PDA

View Full Version : Bài ca của bình minh



hongbinh
26-05-2013, 08:10 AM
Bài ca của bình minh (1)


VRNs (21.05.2013) – Được phép của Linh mục Minh Anh (Giáo phận Huế) dịch giả của nguyên tác The Song of The Dawn, tác giả Eloi Leclerc, VRNs xin lần lượt đăng tải tác phẩm này với tên tiếng Việt “Bài ca của bình minh”.



https://thanhcavietnam.net/forum/attachment.php?attachmentid=8863&d=1369531981







LỜI NÓI ĐẦU
Người ta có thể ngạc nhiên khi những ý tưởng sâu sắc lại được tìm thấy trong những tác phẩm thi ca của các nhà thơ hơn là của các triết gia; bởi lẽ, nhà thơ vận dụng hết mọi nỗi niềm và khai thác tối đa khả năng tưởng tượng. Như đá lửa, trong chúng ta, có những hạt giống của ánh sáng. Qua lý trí, triết gia khơi dậy chúng, đang khi nhà thơ làm cho chúng chiếu toả rạng ngời hơn nhờ đặc ân tưởng tượng. (Descartes, Cogitationes Privatae)

Không gì lố bịch bằng khi lỗ tai một con lừa thòi ra dưới chiếc mũ của một bác sĩ. Có lần ở Montréal, tôi tổ chức một cuộc hội thảo về Bài Ca Thọ Tạo của Thánh Phanxicô Assisi. Trong cuộc trao đổi theo sau bài nói chuyện, một người rất danh giá đưa ra nhận định, ‘Thế giới, trong đó thánh Phanxicô sống, có một đầu óc tiền khoa học và cách tự nhiên, ngài đã chia sẻ trí lực này. Đây là lý do tại sao ngài có thể nói về ‘Chị Nước của chúng ta’. Nhưng với những nhãn quan khoa học hôm nay, chúng ta không thể nói theo cách này nữa; thậm chí không thể nói là nước nữa nhưng phải nói ‘H2O’­”.
“Bạn quá duy lý đến nỗi không thể tin vào mặt trời”, Holderin nói với các tác giả tư sản thời mình. Tương tự, tôi có thể đáp lại diễn giả trên, “Ngài quá duy lý đến nỗi không tin vào Chị Nước”.
Sẽ không ngoài lề khi nhắc lại rằng, thơ không phải là một ngôn ngữ tiền khoa học, tiền lý trí hay một cách thức diễn đạt những gì sơ khai và cổ thời mà khoa học đã thay thế. Khoa học là một ngôn ngữ, thơ là một ngôn ngữ khác. Thơ không chỉ diễn đạt sự vật cách khác nhưng còn nói lên những điều gì đó. Khi khen ngợi thế giới, nhà thơ nói đến giấc mơ thâm sâu của con người. Vì thế, cả khi dường như đang mô tả thiên nhiên, nhà thơ vẫn có thể thổ lộ một bí mật mà chỉ linh hồn mình biết. Mọi thơ ca đều bí ẩn, chúng tiến về một vùng đất hứa khởi từ một thiên đường bị lạc mất. Vì thế, thơ ca mở rộng thế giới với những tưởng tượng, với những kỳ quan. Nhưng nhưAragoncho thấy, “Kỳ quan có giá trị như một đối kháng chống lại một thế giới phân tán cũng như sáng tạo và siêu việt vốn dẫn đến một thế giới tốt đẹp hơn”.
Hãy cùng đọc lại Bài Ca Anh Mặt Trời của Phanxicô Assisi trong ánh sáng này.
Khi hát về thọ tạo, Phanxicô không chỉ nói đến những gì bên ngoài nhưng còn gợi lên cả một thực tại mênh mông mới mẻ bên trong; ở đó, tinh thần con người và thọ tạo vật chất gặp nhau, cùng khám phá chính mình trong một sự hài hòa tuyệt diệu. “Anh Mặt Trời”, “Chị Nước”, chúng ta cần trở nên một nhà thơ lớn để có thể đặt những từ ngữ đơn giản này lại với nhau; thậm chí lớn hơn nữa, để dám nói, “Chị, Mẹ Trái Đất của chúng ta”. Những lời lẽ thường ngày này bất ngờ được kết hợp trong tình yêu và ước mơ, tổ chức một cuộc về nhà; chúng diễn đạt một sự giao hòa bí nhiệm; ở đó, con người và thế giới được tái sinh trong sự hiệp nhất ban đầu.
Thế nhưng, chiều sâu của kinh nghiệm này sẽ qua đi nếu chúng ta quên rằng, Bài Ca Thọ Tạo trước tiên là một tiếng ca ngợi khen ngân vang đến tận Đấng Tối Cao, Đấng vượt trổi, Đấng mà con người không thể gọi tên Ngài. Sự tinh tế của bài ca nằm ở chỗ là một tiếng kêu thất thanh lên tận Đấng siêu việt, vốn được khẳng định rất rõ ràng trong khổ thơ đầu tiên và dường như con người phải được nới lỏng khỏi trần thế để rồi bất chợt được dẫn đến một sự hiệp thông huynh đệ và diệu kỳ với mọi thọ tạo. Tiếng kêu thấu tận tầng trời cao nhất ở đây băng xuyên qua sự hiệp thông này. Đó là điểm đầu tiên mà chúng ta cố gắng đưa ra ánh sáng.
Điểm thứ hai cũng cần được lưu ý. Hiệp thông huynh đệ với các thọ tạo cùng sự tán dương nồng nhiệt, hiệp thông ấy diễn đạt cũng là ngôn ngữ của con người mở ra với tất cả hữu thể của mình. Con người không thể có một tương quan huynh đệ đích thực và mật thiết với các yếu tố trong vũ trụ nếu không hoà quyện chính mình với tất cả những gì mà các yếu tố này biểu trưng, nghĩa là, tìm về những dấu tích từ nội tâm của mình, với tất cả những sức mạnh đen tối bao gồm hữu thể ban đầu của nó.
Trong Bài Ca Mặt Trời, Phanxicô khám phá ý nghĩa chói lọi của thọ tạo nhưng ngài khám phá bằng cách bắt đầu từ một trải nghiệm bên trong vốn là một cuộc khởi nguyên mới, một cuộc sáng tạo mới. “Dường như ngài là một con người mới, một con người của thời đại đang đến”, người viết tiểu sử đầu tiên của ngài nói về ngài như thế.[1]Chính trong việc trở thành con người mới này mà Phanxicô nhận biết ý nghĩa của thọ tạo. Bài ca của ngài không chỉ là sự tri ân đầy xúc động với Tạo Hoá, nhưng còn thực hiện một sự biến đổi bên trong. Ngài ca khen cuộc sáng tạo mới nơi chính tâm hồn con người.
Phanxicô Assisi không viết những luận đề uyên bác, nhưng khi muốn nói cho chúng ta nhãn quan của mình về vạn vật, thì người anh em của những người hát rong này bắt đầu hát. Ngài hát về mọi thọ tạo và trong bài hát của mình, ngài cho chúng ta thấu hiểu những chiều kích sâu xa của tâm hồn, trong đó, những năng lực căn bản của đời sống đã phục hồi tính trong suốt ban đầu cùng sự chói ngời của mặt trời loé sáng.


