan như thác vỡ bờ.
Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ,
được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối” (66,12).
Chúng ta không còn nhìn thấy việc làm của Thiên Chúa trong lịch sử cùng một cách thức như dân Chúa đã từng được chứng kiến trong thế giới cổ đại. Có thể chúng ta muốn thắc mắc về niềm tin của Isaia rằng tin cậy vào Thiên Chúa thì hiệu quả hơn là tạo nên những quan hệ chính trị. Đặc biệt như những công dân của một đất nước dân chủ và phát triển, chúng ta hãy tạo cho mình thói quen tin rằng chúng ta có thể điều khiển được vận mệnh chính trị tốt hơn là dân cư thành Giêrusalem ngày xưa. Tuy nhiên sứ điệp của Isaia cho thấy rằng Thiên Chúa hiện diện trong đời sống của mọi dân tộc trên thế giới và điều này vẫn còn ý nghĩa cho đến ngày hôm nay. Hẳn thật, nhờ những hành động của mình, họ mở ra cho phán xét thiêng liêng. Thiên Chúa đã chăm sóc Israel, Ngài vẫn hằng để ý tới những hy lễ của bản ngã thụ động và những cuộc chiến quyền lực chính trị trong thời đại chúng ta. Và vì cũng thích hợp để chúng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta lòng can đảm để đương đầu với những xáo trộn trong thế giới chúng ta như dân cư thành Giêrusalem phải chịu.
Câu hỏi
1. Bạn có tin Thiên Chúa vẫn còn hoạt động trong lịch sử nhân loại không?
2. Tại sao mỗi lúc gặp khủng hoảng cá nhân hay xáo trộn trong thế giới, người ta lại khó tín thác vào Thiên Chúa?
3. Phải chăng nên tách hai lãnh vực chính trị và tôn giáo trong xã hội chúng ta?
Tác giả :PAMELA A. FOULKES
Chuyển ngữ:PIÔ PHAN VĂN TÌNH, CMS
MỤC LỤC
1. Dẫn Nhập
2. Thiên Chúa Lịch Sử
3. Thiên Chúa Sáng Tạo
4. Thiên Chúa Chọn
5. Thiên Chúa Yêu
6. Thiên Chúa Xét Xử
7. Thiên Chúa Cứu Độ
8. Đấng Cứu Chuộc Và Tôi Tớ
9. Thiên Chúa Ban Phúc Lành
1
DẪN NHẬP
CÁC NGÔN SỨ CỦA ISRAEL
Chúng ta thấy nhiều quyển trong bộ Kinh Thánh Do Thái ghi lại “lời sấm” của những nhân vật huyền bí, họ được gọi là ngôn sứ. Họ là những nhân vật rất quan trọng vừa cho đời sống tôn giáo lẫn chính trị của Israel xưa kia, vì rõ ràng lời họ vẫn tiếp tục được giữ gìn và truyền lại. Nhưng họ là ai, và vai trò thực sự của họ là gì? Từ Hy Lạp prophetes có nghĩa là một người nào đó được chỉ định để nói nhân danh một vị thần, trình bày ý muốn và dự phóng thiêng liêng. Nó được Kinh Thánh Cựu Ước tiếng Hy Lạp, bản dịch Hy Lạp của Kinh Thánh Do Thái trưng dụng, từ “nabi” thường được hiểu với ý nghĩa “một người được gọi”. Do đó, các ngôn sứ của Israel thời xưa là những người nhận ra rằng mình được mời gọi để công bố ý định của Thiên Chúa đối với dân Người. Cho nên, chúng ta thấy sách Isaia mở đầu bằng những lời này: “Trời hãy nghe đây, đất lắng tai nào; vì Đức Chúa phán” (Is 1,2), thường lặp lại cụm từ “Đức Chúa phán” ở đầu và kết thúc bằng nhiều lời tuyên bố long trọng.
Thế giới của các ngôn sứ Israel là một thế giới gặp gỡ Thiên Chúa không như một Đấng xa lạ, nhưng luôn gần gũi, đó là điều tất yếu của một dân tộc. Các ngài muốn nói với dân rằng lịch sử không đơn thuần chỉ là một tập hợp những sự kiện ngẫu nhiên trên những gì họ không làm chủ được. Đó luôn là một minh chứng của sự chú tâm thiêng liêng vào những gì Thiên Chúa làm. Như thế, mới có mục đích và ý nghĩa. Tác phẩm của các ngài là một bộ phận toàn diện trong niềm tin của Israel, nó hiện hữu trong một tương quan mật thiết và hiện sinh với Thiên Chúa. Đây là một Thiên Chúa hằng đối thoại với dân, đồng thời bày tỏ thiên ý. Các ngôn sứ là những sứ giả của Thiên Chúa; là những máng thông với thánh ý được mặc khải cho mọi thời đại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chúng ta tìm thấy một bản tóm lược thú vị về nhiệm vụ ngôn sứ trong lời Thiên Chúa dành cho vị đại ngôn sứ thế kỷ VIII, Giêrêmia: “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Hãy xem, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây, để trồng” (Gr1,9-10).
