PDA

View Full Version : THÁNH THẦN - Hơi Thở Sống Động



caoduc
18-09-2008, 08:58 AM
THÁNH THẦN,
HƠI THỞ SỐNG ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI
Hồng Y L.J. Suenens





LỜI TỰA


----------Đức Hồng Y L. J. Suenens từ biệt chúng ta về với Chúa đã được 5 năm*. Suốt những năm dài trong cuộc đời giám mục, Ngài đã phục vụ Thầy Chí Thánh của mình với lòng nhiệt thành tông đồ, ngay cả những ngày tháng cuối đời của tuổi thọ quá cửu tuần. Lúc nào ngài cũng miệt mài phục vụ thiện ích Giáo Hội cho đến tận ngày vào bệnh viện. Bấy giờ ngài có ngỏ lời với một nữ tu: «Tôi đến đây để thực hiện cuộc vượt qua vĩ đại của đời tôi». Ngày hôm sau ngài phó trút linh hồn trong tay Chúa Cha. Cũng như Đức Kitô, ngài có thể thực sự nói rằng: «Mọi sự đã hoàn tất».

----------Quả thực, nhìn vào đời sống linh mục và giám mục tốt lành của Hồng Y Suenens, người ta vẫn còn sửng sốt về những gì ngài đã làm để phục vụ Giáo Hội mà ngài hết lòng yêu mến. Ngài đã chọn khẩu hiệu «In Spiritu Sancto» (trong Thánh Thần) cho đời giám mục của mình. Và Thánh Thần đã thiết thực hướng dẫn ngài trên con đường đầy những «bất ngờ của Thiên Chúa». Ngài vẫn luôn nói đến sự kiện kỳ diệu này cho những ai muốn hỏi ngài về những biến cố quan trọng trong cuộc đời hoạt động tông đồ của mình.

----------Hồng Y Suenens đã dành phần lớn cuộc đời, trí tuệ và tình yêu để phục vụ công cuộc canh tân đoàn sủng. Nếu chỉ nhìn vẻ bề ngoài nơi khuôn mặt ngài, chỉ nghe giọng nói hơi đơn điệu hoặc chỉ biết được lối sống hơi khắc khổ của ngài, không ai nghĩ rằng Đức Hồng Y Suenens sau này sẽ trở thành vị «Hồng Y Bảo Trợ» cho phong trào đoàn sủng và những sinh hoạt hăng say của phong trào ấy. Các cuộc hội Canh Tân linh hoạt tưng bừng bao nhiêu, thì gương mặt của ngài như bình thản bất động bấy nhiêu khi ngài lên tiếng, trừ những chớp sáng nơi cái nhìn của ngài.

----------Hồng Y Suenens hiểu rất rõ tầm quan trọng của trào lưu Canh Tân đối với Giáo Hội, ngài hiểu những thiện ích phát sinh từ đó cũng như những lệch đường nguy hiểm có thể xảy ra. Ngài cũng hiểu tầm quan trọng của việc phán đoán phân biện trong Giáo Hội. Đức Phaolô VI cũng hiểu điều ấy nên đã trao ngài phận vụ dẫn dắt trào lưu vốn tế nhị nầy, qua quyết định công bố ngay tại vương cung thánh đường Thánh-Phêrô ở Rôma.

----------Vị Hồng Y giờ đã im tiếng. Số phận con người là thế. Nhưng «Defunctus adhuc loquitur» – «người chết vẫn tiếp tục nói với chúng ta» (Dt 11,4) thông qua các tác phẩm của Ngài. Vì thế, chúng tôi thật vui mừng khi có được những số lớn tác phẩm của Hồng Y Suenens tái xuất bản trong loat Các tài liệu ở Malines và ở các nơi khác. Tất cả những tác phẩm này đều nằm trong chiều hướng giúp “suy nghĩ phân biện”, rất hữu ích và thích đáng. Một số tác phẩm nầy cho thấy lúc bấy giờ Hồng Y Suenens thực sự can đảm khi cho phổ biến. Nhưng chính lúc nầy đây, chúng ta có thể kiểm chứng chắc chắn được rằng «Vị Hồng Y Bảo Trợ» nầy đúng thật là một nhà hướng dẫn bảo đảm an toàn, biết đặt những cột mốc dọc đường Canh Tân vào lúc chưa có tấm bản đồ chỉ đường dẫn lối.

----------Xin cảm ơn Đức Hồng Y đáng kính vẫn đang nói với chúng con kể cả sau khi về với Chúa Cha. Xin cảm ơn những ai đưa ra sáng kiến và những ai thực hiện công việc tái bản nầy.
Hồng Y Godfried Danneels
Tổng Giám Mục Malines-Bruxelles
* Lời Tựa viết năm 2001




LỜI GIỚI THIỆU
Của Đức Cha MAI THANH LƯƠNG


----------Lúc Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng vừa chớm nở, Đức Hồng Y L.J.Suenens đã được tặng cho danh xưng là tổ phụ của phong trào. Danh từ “patriarch” diễn tả phần nào cách trung thực nơi Ngài về lòng mộ mến và hăng say hoạt động cho phong trào.

----------Hàng năm trong thập niên bảy mươi, Ngài thường chủ tọa các buổi Đại Hội tại Đại Học Notre Dame thường thu hút mỗi lần trên 100 ngàn tham dự viên.

----------Cuốn sách Thánh Linh, Hơi Thở Sống Động Của Giáo Hội là bảo chứng về lòng sùng kính Thánh Linh của Ngài, và đồng thời đề cao vai trò Ngài đã liên kết cách mật thiết Công Đồng Vaticanô II với Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng. Đúng như lời Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi hiệu triệu các Giám Mục và Giáo Phụ về tham dự Công Đồng, đã chính thức công bố: “Đây là Lễ Hiện Xuống Mới của Giáo Hội”. Bước sang thiên niên kỷ mới này Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng loan báo khắp nơi: “Chúng ta bước sang thiên kỷ của Chúa Thánh Thần.”

----------Đứng trước những thách đố của thời đại, chỉ có cậy trông vào Chúa Thánh Linh – Đấng Thánh Hóa và Ban Sức Sống, Giáo Hội mới có thể vươn lên và bảo tồn được đời sống quá mong manh này.

Đức Cha Mai Thanh Lương
Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange
California – Hoa Kỳ
Ngày 14 tháng 7 năm 2003

caoduc
18-09-2008, 09:02 AM
LỜI GIỚI THIỆU



Của Cơ Sở Hy Vọng



----------Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng Thánh Gioan: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con chưa thể lãnh hội được. Khi Thánh Thần Sự Thật đến, Ngài sẽ dẫn đưa các con đến chân lý toàn vẹn”. Lời Chúa Giêsu nói lên tầm quan trọng của những mạc khải do Chúa Thánh Linh trong thời đại hôm nay.

----------Trong thiên niên kỷ trước, hình như có khuynh hướng cho rằng tất cả những mạc khải về Tình Yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài đã hoàn tất, ta chỉ cần nhìn về quá khứ như nhà khảo cổ tìm tòi và chiêm ngưỡng những kho tàng được khám phá. Quả thật mạc khải chính thức trong Giáo Hội đã chấm dứt với sách Khải Huyền. Nhưng Chúa Thánh Thần, Đấng linh hoạt và tự do như cơn gió, vẫn không ngừng tác động và soi sáng trong tâm hồn người tín hữu, như lời hứa của Chúa Giêsu. Ngay cả Lễ Hiện Xuống, khi Chúa Thánh Thần đến như làn gió mạnh và như ngọn lửa từ trời, cũng dường như được coi là một sự kiện đã đi vào quá khứ. Và những ân huệ lạ lùng của Chúa Thánh Linh thời Giáo Hội sơ khai cũng được coi như chỉ còn là một thời vang bóng.

----------Thiên niên kỷ mới, với những biến cố lay chuyển Giáo Hội và rung động địa cầu, đã bắt buộc người tín hữu phải đặt vấn đề quyết liệt về niềm tin của mình, đồng thời phải lựa chọn một cái nhìn về những dấu chỉ thời đại. Một cái nhìn hoảng hốt và phiến diện có thể làm ta bi quan và mất tin tưởng nơi Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài: các dòng tu sa sút, chủng viện phải đóng cửa, gương mù về tình dục của một số giáo sĩ tại Hoa Kỳ, giáo dân bỏ tham dự các bí tích .... Những biến động về mặt xã hội cũng làm ta lo âu và thấy cuộc sống của mình bất an ngay tự nền tảng, cho dù tại một quốc gia tân tiến và hùng mạnh nhất địa cầu.

----------Nhưng nếu nhìn những dấu chỉ thời đại dưới ánh sáng đức tin, vững lòng trông cậy vào Tình Thương Thiên Chúa và vào lời hứa của Chúa Cứu Thế, ta có thể cảm nhận được làn gió rung chuyển của một Ngày Hiện Xuống Mới. Và ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, Đấng có sức thiêu đốt tâm hồn và đổ tràn niềm vui mừng và hy vọng, bùng cháy trong tâm hồn ta. Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động mạnh mẽ để canh tân Giáo Hội và đổi thay mặt địa cầu. Ngài vẫn tiếp tục, và ngày càng mạnh mẽ, soi sáng tâm hồn các tín hữu và mạc khải những kho tàng kỳ diệu, phong phú khôn lường của Tình Thương Chúa. Lời hứa ngày xưa của Chúa Giêsu vẫn còn đang hiện thực hôm nay: nơi đâu có hai ba người họp lại vì danh Thầy, sẽ có Thầy ở giữa.

----------Tác phẩm “Thánh Thần, hơi thở sống động của Giáo Hội” của Đức Hồng Y L.J.Suenens chính là một kim chỉ nam hiếm quý giúp ta nhận ra sức mạnh vô cùng phong phú của Thánh Thần vẫn luôn tuôn tràn trong Hội Thánh suốt chiều dài lịch sử ơn cứu độ. Đức Hồng Y Suenens quả thực là vị Hồng Y của Thánh Thần. Khi được tấn phong Giám Mục, Ngài chọn khẩu hiệu “Trong Chúa Thánh Thần”. Bản thân Ngài đã có cảm nghiệm về các đặc ân của Chúa Thánh Linh. Chính từ cảm nghiệm nội tâm sâu xa và tâm tình khiêm tốn, Đức Hồng Y đã chuyển đạt cho người đọc ngọn lửa sốt sắng mà Ngài đã lãnh nhận. Tác phẩm của Ngài phối hợp tuyệt vời sự nhiệt thành sốt sắng do những ân huệ lạ lùng của Chúa Thánh Linh và sự hướng dẫn vững chắc trên căn bản thần học chính thống của Giáo Hội. Lòng yêu mến và trung thành với Giáo Hội của Đức Hồng Y được biểu lộ rõ ràng qua toàn bộ tác phẩm. Chính Đức Hồng Y là một trong những vị lãnh đạo trụ cột của Giáo Hội: Tổng Giám Mục Giáo Phận Malines-Bruxelles, trách nhiệm chuẩn bị và điều hành Công Đồng Vatican II. Ngài hăng say phục vụ Chúa Giêsu và Giáo Hội cho đến những năm tháng cuối cùng của tuổi thọ quá cửu tuần.

----------Sau ba thập niên được ấn hành và tái bản, tác phẩm của Đức Hồng Y vẫn mang đầy tính mới lạ và tiên tri. Từ chương đầu “Thánh Thần, hơi thở sống động của Giáo Hội” đến chương cuối “Thánh Thần, niềm hy vọng của tôi” người đọc luôn được hướng dẫn đến những chân trời đầy hứng khởi. Trong tác phẩm, bản chất và vai trò của Giáo Hội, tương quan giữa định chế và đặc sủng, tín hữu và chủ chăn, vai trò các ngôn sứ ... được trình bày thật tuyệt vời. Những chương nói về Chúa Thánh Thần và Bí Tích Thánh Thể, Chúa Thánh Thần và Mẹ Maria giúp ta tham gia phụng vụ với một tâm tình mới. Việc sùng kính Mẹ Maria cũng mang một chiều kích thần học sâu xa và mới mẻ. Nổi bật trong tác phẩm là những chương nói về chứng nghiệm tôn giáo và tác động của Thánh Linh. Tác giả so sánh chứng nghiệm về Thiên Chúa với hình ảnh một lữ khách trong đêm đông giá lạnh tình cờ gặp được căn nhà rực rỡ đèn sáng có ánh lửa sưởi ấm áp bập bùng. Nhưng lữ khách chỉ có thể được sưởi ấm khi mở cửa bước vào trong nhà. Bao lâu chỉ đứng ngoài nhìn vào, khách vẫn bị toàn thân lạnh giá. Lữ khách đó là hình ảnh chúng ta, những Kitô hữu đang đi tìm Thiên Chúa trong đêm tối của đức tin.

----------Các đặc ân Thánh Linh được phân tách rất tinh vi qua cái nhìn mới lạ và sâu xa của tác giả. Xuyên qua tác phẩm ta mới chợt nhận ra những ơn huệ lạ lùng của Chúa Thánh Thần thời Giáo Hội sơ khai vẫn đang hiện diện phong phú giữa lòng Hội Thánh Chúa hôm nay. Nhưng tác phẩm không ngừng tại đó mà còn mở ra những chân trời bao la về tác động của Chúa Thánh Thần giữa Cộng Đoàn Dân Chúa trong tương lai. Thánh Thần hướng dẫn và là sức liên kết từng cộng đoàn Kitô hữu. Thánh Thần như điểm tâm linh hội tụ của hy vọng đại kết các giáo hội tin vào Chúa Kitô. Chúa Thánh linh thôi thúc người Kitô hữu hiện diện giữa thế gian như môn đệ Chúa Giêsu: vừa ở với, vừa đối lập, vừa siêu việt khỏi thế gian để mang ơn cứu độ cho thế gian.

----------Chúng tôi hy vọng và tin tưởng việc phổ biến rộng rãi tác phẩm “Thánh Thần, hơi thở sống động của Giáo Hội” sẽ giúp nhiều người nhận ra ơn gọi Kitô hữu đích thực và trở thành những khí cụ sống động của Chúa Thánh Thần, Đấng đang tác động như một cơn gió mạnh để đổi mới mặt địa cầu.

----------Chúng tôi chân thành cảm ơn Định Hướng Tùng Thư đã cho phép Cơ Sở Hy Vọng tái bản tác phẩm quý giá này do quý vị giáo sư Nguyễn Đăng Trúc và Nguyễn Chính Kết dày công chuyển ngữ.

----------Xin cảm ơn sự bảo trợ của Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng* tại Orange County, một Phong Trào Đang hoạt động rất mạnh mẽ phục vụ Thiên Chúa và Giáo Hội.

----------Chúng tôi kính dâng cuốn sách này cho sự quan phòng của Chúa Thánh Linh.

Cơ Sở Hy Vọng
Mùa Phục Sinh 2003

----------* PHONG TRÀO CANH TÂN ĐẶC SỦNG là danh xưng của phong trào tại Orange County. Trong cuốn sách này, từ ngữ “charisme” được chuyển ngữ là “đoàn sủng”. Cơ Sở Hy Vọng tôn trọng nguyên văn của dịch giả.

caoduc
19-09-2008, 10:14 AM
Chương I
Một sứ điệp chỉ đáng tin khi có khả năng mở ra
cho chúng ta niềm hy vọng vào tương lai.


W. Kasper

1. GIÁO HỘI NÀO?

-------------Từ ngữ «Giáo Hội» bao gồm đủ thứ hình ảnh và kiểu mẫu. Người ta có thể định nghĩa Giáo Hội là một loại xã hội có phẩm trật, là nhiệm thể Đức Kitô, là dân Chúa, là cộng đoàn địa phương hay hoàn vũ, là cộng đoàn cánh chung, là bí tích của Đức Kitô, là tác năng phục vụ thế giới. Những căng thẳng hiện nay một phần phát sinh do việc một số người chủ trương ưu tiên một mẫu mực độc chuyên hoặc quá ưu thắng trong các kiểu mẫu ấy. Sự thật thì phức tạp hơn nhiều: chính Giáo Hội là một mầu nhiệm tiếp nhận muôn vàn chiều kích phong phú khôn lường của Đức Kitô mà chúng ta phải đón nhận tất cả cùng một lượt.

-------------Khi tôi còn trẻ, người ta trình bày Giáo Hội như một xã hội có phẩm trật, hoàn hảo về mặt pháp lý, với đủ mọi quyền lực hàm ngụ nơi qui chế nầy. Kiểu mẫu này phản chiếu hình ảnh một Giáo Hội rập khuôn một xã hội dân sự, thậm chí quân sự, với một phẩm trật có trên có dưới, lấy sự đồng dạng làm lý tưởng, tuân theo một kỷ luật gắt gao đến tận chi tiết, điều hành cả giáo sĩ lẫn giáo dân, và áp đặt một loạt những gò bó quan liêu lên cả hàng giám mục. Danh sách những gì mà giám mục phải đệ trình xin phép Rôma thật khó mà tin nổi, ngay cả việc xin cho phép một nữ tu sửa đổi bản di chúc hoặc cho phép một linh mục ốm đau được dâng thánh lễ tại phòng riêng.

-------------Công đồng Vatican II nhấn mạnh rằng Giáo Hội là Dân Chúa đang tiến bước, phục vụ cho nhân loại. Khi mô tả mầu nhiệm Giáo Hội, Hiến Chế Lumen Gentium trong chương đầu tiên đã đưa ra rất nhiều hình ảnh về Giáo Hội để chúng ta đừng đóng khung mầu nhiệm Giáo Hội trong những tấm vách quá chật hẹp của mình. Sau đó, Hiến Chế định nghĩa Giáo Hội là Dân Chúa trong tính toàn thể của nó. Nghĩa là đưa lên hàng đầu giá trị ưu tiên của phép rửa, sự bình đẳng căn bản giữa hàng ngũ con cái Thiên Chúa, và nhờ vậy cải cách và vượt qua một quan điểm về Giáo Hội mà ngày nay gọi là lối nhìn «kim tự tháp», để rồi định vị thừa tác vụ (linh mục, giám mục) vào giữa lòng toàn bộ Giáo Hội và để phục vụ toàn bộ Giáo Hội. Hướng nhìn nầy thấm nhuần sứ điệp Tin Mừng hơn là dựa vào uy thế pháp lý, mà lại không chối bỏ vai trò của hàng giáo phẩm.