1
SỰ RA ĐỜI CỦA MỘT BÀI CA






Đêm đến, tiếng của mọi hồ nước sống động đang cất lên; và tâm hồn tôi cũng là một con suối sống động. (Nietzsche)

Bài Ca Mặt Trời là một bài ca về ánh sáng, nhưng lại phát ra từ một đêm đen tối tăm nhất.
Phanxicô chưa tròn bốn mươi lăm tuổi, nhưng khá suy nhược. Sự từ bỏ và chay tịnh lâu ngày đã huỷ hoại sức khoẻ của ngài. Ngài có ít hơn hai năm để sống. Trên các đỉnh núi cô tịch của miền Alverna, ngài vừa nhận các dấu Cuộc Thương Khó của Đức Kitô nơi thân xác mình. Ngài đã trở thành người mà ngài không ngừng chiêm ngắm, một ai đó đã bị đâm thâu qua. Trong nỗi đau tột cùng, trên lưng một con lạc đà, ngài xuống núi và lên đường đếnAssisi. Nhưng lòng nhiệt thành vốn đang hướng dẫn ngài, thôi thúc ngài loan báo Tin Mừng bất kỳ nơi nào ngài đến.

Không lâu sau khi trở về Portiuncula, Phanxicô nhờ người ta dẫn đến San Damiano, nơi Clara và các chị em đang sống. Vấn đề sức khoẻ đã khiến cuộc viếng thăm này trở thành một cuộc ở lại bất đắc dĩ chừng vài tháng. Kể từ khi trở về từ Trung Đông, Phanxicô phải bệnh chảy nước mắt. Đột nhiên bệnh này trở nên nặng hơn và gây ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Thực tế, Phanxicô đã bị mù, những cơn đau đầu kinh khủng hành hạ ngài, ngài không thể trở lại Portiuncula được. Chị Clara đặt người bệnh và những bạn đồng hành trong một ngôi nhà nhỏ gần tu viện, và để bảo vệ mắt Phanxicô khỏi ánh sáng chói chang ban ngày, chị làm một góc phòng sâu vào trong bằng thảm rơm.