Các ngài chất vấn xã hội nơi các ngài sống, rồi nhắc nhở dân và giúp họ đặt niềm hy vọng vào lề luật Thiên Chúa. Các ngài liên lỉ tuyên bố rằng các ngài phục vụ chính Thiên Chúa chứ không phải phục vụ những quy luật chính trị hay tôn giáo, cũng không có sức mạnh hay sự thuyết phục nào có thể làm cho các ngài đi sai nhiệm vụ được giao.
Vai trò ngôn sứ là công bố ý định Thiên Chúa bắt nguồn từ những nhu cầu thiết yếu chính thức của hình thức tôn giáo chính thống trong thời đại các ngài. Tuy nhiên, thường thường lời các ngài được đào đạt đến với chúng ta nằm ngoài guồng máy tôn giáo và đòi hỏi phản chiếu trung thực hơn các lệnh truyền Thiên Chúa.
Nhưng các ngôn sứ cũng được sai đến để động viên dân trong những lúc khó khăn; để an ủi họ và để nhắc lại cho họ biết rằng Thiên Chúa không quên họ. Trong sách Isaia, Thiên Chúa kêu gọi vị ngôn sứ rằng: “Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta” (40,1), và chúng ta tìm thấy một trong những diễn tả cảm động nhất, ở chương 61, nói về nhiệm vụ ngôn sứ trong Kinh Thánh, khi họ bị ngược đãi:
“Thần khí Đức Chúa là Chúa thượng ngự trên tôi, và Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho những kẻ bị giam cầm và ngày phóng thích cho những tù nhân” (61,1).
Mặc dù sấm ngôn của các ngôn sứ thường tiên báo vận mệnh của dân, nhưng các ngài lại là những người nói điều chẳng lành và tiên báo tương lai mù mịt. Các ngài là những cá nhân ít nhìn xa trông rộng, nhưng lại nhìn thấy những gì đang xảy ra trong xã hội đương thời và biết chấp nhận nhiều hệ lụy không thể tránh khỏi do hành động của mình trước dân. Đây thường không phải là một vai trò dễ hoàn thành. Giêrêmia được mời gọi để từ bỏ vợ con hầu thực thi ý Chúa, nhưng ngài đã bị cười nhạo và bị ngược đãi, hơn nữa những người ngược đãi lại là những phần tử của gia đình mình. Ngài kêu gào trong nỗi khốn cùng:
“Trái tim tôi tan nát, xương cốt tôi rã rời. Tôi như người say, nên như người bứ rượu, cũng chỉ vì Đức Chúa, vì thánh ngôn của Người” (Gr23,9).
Cho dù các ngôn sứ Isaia phải chịu đau khổ và thử thách, nhưng các ngài luôn xác tín rằng những lời mình công bố không phải là của riêng tư cá nhân, mà là lời Thiên Chúa. Đó cũng chính là bổn phận của Israel đối với Thiên Chúa, họ phải lắng nghe các ngôn sứ.
SÁCH ISAIA
Lời của nhiều ngôn sứ Israel không còn trực tiếp đến được với chúng ta. Tất cả được công bố trong thời đại các ngài và được gửi vào một lịch sử đặc biệt và những nhu cầu của dân các ngài, đời sống của các ngài ngắn ngủi như những người thuộc về dân và họ không muốn nói tới. Tuy nhiên, nhiều người trong số các ngài đã được ghi lại, hoặc do chính các ngôn sứ hoặc do môn đệ của các ngài. Các bài tổng hợp lời các ngôn sứ mà chúng ta tìm thấy trong Kinh Thánh đã phải được trải qua một quá trình thay đổi và duyệt lại nhiều thể loại qua nhiều thế kỷ. Trong nhiều trường hợp lời các ngôn sứ trước đây đã được thêm vào với cùng một nội dung tương tự ở những thời điểm sau này. Có lúc các bản sưu tầm về lời các ngôn sứ được sửa lại mới để có thể công bố trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Theo đó, thông điệp các ngôn sứ hiện hữu sống động và phù hợp, đồng thời tiếp tục công bố lời Thiên Chúa cho những hoàn cảnh mới cũng như thay đổi mọi nhu cầu. Đây là cách chúng ta tiếp tục sử dụng lời các ngài hôm nay, cả trong phụng vụ cũng như trong cầu nguyện riêng của chúng ta.
Điều chúng ta biết hẳn thật là: sách Isaia là một chuẩn mực quan trọng của những sưu tầm thực sự về lời ngôn sứ. Tất cả được đúc kết lại ở câu đầu:
“Thị kiến ông Isaia, con ông Amôc, đã được thấy, liên quan đến Giuđa và Giêrusalem, thời các vua Útdigiahu, Giôtham, Akhat, Khitkhigia cai trị Giuđa” (1,1).
Mặc dù được quy chiếu dưới tên một người là ngôn sứ Isaia thế kỷ thứ VIII, nhưng những lời sấm này lại xuất phát từ nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử Israel. Qua những khác biệt trong văn phong và tư tưởng, cùng với phần lớn dòng tư tưởng lịch sử xuyên suốt văn bản, chúng ta có thể chia sách thành 3 phần chính:
Isaia I (chương 1-39).
Isaia II (chương 40-55).
Isaia III (chương 56-66).