-------------Tôi tin rằng đã đến giờ người Công Giáo theo lễ nghi Rô-ma cần phải làm nổi bật vị thế và chức năng của Thánh Thần để làm quân bình hơn cái nhìn của chúng ta về Giáo Hội. Tôi gọi chúng ta là những người «theo lễ nghi Rô-ma» vì những người theo lễ nghi Đông phương, dù là Công Giáo hay Chính thống, đều luôn luôn đồng ý trong việc nhấn mạnh lập trường ấy. Đức Phaolô VI đã nhắc lại sự cần thiết phải làm như thế: «Tiếp theo Kitô-học và đặc biệt là Giáo-Hội-học của Công Đồng, cần phải tiến hành một lối học hiểu và một lối thờ phượng mới về Chúa Thánh Thần, vì đó là việc bổ sung thiết yếu cho Công Đồng »

-------------Hẳn nhiên, người ta có thể tìm thấy rất nhiều qui chiếu về Chúa Thánh Thần trong các tài liệu Công Đồng, và thường lại được đưa vào bản văn do yêu cầu nhấn mạnh của các nghị phụ Đông phương hoặc nhân cơ hội có cuộc tranh luận về các đoàn sủng. Nhưng chúng ta cần phải thâm nhập trọn vẹn chiều kích «Thánh Thần» của Giáo Hội, dưới khía cạnh hiệp thông trong Thánh Thần.

-------------Chính việc cùng nhau chấp nhận Chúa Thánh Thần là thực tế sống động, là Đấng lập nên Giáo Hội, mới là yếu tố có thể giúp chúng ta tìm lại sự hiệp nhất, hiện đang gặp nguy cơ phân hóa, giữa các Kitô hữu trung thành với Giáo Hội định chế và các Kitô hữu muốn tự do và thoát ly mọi liên hệ cụ thể linh hoạt với Giáo Hội. Hiện đang có một sự đối nghịch ngày càng gia tăng giữa đám đông Kitô hữu được gọi là «truyền thống» là những người vẫn tiếp tục tìm thấy nơi Giáo Hội những biểu hiện hữu hình: như phẩm trật, phụng vụ, thần học, giáo luật..., và một thiểu số Kitô hữu được gọi là «phản kháng», quan niệm Giáo Hội như là một đám đông Kitô hữu «đang trên đường tìm kiếm». Những người này muốn giải thích lại Tin Mừng cho thời đại hôm nay khởi từ chứng nghiệm sống và từ các biến cố, chứ không – hoặc hầu như không – dựa vào cách giải thích của Giáo Hội mà ta gọi là «được thiết lập».

-------------Chúng ta sơ phác đường phân ranh như thế, may mà còn chưa cố định; nhưng hẳn đó là những ranh giới ngày càng rõ nét, đặc biệt qua sự kiện nhiều bạn trẻ không chấp nhận tự «đóng khung» trong cơ chế, và đáng tiếc là đã xa rời Giáo Hội hoặc tìm sự nương tựa nơi những nhóm tự phát để cùng nhau bày tỏ lý tưởng sống của mình.

-------------Càng ngày người ta càng đồng ý rằng việc khám phá lại mối liên hệ cần thiết giữa định chế và tự do là vấn đề trọng yếu mà Giáo Hội hiện nay phải giải quyết. Mối liên hệ này chẳng phải do chúng ta phát minh ra vì nó không phải là một cái gì nhân tạo, cũng không phải là kết quả do thỏa thuận hay thương lượng mà có. Mối liên hệ ấy có một tên gọi riêng: đó chính là Thánh Thần. Tự bản chất, Ngài là «tác nhân hiệp thông». Chính Ngài làm cho toàn Giáo Hội sống động từ bên trong. Chính Ngài ban cho Giáo Hội những cơ quan và guồng máy hữu hình của tổ chức Giáo Hội.

-------------Qua những trang sách này, chúng ta sẽ làm cho vấn đề sáng tỏ và rõ nét hơn. Trong chương này, chúng ta chỉ cần ghi nhận những tương quan sâu xa và phong phú giữa «định chế» và «đoàn sủng».

caoduc
20-09-2008, 08:53 AM
2. HAI CHIỀU KÍCH CỦA GIÁO HỘI
-------------Nói chung, trong ngôn ngữ thông thường, nói tới Giáo Hội-định chế là người ta nhắm đến Giáo Hội hữu hình, với những nét phức tạp về mặt xã hội do quá khứ lịch sử và các nét cá biệt của mỗi dân tộc. Giới truyền thông có thói quen trình bày cho công chúng một Giáo Hội “theo mô hình sẵn có» này với những hình ảnh khi lồi khi lõm; nhất là vì ưa gây kích động nên dễ tạo ra ấn tượng méo mó. Đó là Giáo Hội dưới khía cạnh xã hội học, với những thực tế lịch sử muôn màu và bất chừng.

-------------Nhưng đối với tín hữu, Giáo Hội là một thực thể thuộc một trật tự hoàn toàn khác. Giáo Hội thiết yếu là một mầu nhiệm hữu hình lẫn vô hình một cách bất khả phân ly, là trung gian giữa Đức Giêsu và chúng ta. Giáo Hội ấy có nhiệm vụ sống Tin Mừng và làm chứng Tin Mừng ấy cho từng thế hệ. Giáo Hội của Tin Mừng này bao gồm những con người, vì thế phải chịu đủ thứ bấp bênh gây ra do sự yếu đuối của con người, nhưng dù sao vẫn được Thánh Thần điều động, ban quyền năng, và đảm bảo về sự trung tín.

-------------Cấu trúc Giáo Hội theo quan điểm thần học và theo quan điểm xã hội học không giống nhau. Đối với người tín hữu, sự sắp xếp về mặt cơ chế trong cộng đồng Giáo Hội là do Đức Giêsu mong muốn và phác họa, nó mãi mãi gắn liền với sức sống và sự tăng trưởng của một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Hình ảnh Giáo Hội xuất hiện một cách tinh lọc trong Kinh Thánh. Người ta thấy hình ảnh ấy nơi những Kitô hữu đầu tiên chăm chú nghe giáo huấn của các Tông Đồ, tụ họp nhau để cầu nguyện và cử hành Thánh Thể, tuy khác biệt nhau về tác vụ nhưng hiệp nhất với nhau trong một cộng đoàn huynh đệ. Họ được dẫn dắt bởi những vị có trách nhiệm tổ chức trật tự nội bộ và liên lạc với những cộng đoàn Kitô hữu khác. Những vị hữu tránh nầy luôn lo lắng trung thành với kho tàng được lãnh nhận và chuyển giao từ các nhân chứng có thẩm quyền, có tư cách, được ủy nhiệm, liên tục tiếp nối những chứng nhân đầu tiên làm chứng về sự Phục Sinh của Thầy Chí Thánh.

-------------Đó là những đường nét sơ phác về Giáo Hội định chế; chúng vốn thuộc về yếu tính của Giáo Hội ấy.

-------------Nhưng hơn thế nữa, lịch sử Giáo Hội lúc khai sinh từng bước cho thấy trong Giáo Hội không có sự tách biệt giữa «tổ chức Giáo Hội» và «Chúa Thánh Thần», vì Thánh Thần là linh hồn và là sự sống của Giáo Hội.
Các Tông Đồ đã lãnh nhận từ Thầy Chí Thánh mệnh lệnh tối hậu là không được tự biên tự diễn trong việc thi hành sứ mệnh Ngài giao phó, mà phải chờ Đấng sẽ dùng quyền năng phủ lên họ và dần dần mặc khải cho họ tiếp cận viên mãn chân lý mà họ vừa thoáng thấy. Giáo Hội «có cơ cấu» trước tiên không phải là một thực tại pháp lý mà là một thực tại bí tích. Thánh Thần ngự xuống trên những kẻ được Thầy Chí Thánh ủy nhiệm. «Các con hãy nhận lấy Thánh Thần» là lời khởi màn nói với bất cứ ai lên đường hành động nhân danh Giáo Hội. Ngay cả hiện nay, không gì mạnh mẽ bằng những câu nói dùng trong nghi thức tấn phong giám mục … «Lạy Chúa xin giúp cho vị này thi hành sứ vụ hòa giải bằng lời nói và hành động, với quyền năng các dấu chỉ và phép lạ». Những lời này không phải là văn chương bóng bảy mà là một hình thức biểu lộ đức tin.

-------------Như thế, Giáo Hội của Tin Mừng ấy vừa hữu hình vừa vô hình. Không bao giờ được nói có hai Giáo Hội: một Giáo Hội cơ chế hữu hình, và một Giáo Hội đoàn sủng vô hình. Sự kết hợp hai chiều kích nầy thiết yếu xây dựng nên ý niệm về Giáo Hội.

-------------Theo đức tin, người ta không thể quan niệm một «Giáo Hội thiêng liêng» riêng để trung thành với Tin Mừng và Thánh Thần, đối lập với một «Giáo Hội định chế» được đồng hoá một cách nào đó với một thứ áo mão bên ngoài.

-------------Đức Phaolô VI tuyên bố: «Thánh Thần, Đấng ban phát các đoàn sủng và đồng thời làm linh hoạt Giáo Hội, đã làm cho việc linh ứng đoàn sủng và cơ cấu pháp lý của Giáo Hội đồng quy một cách tuyệt vời»2.
Từ ngữ «charisme» (đoàn sủng) đã đi vào ngôn ngữ thế tục. Theo ý nghĩa nới rộng nầy, đoàn sủng ám chỉ một thứ tài năng ngoại hạng, một thứ từ lực cá nhân. Theo ý nghĩa tôn giáo và thánh kinh là ý nghĩa duy nhất mà chúng ta quan tâm ở đây, đoàn sủng là một ân huệ đặc biệt, một biểu hiện thấy được và ban nhưng không của Thánh Thần, một ân sủng đặc biệt Thiên Chúa, nhằm xây dựng toàn nhiệm thể Giáo Hội. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau.

-------------Chúng ta thấy cách dùng từ ngữ ấy trong xã hội hiện nay cũng không luôn luôn trùng hợp với lối nói của thánh Phaolô. Chẳng hạn một số tín hữu đã coi «đoàn sủng» là cái gì đối nghịch với «tác vụ» (tiếng Đức: Amt; tiếng Pháp: ministère). Họ hiểu một cách giản lược «tác vụ» là một phận vụ được thi hành đều đặn trong cộng đoàn và cho cộng đoàn bởi một số người được chính thức ủy nhiệm. Quan niệm như thế là đi ngược lại tư tưởng thánh Phaolô. Theo Ngài, từ ngữ «đoàn sủng» chẳng những có nghĩa là các ơn huệ thiêng liêng thần bí nhất hoặc có tính cách tôn giáo nhất, mà còn có nghĩa là những phận vụ rất hữu hình trong Giáo Hội, như làm tông đồ, giảng dạy, điều hành. Đàng khác, thánh Phaolô cũng nhấn mạnh rằng phải xem tất cả các đoàn sủng – chứ không chỉ các phận vụ chính thức – là những tác vụ được trao ban, trước hết là để phục vụ cộng đoàn.

-------------Theo tôi, những ghi nhận ấy có thể giúp ta tránh được những tình thế tiến thoái lưỡng nan và những vấn đề nêu lên một cách giả tạo. Chúng giúp ta tránh được việc phân rẽ «những gì mà Thiên Chúa đã kết hiệp» (Mt 19,6). Đừng bao giờ quên rằng Giáo Hội không thể hiện hữu nếu thiếu chiều kích đoàn sủng. Phủ nhận chiều kích này không phải chỉ làm nghèo Giáo Hội mà còn phủ nhận luôn cả sự hiện hữu của Giáo Hội. Không có chiều kích này, Giáo Hội không phải chỉ bị mất một bộ phận nào đó của mình, giống như một người bị mất bàn tay, nhưng sẽ không còn là Giáo Hội nữa, vì chính yếu tính của Giáo Hội sẽ bị tiêu hủy.

-------------Người phương Tây chúng ta thích dùng những từ ngữ Kitô học để mô tả Giáo Hội, xem Giáo Hội như hoàn toàn được Đức Kitô thiết lập nơi các cơ cấu, và Thánh Thần xem ra chỉ xuất hiện khi các cơ cấu Giáo Hội đã được thiết lập xong, nhằm thúc đẩy và làm cho các cơ cấu này sống động. Quan niệm như thế khiến người ta tưởng rằng Thánh Thần thuộc về giai đoạn hai trong việc thiết lập Giáo Hội. Đâu phải thế! Thánh Thần, cũng như Đức Kitô, đã lập nên Giáo Hội. Gán cho Thánh Thần vị thế tiếp nối như Đấng làm sinh động và kết hợp Giáo Hội thì chưa đủ. Sự hiện diện trong hai chức năng này của Ngài không hề đưa đến chủ nghĩa nhị nguyên trong lòng Giáo Hội vì Thánh Thần tấn phong Giáo Hội cũng chính là Thánh Thần của Đức Kitô, Đấng đã nhận lãnh quyền thông ban Thánh Thần ấy cho các Tông Đồ như giá khổ nạn chuộc tội của Ngài.

-------------Sự kết hợp này đem lại rất nhiều kết quả cho đời sống thiêng liêng, tu đức, phụng vụ, thờ phượng và tông đồ của Giáo Hội. Giáo Hội là kết quả sứ mệnh của Hai Ngôi Vị Thiên Chúa: sứ mệnh của Ngôi Con nhập thể và sứ mệnh của Ngôi Thánh Thần được gởi đến cho Ngôi Con để cộng đồng nhân loại của các tín hữu trở nên thân thể Đức Kitô và nên bí tích phổ quát của ơn cứu độ.

-------------Như vậy, chúng ta không được xem phẩm trật với đoàn sủng, cũng như công việc của Chúa Con với công việc của Thánh Thần đối kháng nhau

caoduc
22-09-2008, 08:42 AM
3. GIÁO HỘI LẮNG NGHE THÁNH THẦN
-------------a) Đón nhận đoàn sủng
-------------Dù tận thâm sâu, hai chiều kích trên của Giáo Hội liên kết với nhau, nhưng phải thừa nhận rằng lịch sử đã từng chứng kiến những ngày tháng căng thẳng giữa hai chiều kích ấy. Sự căng thẳng này đôi khi phát sinh từ những đối kháng giữa hàng giáo phẩm với những Kitô hữu ngụy-đoàn-sủng .

-------------Những hiện tượng siêu nhiên giả mạo xảy ra đầy dẫy – chẳng hạn như lối kết tạp tôn giáo kiểu chiêu hồn ở Ba-Tây và những nơi khác. Việc quần chúng tò mò ham thích những chuyện dị thường khiến ta phải luôn bình tĩnh. Trong bối cảnh như thế, việc vận dụng ơn suy xét rất tế nhị, nên hàng giáo phẩm rất dễ có khuynh hướng phải hành động theo cách chắc chắn nhất. Sự kiện nầy giải thích – nhưng không phải luôn luôn biện minh được - một số ngờ vực và lên án quá lạm mà lịch sử đã từng ghi nhận. Thật vậy, các phong trào tâm linh do các dòng tu phát động, lúc khởi đầu, thường có sự căng thẳng giữa người sáng lập phong trào và hàng giáo phẩm, đó không phải là chuyện hiếm xảy ra. Lịch sử cho thấy việc bãi miễn một số tu sĩ một phần là do những xung đột loại này. Nhiều vị sáng lập dòng, nam có nữ có, lúc khởi đầu đã bị lầm tưởng là những nhà cuồng tưởng của thời đại, như trường hợp thánh Phan-xi-cô thành Assisi và I-nha-xi-ô thành Loyola.

-------------Trong số những trường hợp như vậy phải kể đến đoạn đường gian khổ của thánh Grignon de Montfort. Vị này liên tiếp bị tước quyền trong tám giáo phận vì các giáo quyền thời ấy đều có ít nhiều khuynh hướng Janséniste. Cũng có trường hợp cực kì bi đát như trường hợp của một vị nữ sáng lập dòng nọ, vị này bị giáo quyền trục xuất khỏi nhà dòng và chỉ được trở về lại nhà dòng với nắm xương tàn sau khi qua đời nửa thế kỷ, lúc sắp được phong chân phước!

-------------Chủ chăn và tín hữu đều được Thánh Thần tác động
-------------Còn một điểm tôi cho là quan trọng: đó là không nên đánh giá cái này cao hơn cái kia giữa các cặp song đối như «đoàn sủng – định chế» và «tín hữu – chủ chăn». Đoàn sủng không là kho tàng riêng chỉ dành cho một giới tín hữu. Đàng khác, nếu người ta hiểu «định chế» theo một nghĩa rộng, bao gồm tất cả những gì cấu thành cơ sở hữu hình trong Giáo Hội và di sản của quá khứ kể từ thời Giáo Hội sơ khai, thì sự hiện hữu của hàng giáo dân trong Giáo Hội cũng thuộc về «định chế» Giáo Hội không khác gì sự hiện hữu của hàng giáo phẩm.

-------------Đoàn sủng không phải là của riêng hàng giáo dân hoặc hàng giáo phẩm. Trong số «các ngôn sứ» của thời đại, người ta có thể kể ra nhiều giáo dân. Vả lại danh từ «ngôn sứ» không phải là dễ sử dụng và đánh giá. Ngôn sứ không nhất thiết phải là những người được nói đến nhiều nhất. Mỗi tín hữu đều được mời gọi làm chứng cho đức tin của mình ở bên ngoài và bên trong Giáo Hội, được mời gọi vận dụng những tiềm năng đoàn sủng gắn liền với phép rửa tội của mình.

-------------Không một giới nào trong hai đối tượng này – hàng giáo phẩm hay hàng giáo dân – là tiêu biểu duy nhất cho định chế Giáo Hội. Di sản quá khứ của Giáo Hội, kể cả Tin Mừng, cả chứng tá đức tin từ những thời đầu tiên của Giáo Hội, đều hiện diện và sống động từ cả hai phía. Cả hai phía phải cùng nhau phát minh ra cách thể hiện lòng trung tín với đức tin của mình trong thời đại hôm nay. Cả hai phía phải cùng nhau đương đầu với những khó khăn để phát huy những sáng kiến mới trong đời sống Giáo Hội thích ứng với nội dung Tin Mừng. Ý tưởng «Dân Thiên Chúa» của Công Đồng Vatican II ở đây phải được đặt lên hàng đầu. Người ta thường quên rằng ở đây «Dân Thiên Chúa» không ám chỉ là phải đối nghịch với «việc cai trị» như trong thuật ngữ chính trị. Dân Thiên Chúa có nghĩa là những người được rửa tội, kể cả Giáo Hoàng và các Giám Mục.

-------------Trong cuộc hành trình của Dân Thiên Chúa, các vị chủ chăn có một phận vụ đặc biệt, một công việc phục vụ cá biệt mà họ phải thực hiện. Việc phục vụ này có quan hệ với sự hiệp nhất hữu hình của Giáo Hội. Các vị chủ chăn được tấn phong trước tiên không phải để chỉ huy mà để liên kết, để đảm bảo sự hiệp thông giữa các cá nhân và để duy trì sự liên tục trong thời gian và sự hài hòa trong không gian. Mất đi khả năng tự điều chỉnh, Giáo Hội sẽ bị rơi vào cuồng tưởng và cá nhân chủ nghĩa.

-------------Là bộ phận có chức năng quyết định trong Giáo Hội, các vị chủ chăn phải sống trong Thánh Thần, phải đặc biệt chú tâm tới toàn bộ các «dấu chỉ thời đại» và tới các chứng từ mang tính ngôn sứ được biểu lộ từ nhiều phía. Những chứng từ ấy cần được lắng nghe, và vì quyền năng tối thượng của Tin Mừng cần được tiếp nhận vào sinh hoạt toàn bộ của Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên nhân chứng tốt hơn cho Nước Trời đang đến.

-------------Trong Giáo Hội, luôn luôn có sự hiện diện ngôn sứ của Thánh Thần, có thể rõ rệt hoặc kín đáo. Có thể xảy ra trường hợp sau: một vị «ngôn sứ» nào đó muốn thức tỉnh lương tâm mọi người bằng cách công bố một sứ điệp đanh thép nhưng có phần nào phiến diện. Nhưng không phải vì thấy phiến diện như thế mà các chủ chăn không nên lắng nghe: bổn phận chủ chăn là phải phân biệt để nhận ra điều gì tốt và đón nhận nó, đồng thời hướng dẫn nó hòa nhập vào một lối nhìn rộng rãi và có thể quân bình hơn.

-------------Như vậy, Thánh Thần tác động trên các vị mục tử để những gì họ quyết định phù hợp với Tin Mừng, với đời sống Giáo Hội và sự quang lâm của Nước Chúa. Và Ngài cũng còn đòi buộc các mục tử phải đón nhận tất cả những cách thức biểu hiện của Ngài. Ngài luôn ngăn cản không để Giáo Hội tự coi mình là cùng đích. Ngài gìn giữ Giáo Hội để Giáo Hội luôn hướng về mục tiêu cuối cùng là Nước Trời đang đến và về Đức Giêsu Kitô, là Chúa Tể duy nhất của Giáo Hội.

-------------b) Mở lòng đón nhận sự phê phán của Tin Mừng
-------------Vì phải hòa nhập vào bối cảnh lịch sử của mỗi thời đại, nên Giáo Hội cần thường xuyên tự phê và tự xét để luôn trung thành với sứ mạng của mình. Tự bản chất, Giáo Hội hoàn toàn liên kết với Lời Chúa, và sự tùng phục theo bản chất này buộc Giáo Hội phải đều đặn trở về nguồn. Thánh Thần không ngừng giúp Giáo Hội tránh xa những quan niệm chật hẹp, những thỏa hiệp và cả tội lỗi nữa, vì Giáo Hội vẫn luôn luôn bao gồm những con người thiếu sót, bất trung với cái lý tưởng mà họ được mời gọi phụng sự.

-------------Việc phê phán giúp Giáo Hội trở nên tốt hơn có thể đến từ bên trong lẫn bên ngoài. Đôi khi từ những đối thủ của Giáo Hội. Ngạn ngữ «Fas est ab hoste doceri» có nghĩa là: kẻ khôn ngoan biết học khôn từ chính kẻ thù mình, ngạn ngữ này cũng đúng cho cả Giáo Hội.

-------------Giáo quyền phải biết lắng nghe, phải dám kịp thời nhận lãnh trách nhiệm trước những đòi hỏi cần thiết phải xét lại, để tránh cho mình bị dồn vào thế cùng khi mọi sự đã quá trễ tràng. Thật đáng buồn khi thấy «con cái sự sáng» chậm trễ hơn «con cái thế gian» trong việc biết tự phê bình, tự lượng định một cách vô tư và nghiêm túc về phương pháp và kết quả sinh hoạt của mình. Chúng ta thấy các chủ xí nghiệp biết mời những nhà chuyên môn đến nghiên cứu từ bên trong tất cả các bộ phận thuộc tổ chức của họ, để phát hiện ra những điểm yếu về kỹ thuật hay tâm lý, hầu chấn chỉnh lại tất cả những gì đang kềm hãm và cản trở khiến xí nghiệp không vận hành tốt đẹp được. Tôi biết rằng Giáo Hội không phải là một loại xã hội có thể đồng hoá với những xí nghiệp. Tuy vậy vẫn có những quy luật có giá trị cho bất kỳ cơ chế nào, bất kỳ nơi nào cần người ta cộng tác với nhau để thực hiện một mục tiêu đã định. Chấp nhận hay cỗ vũ sự phê phán là một phần quy luật trong cuộc sống của con người mà ta không thể bỏ qua được.

-------------Giáo Hội còn có một lý do thường xuyên buộc phải đặt tự kiểm thảo trên bình diện tương quan phục vụ con người. Giáo Hội không phải là một xã hội như bất cứ xã hội nào khác. Sứ điệp Giáo Hội cưu mang và là lẽ sống cho chính mình đòi buộc Giáo Hội nhất thiết phải thực thi đối với chính Giáo Hội cũng như đối với những người được Giáo Hội ngỏ lời.

-------------Một trong những đặc trưng của Giáo Hội chính là: Giáo Hội trước tiên thể hiện nơi mình như một «định chế-sứ điệp».

-------------Là «định chế-sứ điệp» nên Giáo Hội là một xã hội thuộc loại đặc biệt. Sứ điệp thì không hề thay đổi, nhưng định chế luôn phải phục vụ sứ điệp đó thì cần phải chấp nhận những đổi thay cần thiết, do đó Giáo Hội như phải chuyển mình. Cũng như Con Người, Giáo Hội không có nơi tựa đầu: sự thao thức hướng về ngày cánh chung đòi Giáo Hội luôn kiên trì và canh tân cuộc lữ hành của mình, nhưng không vì vậy mà đặt vấn đề về những cấu trúc nền tảng, dứt khoát và hình thành nên mình. Những cấu trúc này luôn tồn tại và hướng dẫn cuộc hành trình của Giáo Hội.

-------------Một khi xác định được nền đất vững chắc dưới chân mình rồi, Giáo Hội cởi mở đón nhận mọi phê phán xây dựng nhằm làm cho Giáo Hội ngày càng trung thành hơn với chính mình, nghĩa là trung thành với Đức Giêsu.

-------------Giáo Hội phải luôn luôn tự nhìn lại lịch sử của mình và tự nhìn ngắm mình trong tấm gương nguyên thủy để tìm lại «khuôn mặt từ thuở chào đời» của mình để khỏi quên đi khuôn mặt ấy như lời khuyên của Thánh Giacôbê (Gc 1,23). Lịch sử Giáo Hội là trường dạy đức khiêm nhường cho tất cả chúng ta.

-------------Nhưng lịch sử Giáo Hội cũng là trường dạy hy vọng. Nó dạy cho ta biết rằng những thời kỳ đảo điên nhất thường chuẩn bị cho những chặng đường bất ngờ.

-------------c) Đón nhận tự do của Thánh Thần
-------------Giáo Hội của Đức Kitô phải vâng phục chỉ một và cũng một Thánh Thần ấy trong mọi chiều kích. Là một xã hội hữu hình và tại thế, Giáo Hội hiển nhiên phải có luật lệ và có guồng máy. Giáo Hội không thể coi thường luật lệ, nhưng cũng phải cẩn thận để tránh rơi vào tình trạng câu nệ pháp lý hay vị lề luật. Bộ giáo luật luôn luôn cần được tham chiếu với Thánh Thần và được Thánh Thần cảm hứng. Hiển nhiên, Tin Mừng phải là luật tối thượng. Lời Chúa và Thánh Thần Đức Giêsu là nguyên lý tối cao hướng dẫn Giáo Hội, và mọi phẩm trật đều phải phục tùng Lời Chúa và Thánh Thần.

-------------Sự nguy hiểm của tình trạng câu nệ pháp lý gia tăng mỗi lần quyền bính trung ương ở tầm vóc thế giới lại đưa ra những luật lệ quá tỉ mỉ và cứng ngắc, có nguy cơ không phù hợp khi đem áp dụng vào những hoàn cảnh cụ thể hết sức khác biệt nhau. Giáo Hội bị cám dỗ rất mạnh là cứ muốn thống nhất Giáo Hội bằng những sắc lệnh hay luật lệ, và như thế là lẫn lộn giữa sự hiệp nhất và sự đồng dạng.

-------------Đức Thượng Phụ Athénagoras mới đây đã cảnh báo Giáo Hội Chính Thống để tránh tình trạng câu nệ pháp lý:
-------------«Chúng ta đã biến Giáo Hội thành một tổ chức như những tổ chức khác. Trước đây tất cả nỗ lực của chúng ta là thành lập nó, và nay thì làm cho nó vận hành. Và nó tiến bước được một cách nào đó, có lẽ không hay cho lắm nhưng nó đang tiến bước. Tuy vậy nó bước đi như một bộ máy, chứ không phải như một cuộc sống.”
-------------Để kết luận chương này, tôi mời các bạn suy niệm một bản văn có nguồn gốc Chính thống giáo của Giáo Chủ Ignatios de Lattaquie, đã được đọc trong hội nghị đại kết các Giáo Hội tổ chức tại Upsal. Giáo Chủ Ignatios mời gọi chúng ta nhìn nhận quyền ưu thắng của Thánh Thần như là nguyên lý sống động của Giáo Hội:



Không Thánh Thần,Thiên Chúa quả thực xa xôi.
Đức Kitô chìm quên trong quá khứ,
Tin Mừng chỉ là văn tự chết khô.
Giáo Hội có gì khác hơn tổ chức trần thế
Quyền bính chỉ để cai trị .
Truyền giáo là tuyên truyền.
Phụng tự có khác chi đồng bóng,
Và cuộc sống Kitô hữu èo ọt trong luân lý chủ-nô.
Nhưng trong Thánh Thần :
Vũ trụ vươn cao, rên siết vì Nước Trời sinh hạ.
Đức Kitô phục sinh cư ngự cõi người ta.
Tin Mừng đổ tràn sức sống
Giáo Hội thể hiện mối thông hiệp của Ba Ngôi
Giáo quyền là phục vụ giải phóng
Truyền giáo là một lễ Hiện Xuống
Phụng vụ sống lại quá khứ và mở cửa tương lai
Sinh hoạt của con người trở nên thần thiêng cao cả.

caoduc
25-09-2008, 08:31 AM
Chương II



CHỨNG NGHIỆM
ĐOÀN SỦNG TRONG GIÁO HỘI





Từ lâu, trước khi trở thành một tín điều trong
kinh Tin Kính, Thánh Thần đã là một thực thể sống động
trong chứng nghiệm của Giáo Hội nguyên thủy.
Edouard Schweitzer
-------------Tới đây, chúng ta đã thấy được sự hòa hợp giữa hai chiều kích của Giáo Hội: chiều kích định chế và chiều kích đoàn sủng. Bây giờ chúng ta nghiên cứu sâu hơn chiều kích đoàn sủng của Giáo Hội theo như lịch sử Giáo Hội đã ghi lại kể từ thời Giáo Hội sơ khai đến Công Đồng Vatican II.

1. THÁNH THẦN LINH HOẠT GIÁO HỘI THỜI SƠ KHAI
-------------Như chúng ta đã nói, những biểu lộ của Thánh Thần hay đoàn sủng là những ân huệ của Thánh Thần mà người ta có thể nhìn thấy được và có mục đích phục vụ cộng đoàn để xây dựng nước Thiên Chúa.

-------------Các đoàn sủng này bùng lên như những ánh hào quang lúc hừng đông vào sáng ngày lễ Hiện Xuống. Chúng xuất hiện trong từng trang lịch sử của Giáo Hội nguyên thủy. Đọc qua sách Công Vụ Tông Đồ là thấy đầy những đoàn sủng. Chúng ta chọn tác phẩm được linh ứng này không phải để gán cho nó một giá trị ưu tiên. Chúng ta biết rằng cần phải đọc sách Công Vụ dưới ánh sáng của những nguồn khác chứ không ngược lại. Tuy nhiên những gương cụ thể mà Thánh Lu-ca ghi lại cho chúng ta những ấn tượng đặc biệt.

-------------Ngay ở trang đầu tiên, Thánh Thần thị hiện một cách thật bất ngờ thậm chí gây hoang mang. Ngài ra tay can thiệp biết bao lần, thật bất ngờ và nhanh như chớp. Rõ ràng chính Ngài sắp xếp mọi sự, dấy lên sức sống nơi các Tông Đồ và cộng đồng tín hữu. Ngài can thiệp đến tận chi tiết cuộc sống hàng ngày của Giáo Hội, giúp Giáo Hội lan rộng trong đế quốc Rô-ma, tới mức độ có thể nói rằng sách Công Vụ Tông Đồ là quyển Tin Mừng thứ năm: Tin Mừng của Thánh Thần.

-------------Ngay khi rời khỏi Nhà Hội vào sáng ngày lễ Thánh Thần, lập tức Phêrô nhắc lại việc Thánh Thần tuôn đổ xuống một cách kỳ diệu đúng như ngôn sứ Giô-en đã tiên báo:

«Thiên Chúa phán: trong những ngày cuối cùng
Ta sẽ đổ Thánh Thần ta trên hết thảy người phàm
Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ
Thanh niên sẽ thấy thị kiến
Bô lão sẽ được báo mộng
Và ta cũng sẽ đổ Thánh Thần của ta
trên cả tôi nam tớ nữ của ta …
Trước khi ngày Đức Chúa đến.
Ngày vĩ đại vinh quang» (Cv 2,16-20, Ge 3,1-5)
-------------Thời gian chúng ta chờ đợi ngày quang lâm để được thấy trọn vẹn uy quyền của Thiên Chúa là thời gian Thánh Thần hoạt động. Người ta cảm nhận được Ngài trong từng trang của sách Công Vụ. Ngài hiện diện và hoạt động hơn cả những nhân vật được nêu tên tuổi và việc làm của họ. Người ta nói về Thánh Thần như nói đến một sự hiện diện thân thương và an lành. Cả những khi thánh Lu-ca không nêu danh Ngài, ta vẫn nhận ra Ngài hiện diện và toả chiếu trong từng trang sách thánh. Ngài xếp đặt và âm thầm kết dệt nên toàn cảnh công cuộc tông đồ.

-------------Chính Thánh Thần gợi ý cho các Tông Đồ những điều phải nói trước Đại Công Nghị Do Thái, trước các quan Tổng Trấn hoặc Tổng Đốc của Rô-ma cũng như trong những bài thuyết giảng hằng ngày: «Tôi nói, tôi giảng, chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn mà chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh Thần và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa» (1Cr 2,4-5).

-------------Chính Ngài linh ứng những hành vi tông đồ táo bạo: «Thánh Thần nói với ông Phi-líp-phê: Tiến lên đuổi kịp xe đó» (Cv 8,29).

-------------Và sau đó «Khi hai ông lên khỏi nước, Thánh Thần Chúa đem ông Phi-líp-phê đi mất và viên thái giám không còn thấy ông nữa» (Cv 8,39).

-------------Thánh Thần là sức mạnh của các vị tử đạo: «Được đầy Thánh Thần, Tê-pha-nô đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa» (Cv 7,55).

-------------Chính Thánh Thần dẫn Phêrô tới nhà Cor-nê-li-ô: «Ông Phêrô vẫn còn phân vân về thị kiến thì Thánh Thần bảo ông: Kìa có ba người đang tìm ngươi. Đứng lên, xuống mà đi với họ, đừng ngần ngại gì, vì chính ta sai họ đến» (Cv 10,19-20).

-------------Chính Thánh Thần đã chọn lựa các Tông Đồ: «Một hôm đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm”». (Cv 13,2).

-------------Thánh Thần là niềm vui và sự an tâm của những người bị bách hại: «Những người Do Thái sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do Thái và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và ông Ba-na-ba và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ … Về phần các môn đệ họ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần» (Cv 13,50-52).

-------------Thánh Thần chủ tọa những cuộc họp quyết định tương lai của Giáo Hội sơ khai. Khi đưa ra các chỉ thị, các Tông Đồ thường nói: «Thánh Thần và chúng tôi quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này…» (Cv 15,28).

-------------Thánh Thần còn vạch đường chỉ lối, dẫn dắt và ngăn giữ các Tông Đồ: «Các ông đi qua miền Phy-gi-a và Ga-lát vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông rao giảng lời Chúa ở Tiểu Á. Khi tới sát ranh giới My-xi-a, các ông thử vào miền Bi-thy-ni-a, nhưng Thánh Thần Đức Giêsu không cho phép» (Cv 16,6-7).

-------------Đặc biệt, chính Thánh Thần là đấng chỉ đạo hành động truyền giáo của Thánh Phaolô: «Giờ đây, bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì…» (Cv 20,22-24).

-------------Như thế, thực tế là Giáo Hội nguyên thủy đã diễn tả và sống đức tin của mình trong Thánh Thần.

2. THÁNH THẦN TUÔN ĐỔ CÁC ƠN
-------------Thánh Thần thôi thúc Giáo Hội tiến trên các nẻo đường trần thế và làm cho Giáo Hội trở thành một Giáo Hội truyền giáo và Công Giáo.
Ngài cũng tạo nên sự hiệp nhất sống động trong Nhiệm Thể Đức Kitô, thánh hóa các Kitô hữu và tuôn đổ trên họ quyền lực của Ngài. Thánh Phaolô cho chúng ta thấy hành động hiện diện khắp nơi của Thánh Thần trong từng trang sách.

-------------Chính Đức Giêsu đã từng báo trước rằng Thánh Thần mà Ngài gởi đến với các môn đệ sẽ tự biểu lộ cho họ qua những ân sủng và ân huệ lạ lùng đến nỗi các môn đệ sẽ làm được những việc to tát hơn Ngài, kể cả các phép lạ.

-------------Các đoàn sủng bùng lên trong Giáo Hội nguyên thủy như những chồi non vào mùa xuân, chủ yếu là những biểu hiện đa dạng và hữu hình của một thực thể độc nhất: đó là sự sống của Thánh Thần tuôn trào vào tâm hồn các Kitô hữu.

-------------Những ân huệ ấy được ban là để dựng xây Giáo Hội; chúng bổ sung lẫn nhau. Thánh Phaolô nhấn mạnh sự đồng quy của các ân huệ ấy trong bản văn nổi tiếng sau đây:
-------------«Có nhiều đoàn sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều hoạt động khác nhau nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi người một cách là vì ích chung. Người thì được Thánh Thần ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thánh Thần ban cho ơn hiểu biết để trìnhbày. Kẻ thì được Thánh Thần ban cho lòng tin, kẻ thì cũng được chính Thánh Thần duy nhất ấy ban cho những đoàn sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri, kẻ thì được ơn phân định Thánh Thần, kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ, kẻ khác nữa lại được ơn giải thíchcác tiếng lạ. Nhưng chính Thánh Thần duy nhất ấy làm ra tất cả điều đó và phân chia cho mỗi ngươi mỗi cách, tuỳ theo ý của Người» (1Cr 12,4-11).
-------------Thư thứ nhất của thánh Phaolô gởi tín hữu Cô-rin-tô chương 12 mà chúng ta vừa nêu, đi trước và chuẩn bị cho chương 13 là chương thánh Phaolô mô tả sự cao đẹp và tính ưu việt của Đức Ái là «điều duy nhất tồn tại mãi». Tuy nhiên, nếu Đức Ai ưu việt trên tất cả, nếu Đức Ái là mặt trời soi chiếu đời sống Kitô hữu mà Thánh Thần ban cho, thì ánh sáng của Đức Ai ấy vẫn không làm lu mờ ánh sáng của những vì sao xuất hiện trong đêm tối của chúng ta.