Như một bản sưu tầm, các lời sấm này làm chứng cho sự hiểu biết đặc trưng về dự phóng của Thiên Chúa dành cho dân tộc Israel trong vài ba thế kỷ lịch sử của họ. Những lời ấy phản ánh các thời điểm lịch sử, ở đó chúng được viết ra và những lợi ích cùng với nhu cầu của dân có liên quan đến những sự kiện chính trị và xã hội của những giai đoạn này. Chúng cũng phản ánh cuộc đối thoại hiện sinh giữa Thiên Chúa và dân, từ đời nọ đến đời kia, như một sợi chỉ bất tận xuyên suốt lịch sử của họ. Thiên Chúa luôn nhắc nhở họ qua ngôn sứ rằng họ được mời gọi sống trung thành và tuân phục. Mỗi thời, chúng ta đều được chứng kiến dân ngoảnh mặt bỏ Chúa để chạy theo mục đích riêng của họ, để rồi phải nhận lấy những hậu quả bất hạnh. Tuy nhiên, sự trung thành của Thiên Chúa là vô biên vô tận, và dù có thảm khốc thế nào đi chăng nữa thì Thiên Chúa vẫn sai ngôn sứ đến với dân để an ủi và hứa sẽ cứu thoát họ.
ISAIA I
Phần thứ nhất của sách hầu như là tác phẩm của Isaia, con ông Amôc, sống và làm việc ở Giêrusalem khoảng từ năm 750-700 trước công nguyên. Vào thời của ngài một lần nữa vương quốc vĩ đại và quyền lực của Salomon đã bị chia cắt làm đôi: nước Israel ở phía bắc, thủ đô là Samari, còn Giuđa ở phía nam, thủ đô là Giêrusalem. Isaia hoạt động trong một thời điểm quyết định của lịch sử Israel, trải dài các thời đại của bốn vị vua Giuđa: Útdigiahu, Giôtham, Akhat, và Khítkhigia. Đầu thế kỷ thứ VIII do một sự suy sụp trong quyền lực của đế quốc láng giềng hùng mạnh Assiri, nên hai nước Do Thái được hưởng một giai đoạn thịnh vượng về kinh tế, không còn mối đe dọa từ bên ngoài.
Giai đoạn bình an không còn được bao lâu. Dưới thời Tiglathpileser III và kéo dài về sau dưới thời Sennacherib, Assiri đã tìm lại được đỉnh cao của sự ảnh hưởng quyền lực, đã chinh phục hầu như toàn bộ vùng Trung Đông.
Nửa thế kỷ thứ VIII chứng kiến vương quốc bắc Israel, có thủ đô Samari bị xâm chiếm vào năm 722 và vương quốc Giuđa phía nam cũng bị khuất phục. Vua Khitkhigia có sức kéo dài tự do của thủ đô Giêrusalem của mình bằng cách nộp thật nhiều cống phẩm cho vua ngoại bang. Lời ngôn sứ phác họa một bức tranh ảm đạm do sự thay đổi đột ngột của những năm tháng này về sức ép và sự đau khổ:
“Xứ sở các ngươi hoang tàn, thành thị các ngươi bị lửa thiêu. Đất đai các ngươi, kẻ ngoại bang thôn tính ngay trước mặt, khiến trở nên hoang tàn như bị quân ngoại bang giày xéo” (1,7).
Isaia báo cho dân biết rằng họ đang ở dưới cuộc phán xét thiêng liêng và mời gọi họ trở về với Thiên Chúa của họ.
ISAIA II
Phần thứ hai của sách xuất phát từ giai đoạn cuộc thất thủ của Giêrusalem trước Babylon vào năm 587 trước công nguyên và sự bại trận cuối cùng của Babylon trước người Ba Tư, đứng đầu là vua Kyrô vào năm 539. Nó được định vị trước cộng đồng con cái Israel trong cuộc lưu đày Babylon. Dưới thời vua Nabucôđônôxô vĩ đại, người Babylon lần đầu tiên đã bao vây Giêrusalem vào năm 598-597 trước công nguyên. Giôhôgiakin vua Giuđa đã phải bỏ thành cùng với 10 ngàn người quý tộc, binh sĩ và những người thợ lành nghề, tất cả đều được đưa đi lưu đày. Người Babylon đã đặt một vị vua mới ở Giêrusalem là Giêđêkia. Sau đó, trong vòng mười năm ông đã nổi dậy chống lại Babylon, năm 587-586 vua Nabucôđônôxô phẫn nộ dập tắt trước toàn dân Giuđa một lần nữa. Tường thành Giêrusalem bị tàn phá, đền thờ bị phá bình địa, vùng đất và sự yên nghỉ của thành phố cũng bị quấy nhiễu. Hàng ngàn người trong dân đã bị lưu đày đến Babylon. Xuyên qua lời ngôn sứ, chúng ta bắt gặp lời thề nguyền của họ:
“Thế nhưng dân này lại bị cướp phá bóc lột, mọi người bị nhốt dưới hố sâu, tất cả bị giam trong ngục tối. Họ bị cướp mà không người cứu nguy, bị bóc lột mà không ai lên tiếng đòi: trả lại!” (42,22).
Nhưng thông điệp mà ngôn sứ được truyền phải đem đến cho dân này là một trong những niềm an ủi và hy vọng:
“Thiên Chúa anh em phán: Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hãy hô lên cho thành rằng thời phục dịch của thành đã mãn, tội của thành đã đền xong” (40,1-2).