-------------Chính vì thế Thánh Phaolô đề cập đến những đoàn sủng như ơn khôn ngoan trong lời nói và ơn hiểu biết để trình bày (1Cr 12,8), ơn đức tin (1Cr 12,9), ơn giảng dạy (Rm 12,7; 1Cr 12,28 tt; 14,26), ơn khuyên nhủ, ơn ủi an (Rm 12,8), ơn phục vụ (Rm 12,7), ơn suy xét (1Cr 12,10), ơn giúp đỡ và coi sóc (1Cr 12,28), v.v…

-------------Như thế, trong tinh thần của Thánh Phaolô, Giáo Hội Đức Kitô không hề xuất lộ như một tổ chức thuần hành chánh. Giáo Hội là nhiệm thể Đức Kitô hằng sống, ngôi vị, sống động nhờ Thánh Thần.

caoduc
29-09-2008, 09:37 AM
3. CHỨNG NGHIỆM ĐOÀN SỦNG QUA CÁC THẾ KỶ
-------------Ai đọc Thánh Kinh cũng đều thắc mắc: Tại sao lúc đầu đoàn sủng được ban dồi dào như thế rồi ngưng dần lại qua các thế kỷ? Thánh Gioan Kim Khẩu tự nêu lên câu hỏi ấy và gượng trả lời như sau: Giáo Hội nguyên thủy cần được ưu đãi như thế để tạo một cái đà cho việc truyền giáo. Tóm lại, đó là một tình trạng ngoại lệ. Trả lời như thế thì y ếu và tỏ ra lúng túng. Thực ra hiện tượng đoàn sủng chưa bao giờ biến mất khỏi Giáo Hội vì Thánh Thần luôn trung kiên ở với Giáo Hội.

-------------Vào cuối thế kỷ thứ hai, thánh I-rê-nê còn nhận thấy các đoàn sủng đặc biệt vẫn xuất hiện thường xuyên trong Giáo Hội như là những hiện tượng cộm nổi, ai cũng biết. Thánh nhân viết: «Nhiều anh em trong Giáo Hội được ơn tiên tri, nhờ Thánh Thần nói được đủ mọi thứ tiếng, nói ra những điều bí mật của nhiều người để sinh ích cho họ và để giải bày mầu nhiệm Thiên Chúa». (Adv. Haer. V.6,1)

-------------Dần dần văn học tôn giáo trở nên cẩn trọng hơn với chủ đề này: trong cộng đoàn Giáo Hội, các biểu lộ của Thánh Thần ngày càng khó thấy hơn vì đức tin đã suy giảm, và ngày càng có nhiều người chỉ nhìn Kitô giáo dưới khía cạnh xã hội. Người ta không còn thấy Thánh Thần biểu lộ nhiều như trước. Tuy nhiên Thánh Thần vẫn còn biểu lộ một cách rõ ràng ở những nơi sống đức tin mãnh liệt, nghĩa là trong những môi trường hạn hẹp hơn của các đan sĩ nam nữ, đặc biệt trong môi trường của những vị sáng lập các dòng tu.

-------------Ban đầu, đan tu quả thật là một phong trào đoàn sủng. Sự khổ hạnh mà phong trào này đề cao được xem như chiến thắng của Thánh Thần trên các thế lực tăm tối của thế gian, xác thịt và ma quỷ. Tất cả các áng văn trong các Truyện Tích Các Giáo-Phụ đầy dẫy những ơn tiên tri, ơn làm phép lạ, đặc biệt là ơn chữa bệnh. Đằng sau hình thức diễn tả bóng nổi và ngây thơ của thời đại lúc ấy, người ta cảm nhận được rằng các Kitô hữu những thế hệ xưa đã tin bằng một đức tin sống động và mạnh mẽ vào việc xức dầu để lãnh nhận Thánh Thần và vào các ơn huệ của Ngài.

-------------Những đan sĩ đích thực được nhìn nhận như là những linh phụ có khả năng hướng dẫn kẻ khác trên con đường của Thánh Thần. Đặc biệt trong truyền thống phương Đông, dân Kitô giáo vẫn coi các đan sĩ là những người khôn ngoan hướng dẫn tâm linh, và họ tự nguyện đến tham vấn những vị ấy.

-------------Bàn về chính các đoàn sủng, các tác giả sách thiêng liêng nhấn mạnh rằng người ta cần dùng trí tuệ cẩn thận suy xét và không bao giờ nên xem các ơn huệ là cùng đích mà là những phương tiện để thực hiện Đức Ái một cách tích cực hơn. Người ta không tranh cãi về sự hiện hữu của các ơn huệ ấy. Qua các thời đại, ngoài những thời kỳ phản ứng chống lại những lợi dụng của các giáo phái, hàng giáo phẩm luôn biểu lộ một thái độ nói chung là tích cực đối với vấn đề đoàn sủng. Các mục tử như thánh A-tha-na-si-ô hay thánh Ba-si-li-ô từng dựa vào các đan sĩ để ủng hộ công cuộc canh tân tôn giáo.

-------------Vào thế kỷ 11, một đan sĩ nổi tiếng ở Cons-tan-ti-nô-pô-li là thánh Si-mê-on, được gọi là một thần học gia mới, đã lên tiếng bằng một lối nói đầy tính đoàn sủng. Đối với thánh nhân, lễ Hiện Xuống luôn luôn hiện thực, chính Thánh Thần nối kết chúng ta với Đức Kitô và dẫn chúng ta tới Chúa Cha, sau khi nhờ lòng ăn năn chúng ta đến được ánh sáng của Thánh Thần trong tâm hồn. Theo thánh nhân, chỉ những ai cảm nghiệm được Thánh Thần mới có thể thực sự hướng dẫn kẻ khác, dù người đó có là giáo dân hay không.

-------------Mặc dù ở phương Tây truyền thống Thánh Thần ít được nhấn mạnh hơn, nhưng niềm tin vào Thánh Thần cũng vẫn sống động, đặc biệt trong đời sống các vị sáng lập dòng và đời sống các thánh nhân. Thánh Ignatiô Loyola, và nhiều vị khác, từng viết những trang sách về linh thao. Trước và sau thánh Ignatiô, có các thần học gia và các tác giả sách thiêng liêng khác đã phân tích các ơn huệ và hướng dẫn cách sử dụng những ơn ấy. Thánh Gio-an Thánh Giá và Thánh nữ Tê-rê-xa ở A-vi-la có thể quan niệm khác nhau về vai trò của ơn được an ủi hay những biểu hiện khả giác của đời sống tâm linh -Thánh Tê-rê-xa quan niệm một Kitô giáo gần với tâm tình bình dị của con người hơn thánh Gio-an Thánh Giá- nhưng cả hai đều chứng nghiệm về Thiên Chúa hết sức sâu xa.

-------------Để thấy được rằng các đoàn sủng phi thường vẫn còn hiện diện tới ngày hôm nay, nên đọc lại cuộc đời các vị thánh gần gũi chúng ta hơn. Đọc lại kỹ lưỡng cuộc đời các vị thánh – chẳng hạn Cha Sở giáo xứ Ars, thánh Don Bosco và bao vị khác – giúp chúng ta thấy các đoàn sủng xuất hiện là sự kiện không thể chối cãi được: ơn suy xét, ơn tiên tri, ơn chữa bệnh… Như vậy, người ta có thể quả quyết rằng các đoàn sủng không chỉ là hiện tượng xa xưa, mà còn rất mãnh liệt trong thời hiện đại. Vấn đề quan trọng là phải khát khao, khám phá, tập sống và cảm nghiệmmới thấy sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần ngay trong cuộc sống thường ngày của mình.

4. SỰ PHỤC HỒI TẠI CÔNG ĐỒNG
-------------Đối với đoàn sủng, Công Đồng luôn có thái độ đón nhận và cởi mở. Trong một đoạn văn rất quân bình, Công Đồng dù rất cẩn trọng đã nhìn nhận tầm quan trọng luôn luôn hiện thực của đoàn sủng. Chúng tôi mạo muội thêm rằng: hiện thực hơn bao giờ hết.
Sau đây là hai đoạn văn căn bản của Công Đồng:
-------------1. Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 12:
-------------«Hơn nữa, cũng chính Thánh Thần ấy, không chỉ thánh hóa và hườngdẫn dân Thiên Chúa bằng các bí tích, các thừa tác vụ và trang bị họ bằng các nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát ân sủng đặc biệt cho mọicấp bực các tín hữu “phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài ” (1Cr 12,1), khiến người lãnh nhận ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo Hội như lời chép rằng: “Thánh Thần hiện diện trong mỗi người hầu mang lại lợi ích” (1Cr,12,7). Phải lãnh nhận những đoàn sủng này, từ các ơn chói lọi nhất đến các ơn thường mà nhiều người lãnh được, với lòng tri ân và yên ủi vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp với nhu cầu của Giáo Hội. Nhưng không nên liều lĩnh kêu nài những ơn đặc biệt và cũng đừng vì đó mà tự đắc mong rằng việc tông đồ sinh kết quả. Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự sử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; Các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để trắc nghiệm và giữ lại những điều thiện hảo» (xem 1Tx 5,12 và 19-21).
-------------2. Giáo huấn ấy cũng được đưa ra trong sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân, chương 3:
-------------«Để thể hiện việc tông đồ này, Thánh Thần thánh hóa dân Chúa qua tác vụ và các bí tích. Ngài cũng ban cho các tín hữu những ơn đặc biệt (xem 1Cr 12,7), “Phân phát những ơn đó cho mọi người tuỳ ý Ngài ” (1Cr 12,11) để “mỗi người tuỳ theo ơn đã nhận mà giúp đỡ nhau” và chính họ trở nên như những người quản lý trung tín giữ mọi thứ ơn của Thiên Chúa (1Pr 4,10) hầu xây dựng toàn thân trong đức ái (x. Ep 4,16). Do sự đón nhận những đoàn sủng này dầu là những đoàn sủng thông thường, mỗi tín hữu có quyền lợi và bổn phận sử dụng những ơn đó trong Giáo Hội cũng như giữa trần gian để mưu ích cho mọi người và xây dựng Giáo Hội trong tự do của Thánh Thần, Đấng “muốn đâu thì thổi đến đó” (Ga 3,8) và đồng thời sử dụng trong sự hiệp thông với anh em trong Đức Kitô, nhất là với các vị chủ chăn của mình. Chính các Ngài có nhiệm vụ xét đoán về bản tính đích thực và việc sử dụng thích hợp những đoàn sủng đó, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để thử nghiệm mọi việc và điều nào tốt thì giữ lấy” (x.1Tx 5,12; 19,21)».
-------------Công đồng nhắc nhở dân Chúa lưu tâm tới các đoàn sủng và kêu mời họ ý thức hơn về sự hiện diện thường xuyên và chủ động của Thánh Thần trong Giáo Hội. Công Đồng cũng thực hiện điều này nơi những văn kiện khác – có tới 252 chỗ bàn về Thánh Thần trong các tài liệu Công Đồng – nhưng đặc biệt hơn là trong những đoạn nói về cải cách phụng vụ được Công Đồng khởi xướng. Đáng chú ý là trong các công thức đổi mới của việc cử hành phụng vụ và bí tích, Giáo Hội đã đặt vai trò thánh hóa của Thánh Thần lên hàng đầu. Trong chương tiếp theo, chúng tôi mong muốn độc giả lưu tâm điểm này để nhận ra rõ ràng hơn nữa hoạt động của Thánh Thần giữa chúng ta.

caoduc
10-10-2008, 02:59 PM
Chương III



THÁNH THẦN
VÀ VIỆC CANH TÂN PHỤNG VỤ



Giáo Hội được xây dựng trên cả



Bí tích Thánh Thể lẫn biến cố Hiện Xuống



Paul Evdokimov



Đức Kitô và Thánh Thần

-------------Trong «Sắc Lệnh Chức Vụ và Đời Sống các Linh Mục», khi nói về Thánh Thể, Công Đồng Vatican II xác định bằng một công thức tuyệt vời: Thánh Thể là thân xác Đức Giêsu Kitô «được Thánh Thần làm cho sống và đồng thời ban sự sống». Chúng ta cần hiểu sâu sắc những lời này vì chúng nói lên một cách tuyệt diệu mối liên hệ giữa Thánh Thể và Thánh Thần, giữa biến cố Vượt Qua của Đức Giêsu và biến cố Hiện Xuống của Thánh Thần. Chúng dẫn ta đến trọng tâm của toàn bộ đời sống phụng vụ Kitô hữu.

-------------Nếu lời phát biểu trên khiến ta ngạc nhiên, phải chăng là vì chúng ta thường đặt Đức Giêsu một bên và Thánh Thần một ngả, nên không thấy rõ sự liên kết bất khả phân ly giữa Đức Kitô vinh hiển, phục sinh và hằng sống với Thánh Thần, Đấng hoàn tất và hiện thực hóa công việc của Ngài? Chúng ta phải hiểu rằng ngày hôm nay Đức Kitô vẫn hành động trong Giáo Hội của Ngài nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần như Chúa Cha đã hứa. Hẳn nhiên người ta có thể lúc thì nhấn mạnh Đức Kitô, lúc thì nhấn mạnh Thánh Thần Ngài, nhưng dù khác nhau, hai Đấng ấy vẫn không bao giờ tách biệt nhau: trong đời sống cụ thể của Kitô hữu, hai Đấng luôn qui hợp để đối chiếu được toàn vẹn.


Thánh Thể và Thánh Thần

-------------Khi chúng ta cử hành bữa ăn của Chúa, trước tiên chúng ta hãy hướng về Đấng mời chúng ta vào bàn, như xưa vào chiều tối thứ năm Tuần Thánh Ngài đã nói với các môn đệ: «Ta khát khao ăn Lễ Vượt Qua này với các con» (Lc 22,15). Ngày hôm nay vẫn thế: trước tiên chính Đức Giêsu ước ao kết hiệp với chúng ta. Ngài luôn luôn yêu chúng ta trước và mời gọi chúng ta đồng bàn với Ngài. Ngài ẩn mình chủ tọa bữa ăn, còn vị linh mục nhân danh Ngài chủ tọa một cách hữu hình. Thánh Thể chính là Đức Giêsu luôn đồng hành với các môn đệ trong niềm mong đợi ngày quang lâm của Ngài vào cuối thời gian. Thánh Thể vừa là một hành vi của Đức Giêsu vừa là của Giáo Hội một cách bất khả phân ly, hay đúng hơn, là một hành vi của Đức Kitô «trong» và «vì» Giáo Hội Ngài.

-------------Tuy nhiên hành vi này của Đức Kitô không tách biệt với hành động của Thánh Thần. Chính nhờ Thánh Thần mà Đức Kitô hiện diện giữa chúng ta một cách mới mẻ, bí tích và hiện thực.

-------------Thánh Thể mà chúng ta cử hành biểu lộ vị trí chủ tể và quyền năng của Đức Giêsu vinh hiển giữa chúng ta; nhưng vinh quang này đến từ Thánh Thần, như Đức Kitô đã loan báo: «Ngài sẽ tôn vinh Thầy» (Ga 16, 14). Đức Giêsu là Chúa trong và bởi Thánh Thần. Chính Thánh Thần làm cho quá khứ của Đức Giêsu thành hiện tại, đặc biệt hơn nữa, làm cho cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu từ sự chết sang sự sống luôn luôn hiện thực.

-------------Thánh Thần tác động không phải ở bên lề mà ở ngay trọng tâm những cử hành phụng vụ của chúng ta. Hành vi thánh hóa của Thánh Thần được thể hiện không phải chỉ lúc Truyền Phép hay lúc bánh rượu biến thành Mình Máu Thánh mà còn được thể hiện nơi các tín hữu đón nhận Thánh Thể nữa.

-------------Đó là chứng nghiệm thâm tín của truyền thống. Một kinh nguyện Thánh Thể mà người ta cho là của Thánh Gioan Kim Khẩu nói rõ việc bánh rượu biến thành Mình Máu Thánh là do Thánh Thần:

-------------«Chúng con khẩn khoản nài xin Cha ban Thánh Thần Cha trên chúng con và trên những lễ vật dâng hiến Cha đây. Xin làm cho tấm bánh này trở nên Mình Thánh Đức Kitô nhờ Thánh Thần của Cha (Amen) và làm cho chén rượu này thành Máu Thánh Đức Kitô nhờ Thánh Thần của Cha (Amen) để những ai tham dự thánh lễ này được Mình và Máu Thánh Ngài thanh tẩy tâm hồn, được tha tội, được hiệp thông với Thánh Thần của Cha, được sự viên mãn của nước Trời, được an tâm trước nhan Cha, không bị xét xử và kết tội» 7.
-------------Như vậy, đây là lời kinh khẩn cầu Thánh Thần gồm hai lời nguyện: xin Thánh Thần xuống trên những lễ vật được hiến dâng và trên cộng đoàn Kitô hữu là những người sắp được dưỡng nuôi bằng những lễ vật ấy, đồng thời từ đó ban xuống nguồn bác ái huynh đệ ngày càng tăng triển. Sở dĩ thế là vì trước tiên sự thông truyền Thánh Thần làm cho các tín hữu được ơn tăng tiến trong Đức Ái, nối kết họ với nhau trong Thiên Chúa. Ngay sau khi truyền phép, chúng ta cầu xin Thiên Chúa như sau:
-------------«Lạy Cha, xin hãy nhớ đến Hội Thánh Cha lan rộng khắp hoàn cầu, để kiện toàn Hội Thánh trong đức Mến...» (Kinh nguyện Thánh Thể II).
-------------Đó chính là lý do tối hậu khiến Giáo Hội luôn cầu xin Thánh Thần Thiên Chúa ngự đến mỗi khi tụ tập để cử hành Thánh Thể.
Một bản văn cổ của Fulgence de Ruspe diễn tả điều ấy một cách cô đọng hiếm có. Tôi xin trích đôi dòng:
-------------«Đức Kitô vì yêu nên đã chết cho chúng ta, vì thế, khi cử hành nghi thức tưởng niệm sự chết của Người, chúng ta cầu xin cho lòng Mến ấy cũng được ban cho chúng ta nhờ việc Thánh Thần ngự đến… Khi cộng đoàn xin Thiên Chúa sai Thánh Thần đến trong Hy lễ Mình Máu Đức Kitô, thì Giáo Hội nài xin ơn mến yêu để giúp Giáo Hội giữ được sự thống nhất tinh thần trong mối dây hòa bình».
-------------Chúng ta nên lưu ý điểm này là hành động thánh hóa không chỉ liên quan đến những lễ vật Thánh Thể được dâng, mà còn tác động những tâm tình bên trong các tín hữu sắp lãnh nhận những lễ vật ấy. Việc dâng lên Thiên Chúa và sự đón nhận của con người liên kết với nhau trong cùng một mầu nhiệm Thánh Thần.