Ngài chứng kiến những cuộc vận động quân sự và chính trị của Kyrô thuộc Ba Tư lên đến đỉnh điểm trong sự bại trận của Babylon vào năm 539 trước công nguyên, như một tiến trình xa hơn trong dự phóng cứu chuộc dành cho Israel. Bởi vậy, ngài đã tiên báo cuộc hồi hương của dân như một bằng chứng hùng hồn về quyền lực thiêng liêng và một hành động phi thường của cuộc sáng tạo mới:
“Có tiếng hô:
Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa,
giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng
cho Thiên Chúa chúng ta.
Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy,
mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,
nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng,
chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.
Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện,
và mọi người phàm sẽ được thấy
rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (40,3-5).
ISAIA III
Sách Isaia III và đoạn cuối sách phản ảnh thời điểm sau cuộc trở về từ Babylon vào nửa cuối thế kỷ VI trước công nguyên. Kyrô, vua Ba Tư ra sắc chỉ vào năm 538, theo đó mọi người được trả tự do có thể hồi hương trong bình an nếu họ muốn, và họ có thể tái thiết đền thờ ở Giêrusalem. Không biết có bao nhiêu người tuyển lựa trở về quê hương, nhưng đối với họ quả không dễ chút nào. Thành phố vẫn còn phủ một màu hoang tàn đổ nát, hoàn cảnh kinh tế, nông nghiệp thì nghèo nàn. Hơn nữa có sự xung đột giữa những người hồi hương từ nơi lưu đày và dân đến sau hiện đang cư ngụ ở Giêrusalem trong khoảng hơn 50 năm về sau kể từ khi con cái Israel bỏ xứ sở đi lưu đày. Lắm lúc những người này đã chiếm được đất, đất một lần nữa thuộc về quân đội hồi hương. Isaia III gầy dựng một cộng đoàn ở Giêrusalem, cộng đoàn đang gánh chịu sự rối loạn cả về kinh tế lẫn thiêng liêng. Ngài kêu lên Thiên Chúa trong nỗi tuyệt vọng:
“Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan” (63,19).
Tuy nhiên, ngài cũng được mời gọi loan báo niềm hy vọng. Tiếp bước Isaia II, ngài loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa đã gần đến. Ngài hân hoan đợi chờ ngày ấy, khi ấy con cái Israel sẽ trở về, khi chỉ có số ít còn sót lại thực hiện hành trình ấy cho đến nay. Và rồi nhờ Giêrusalem, nơi quy tụ niềm vui, Israel một lần nữa sẽ vui mừng trong một kỷ nguyên bình an, bảo đảm cho thịnh vượng.
Ngay cả trong ba phần lớn của sách Isaia, đôi lúc chúng ta vẫn thấy đề cập đến những yếu tố cho thấy sách xuất xứ từ nhiều tác giả hơn là một tác giả. Nhưng tại sao cái tên Isaia thế kỷ thứ VIII, con ông Amôc lại được đặt cho toàn bộ sách? Rõ ràng tác phẩm của Isaia ở Giêrusalem đã được tác giả Isaia II biết đến, và ngài đã coi mình như là người tiếp nối cùng một truyền thống ấy. Cũng vậy, tác giả Isaia III coi mình là người thừa kế và phát triển tác phẩm ngôn sứ đi trước, tác phẩm đã được Isaia II mở rộng. Chúng ta có thể thấy đây là một bản văn hoàn chỉnh như một tác phẩm của một trường học các ngôn sứ và các tác giả được bồi đắp từng lớp rất chu đáo theo truyền thống mà khởi đầu là tiếng nói ngôn sứ thứ nhất.
Mặc dù lời sấm khác nhau có nguồn gốc từ những thời điểm lịch sử cũng khác nhau nhưng chúng ta sẽ bắt gặp cùng những chủ đề được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Như vậy, bản văn có thể đọc như một quyển sách nói về cùng một thông điệp xuyên qua mọi thời đại; lời mà Thiên Chúa ban ra có liên hệ tới lịch sử của họ. Tất cả ba bản văn đều có nguồn gốc trong những thời điểm nhấn mạnh, khi tương lai của Israel và dân tộc trở nên mù mịt. Đây là những thời điểm biến động đột ngột về kinh tế và chính trị, khi Thiên Chúa như rời xa họ. Đó là vai trò của ngôn sứ trong những thời điểm như thế để lời Thiên Chúa luôn hiện sinh và đây là điều hướng dẫn các vị đã nói qua quyển sách này.
Chúng ta cũng sống trong một giai đoạn mà Thiên Chúa như bỏ xa chúng ta vậy. Mỗi ngày phương tiện truyền thông đều cung cấp cho chúng ta những tin tức chiến tranh, đói kém, bạo lực, sự bất ổn về chính trị và xã hội. Có nhiều lúc việc duy trì một khả năng hy vọng trong một thế giới như thế quả là khó. Nhưng vai trò của ngôn sứ không bao giờ lỗi thời.
Ở mọi thời đại Thiên Chúa đều mời gọi dân can đảm kêu to cả trong sự phân định lẫn trong niềm hy vọng. Chúng ta cần phải tỉnh thức và mở lòng ra đón nhận tiếng nói ngôn sứ trong xã hội chúng ta và nhờ sự hiện diện của các ngài, chúng ta nhận ra sự bảo đảm rằng Thiên Chúa vẫn ở với chúng ta.