-------------Sau khi phác hoạ vắn gọn các mối liên kết không thể tách rời giữa Đức Giêsu vinh hiển và Thánh Thần Ngài ở trong phép Thánh Thể, bây giờ tôi xin nêu ra một vài khía cạnh của việc canh tân phụng vụ được thực hiện trong chiều hướng ấy. Những khía cạnh này cũng nhấn mạnh đến sự gần gũi và hiện diện năng động của Thánh Thần.


Phụng Vụ Lời Chúa

-------------Sau khi phác hoạ vắn gọn các mối liên kết không thể tách rời giữa Đức Giêsu vinh hiển và Thánh Thần Ngài ở trong phép Thánh Thể, bây giờ tôi xin nêu ra một vài khía cạnh của việc canh tân phụng vụ được thực hiện trong chiều hướng ấy. Những khía cạnh này cũng nhấn mạnh đến sự gần gũi và hiện diện năng động của Thánh Thần.

-------------Sự kiện đầu tiên mang dấu chứng việc canh tân phụng vụ là việc nhấn mạnh đến tầm quan trọng phần phụng vụ Lời Chúa đi trước phần cử hành Thánh Thể.

-------------Việc đọc Thánh Kinh hay Lời Chúa được mặc khải qua Thánh Thần giúp chúng ta hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa, Đấng tự tỏ mình ra cho Giáo Hội theo nhịp điệu năm phụng vụ. Qua đó, Đức Giêsu thực hiện lời hứa sẽ gửi Thánh Thần Người lần hồi dạy dỗ chúng ta :«Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thánh Thần sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn» (Ga 16,12-13). Như thế Giáo Hội trải ra trước mắt chúng ta một lịch sử cứu độ đi từ Mùa Vọng tới lễ tôn vinh toàn thể các Thánh, vượt qua hai đỉnh cao là Phục Sinh và Hiện Xuống.

-------------Giáo Hội nuôi dưỡng con cái mình trong mỗi giai đoạn của cuộc hành trình bằng Lời Chúa là những trang Kinh Thánh. Tất cả chúng ta đều hưởng được ơn ích, nếu chúng ta chấp nhận đi vào lối dưỡng dục đầy tình mẫu tử nhằm đúc nắn chúng ta càng ngày càng nên giống Chúa Giêsu Kitô để đến với Chúa Cha. Thánh Thần là căn nguồn của các trang sách mà Giáo Hội chọn lựa; Thánh Thần soi sáng để thâm hiểu ý nghĩa, Ngài cập nhật sứ điệp Kinh Thánh không những cho sinh hoạt cộng đoàn mà còn vì lợi ích riêng mỗi người chúng ta. Với tinh thần đức tin, mỗi khi mở những trang sách lễ ra là chúng ta đến nơi hẹn do Thánh Thần xếp đặt để gặp gỡ Thiên Chúa. Những bản văn được chọn lựa cho chúng ta là những bản văn ưu tiên giúp chúng ta thực sự «đồng cảm với Giáo Hội» và càng ngày càng đi sâu vào «chính những tâm tình của Đức Giêsu» (1Cr 2,16).

-------------Ngày nay Thiên Chúa vẫn nói với chúng ta qua những bản văn Cựu và Tân Ước. Tôi cần đón nhận những trang sách thánh này như đón nhận lá thư của một người bạn muốn chia sẻ những âu lo, sợ hãi, hy vọng của tôi, muốn đồng hành với tôi để chỉ đường cho tôi. Thánh Thần nói với tôi qua những dòng chữ mà Giáo Hội suy niệm mỗi ngày. Dù tôi không thể đến tham dự cử hành Thánh Thể, tôi vẫn nên cầm trong tay quyển sách lễ, hiệp thông cách thiêng liêng cùng Giáo Hội, để nhờ đó đối thoại với Đức Kitô và làm cho ngày sống của tôi thấm nhuần sứ điệp của Ngài. Chúng ta cần để Lời Chúa hằng ngày hành động trong chúng ta, nắn đúc chúng ta, giống như đất sét trong tay thợ gốm. Câu trả lời của đức Maria khi sứ thần truyền tin: «Xin vâng lời Thiên Sứ truyền» (Lc 1,38) phải là khuôn mẫu cho tất cả chúng ta trong từng chi tiết nhỏ nhặt của đời sống hàng ngày. Nếu trong tổ ấm gia đình Kitô hữu của mình, mỗi buổi tối chúng ta cùng nhau đọc vài hàng trong sách Kinh thánh, thì thật phúc đức và việc huấn luyện sống đời Kitô hữu sẽ liên tục và tốt đẹp dường nào!

-------------Anh chị em Tin Lành coi việc đọc Thánh Kinh mỗi ngày là điều tốt đẹp nhất trong truyền thống tôn giáo của họ. Chúng ta cũng thế, cần phải biết lắng nghe lời Chúa. Câu «xin hãy nói, vì tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe» (1Sm 3,10) chính là một thái độ tâm linh tuyệt hảo. Việc lắng nghe Lời Chúa được đề nghị trong khung phụng vu giúp chúng ta vừa mở lòng trước Thiên Chúa vừa hiệp thông với anh chị em mình.

-------------Khi tấn phong một tân giám mục, vị chủ phong trao cho vị tân giám mục sách bài đọc Tin Mừng và nói: «Hãy nhận lấy Tin Mừng, hãy rao giảng Lời Chúa…» Khi nhận lãnh bí tích Thánh tảy, tất cả chúng ta cũng đều lãnh nhận một lệnh truyền tương tự. Nếu giám mục có sứ mệnh làm người chính thức cắt nghĩa Kinh Thánh nhân danh Giáo Hội, thì tất cả chúng ta đều là những người phục vụ Lời Chúa và mang sứ điệp của Ngài. Để thuộc về gia đình Đức Giêsu và đi vào trong Thánh Thần Ngài, chúng ta phải làm quen với Thánh Kinh. Chúng ta vui mừng khi thấy càng ngày càng đông các Kitô hữu cùng nhau chia sẻ tấm bánh sự sống là Lời Chúa: đó cũng là dấu hiệu của hy vọng.



Phụng Vụ Thánh Thể

-------------Sau khi phần phụng vụ Lời Chúa được canh tân, Giáo Hội thời hậu công đồng đã cống hiến cho chúng ta những bản văn mới, phong phú và đa dạng hơn trước. Hiện chúng ta có bốn Kinh Nguyện Thánh Thể chính thức để cử hành phụng vụ hàng ngày. Chúng ta thấy rõ quyền năng Thánh Thần được nhấn mạnh trong các Kinh Nguyện Thánh Thể ấy.
Chẳng hạn, trong Kinh Nguyện Thánh Thể IV, chúng ta hãy đọc lời nguyện xin Chúa Cha gởi Thánh Thần xuống thánh hóa lễ vật như sau:

-------------«Lạy Cha, chúng con nài xin Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, hầu cử hành mầu nhiệm cao cả mà chính Người đã trối lại cho chúng con làm giao ước muôn đời».
-------------Tiếp theo, sau Truyền Phép là lời nguyện xin Chúa Cha sai Thánh Thần xuống để thông hiệp:

-------------«Lạy Cha, xin đoái nhìn của lễ chính Cha đã dọn sẵn cho Hội Thánh Cha, xin Cha nhân từ ban cho những người thông phần cùng một bánh và chén này , nhờ Chúa Thánh Thần đoàn tụ tất cả thành một thân thể, trở nên của lễ sống động trong Đức Kitô, để ca tụng vinh quang Chúa».
-------------Trong Thánh Thể, Thánh Thần ở ngay trọng tâm phần truyền phép cũng như phần hiệp lễ.

caoduc
25-10-2008, 08:56 AM
Phụng Vụ Bí Tích

-------------Ta cũng có thể trở lại phần phụng vụ riêng cho từng bí tích để thấy Giáo Hội nhìn nhận sự hiện diện của Thánh Thần. Tôi chỉ xin đưa ra một vài kinh nguyện bí tích liên quan đến phép Rửa Tội, Thêm Sức và Xức dầu bệnh nhân.


Phép Rửa Tội

-------------Để hiểu rõ vai trò của Thánh Thần trong bí tích Rửa Tội, chỉ cần đọc lại nghi thức làm phép trọng thể nước rửa tội trong Canh Thức Phục Sinh. Thánh Thần được tuyên xưng là tác nhân thánh hóa nước rửa tội. Sau khi kêu cầu Thánh Thần, Đấng bay lượn trên mặt nước vào thời khởi nguyên vũ trụ, cũng như trong lần Đức Giêsu chịu phép rửa và được Thánh Thần xức dầu ở sông Gioc-đan, nghi thức làm phép nước kết thúc bằng lời nguyện sau:
-------------«Lạy Cha nhờ ân sủng Con Ngài ban, chúng con cầu xin Cha cho quyền năng Thánh Thần xuống trên nước này để bất cứ ai lãnh nhận phép rửa, được mai táng trong sự chết cùng với Đức Kitô, thì cũng được sống lại với Người».


Phép Thêm Sức

-------------Đối với phép Thêm Sức, cũng có những canh tân quan trọng. Trước tiên, việc cử hành bí tích Thêm Sức được chuẩn bị bằng phụng vụ Lời Chúa gồm những bài đọc tập trung vào mầu nhiệm Hiện Xuống. Ngoài ra, sách bài đọc mới chứa đựng ba mươi bảy bài đọc về Thánh Thần. Tiếp đến, vì phép Thêm Sức liên quan tới Thánh Thể, nên theo nghi thức mới, Giáo Hội mong muốn bí tích Thêm Sức được cử hành trong tiến trình cử hành Thánh Lễ, để những người mới lãnh nhận Thêm Sức được rước lễ.

-------------Trước tiên Đức Giám Mục đặt tay lên tập thể những người lãnh nhận bí tích Thêm Sức, đồng thời cầu xin Thiên Chúa gởi Thánh Thần Ngài xuống trên họ, rồi vạch dấu thánh giá để xức dầu thánh lên trán từng người, miệng nói “(Gọi tên...), con hãy nhận lấy dấu ấn Thánh Thần được ban cho con”.



Phép Xức Dầu Bệnh Nhân

-------------Cuối cùng, ta nhận rõ có một thần học hướng về Thánh Thần nơi việc canh tân phụng vụ trong nghi thức xức dầu bệnh nhân.
Trong thánh lễ làm phép dầu ngày Thứ năm tuần thánh, giám mục làm phép dầu để dùng cho bí tích xức dầu bệnh nhân với những lời nguyện rất cô đọng nhưng ít người để ý:
-------------«Lạy Cha là Thiên Chúa chúng con, Cha là nguồn mọi an ủi. Cha muốn chữa lành mọi yếu đuối, bệnh tật của chúng con qua người Con của Cha. Xin lắng nghe lời nguyện cầu đầy tin tưởng của chúng con. Xin từ trời gởi Đấng An Ủi là Thánh Thần Cha trên dầu này, là thứ dầu Cha đã tạo thành để đem sinh lực cho thân thể chúng con. Xin Cha làm phép để dầu này nâng đỡ thân xác, linh hồn và tinh thần những bệnh nhân được xức dầu, ước gì dầu này làm tan đi mọi đau đớn, bệnh tật, buồn khổ cả thể xác lẫn tinh thần. Xin Cha cũng dùng dầu này như một công cụ để ban ân sủng của Cha cho chúng con, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con».
-------------Ngay trong việc xức dầu bệnh nhân, chức năng của Thánh Thần, là tác nhân thánh hóa dầu thánh, nổi bật lên: «Nhờ Thánh Thần Cha, Cha đã thánh hóa dầu này, để hôm nay, nhờ đức tin, dầu này giúp chúng con nhận ra sức mạnh tình yêu của Cha»

-------------Kể từ đây, mọi linh mục đều có thể làm phép dầu, và khi cử hành nghi thức ấy, vị linh mục nói rõ ý nghĩa việc xức dầu như sau:

«Chúc tụng Chúa Cha …
Cha đã sai Con Cha là Đức Giêsu
Đến chữa lành những vết thương của chúng con
«Chúc tụng Chúa Con độc nhất
Người đến để thi ân giáng phúc
Và chữa lành cho tất cả chúng con
«Chúc tụng Thánh Thần tạo dựng
Sức mạnh của Ngài luôn củng cố
Sự yếu đuối của con người chúng con».
-------------Cuối cùng, cần lưu ý rằng bí tích này đã được canh tân để thực sự là bí tích trợ lực trong trường hợp bệnh nặng, và là «bí tích xức dầu», chứ không còn là «bí tích xức dầu lần cuối» dành cho những người đang hấp hối. Người ta đã tìm lại được truyền thống cao đẹp của Giáo Hội là tập trung ưu tiên vào việc chữa lành bản tính con người chúng ta.
Paul Evdokimov đã viết rất đúng:

-------------«Đức Giêsu Cứu Thế là “thần chữa bệnh”, là “Đấng đem lại sức khoẻ”, chính Người từng nói: “Không phải những kẻ khoẻ mạnh cần đến thầy thuốc mà là những kẻ bệnh hoạn”. Câu “Đức tin của con đã cứu con” hay “Đức tin của con đã chữa con lành” chính là hành động linh thiêng chữa lành linh hồn lẫn thể xác trong mỗi con người chúng ta. Cũng trong khái niệm điều trị ấy, bí tích hòa giải được ví như một “bệnh viện” và phép Thánh Thể như “phương dược trường sinh”»8.

-------------Trong nhãn quan này, điều quan trọng hơn cả trong phép hòa giải hay việc tha tội chính là nhằm phục hồi sự sống lành mạnh trọn vẹn cho người bệnh nhờ hành động của Thánh Thần.

-------------Nên lưu ý rằng các bí tích bổ sung cho nhau và đặc biệt phép Thánh Thể được ban cho chúng ta là «để chữa lành linh hồn lẫn thể xác», đồng thời cũng là bảo chứng cho sự phục sinh tương lai của thân xác chúng ta. Còn bí tích hòa giải cũng bao hàm chiều kích chữa lành tâm linh mà trước đây chưa được nhấn mạnh đủ trong các tài liệu đào tạo Kitô giáo và trong công việc mục vụ của chúng ta.

-------------Người ta có thể thêm vào đây cả bí tích Truyền Chức nữa. Ngày xưa, trong các Giáo Hội Đông Phương, khi tấn phong một giám mục, vị này được khuyên phải trở nên một «người chữa lành trong Hội thánh Chúa». Ngày nay, nghi thức Byzantin vẫn còn nhắc đến quyền năng chữa lành vào dịp truyền chức linh mục hoặc tấn phong giám mục. Truyền thống Giáo Hội đã luôn ghi nhận mối liên kết sâu xa giữa việc truyền chức và tác vụ chữa lành. Trong phụng vụ Rô-ma, sự chữa lành này được mô tả là tác động của Thánh Thần, và theo một lời nguyện hiệp lễ trong lễ Hiện Xuống, chính Thánh Thần «thứ tha các tội lỗi».

caoduc
10-11-2008, 08:52 AM
Cầu nguyện và chữa lành

-------------Việc canh tân bí tích xức dầu bệnh nhân mời gọi chúng ta tự vấn về thái độ tâm linh của chúng ta đối với các bệnh nhân, đồng thời mời gọi chúng ta canh tân lại niềm tin của mình trong việc cầu nguyện cho họ được lành bệnh.

-------------Trong cuộc đời Đức Giêsu, việc chữa bệnh đóng một vai trò lớn lao đến nỗi Ngài không thể không tiếp tục công việc nhân hậu này là tái tạo sức khoẻ thể xác lẫn tinh thần cho con người qua các môn đệ Ngài. Để có thể làm được việc ấy, (như ngày xưa Ngài vẫn thường đòi hỏi) Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải có một đức tin mong đợi và tín thác, tương tự như đức tin của người phụ nữ chạm vào áo Ngài và bà được chữa lành nhờ một quyền lực từ Ngài phát ra.

-------------Đàng khác, trong Giáo Hội sơ khai, người ta thấy các Tông Đồ nhân danh Đức Giêsu chữa lành biết bao bệnh nhân, làm những đám đông phải sửng sốt. Không phải chỉ có các Tông Đồ mới có đoàn sủng chữa bệnh này mà cả các đồ đệ của các ngài nữa, chẳng hạn thầy sáu Philipphê. Người ta bảo rằng khi nghe vị này nói, thấy vị này làm các phép lạ, đám đông đã tuôn đến để nghe giảng… và cả thành phố đều rất hân hoan vui mừng ( xem Cv 8,6-8).

-------------Chúng ta phải canh tân niềm tin của chúng ta vào quyền năng của Chúa, Ngài vẫn hoạt động cứu giúp các bệnh nhân nhờ lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta cũng nên lắng nghe lương tâm chất vấn về vấn đề này trước những gương đức tin sống động của những anh chị em Tin Lành. Vả lại, chúng ta cũng thấy ngay trong Giáo Hội Công Giáo, việc cầu nguyện tập thể cho bệnh nhân đang được phục hồi tại những nơi mà Phong Trào Canh Tân Đoàn Sủng gây nhiều ảnh hưởng. Tôi đã từng nhìn thấy nhiều Kitô hữu tụ họp nhau trong căn phòng của một người bệnh và cùng nhau cầu nguyện cho người ấy một cách tự phát, tay giơ ra hướng về người bệnh giống như Đức Giêsu đã làm trong Tin Mừng. Điều đó nói lên sự hiệp thông Kitô hữu với người đang đau khổ. Trước cảnh tượng đó, tôi cảm thấy cần phải xét lại cách hành xử của mình đối với các bệnh nhân mà tôi đến thăm viếng.

-------------Chúng ta đang sống trong Đức Kitô, Ngài cũng đang sống và hành động trong chúng ta, nhưng chúng ta lại không dám tin Ngài. Chúng ta không dám tin vào hiệu lực của cầu nguyện, cũng không dám tin rằng cầu nguyện có thể làm nên những phép lạ.