Câu hỏi
1. Bạn có nghĩ thế giới hôm nay cần nhiều ngôn sứ không? Tại sao?
2. Bạn xem ai là những ngôn sứ trong thời đại chúng ta?
3. Đâu là một vài khía cạnh của đời sống hôm nay làm cho vai trò ngôn sứ trở nên nan giải?
2
THIÊN CHÚA LỊCH SỬ
THIÊN CHÚA CỦA LỊCH SỬ
Nếu chú ý trong dẫn nhập, chúng ta thấy các ngôn sứ Israel tin rằng lịch sử Israel và dân Chúa được tổ chức bền chắc nơi những miền đất của Thiên Chúa Israel. Đối với các ngài, mỗi sự kiện đều có ý nghĩa bắt nguồn từ mối tương quan mà các ngài đã hiểu như sự hiện hữu giữa dân tộc và Thiên Chúa. Sự xác tín này nổi bật xuyên suốt cả sách Isaia. Thị kiến Isaia, con ông Amôc, và những vị tiếp bước ngài chính là một hoạt động của Thiên Chúa trong và qua tất cả các sự kiện chính trị và quân sự thuộc thời đại các ngài. Đây là sự thật không chỉ thuộc những hoạt động của các vua Giuđa; thuộc các chiến lược quân sự và nhiều quan hệ chính trị của họ; mà tin chắc còn thuộc về lịch sử chính trị của các nước láng giềng gần Israel, ngay cả thuộc về quân đội của những kẻ thù hùng mạnh đã nổi cơn thịnh nộ xuyên qua thế giới cổ đại trong nhiều thế kỷ được trải ra trong sách. Có nhiều trong các lời sấm ngôn sứ trình bày chi tiết những chiến công và các cuộc hủy diệt của các dân tộc khác, cả vĩ mô lẫn vi mô. Cụ thể, Ai-cập là một trong những kẻ thù truyền kiếp của Israel đã được Isaia I mô tả:
“Lời sấm hạch tội Ai-cập.
Này, Đức Chúa ngự trên đám mây bay,
Người đến Ai-cập.
Các tà thần Ai-cập rúng động trước nhan Người,
và tự đáy lòng Ai-cập rụng rời kinh khiếp” (19,1).
Ngày xưa mỗi dân tộc đều có những thần minh riêng, các vị ấy là những chỗ dựa an toàn và thuận lợi mà dân tìm kiếm và cũng là điểm đến mỗi lần họ gặp đau khổ và nguy hiểm. Họ tin rằng định mệnh của họ có thể thay đổi hoặc tai họa được ngăn chặn nhờ thực hiện phương pháp thích hợp đối với bất cứ vị thần nào họ nhận làm hộ mệnh của mình. Còn Thiên Chúa mà sách Isaia nói với Israel không chỉ là một vị thần địa phương nhưng là Đấng điều khiển toàn bộ lịch sử nhân loại. Đây là luật của một vị thần mà tất cả quy luật trái đất phải quy phục:
“Nói lên đi những gì sẽ xảy đến sau này,
cho chúng tôi nhận ra quý vị là thần, là chúa!
Bất kể quý vị làm điều lành hay điều dữ,
chúng tôi cũng sẽ đáng tởm kinh hồn” (40,23).
Rõ ràng cuộc phán xét của Thiên Chúa Israel bao trùm mọi dân tộc trên trái đất. Isaia loan báo cho họ biết rằng đây là một Thiên Chúa hùng mạnh đến nỗi không một thế lực đối nghịch nào có thể chống lại cơn thịnh nộ của Ngài:
“Chư dân hỡi, hãy lại mà nghe,
các sắc tộc nào cùng lưu ý.
Hãy nghe đây, hỡi trái đất và mọi loài trên đó,
hỡi địa cầu cùng muôn vật từ đất nảy sinh:
Này, Đức Chúa nổi giận với chư dân hết thảy,
Người thịnh nộ với toàn thể đạo binh của chúng,
cho chúng bị tru diệt và tiêu vong” (34,1-2).
Còn Isaia III lớn tiếng gọi Thiên Chúa:
“Khi thấy Ngài làm những điều kinh hồn táng đởm
mà chúng con không ngờ:
Ngài ngự xuống, và núi non
rung chuyển trước thánh nhan!” (64,2).
Tri thức thuần túy về danh Thiên Chúa Israel được nhận thức trong tất cả luật lệ quyền lực trái đất này, nó cũng hiển nhiên trong lịch sử của họ.
Dù phải đối mặt với những quân đội hùng mạnh của vua Assiri nhưng Isaia I vẫn không chút sợ hãi, ngài vẫn công bố ngay cả vận mệnh của vị vua quyền lực này đang ở trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa:
“Đức Chúa các đạo binh đã thề rằng:
quả thật, Ta định làm sao, sẽ nên như thế;
Ta quyết thế nào sẽ thành như vậy.
Ta sẽ đập tan At-sua trên đất của Ta,
và trên các núi đồi của Ta, Ta sẽ chà đạp nó;
Ta sẽ gỡ ách của nó khỏi cổ dân Ta
và cất gánh nặng của nó khỏi vai chúng” (14,24-25).
Ngài tiên báo bí mật về việc Thiên Chúa sẽ hủy diệt ngay cả đế chế hùng cường Babylon trong tương lai:
“Babylon, hòn ngọc các vương quốc,
niềm tự hào kiêu hãnh của Can-đê,
sẽ bị Thiên Chúa phá đổ như Xơ-đôm và Gô-mô-ra.
Thành ấy sẽ mãi mãi không có người ở,
từ đời này qua đời khác sẽ chẳng ai cư ngụ.
Tại đó người Ả-rập sẽ không cắm lều,
người chăn chiên sẽ không cho súc vật nằm nghỉ” (13,19-20).
Một trong những thông điệp mạnh mẽ nhất, đặc biệt để lại dấu ấn trên luật Giuđa, đó là nhu cầu tín thác vào Thiên Chúa, đúng hơn trong tầm cỡ quân đội hoặc quan hệ chính trị:
“Khốn thay những kẻ xuống Ai-cập cầu viện,
những kẻ cậy dựa vào chiến mã,
tin tưởng vì có lắm chiến xa,
vì kỵ binh hùng mạnh,
mà không chịu nhìn Đức Thánh của Israel,
không tìm kiếm Đức Chúa” (31,1).
Đây là một thông điệp mang tính thụ động. Lề luật của Israel được chờ đợi để thực thi tối đa hầu bảo vệ đời sống của dân và lợi ích của dân tộc. Nhưng để nắm được vận mệnh độc nhất được đi vào miền đất dành riêng cho họ, ngoài tương quan dân tộc với Thiên Chúa, còn là một sự thất bại tột cùng của sự tín thác và là một tội kiêu ngạo. Họ được nhắc cho biết rằng họ là dân tộc được Thiên Chúa cưu mang, một dân tộc luôn ở trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
KYRÔ, NGƯỜI ĐƯỢC THIÊN CHÚA XỨC DẦU
Sự xác tín rằng Thiên Chúa Israel vĩ đại hơn các thần của các dân tộc khác được diễn tả mạnh mẽ nhất trong nội dung chính của sách Isaia II. Ngay cả khi Israel bị cầm tù bởi đế chế hùng mạnh Babylon, thì ngài vẫn có thể lặp lại cách xác tín cuộc phán xét trên đế chế ấy như vị ngôn sứ đi trước đã từng làm:
“Hỡi trinh nữ, con gái Babylon, xuống đi,
ngồi trên cát bụi;
hỡi con gái Can-đê, ngồi phệt xuống đất,
không ngai không bệ,
là cô gái yêu kiều đài các nữa” (47,1).
“Hỡi con gái Can-đê, hãy ngồi lặng lẽ,
lùi vào bóng tối,
vì thiên hạ không bao giờ gọi ngươi
là nữ hoàng muôn nước nữa” (47,5).
Một lần nữa nhìn cách tổng thể rõ ràng định mệnh của một đế chế đang ở trong bàn tay Thiên Chúa Israel.
Niềm tin vào Thiên Chúa Israel như Thiên Chúa lịch sử là một phần quan trọng trong Isaia II với sự trình diện của Kyrô, vua Ba Tư. Nhờ vực dậy luật quyền lực này mà một trong những nhà lãnh đạo quân sự uy lực nhất trong thế giới cổ đại thời bấy giờ đã giải thoát con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Babylon. Thật ngạc nhiên khi vị ngôn sứ áp dụng cho vị vua ngoại giáo một tước hiệu riêng thường được luật Israel ban bố, đó là danh hiệu dành riêng cho các thành viên thuộc dòng dõi vua Đavít. Vị vua Ba Tư này được dân nhắc tới và phải là một trong những vị vua riêng của họ được Đức Chúa xức dầu:
“Đức Chúa phán với kẻ Người đã xức dầu,
với vua Kyrô
– Ta đã cầm lấy tay phải nó,
để bắt các dân tộc suy phục nó,
Ta tước khí giới của các vua,
mở toang các cửa thành trước mặt nó,
khiến các cổng không còn đóng kín nữa” (45,1).
Đây là Thiên Chúa Israel và sẽ không còn chúa nào khác nữa, chính Ngài đã an bài cho quân đội chiến thắng và cho sự nghiệp chính trị của vua ngoại bang, dù chính Kyrô không hiểu nguồn gốc quyền lực của mình và nguồn mạch những chiến công của mình:
“Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác;
chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta.
Dù ngươi không biết Ta,
Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ,
để từ đông sang tây, thiên hạ biết rằng
chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.
Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (45,5-6).
Ông có thể thành công được là vì Thiên Chúa Israel muốn vậy và Người đã dẫn đưa ông đến chiến thắng. Thiên Chúa đã mặc khải cho Kyrô biết nhiều yếu tố phi thường trong dự phóng thiêng liêng của Người:
“Đức Chúa phán thế này:
Chính Ta sẽ đi trước mặt ngươi,
nơi gồ ghề, Ta sẽ san phẳng,
cửa đồng, Ta đập phá, then sắt, Ta bẻ tung.
Ta sẽ ban tặng ngươi những kho tàng bí ẩn,
những bảo vật dấu kín, để ngươi biết rằng,
Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel,
Đấng đã gọi ngươi đích danh” (45,2-3).