-------------Những người có trách nhiệm dạy giáo lý thuộc mọi cấp độ cần phải trình bày lại cho mọi người một cách sâu xa hơn ý nghĩa thực sự của lời cầu nguyện; theo tư tưởng của Thiên Chúa thì lời cầu nguyện luôn luôn có hiệu quả. Cần trình bày lại bản chất tình phụ tử của Thiên Chúa, Đấng là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải kẻ chết. Ngài không phải là nguồn sự dữ, trái lại lúc nào Ngài cũng chỉ mong cho con cái mình hạnh phúc trọn vẹn. Nếu ta chấp nhận đau khổ, thì đau khổ sẽ thanh tẩy và biến đổi ta. Thiên Chúa sẽ biến đau khổ ấy thành ích lợi cho những kẻ yêu mến Ngài. Lời cầu nguyện của chúng ta cần phải gắn liền với một thực tế hết sức phức tạp: bệnh tật đủ loại, bệnh thấy được hoặc không thấy được, bệnh thể lý hoặc tâm lý, kể cả những khổ đau dằn vặt do chấn thương tiềm ẩn lâu ngày. Lời cầu nguyện của chúng ta phải liên quan đến tất cả những gì cần được chữa lành trong chúng ta; nó cần dẫn đưa hiện tại cũng như quá khứ người đau khổ vào ánh sáng ân sủng của Thiên Chúa. Nên nhớ rằng Đức Giêsu hôm qua cũng là Đức Giêsu hôm nay; Ngài là Chủ của quá khứ lẫn hiện tại. Nếu phép lạ chữa lành bệnh tức khắc và ngoạn mục đã trở nên hiếm hoi, thì cũng chớ quên rằng việc chữa lành bệnh một cách tiệm tiến và từ từ cũng là do tác động của Thiên Chúa. Cầu nguyện không chống lại thuốc men mà nằm ngay trong thuốc men.

-------------Theo giáo huấn đã được cập nhật của Kitô giáo về việc cầu nguyện và chữa lành, chúng ta nên ghi nhớ lời dặn dò của thánh Gia-cô-bê dẫu không nằm trong chủ đề bí tích hoặc tác vụ tư tế.

-------------«Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ hãy cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người đó được Chúa nâng dậy… Anh em hãy cầu nguyện cho nhau để được chữa lành» (Gc 5,14- 16).
-------------Chúng ta đừng quên rằng Thánh Thần cũng chính là sự xức dầu sống động của Thiên Chúa, qua đó Đức Giêsu vẫn tiếp tục hoạt động.



Lễ Hiện Xuống trong phụng vụ và đời sống

-------------Chúng ta sẽ còn bàn về nghi thức của những bí tích khác để thấy vai trò nổi bật của Thánh Thần trong đó. Nhưng ở đây chúng ta nêu lên một số nội dung nổi bật nhằm giúp chúng ta nắm bắt được sự hiện diện sâu xa của Thánh Thần và hiểu được rằng Giáo Hội thiết yếu được xây dựng trên phép Thánh Thể và trên Lễ Hiện Xuống. Quả thật, lễ Phục Sinh và lễ Hiện Xuống chỉ là một thực tại duy nhất. Dựa vào sự thâm nhập lẫn nhau này, chúng ta phải đón nhận lễ Hiện Xuống như là đỉnh cao của chu kỳ mùa Phục Sinh và phải mở lòng ra đón nhận tác động của Thánh Thần mà phụng vụ thật long trọng của lễ Hiện Xuống khai mở.

-------------Lời nguyện mở đầu khai mạc thánh lễ Hiện Xuống có tầm bao quát hiếm thấy:

-------------«Lạy Cha, hôm nay nhờ mầu nhiệm Hiện Xuống Cha thánh hóa Hội Thánh Cha nơi mọi dân mọi nước, xin thương rải muôn ơn Thánh Thần xuống trên khắp hoàn cầu, và xin tiếp tục nơi tâm hồn các tín hữu công việc tình yêu mà Cha đã thực hiện vào lúc bắt đầu việc rao giảng Tin Mừng».
-------------Và lời nguyện kết lễ như sau:

-------------«Ước gì hơi thở của lễ Hiện Xuống luôn hoạt động ngày càng mạnh mẽ. Ước gì bữa ăn được Thánh Thần thánh hóa làm cho thế giới tiến gần ơn cứu độ».
-------------Cũng nên suy niệm câu đáp ca tuyệt vời này: «Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến», mỗi chữ đều nói lên thần học về cầu nguyện với Thánh Thần, diễn đạt sâu sắc chứng nghiệm của các nhà thần bí và của các vị thánh.

-------------Cuối cùng, ngoài phụng vụ và ơn ích của phụng vụ trong đời sống, chúng ta cần tái khám phá ngọn lửa của lễ Hiện Xuống, ánh sáng và hơi ấm của Thánh Thần để dấy lên đà yêu thương huynh đệ trên thế giới.
Liên kết phép Thánh Thể với Thánh Thần đồng nghĩa với công bố Kitô giáo là tôn giáo của tình yêu. Người Kitô hữu không chỉ được mời gọi yêu thương anh em hết sức mình, mà còn phải yêu thương họ bằng trái tim của chính Thiên Chúa nữa. Yêu kẻ khác “vì” yêu Chúa chưa đủ: phải yêu kẻ khác “bằng” chính tình yêu của Chúa. Dẫu tình yêu thuần túy phát sinh từ cảm xúc nhân loại cũng rất đáng kính phục, nhưng tình yêu Kitô giáo chân thực (hay bác ái) lại bắt nguồn từ Thiên Chúa. Để trắc nghiệm sự trung thực về bản chất Kitô hữu của mình, Thiên Chúa mong ước chúng ta yêu thương con người và thế giới trong chính sức mạnh của tình yêu Ngài, đó là Thánh Thần. Và về phía thế giới bên ngoài, người ta tìm một dấu chỉ khả tín về tình yêu nơi các Kitô hữu chúng ta; dấu chỉ ấy là lối yêu thương vươt lên trên cách đánh giá thông thường của người trần. Khi nói về những người vô thần và những lỗi lầm của chúng ta đối với họ – lỗi lầm mà Công Đồng đã nhìn nhận trong Hiến Chế «Vui Mừng Và Hy Vọng» – người ta có quyền đặt câu hỏi: «Nếu những người vô thần tự suy ra những ý niệm sai lệch về một vị Thiên Chúa mà người Kitô hữu chúng ta lẽ ra phải trình bày như là tình yêu, thì như thế không phải do lỗi chúng ta hay sao?». Trái lại, khi người Kitô hữu trung thành với những đòi hỏi của đức tin, thì từ nơi người ấy sẽ toát ra một sức lôi cuốn lạ lùng.

-------------Ngày nọ, một người mới gia nhập Kitô giáo đã nói lên lý do khiến ông gắn bó với Giáo Hội; những lời nói thâm sâu lạ thường: «Tôi tin rằng ở đâu có tình yêu cao cả nhất thì ở đó có chân lý lớn lao nhất». Giáo Hội sống bằng mầu nhiệm Thánh Thể và mầu nhiệm Hiện Xuống. Công cuộc canh tân của Giáo Hội tùy thuộc vào nỗ lực Kitô hữu sống mầu nhiệm tình yêu hai chiều kích nhưng vốn chỉ là một ấy. Tất cả chúng ta phải chứng tỏ điều ấy bằng đời sống thực tế của mình.

-------------Để lôi kéo chúng ta chú ý đến sự kiện Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong Giáo Hội, việc canh tân phụng vụ giúp chúng ta ý thức sống động hơn vai trò và chỗ đứng của chứng nghiệm tôn giáo. Điều mới mẻ về Thánh Thần chẳng có gì khác hơn sự hiện diện trung thành và luôn tác động của Thiên Chúa giữa chúng ta. Thánh Thần giúp chúng ta sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa trực tiếp nơi con người và lịch sử. Kinh nghiệm này là cốt tủy của Kitô giáo. Điều này đưa chúng ta vào chương kế tiếp

caoduc
12-11-2008, 08:45 AM
Chương IV



THÁNH THẦN

CHỨNG NGHIỆM VỀ THIÊN CHÚA




Thánh Thần sự thật, đấng mà thế gian
không thể đón nhận vì thế gian không thấy
và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người,
vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.
Ga 14,17


-------------Sự hiện diện của Thánh Thần không chỉ là tín lý. Truyền thống của Giáo Hội coi sự hiện diện của Thánh Thần như một chứng nghiệm sống thực, được biểu lộ dưới nhiều hình thức không ngừng đổi mới.

-------------Để xác định đúng vai trò của những chứng nghiệm đa dạng ấy, chúng ta cần tìm hiểu xem Thiên Chúa có thể tự tỏ mình ra cho thế gian hay không, và sự việc ấy có ý nghĩa gì.

-------------Trong quyển L’expérience chrétienne, Jean Mouroux đã viết rất đúng:
-------------«Vấn đề chứng nghiệm Kitô giáo được đặt ra cho mọi thứ triết học về tôn giáo và mọi thứ thần học. Vì đó là vấn đề thiết yếu đối với người có tôn giáo. Người có tôn giáo muốn tiếp xúc với Thiên Chúa, muốn thấy, muốn sờ đụng, muốn cảm nhận Ngài. Họ đưa tay ra sờ soạng như một người mù hy vọng tìm được Ngài (Cv 17,27). Chứng nghiệm về Thiên Chúa là vấn đề đương nhiên phải đặt ra khi thực hành và suy tư tôn giáo. Và chắc chắn đó còn là vấn đề đặt ra một cách gay gắt hơn cho lương tâm Kitô hữu».11
-------------Trước khi đi vào việc mô tả một chứng nghiệm nào đó về Thánh Thần, dẫu chứng nghiệm ấy thuộc loại nào, chúng ta cần can đảm quên đi ngôn ngữ quá trừu tượng để nói theo lối đơn sơ trực tiếp của cảm nghiệm cụ thể của mình.

1. GIỚI TRẺ VÀ CHỨNG NGHIỆM VỀ THIÊN CHÚA
-------------Đức Cha Huyghe có viết:
-------------«Giới trẻ có được đức tin không phải nhờ nghe dạy về các tín điều mà do chứng nghiệm thân thiết của họ về vị Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô; họ chứng nghiệm một cách cụ thể, và diễn tả theo cách nói của họ. Kinh nghiệm đó có thể kiểm chứng nơi cuộc sống chân thực cụ thể cũng như nơi sức thấm nhập của Kinh Thánh. Ngày nay, đức tin cần phải được cảm nhận một cách chân thực, được biểu lộ, được thể hiện trong cuộc sống cầu nguyện và chia sẻ. Đức tin là một biến cố, là một cuộc gặp gỡ».
-------------Vả lại, ngay từ nguyên thủy, đức tin vốn là như thế.

-------------Không phải chân lý về Đức Giêsu mà là chân lý của Đức Giêsu mới là nền tảng cho những gắn bó, những cuộc gia nhập vào Kitô giáo. Đức tin trước tiên phát sinh từ sự gặp gỡ cá nhân với Đức Giêsu. Giáo huấn là điều cần thiết, nhưng trong cuộc sống linh động của đức tin, ưu tiên là gặp gỡ.

-------------Về chủ đề này, giới trẻ có điều để nói với chúng ta. Họ đáng được chúng ta nghe: sự phản kháng đến độ triệt để của họ ép buộc chúng ta phải suy nghĩ.

-------------Qua những khiếm khuyết và hồ đồ của thế giới chung quanh, giới trẻ cố tìm nơi Đức Giêsu một cái gì đó để hy vọng, để giải thoát họ khỏi những hình thức nô lệ hiện nay, và để hít thở không khí tự do bên trên bầu khí đạo đức ô nhiễm của thời đại.

-------------Robert Kennedy có lần ngỏ lời với giới trẻ đất nước mình:
-------------«Thảm kịch của giới trẻ Mỹ chính là họ có đủ mọi thứ trừ một điều duy nhất, mà điều ấy lại là điều thiết yếu».
-------------Điều thiết yếu ấy chính là lẽ sống tối thượng của họ.

-------------Giới trẻ cảm thấy điều ấy, dù chỉ mơ hồ. Tuy nhiên để giới trẻ khám phá ra Đức Giêsu Kitô là lẽ sống tối thượng, chúng ta phải cho họ một Tin Mừng nguyên vẹn, được sống một cách tràn đầy. Giờ nghiêm trọng đã đến với Giáo Hội: thế kỷ 19 Giáo Hội đã đánh mất giới thợ thuyền, liệu thế kỷ 20 Giáo Hội có nguy cơ đánh mất giới trẻ hay không?

2. THỬ NGHIỆM VÀ CHỨNG NGHIỆM
-------------Không phải chỉ có giới trẻ mới muốn «cảm nghiệm» Thiên Chúa. Niềm khao khát mơ hồ này đã ăn sâu trong trái tim con người.

-------------Người ta phản bác rằng tình trạng ấy hẳn xảy ra vào thời thánh Âu-Tinh. Thời ấy ngài có thể viết: «Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con để hướng về Chúa, và tâm hồn chúng con khắc khoải mãi cho đến khi được nghỉ an trong Chúa». Chứ hôm nay, thế giới tục hóa và chủ hướng của khoa học đã khai trừ Thiên Chúa, xem đấy như một giả thiết vô ích. Khoa học đã loại Thiên Chúa ra khỏi lãnh vực kinh nghiệm có thể kiểm chứng (= thử nghiệm). Con người hiện đại cho rằng chỉ có những gì kiểm chứng được mới đúng là sự thật : “ chân lý nay là kiểm nghiệm” . Thiên Chúa nằm nơi nào tại các bài tính trong máy điện tử của chúng ta ngày nay?

-------------Bằng những dòng sau đây, Jean Mouroux mô tả rất rõ bầu khí của thời đại:
-------------« ... Vả lại, tâm thức hiện đại càng làm cho vấn đề này khẩn thiết hơn bao giờ hết. Thời nay là thời thử nghiệm ngự trị, vì đó là thời đại của các cuộc kinh nghiệm. Con người biến đổi vũ trụ, nắm được sự sống trong tay, nghiền nát không thương tiếc chất “người” của mình, sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật kỳ dị chưa từng có, truy tìm hứng cảm tâm linh theo đủ mọi hướng, bạo lực, hỗn loạn, đồi bại, tất cả những thứ ấy dìm chúng ta vào một đống chứng nghiệm tạp nham. Và khi con người hiện đại quay về với Kitô giáo chính là để hỏi tôn giáo này: “Mi có thể mang lại cho ta chứng nghiệm quí báu nào?”»
-------------Để trả lời câu hỏi này, không nên quên rằng chữ «kinh nghiệm» có thể áp dụng cho nhiều thực tế khác nhau. Các triết gia phân biệt chứng nghiệm (expérientiel) và thử nghiệm (expérimental).

-------------Thuật ngữ «chứng nghiệm» muốn nói đến một tri giác sống động, một nhận thức về cái cụ thể, không nên lẫn lộn từ này với thành ngữ “thử nghiệm” trong các phòng thí nghiệm. Kinh nghiệm về Thiên Chúa thuộc trật tự chứng nghiệm, trật tự này không mâu thuan với trật tự thử nghiệm nhưng siêu vượt lên trên và nằm trên một bình diện khác.
Cám dỗ căn đế của người theo chủ nghĩa duy khoa học là giản lược cái thật vào những gì nắm bắt được bằng phương pháp tiếp cận riêng và giới hạn của khoa học, và quên rằng một số thực tại vượt khỏi tầm của dao mổ và viễn vọng kính. Những nhà thông thái đích thực – thường rất khiêm tốn về mặt khoa học – đều biết rõ điều này.

-------------Nhiều người chứng thực rằng đức tin của họ được nâng đỡ nhờ một chứng nghiệm mà họ trải qua trong cuộc sống, và đức tin họ càng trưởng thành thì Thiên Chúa càng hành động cách cụ thể và tích cực hơn trong sinh hoạt hàng ngày của họ.

-------------Chúng ta chẳng cần đưa ra đây nhiều thứ chứng từ làm gì, chỉ cần thấy được điểm đồng quy của những chứng từ đó. Đối với họ, cũng như đối với chúng ta, đức tin thường được sống, được lãnh nhận rồi mới trở thành công thức. Và nhờ chứng nghiệm về Thiên Chúa, ta thật sự ý thức về đức tin, và đức tin từ từ bám rễ trong cuộc sống chúng ta.

-------------Muốn đi sâu vào các bí mật của thiên nhiên, cần có những dụng cụ tối hảo và chính xác. Cũng vậy, muốn đi sâu vào các bí mật về sự hiện diện ẩn kín của Thiên Chúa nơi chúng ta và trong lịch sử nhân loại, cần có một năng lực vượt trên sức lực riêng của chúng ta, một thứ ánh sáng xuyên thấu thế giới vô hình nhờ những tia sáng nhạy cảm hơn tia hồng ngoại của chúng ta. Quyền năng ấy, ánh sáng ấy chính là Thánh Thần, «Đấng duy nhất thăm dò được chiều sâu của Thiên Chúa». Sứ mạng của Thánh Thần không phải là tự mặc khải mình mà là mặc khải Đức Giêsu, Con duy nhất của Thiên Chúa. Nơi mỗi Kitô hữu, Thánh Thần luôn trung thành với sứ mạng ấy của Ngài. Như một ánh sáng từ bên trong, Ngài từng bước đồng hành với chúng ta trong hành trình đức tin. Nắm bắt được hành động của Thiên Chúa và gặp gỡ Ngài thường không chỉ là một chứng nghiệm đơn giản như bao chứng nghiệm khác. Đó là một chứng nghiệm cần được giải thích bằng đức tin. Một chứng nghiệm mà thiếu đức tin thì không thể là một chứng nghiệm về Thiên Chúa. Nếu không có Thánh Thần, không ai nói được rằng «Đức Giêsu là Chúa» (1Cr 12,3).

caoduc
14-11-2008, 09:00 AM
3. ĐỨC TIN VÀ CHỨNG NGHIỆM
-------------Toàn bộ vấn đề đặt ra ở đây là sự dung hòa. Làm sao người ta có thể dung hòa được giữa chứng nghiệm về Thiên Chúa và đức tin, khi đức tin vốn được định nghĩa là sự gắn bó trong đêm tối với điều mình không trông thấy và chỉ biết cậy dựa vào Lời của Thiên Chúa mà thôi. Có thể nào vừa phó thác cho Thiên Chúa như nhảy tòm xuống nước, lại vừa cảm thấy an tâm như hai chân đứng vững trên mặt đất hay không?


Tương phản?
-------------Đức tin và chứng nghiệm không phải là những thực tế tương phản sao? Có thể hòa hợp trong lòng mình giữa đêm tối của đức tin với ánh sáng của những vì sao không?