Đây không chỉ là một hành động chiến thắng trong công việc của Thiên Chúa. Dự phóng dành cho Kyrô có mục đích rất rõ ràng. Ông được chọn như khí cụ của Thiên Chúa để giải thoát Israel. Tất cả những hành động uy hùng của Thiên Chúa nhân danh vua Ba Tư đều vì một mục đích và một mục đích duy nhất sau:
“Ta sẽ ban tặng ngươi những kho tàng bí ẩn,
những bảo vật dấu kín, để ngươi biết rằng,
Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel,
Đấng đã gọi ngươi đích danh.
Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,
và của người Ta chọn là Israel,
Ta đã gọi ngươi đích danh,
đã ban cho ngươi một tước hiệu,
dù ngươi không biết Ta” (45,3-4).
CON GÁI GIÊRUSALEM
Đối với Israel, Thiên Chúa của lịch sử cũng là Đấng bảo vệ thành Giêrusalem. Thông thường trong thế giới cổ đại, mỗi thành đều có nhận một đấng bảo trợ thiêng liêng đặc biệt. Ví dụ như nữ thần Athena được người Hylạp nhận làm đấng bảo trợ của thành Athen. Tất cả các khía cạnh của đời sống thành phố đều được tin tưởng đặt dưới sự giám hộ thiêng liêng này, và sự thịnh vượng cũng như sự bình an của thành đều được đặt dưới quyền của nam hay nữ thần. Khi nào thành gặp mối nguy nào thì lời cầu nguyện đặc biệt sẽ được bày tỏ với đấng bảo vệ thiêng liêng để được giúp đỡ. Từ khi vua Đavít chinh phục được Giêrusalem và biến thành thủ đô của vương quốc mình thì thành này nằm trên núi Sion, đây là một nơi đặc biệt trong truyền thống của con cái Israel. Nơi đây được xem như trái tim của dân tộc cả về mặt chính trị lẫn tôn giáo, bởi Thiên Chúa Israel sẽ ngự nơi đền thờ và đền thờ sẽ là trung tâm của con cái Thiên Chúa.
Trong sách Isaia cũng như trong một số bản văn Kinh Thánh khác, hình ảnh người phụ nữ được dùng để diễn tả thành phố. Ở một thông điệp trong sách Isaia I, ngôn sứ an ủi đối với Hêgiêkia, một vị vua khiếp đảm và tuyệt vọng của Giuđa, Giêrusalem được nhân cách hóa thành con gái yêu của Thiên Chúa. Ngài diễn tả một hình ảnh hết sức ấn tượng về người con gái lộng lẫy này, thành phố như người con gái dám thách thức thế lực Sennacherib, vua Assiri:
“Đây lời Đức Chúa kết tội nó:
Trinh nữ, cô gái Si-on,
khinh dễ nhạo báng ngươi;
sau lưng ngươi, cô gái Giêrusalem lắc đầu” (37,22).
Nhưng ngài cũng thương tiếc cho sự trung thành của nó:
“Đô thị vốn trung tín xưa kia
sao nay lại trở thành con điếm?
Đô thị xưa kia vốn chính trực,
vốn là nơi ngự trị của đức công minh,
sao nay lại đầy lũ giết người?” (1,21).
Vì thế ngôn sứ diễn tả ấn tượng sâu sắc phái nữ truyền thống được xác định bằng tư cách đạo đức giới tính, có thể nguyên nhân này hệ lụy đến phụ nữ ngày nay. Nhưng cũng nên nhắc lại rằng nó xuất hiện bên ngoài một thế giới tìm kiếm điều khiển tư cách đạo đức của người phụ nữ, đặc biệt là giới tính, trong một cấu trúc xã hội theo chế độ phụ hệ nghiêm khắc. Các ngôn sứ ngày xưa đã dùng tất cả khả năng của mình để nhìn thấy xuyên qua những thái độ đạo đức giả của xã hội các ngài mà không thoát ra khỏi điều kiện văn hóa. Đối với các ngài đời sống dâm ô, như một sự diễn tả về khả năng không thể điều khiển giới tính nữ, được nhìn nhận như một ẩn ý đối với đời sống của toàn thành, rằng thành không tự chủ được, và nhờ chống lại điều mà Isaia I nhận ra như một sự trung thành của thành ấy mà lời phán xét của Thiên Chúa được công bố như sau:
“Ta sẽ bao vây ngươi tứ phía,
sẽ đắp lũy chung quanh ngươi,
sẽ dựng công sự đánh ngươi” (29,3).
Nhưng cuối cùng Đức Chúa sẽ dủ lòng thương Giêrusalem và sẽ phục hồi thành, ưu ái như một nơi cư ngụ của Thiên Chúa; một thành phố bình an và bảo đảm:
“Hãy nhìn ngắm thành Si-on,
nơi chúng ta cử hành các đại lễ,
mắt bạn sẽ thấy Giêrusalem, một nơi ở thảnh thơi,
một cái lều sẽ không bị tháo gỡ;
cọc lều sẽ không bao giờ bị nhổ đi,
không một giây lều nào sẽ bị đứt.
Vì tại đó, Đức Chúa sẽ cho chúng ta thấy
Người là Đấng oai hùng.