-------------Thoạt nhìn, ta thấy đức tin và chứng nghiệm có vẻ như loại trừ nhau. Theo định nghĩa, đức tin là sự gắn bó với Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải và mời gọi chúng ta đón nhận Lời Ngài là chân lý đem lại sự sống, vì Lời ấy đáng tin và vì chính mầu nhiệm bao trùm Lời ấy. Làm sao ta có thể xé bỏ bức màn che Đền-thờ và tiến vào cung thánh mà không phạm đến chốn linh thiêng?

-------------Chẳng phải Kinh Thánh đã dạy chúng ta rằng «người công chính sống bởi đức Tin» và Đức Giêsu đã công bố «phúc cho ai không thấy mà tin» sao? Vả lại, toàn bộ truyền thống thiêng liêng của Giáo Hội kêu gọi chúng ta đừng lầm lẫn giữa đức tin đích thực và nhận thức chúng ta có về đức tin. Tin bằng một đức tin thực sự là một chuyện, còn cảm thấy có tâm tình đức tin lại là chuyện khác. «Tôi tin! nhưng xin đến cứu giúp lòng tin còn ít ỏi của tôi!» (Mc 9,24). Tiếng kêu than này của người cha xin Đức Giêsu chữa bệnh cho con ông nói lên một thái độ không phải hiếm thấy nơi các môn đệ. Chúng ta đựng báu vật trong những bình dễ vỡ. Nếu không nói là muốn lấy kinh nghiệm để thay thế đức tin, - điều mà không ai chủ trương-, thì ít nhất cũng muốn làm suy yếu đức tin khi cố tìm một điểm tựa bên ngoài lấy cớ là để củng cố đức tin ấy, làm như thế không phải là có thể hủy hoại đức tin Kitô giáo hay sao?


Chủ quan?

-------------Hơn nữa, cứ cho rằng đức tin và chứng nghiệm về Thiên Chúa tương hợp nhau, thì như thế không phải là lẫn lộn tính khách quan nhất thiết của nhận thức sự vật với đức tin thuộc chủ thể tính của lương tâm hay sao? và như thế không phải là quên đi ý muốn cá nhân dấn thân tin tưởng đạo lý của đức tin, tiếp nhận các chân lý do Thiên Chúa mạc khải và Giáo Hội bảo đảm hay sao?

-------------Về điểm cuối này, chúng ta cần giải đáp ngay tình trạng hàm hồ của vấn đề nêu lên.. Đừng bao giờ quên rằng từ bản chất, đức tin là sự gắn bó, không phải với toàn bộ các tín điều, mà với chính Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải mình. Đức tin chính là sự gặp gỡ sống động với vị Thiên Chúa hằng sống; nó được diễn tả trong lòng Giáo Hội, ngay bên trong một chứng nghiệm. Tín lý là sự diễn tả hoặc định nghĩa chung chứng nghiệm về Thiên Chúa đã được các Tông Đồ và cộng đoàn Kitô hữu sống và truyền đến chúng ta. Trong thư thứ nhất của thánh Gioan, ngài nói với chúng ta rằng chính ngài và các Tông Đồ khác xác nhận rằng: «Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng» (1Ga 1,1-2).

-------------Chứng nghiệm về Đức Giêsu nhất thiết phải có trước việc xác định chứng nghiệm ấy. Thánh Tôma Aquinô, một nhà thần học không hề bị nghi ngờ là chống lại lý trí, lập lại rằng đối tượng của đức tin không phải là những phát biểu lý thuyết về Thiên Chúa mà là chính Thiên Chúa, được nhận biết và yêu mến trong một mối tương quan thân thiết.

-------------Tín lý rất quan trọng vì nhiều lý do; mà một trong những lý do là vì nó được sử dụng như một bảo đảm khách quan đối với cộng đồng Kitô giáo để xác định sự chân thực của mọi chứng nghiệm cá nhân; chứng nghiệm này không bao giờ được mâu thuẫn với tín lý. Nhưng tín lý vốn để nói đến các chân lý về Đức Kitô, hẳn nhiên nó phải bắt nguồn từ một chứng nghiệm của một cuộc gặp gỡ. Về các chân lý liên quan đến Chúa Thánh Thần cũng như thế. Kitô hữu thời Giáo Hội nguyên thủy trước hết đã sống chứng nghiệm về Thánh Thần – và chứng nghiệm hết sức là thân thiết !– trước khi thiết định thành tín điều về Chúa Thánh Thần mãi tới ba thế kỷ về sau. Đối với họ, đón nhận Thánh Thần và chứng nghiệm Ngài hoàn toàn đồng nghĩa.


Đi quá trớn

-------------Chiều kích chứng nghiệm của Kitô giáo trong Tân Ước đã bị đẩy đến cực đoan trong một vài thuyết về sự thánh hóa; các lý thuyết nầy đi quá trớn khi đề cập đến vai trò của chứng nghiệm. Những người theo phái Giăng-sen16 cố tìm chứng nghiệm về tiền định. Những người theo thuyết tĩnh tại17 tìm cách chứng nghiệm sự thụ động hoàn toàn về mặt thiêng liêng. Những người theo trào lưu tân-thời18 thì muốn xác định yếu tính của Kitô giáo nằm trong những chứng nghiệm đời sống hơn là nằm trong Kinh Tin Kính. Trong Tin Lành giáo, Schleiermacher cũng cổ suý một thứ tôn giáo mang tính tình cảm lãng mạn, còn William James thì biến chứng nghiệm tôn giáo thành một thứ thẩm quyền nội tâm tự tại - tự túc.
Vì muốn đề phòng những quá đáng này nên huấn quyền Giáo Hội đã nhấn mạnh đến khía cạnh khách quan của tôn giáo, về mặt lý thuyết cũng như mặt bí tích.

-------------Tuy nhiên, việc đề phòng những lạm dụng không thể được hiểu là coi nhẹ ý nghĩa và vai trò của chứng nghiệm tôn giáo trong một Kitô giáo chân thực. Nhất là vì tôn giáo này ngỏ lời với con người toàn diện vốn không phải thuần tinh thần, cũng không phải là linh hồn không có thể xác đi kèm, mà là một hữu thể toàn vẹn đang thấy, đang cảm, đang chiêm ngưỡng và hành động.

-------------Vả lại, việc đưa chứng nghiệm vào đời sống tâm linh trong Kitô giáo nằm trong sự tiếp nối liên tục với Cựu Ước. Đối với tín đồ Do Thái giáo, biết Thiên Chúa nghĩa là chứng nghiệm Thiên Chúa. Theo khoa nhân học thánh kinh 19 chỉ có một con đường để đi đến nhận thức là con đường của chứng nghiệm. Luật này cũng đúng trong việc đến với Thiên Chúa. Người Do Thái chỉ biết Thiên Chúa qua chứng nghiệm lịch sử cụ thể mà họ có về Ngài. Họ không hề biết đến những suy lý trừu tượng và siêu hình của chúng ta về bản tính và thuộc tính của Thiên Chúa. Họ biết Giavê vì họ đã từng chứng nghiệm về hành động cứu độ của Ngài: Chẳng phải Ngài đã dẫn họ ra khỏi Ai Cập để vào miền đất hứa đó sao? Kinh nguyện Do Thái luôn ám chỉ đến chứng nghiệm này. Thiên Chúa tỏ mình cho họ trong lịch sử, và lịch sử Israel gắn liền với lời cầu nguyện của họ.



«Dân tôi hỡi, nghe lời tôi dạy bảo …
Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ
Công bố điều huyền bí thưở xa xưa
Điều chúng tôi đã từng nghe từng biết
Do cha ông kể lại cho mình
Chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả
Sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau
Sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa
Với những kỳ công Chúa đã làm».
(Tv 78,1-4)
-------------Bằng ngôn ngữ Thánh Kinh

-------------Hơn nữa, mối liên kết giữa chân lý và chứng nghiệm nổi bật lên trong quan điểm của Thánh Kinh về chân lý. Walter Kasper lưu ý chúng ta điều này:

-------------«Người Hy-Bá-Lai chẳng quan tâm đến những gì hiện hữu mà quan tâm đến những gì xảy đến mà họ chứng nghiệm được một cách cụ thể... Sự vật và con người chỉ bền vững nếu ăn khớp với sự mong đợi, và biện minh được niềm tin cậy mà họ trông chờ... Nên chân lý được thực hiện và luôn luôn tỏ lộ ra trong thời gian. Điều quan trọng là cái gì đã xảy ra hoặc sẽ xảy ra, chứ không phải “do suy tư để biết” là tự bản tính, là như thế hoặc phải như thế...Cái gì mặc lấy lịch sử thời gian, xảy ra thật, sẽ đến thì mới là thật...”20
-------------Sự kiện đó không làm cho mọi chân lý trở thành tương đối ; siêu hình học vẫn giữ được các giá trị của nó. Tuy nhiên, những nhận xét này đưa chúng ta vào trong cái nhìn của Kinh Thánh.

-------------Trong Cựu Ước, sự hiện diện tác động của Thiên Chúa được quan niệm như nằm bên ngoài con người. Còn trong Tân Ước, sự hiện diện ấy được nhận biết từ bên trong. Chính hành động thâm nhập của tình yêu của Thiên Chúa trong linh hồn giúp ta nhận ra bằng đức tin sự hiện diện của Ngài: «Ai tin vào Con Thiên Chúa thì có lời chứng ấy nơi mình» (1Ga 5,10). Theo quan điểm này, chúng ta hiểu rõ hơn câu nói của Đức Giêsu: «Ai thực thi chân lý thì hãy đến với ánh sáng». Đức tin và chứng nghiệm về Thiên Chúa gắn bó với nhau: chúng ta phải chấp nhận rằng hai sự kiện nhất thiết bổ túc lẫn nhau.21

-------------Những điều ấy xác minh vai trò và giá trị của chứng nghiệm tôn giáo đích thực. Nhưng đáng tiếc là có chứng nghiệm tôn giáo giả mạo. Giáo Hội biết rõ tình trạng ấy nên có lý do để cảnh giác chủ trương chủ-quan-thuyết thỉnh thoảng vẫn đe dọa sự toàn vẹn của đức tin.

caoduc
15-11-2008, 09:32 AM
Thuyết thiên khải

-------------Lịch sử thuyết thiên khải về tôn giáo thật dài dòng ở trong cũng như ngoài Giáo Hội Công Giáo.

-------------Ngay từ thế kỷ thứ hai, thuyết22 Montanus – mà Tertulianô là nhân vật tiêu biểu nổi tiếng nhất – chủ trương dựa vào những mạc khải mới mẻ và loan báo ngày tận thế bằng một thứ ngôn ngữ xuất thần và hoang tưởng.

-------------Thời Trung Cổ, một người tên là Joachim de Flore loan báo rằng người ta đã bước vào thời đại thứ ba của thế giới, là thời đại của Thánh Thần. Ông khai triển triệt để vai trò của Thánh Thần, và trình bày Ngài là Đấng tiếp tục thời đại của Chúa Cha (Cựu Ước) và thời đại Chúa Con (Tân Ước). Giáo Hội chỉ bài bác sự gián đoạn và các thời kỳ nối tiếp theo lối trình bày ấy.

-------------Trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều dòng tu lúc khởi thủy như đồng hóa với các phong trào ngụy thần bí, nhưng đã cố vượt thoát để tìm ra cho mình một hướng đi trong lòng Giáo Hội. Nhiều chuyện đáng tiếc xảy đến cho họ là do sự lẫn lộn ấy. Thế kỷ nào cũng chứng kiến sự quá đà của các phong trào giả thần bí thuộc loại tĩnh tại hay khải thị.

-------------Các Giáo Hội Tin Lành cũng thường xuyên đương đầu với những phong trào hồi sinh dựa trên những thị kiến Thánh Kinh theo kiểu bảo căn cực đoan23 hoặc dựa trên những chứng nghiệm bên lề truyền thống hoặc không hợp với truyền thống. Tác phẩm của Ronald Knox bàn về «những người hứng khởi» qua các thế kỷ vẫn mang giá trị cảnh báo cho bất cứ ai bị cám dỗ bỏ qua óc phê phán vốn rất cần thiết.24


Chứng nghiệm và đời sống Kitô hữu

-------------Mặc dù những lệch lạc lúc nào cũng có thể xảy ra, Đức Giêsu vẫn không hề loại bỏ chứng nghiệm tôn giáo ra khỏi đời sống Kitô hữu.

-------------Chúng ta không đề cập ở đây chứng nghiệm thần bí, vốn là một thứ chứng nghiệm thuộc loại đặc biệt. Người ta biết rằng các thần học gia bàn luận xem chứng nghiệm ấy có phải là kết quả bình thường của một đời sống Kitô hữu triển nở hay không. Ở đây chúng ta chỉ nói đến chứng nghiệm thông thường về Thiên Chúa. Chưa bao giờ Đức Giêsu trình bày sự khô khan thiêng liêng như là qui luật bình thường của cuộc sống. Tuy nhiên, con đường của thánh Gio-an Thánh Giá hay của thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la là một con đường đặc biệt, các ngài được Thiên Chúa thanh luyện để đi vào chiều sâu thần bí bằng cách cho các ngài trải qua đêm tối của giác quan và tinh thần. Còn con đường được gọi là «chung», bình thường và thông thường của mọi người Kitô hữu cùng đồng hành với Thiên Chúa là một con đường khác.

-------------Tin Mừng đi sâu vào cuộc sống con người: Đức Giêsu biết rõ tâm hồn con người. Lần đầu tiên gặp Na-ta-na-en, để đưa ông ta vào cuộc, Đức Giêsu nói với ông là Ngài đã trông thấy ông dưới gốc cây vả. Na-ta-na-en sửng sốt vì cảm nghiệm được rằng Đức Giêsu quan tâm đến ông cách riêng. Còn Đức Giêsu thì hứa với Na-ta-na-en rằng ông ta sẽ còn trông thấy nhiều điều lớn lao hơn ( Xem Ga 2,45-41).

-------------Hiển nhiên đối với Đức Giêsu, đêm tối của đức tin mà Ngài muốn chúng ta trải qua không phải là một đêm tối dày đặc, không trăng sao. Chúng ta cần nghiêm túc để ý đọc từng chữ những lời hứa của Đức Giêsu rải rác trong Tin Mừng.

-------------Ngài đã hứa ban cho các môn đệ «sự bình an mà thế gian không biết đến, không ai có thể ban cho và cũng không ai có thể cướp đi được» (Xem Ga 14,27; 16,22).

-------------Đức Giêsu không hứa với các môn đệ Ngài rằng họ sẽ tránh được đau khổ; thậm chí nhiều lần Ngài còn nhấn mạnh họ phải vác Thánh giá đi theo Ngài, và Ngài chuẩn bị cho họ đương đầu với việc ấy. Tuy nhiên Ngai hứa ban cho họ niềm vui và bình an ngay khi chịu đau khổ, điều này quả hết sức khác biệt. Đó chính là sự thanh thản mà sau này những kẻ theo Ngài sẽ chứng nghiệm. Họ sẽ xác nhận bằng chứng nghiệm sống câu Ngài nói: «Ách của tôi thì êm ái, gánh của tôi thì nhẹ nhàng» (Mt 11,30). Họ cũng cảm nhận được chân lý trong những lời hứa khác của Ngài: «Ai yêu mến Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Thầy cũng sẽ yêu mến và tỏ mình ra cho Người ấy» (Ga 14,21).

-------------Nhân tiện tôi xin lưu ý: để xác nhận những lời hứa ấy đã được thực hiện, chẳng cần trưng dẫn nhiều biểu hiện của Thiên Chúa làm gì. Chỉ cần một biểu hiện được cảm nhận một cách sâu sắc cũng đủ giúp ta chứng nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa, giống như chỉ cần một tia nắng cũng đủ để ta thấy được sự chói sáng của mặt trời. Điều này nằm trong tầm nhận thức của mọi người: đâu cần phải định nghĩa thế nào là năng lượng mặt trời mới cảm nhận được sức nóng của nó.

-------------Toàn bộ đời sống của Giáo Hội nguyên thủy là lời chứng cho việc thực hiện những lời hứa của Đức Giêsu. Sách Công Vụ Tông Đồ đặc biệt ghi lại những biểu hiện của Thiên Chúa xem ra nổi bật phi thường vì tính cách đoàn sủng của chúng; nhưng Thánh Kinh cho thấy những biểu hiện Thiên Chúa hiện diện trong đời sống thường ngày.

-------------Thánh Phaolô nói nhiều về những hoa trái của Thánh Thần. Những hoa trái ấy, người ta như sờ mó được, cảm nhận được, hưởng nếm được như những dấu chỉ sự hiện diện đích thực của Thánh Thần. Ngài nói với người Ga-lát: «Hoa quả của Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ» (Gl 5,22-23).
Đó là những dấu chỉ, những bằng chứng thử nghiệm tính chất chân thực Kitô giáo. Chắc chắn Thánh Thần không ngừng làm phát sinh những dấu chỉ ấy trong tất cả những tâm hồn biết mở lòng ra tiếp nhận Ngài, dẫu họ có biết tên Ngài hay không. Trong các lời kinh phụng vụ có câu: «Tình yêu Ngài chiếu toả trên chúng ta như mặt trời chính ngọ». Kitô hữu trung thành với Thánh Thần sẽ cảm nghiệm nơi mình một sức sống dào dạt và cảnh giới cao đẹp của tình yêu, hoan lạc và an bình...; nếu biết nhìn thì đó là dấu chỉ của một sự hiện diện sâu kín, chẳng khác gì ngọn đèn nơi cung thánh dẫn lối Nhà Tạm.
* * *

-------------Trong đường hướng suy tư theo Tin Mừng, phụng vụ mời gọi chúng ta cầu nguyện để được ơn thật sự yêu thích những điều Thiên Chúa truyền dạy ta làm. Chúa biết chúng ta cần có bình an và niềm vui nội tâm để có thể đồng hành tốt đẹp với Ngài.

-------------Tại Bắc Âu, những vết tích của phái Giăng-sen vẫn còn gây tổn thương; dấu vết của họ chưa hoàn toàn bị xoá. Tại Hoa Kỳ, một ngày nọ, để làm cho bầu khí hội nghị vui tươi lên, ông chủ tịch Hội nghị quốc gia những tín đồ đoàn sủng hệ phái Tin lành cải cách đã dùng lối chơi chữ tiếng Anh giữa từ chosen (được chọn) và từ frozen (bị đông cứng) khi tuyên bố: «God told us that we are his “chosen” people, not his “frozen” people» («Thiên Chúa nói chúng ta là dân “được chọn” của Ngài, chứ không phải là dân “bị đông lạnh”»)

-------------Phụng vụ Giáo Hội dám nài xin Thiên Chúa hãy tỏ mình ra sao cho chúng ta cảm nhận được. Chúng ta xin điều đó một cách thật tự nhiên: «Lạy Chúa, Chúa đã dùng ánh sáng của Thánh Thần để giáo hóa tâm hồn các tín hữu Ngài, xin cho chúng con cũng được “hưởng nếm” trong chính Thánh Thần ấy những gì thiện hảo, và “vui hưởng” không ngừng những ủi an của Ngài».