Người sẽ như một miền có sông ngòi rộng lớn,
nhưng không có thuyền bè tới lui,
và tàu to đẹp cũng không qua lại” (33,21-22).
Đối với Isaia II cũng vậy, Thiên Chúa ưu ái phục hồi Giêrusalem là điều quan trọng bậc nhất:
“Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho thành:
Thời phục dịch của thành đã mãn,
tội của thành đã đền xong,
vì thành đã bị tay Đức Chúa
giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (40,2).
Ngài hứa hẹn một cuộc trở về, Đấng thống trị và bảo trợ thiêng liêng của thành sẽ phục hồi, sẽ mang lại niềm vui cho tất cả những ai cư ngụ ở đó:
“Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi
cùng cất tiếng reo hò vang dậy;
họ sẽ được tận mắt thấy Đức Chúa
đang trở về Si-on.
Hỡi Giêrusalem điêu tàn hoang phế,
hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng,
vì Đức Chúa an ủi dân Người,
và cứu chuộc Giêrusalem” (52,8-9).
Tuy nhiên thị kiến hùng hồn nhất về giải phóng Giêrusalem được tìm thấy trong Isaia III. Ngài phải đương đầu với một thành bị chiếm đóng, một thành phố đã bị hủy hoại 50 năm. Nhưng ngài tuyên bố rằng ngài sẽ không ngừng lại cho tới khi được nhìn thấy dấu chứng của thành phố xinh đẹp này:
“Vì lòng mến Si-on, tôi sẽ không nín lặng,
vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành,
ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (62,1).
Ngài công bố một kỷ nguyên khôi phục sẽ nhìn thấy thành thịnh đạt, huy hoàng và sẽ là đối tượng của sự tôn kính đối với tất cả chư dân:
“Con cái ngoại kiều sẽ tái thiết thành lũy của ngươi,
việc tế tự của ngươi, vua chúa của chúng sẽ góp phần.
Phải, trong lúc giận dữ, Ta đã đánh phạt,
nhưng vì ân tình, Ta lại xót thương ngươi.
Các cửa thành ngươi sẽ luôn luôn mở rộng,
ngày đêm không đóng lại bao giờ,
để người ta đem nộp cho ngươi của cải muôn dân,
để vua chúa của chúng đến trình diện” (60,10-11).
Thậm chí ngài kêu gào dân cư trong thành hãy cầu xin với Đấng bảo trợ thiêng liêng của thành để thành được khôi phục cho tới khi Thiên Chúa không còn chọn lựa nào khác:
“Giêrusalem hỡi, trên tường thành ngươi,
Ta đã đặt lính gác,
suốt ngày đêm, chúng sẽ chẳng bao giờ nín lặng.
Hỡi những người có phận sự nhắc nhở Đức Chúa,
anh em đừng nghỉ ngơi.
Cũng đừng để Đức Chúa nghỉ ngơi
bao lâu Người chưa tái lập,
chưa đặt Giêrusalem
làm lời khen ngợi trên khắp địa cầu” (62,6-7).
Đối với dân Israel, không có thành phố nào trong thế giới cận đại có thể thỉnh cầu một đấng cứu độ quyền thế và đầy trắc ẩn như là Đức Chúa của họ:
“Vì Đức Chúa phán như sau:
Này Ta tuôn đổ xuống thành đô
ơn thái bình tựa dòng sông cả,
và Ta khiến của cải chư dân
chảy về tràn lan như thác vỡ bờ.
Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ,
được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối” (66,12).
Chúng ta không còn nhìn thấy việc làm của Thiên Chúa trong lịch sử cùng một cách thức như dân Chúa đã từng được chứng kiến trong thế giới cổ đại. Có thể chúng ta muốn thắc mắc về niềm tin của Isaia rằng tin cậy vào Thiên Chúa thì hiệu quả hơn là tạo nên những quan hệ chính trị. Đặc biệt như những công dân của một đất nước dân chủ và phát triển, chúng ta hãy tạo cho mình thói quen tin rằng chúng ta có thể điều khiển được vận mệnh chính trị tốt hơn là dân cư thành Giêrusalem ngày xưa. Tuy nhiên sứ điệp của Isaia cho thấy rằng Thiên Chúa hiện diện trong đời sống của mọi dân tộc trên thế giới và điều này vẫn còn ý nghĩa cho đến ngày hôm nay. Hẳn thật, nhờ những hành động của mình, họ mở ra cho phán xét thiêng liêng. Thiên Chúa đã chăm sóc Israel, Ngài vẫn hằng để ý tới những hy lễ của bản ngã thụ động và những cuộc chiến quyền lực chính trị trong thời đại chúng ta. Và vì cũng thích hợp để chúng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta lòng can đảm để đương đầu với những xáo trộn trong thế giới chúng ta như dân cư thành Giêrusalem phải chịu.
Câu hỏi
1. Bạn có tin Thiên Chúa vẫn còn hoạt động trong lịch sử nhân loại không?
2. Tại sao mỗi lúc gặp khủng hoảng cá nhân hay xáo trộn trong thế giới, người ta lại khó tín thác vào Thiên Chúa?
3. Phải chăng nên tách hai lãnh vực chính trị và tôn giáo trong xã hội chúng ta?