VChỉ cần trích ra đây bài thánh thi Lễ Hiện Xuống: «Veni Sancte Spiritus» (Lạy Thánh Thần in hãy đến) hoặc bài «Jesu dulcis memoria» (Thật dịu dàng biết bao khi tưởng nhớ Đức Giêsu!) và biết bao lời nguyện khác của các thánh, như thánh Bê-na-đô hay Bo-na-ven-tu-ra, cũng đủ nhận thấy trong lời cầu nguyện của mình, Giáo Hội luôn tha thiết cầu xin Thánh Thần đổ ơn Ngài xuống, kể cả ơn được chia sẻ khổ đau.

-------------Những ghi nhận ngắn gọn trên đủ chứng tỏ chúng ta đang ở trong đường hướng tu đức truyền thống nhất và bảo đảm nhất.

caoduc
19-11-2008, 08:50 AM
4. GẶP GỠ THIÊN CHÚA
-------------Khi nói đến chứng nghiệm về Thiên Chúa, thì dưới mắt một số người, điều đó có nghĩa là thoát khỏi thế gian, chỉ còn hướng về một mình Thiên Chúa thôi, một Thiên Chúa cô độc, cách biệt con người và xa lạ với những vấn đề của con người. Rõ ràng đó không phải là chứng nghiệm về Thiên Chúa của chúng ta, bởi vì chứng nghiệm chân thật không thể có sự cách biệt như thế.

-------------Cởi mở với Thiên Chúa chính là cởi mở với thế giới và với con người được Chúa tạo dựng, yêu thương và thánh hóa. Bước vào tình yêu Thiên Chúa là bước vào chính mầu nhiệm của một Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến nỗi ban cho họ chính Con của Ngài, một Thiên Chúa coi tình yêu tha nhân là trọng tâm của Kitô giáo.

-------------Sau khi xác định điều này, chúng ta hãy trở lại với chứng nghiệm đích thực về Thiên Chúa vốn phải được nhìn nhận như một chứng nghiệm bình thường trong đời sống của mọi Kitô hữu.



Chứng nghiệm thông thường và phi thường


-------------Chúng ta thường thích nói về hai loại chứng nghiệm: phi thường và bình thường. Đây là sự phân biệt theo cung cách suy nghĩ của chúng ta, nó tùy thuộc việc gặp gỡ Thiên Chúa của chúng ta có độc đáo, bất ngờ, có một không hai, hay có khác với cách xảy ra bình thường của sự vật không.
Nhưng đó không phải là phân biệt theo cung cách của Thiên Chúa. Đối với Ngài chẳng có một lằn ranh nào giữa bình thường và phi thường cả. Thiên Chúa thanh thản ở trên những ranh giới của chúng ta, chẳng khác gì nét vẽ đơn giản trên một bản đồ quy ước. Nơi Thiên Chúa, điều có vẻ như không thực hóa ra lại là thực.

-------------Thiên Chúa không yêu chúng ta bằng một tình yêu bình thường, rồi thỉnh thoảng lại làm một ngoại lệ bằng một hành vi yêu thương khác thường, vượt mức. Không, tình yêu phi thường của Thiên Chúa gắn liền với hữu thể của Ngài: Thiên Chúa chúng ta là một vị Thiên Chúa tuyệt vời, yêu thương nhân loại một cách kỳ diệu. Những hành vi lạ lùng nhất của tình yêu Ngài – như Nhập Thể, Thánh Thể, Thập Giá – đều vượt qua tất cả những gì ta nghĩ là có thể có thực. Thánh Kinh cho chúng ta biết «Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài» (Ga 3,16). Cử chỉ lạ thường này tự động phát sinh từ tình yêu quá dư tràn của Ngài.
Theo cách nhìn của người trần gian, một tình yêu như thế khiến chúng ta hết sức sửng sốt. Nó vượt hẳn khả năng tưởng tượng táo bạo nhất của chúng ta, nó buộc chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa yêu chúng ta đến độ ban cho chúng ta phép lạ nữa. Đức Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài: «Kẻ nào tin vào Thầy thì cũng sẽ làm được những việc Thầy làm, thậm chí cả những việc lớn hơn». (Ga 14,12)

-------------Lời hứa như thế không còn gây ngạc nhiên nữa. Điều siêu nhiên đối với con người thì đối với Thiên Chúa lại là điều tự nhiên; tự bản chất Ngài vốn là kỳ diệu. Kinh Tin Kính cô đọng nhất của chúng ta nói: «Chúng tôi đã tin vào tình yêu» (1 Ga 4,16). Và nhờ đó, chúng ta mới dám tin vào hiệu quả của lời cầu nguyện, vào hình ảnh Đức Giêsu đang ngỏ lời với Cha Người ngay cả trước khi xin một điều gì: «Con biết Cha luôn luôn nhận lời Con» (Ga 11,42). Từ ngữ «luôn luôn» này là một phần trong đức tin của chúng ta, ngay cả khi lý trí chúng ta như mù mịt không hiểu gì hết.

-------------Chúng ta phải tìm cách khám phá ra tình yêu phi thường của Thiên Chúa ẩn giấu trong các biến cố có vẻ như ngẫu nhiên nhất. Đức Giêsu đã từng bảo Mác-ta: «Nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa» (Ga 11,40).

-------------Có những lúc chứng nghiệm về Thiên Chúa xuất hiện trong đêm tối đức tin như một tia chớp loé lên giữa đêm đen. Những chứng nghiệm về Thiên Chúa như thế đôi khi không diễn tả hay truyền đạt được, nhưng không phải vì thế mà không có thực hoặc không biến đổi được cuộc sống. Triết gia Bergson từng nói: «Thiên Chúa dựng nên thế gian và làm cho nó điên đảo chỉ vì để tạo nên các vị Thánh». Và hành động này vẫn xảy ra liên tục suốt dòng lịch sử Giáo Hội, dù tỏ tường hay âm ỷ bên trong.

-------------Hành động ấy đã làm Đức Maria phải bối rối khi nghe Thiên Sứ truyền tin, vì bỗng nhiên Mẹ hiểu rằng Mẹ được chúc phúc và tuyển chọn giữa mọi người phụ nữ.

-------------Vào sáng ngày Phục Sinh, hành động ấy được ngụy trang dưới vẻ bề ngoài của người làm vườn để gọi Maria Ma-đa-lê-na bằng tên của nàng.

-------------Hành động ấy nhóm lên lửa nhiệt thành trong lòng hai người khách lữ hành đang nản chí trên đường về Ê-mau.

-------------Hành động ấy nổ vang như một tiếng sét làm mù mắt Phaolô trên đường đi Đamát.

-------------Hành động ấy thì thầm bên tai Âu Tinh bảo «hãy cầm lấy và đọc», và lời ấy đã khiến ông hoán cải.

-------------Hành động ấy đã làm một câu Thánh Kinh chói sáng, tựa như mặt trời làm tấm kính ghép hình màu đang mờ mịt bỗng sáng rực lên, khiến Thánh Phan-xi-cô Át-xi phải hiểu câu ấy nói riêng cho mình: «Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi» (Mt 19,21).

-------------Hành động ấy biến thể thành thiên hình vạn trạng tùy theo hoàn cảnh mỗi người chúng ta.

-------------Hành động ấy như ánh sáng từ từ soi sáng hoặc đột nhiên lóe lên cho mỗi người thấy ơn gọi tương lai và sứ mệnh rõ rệt được ủy thác cho mình .

-------------Hành động ấy hàm ẩn trong việc tình cờ gặp một người bạn ở ngã tư đường. Anh ấy đến nói với ta một lời quả quyết giống như A-na-ni-a đã nói với Phaolô. Cuộc gặp gỡ không ai đoán trước được và chứng thực điều mà một tác giả sách thiêng liêng nọ không ngần ngại viết ra: «Nếu ta cần ai đó nói cho ta một lời cần thiết, thì dù người ấy ở tận cùng trái đất, Thiên Chúa cũng sẽ sai đến với ta».

-------------Chúng ta có thể gọi là «việc ngẫu hợp mà xảy ra», bên ngoài là lớp vỏ của những chuyện không đâu, những trùng hợp và ngẫu nhiên, nhưng đây có khác gì chính Thiên Chúa đang hành động. Chúng là những dụng cụ của một tình yêu tinh tế, diệu kỳ và bền vững tuyệt vời.

-------------Thiên Chúa viết nên những quyển tiểu thuyết phi thường qua những cuộc đời sẵn sàng «thuận theo sự dàn xếp của Ngài», những người sẵn lòng đón nhận những điều bất ngờ Ngài gởi tới, luôn chăm chú lắng nghe tiếng thì thầm của ân sủng, những mời gọi của Thánh Thần.

-------------Chứng nghiệm ấy về Thiên Chúa nằm trong tầm với của mỗi Kitô hữu chúng ta; nhưng trong thân phận làm người nơi dương thế, chứng nghiệm nầy không miễn trừ chén đắng của đau khổ và quyền lực sự dữ. Thế giới này là một bức tranh theo kiểu Rembrandt, phối hợp giữa bóng tối và ánh sáng. Thiên Chúa đến với chúng ta không phải như một quyền năng đè bẹp tự do của con người, nhưng như một tình yêu tinh tế mời gọi một lời đáp trả trong tự do. Văn hào Claudel từng nói: «Đức Giêsu không đến giải thích hay hủy bỏ đau khổ mà Ngài đến lấp đầy đau khổ bằng sự hiện diện của Ngài». Lời nói sâu xa này, hẳn không giải thích được mầu nhiệm của bất công và sự ác, nhưng dẫn lối cảm nhận mầu nhiệm ấy trong ánh sáng «Gôn-gô-ta», nơi Thiên Chúa cho chúng ta thấy Ngài ở «về phía chúng ta» để cùng đương đầu với đau khổ và tội lỗi, và Ngài chấp nhận đau khổ để biến nó thành vật liệu làm nên ơn cứu chuộc.

-------------Việc khám phá ra Thiên Chúa đang ẩn mình giữa đau khổ là một chứng nghiệm sống, đôi khi thật diệu kỳ, của những kẻ đau ốm. Trong đớn đau khôn tả, nụ cười của họ làm chúng ta sáng lên, và vẻ thanh thản của họ làm chúng ta xúc động. Thiên Chúa đang hiện diện ở đó với một danh nghĩa đặc biệt, vì Ngài tự đồng hóa với họ. Chiara Lubich nói một câu thật tuyệt vời: «Mọi đau khổ đều là Ngài».

caoduc
20-11-2008, 01:52 PM
Gặp gỡ cá nhân
-------------Về phần tôi, tôi xin thú nhận rằng qua nhiều năm tháng, càng ngày tôi càng cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa đang hoạt động qua tất cả những gì cao cả từ phía Thiên Chúa và tất cả những gì đơn hèn từ phía tôi. Nhờ nhận ra hành động bao bọc, liên tục và rõ rệt của Ngài, trong tôi liền nảy sinh khúc hát nội tâm đầy tâm tình biết ơn. Điệp khúc của nó giống như một bài Điệp Ca rất trang trọng lễ Giáng Sinh: «Ôi Sự Khôn Ngoan đã chi phối mọi sự từ đầu đến cuối và an bài mọi sự bằng sức mạnh và dịu dàng!»

-------------Tôi thích biến tâm tình tri ân này thành một bản kinh cầu ngăn ngắn của riêng tôi, trong đó tôi kể ra nào là tên, nào là kỷ niệm, nào là ngày tháng, nào là chuyện trùng hợp này nọ. Trong đó tôi cảm ơn Thiên Chúa vì tôi đã nhận được một lời khuyên vào lúc tôi gặp hoàn cảnh khó xử, vì tôi tình cờ đọc được một cuốn sách đã đem đến cho tôi một sứ điệp, vì một cú điện thoại, một lá thư, một nỗi đau khổ, một niềm khích lệ. Khi ôn lại và tổng hợp tất cả những điều ấy, tôi cảm ơn Thiên Chúa vì đã cảm nghiệm được một niềm vui, một sự bình an mà không ai có thể cướp đi được vì chúng nằm ngoài tầm ảnh hưởng của con người.

-------------Điều đó giống như việc lần chuỗi, các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng nối tiếp và hòa quyện với nhau. Mỗi hạt nói lên sự chú tâm của Thiên Chúa, một dấu chỉ, một cuộc gặp gỡ. Và tôi kết thúc bằng kinh Sáng Danh, cảm tạ tình yêu Thiên Chúa luôn ẩn hiện trong mọi giây phút, nơi mỗi khúc quanh của đường đời.

-------------Hình ảnh người thợ săn rình mồi gợi lại trong tôi bài thơ đẹp nhất mà tôi biết, bài «The Hound of Heaven» (Cuộc săn lùng trên Thiên Đàng) của Francis Thompson. Mỗi người có thể cảm nghiệm bài thơ ấy một cách khác nhau tùy theo hoàn cảnh riêng cuộc đời mình, nhưng vị Thiên Chúa luôn rình rập để theo đuổi chúng ta như «kẻ săn lùng trên Thiên Đàng» bằng tình thương khôn nguôi của Ngài cũng chỉ là một Thiên Chúa đối với mọi người; mối quan tâm của Ngài mãi tăng lên đến vô tận, luôn dành trọn vẹn cho từng người; lòng ân cần ấy của Ngài là bầu khí nuôi dưỡng toàn bộ cuộc sống chúng ta.

-------------Mỗi Kitô hữu phải nhìn đời sống mình dưới ánh sáng đức tin. Đức tin ấy là chìa khóa để mở đón Thiên Chúa vào cuộc sống, để phó thác cho Ngài mọi sự, để càng ngày Ngài càng tràn ngập lòng mình.
Họ cũng phải loan báo cho thế gian bí mật mình khám phá ra và hô to lên niềm vui của mình.

-------------Nhìn thấy Thiên Chúa hiện diện, thân thương, gần gũi; cái nhìn ấy càng trở nên sắc bén và tinh tế nếu chúng ta càng tập nhận ra vô số dấu hiệu về sự hiện diện ân cần và hiệp thông của Ngài, như người bạn đang ngoắc tay hay ngước nhìn chúng ta. Thiên Chúa nói với từng người bằng một thứ ngôn ngữ riêng tư, kín đáo nhưng ta vẫn hiểu được. Phải tập đọc những mẫu tự của Thiên Chúa, phải biết đánh vần, biết nhận ra và giải thích những mẫu tự ấy.

-------------Đôi khi chúng ta hiểu sai sứ điệp; chúng ta tưởng rằng vị Thiên Chúa đến trước mặt chúng ta và ra dấu cho chúng ta ấy là một bóng ma. Bấy giờ, Chúa hẳn sẽ phải nói với chúng ta như đã nói với các Tông Đồ Ngài: «Thầy đây, đừng sợ» (Ga 6,20).

-------------Tôi thích so sánh việc tiếp cận bằng đức tin tinh tuyền của chúng ta với Thiên Chúa, như một du khách vào một đêm đông tìm thấy một căn nhà hiu quạnh rực rỡ ánh sáng tại một khúc quặt trên đường. Tới trước ngưỡng cửa, nhìn qua khung kiếng, anh thấy những khúc củi cháy bập bùng, bắn ra những tia lửa. Anh đoán rằng sức nóng của lò lửa đang lan tỏa. Nhưng anh chẳng cảm nhận được sức nóng ấy, bao lâu anh còn đứng bên ngoài trời đầy gió lạnh như kẻ bàng quan. Đó là hình ảnh người Kitô hữu trong đêm tối đức tin biết Thiên Chúa là ánh sáng và hơi ấm. Người ấy có thể nói như tác giả thánh vịnh: «Bóng đêm là ánh sáng và là niềm vui của tôi» (Tv 139,11). Nhưng chỉ thấy những tia sáng lung linh kia, chỉ đoán được sức nóng dịu dàng đang lan tỏa thôi, thì sức nóng ấy chưa thấm vào da thịt được. Phải đi vào bên trong, không phải vì mình xứng đáng mà vì Thiên Chúa tha thiết mời gọi và nóng lòng muốn hiệp thông với mình. Vì thế, phải gõ cửa. Đó là sự hợp tác về phần mình. Đức Giêsu bảo chúng ta đập cửa, không xác định là phải đập bao nhiêu lần. Phải biết bắt đầu lại. Nhưng nhất là mỗi người phải biết rằng Ngài đang đợi mình bên bếp lò, phải biết mình là con trong nhà, và mình không thể đem lại cho Thiên Chúa niềm vui nào lớn hơn là nhận lời mời của Ngài.

-------------Cứ lấy cớ là khiêm nhường để dừng lại trước ngưỡng cửa là hiểu sai tấm lòng của Thiên Chúa, Đấng mời gọi tất cả chúng ta sống thân mật với Ngài ngay ở đời này, và tạo dựng chúng ta để chúng ta gặp gỡ Ngài.
Khi đã vào bên trong thì người lữ hành sẽ thấy tất cả đều thay đổi. Ngọn lửa nóng sáng trong bếp lò như tiến đến trước mặt, sức nóng của ngọn lửa bao bọc, thấm vào da thịt. Khuôn mặt rạng ngời, hai bàn tay giang về phía lò lửa, tứ chi tê cóng nay trở nên ấm áp. Tia sáng ấm của ngọn lửa như thấm sâu con người anh: đó là hình ảnh minh họa chứng nghiệm về Thiên Chúa mà chỉ những người biết để cho Ngài tràn ngập lòng mình, biết rộng mở toàn bộ ý thức lẫn vô thức của mình để đón nhận sự hiện diện đầy ánh sáng của Ngài, mới cảm nhận được. Một sức sống mới đổ tràn trong mình, và một lần nữa lời của Phaolô trở nên hiện thực nơi mình: «Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20).
Chúng ta không đơn độc nhưng cảm thấy được Thánh Thần Ngài dẫn dắt; trọn cuộc sống ta hướng về Ngài. Vì tự bỏ mình nên được Thiên Chúa chiếm hữu, vì tự trở thành trống rỗng nên được Ngài lấp đầy.

-------------Chính Thiên Chúa – là tổ ấm tiếp nhận ta với ánh sáng và hơi ấm – đã biến đổi cuộc đời ta và làm cho ta tỏa sáng. Những ai để cho Thiên Chúa chiếm hữu, như thanh củi dần dần rực cháy sáng, thì cuộc sống con người của họ – được nuôi dưỡng bởi ngọn lửa là chính Thánh Thần – cũng sẽ trở thành lửa như Ngài. Đó là thứ lửa mà Đức Giêsu đã nói tới trong câu: «Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất» (Lc 12,49). Đó chính là chứng nghiệm về Thánh Thần, đấng duy nhất có thể thật sự canh tân bộ mặt trái đất.