Hơn năm mươi ngày, Phanxicô sống trong căn phòng chật hẹp tối tăm này vì không thể chịu được dù một tia nắng nhỏ nhất ban ngày hoặc một đốm lửa tí xíu vào ban đêm. Đôi mắt đau đến nỗi ngài không thể nghỉ ngơi hay ngủ được và chuột chạy lon ton quanh phòng, thậm chí trên mình ngài, khiến ngài không nghỉ được một lúc nào cả.

Các mối bận tâm khác lại tiếp nối với những đau đớn thể lý. Phanxicô suy nghĩ về những anh em Chúa gửi đến cho ngài và cho sứ vụ. Ngài chưa bao giờ cảm thấy cùng cực và kiệt sức đến thế. Suốt chuỗi ngày bất động lê thê như thế, ngài vẫn thấy toàn bộ đời sống mở ra trước mặt mình: tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho mình và cách thức ngài cố gắng đáp trả.

Hai mươi lăm năm trước, chính ở nơi đây, trong nhà thờ San Damiano vốn không hơn không kém một nhà nguyện nhỏ bằng đá, hoang tàn, Phanxicô đã nghe tiếng gọi của Đức Kitô, “Hãy đi và sửa lại nhà ta, như con thấy đấy, nó đang sụp đổ”. Trong sự đơn sơ và cảm thức bẩm sinh về những điều đặc biệt và tầm thường, ngài đã trở thành một anh thợ nề ngay lập tức. Với đôi tay mình, ngài khôi phục không chỉ San Damiano mà còn hai nhà thờ nhỏ khác trong vùng quêAssisi.

Cho đến một ngày kia, khi tham dự thánh lễ tại một trong những ngôi nhà nguyện nhỏ vốn được sử dụng lại nhờ sự chăm sóc của ngài, Phanxicô nghe đoạn Tin Mừng liên quan đến việc gửi các môn đệ đi truyền giáo, “Hãy đi…, hãy công bố trên đường rằng, Nước Trời đang đến gần. Đừng mang theo vàng bạc hay bao bị đi đường, đừng mặc hai áo, đừng mang giày, hay gậy gộc”.

Tâm hồn Phanxicô ngập tràn một ánh sáng đích thực. Sửa lại nhà Chúa không phải như ngài nghĩ, là đặt lại viên đá này trên viên đá kia nhưng là trở lại những con đường sứ vụ của Tin Mừng, tái khám phá điều kiện của các môn đệ được Thầy sai đi. “Đây là điều tôi đang tìm kiếm, đây là điều nung nấu tâm hồn tôi những ước muốn hoàn thành tự đáy lòng mình!”, ngài la lên vào lúc đó. Ngay lập tức, ngài rời bỏ sự cô tịch bấy lâu kể từ khi trở lại và lên đường đến với những người khác đúng như Đức Kitô đã yêu cầu, không của cải, không nguồn cung cấp, không quyền lực. Vâng, đích thực là nó; đó là cách sửa chữa Giáo Hội đang suy sụp.

Rồi Chúa ban cho ngài những người anh em. Cùng với họ, Phanxicô tra tay cố gắng xây dựng một tình huynh đệ thực sự dựa trên Tin Mừng. Tình huynh đệ của những người nghèo, không giữ của cải gì; không quyền lực; không tự vệ; một tình huynh đệ thực sự khác với những tu viện giàu có của thế kỷ đó. Các anh em không mảy may đóng một vai trò nào trong xã hội; họ chỉ muốn giới thiệu “Tin Mừng” cho mọi người. Con số các anh em gia tăng và một hơi thở dịu mát của lòng yêu mến phủ lên thế kỷ của lửa và sắt.

Những người theo Kitô giáo không quay lưng lại với chính sách bạo lực, đặc biệt với Hồi Giáo. Mối quan tâm của họ không phải là truyền giáo mà là đạo binh thánh giá. Một đạo binh gay gắt nhân danh một Thiên Chúa thực sự dịu hiền! Vì thế, Phanxicô rời đi Đông Phương, không phải với tư cách là thành viên của đạo binh thánh giá, nhưng với tư cách là một sứ giả của hòa bình, với đôi bàn tay trắng, để công bố với vua Hồi “Sự trìu mến đang đến”. Đây không phải là một cách thức sửa chữa Giáo Hội Đức Kitô sao?

Nhưng Phanxicô không cải tâm vua Hồi, cũng không cải tà quy chánh những thành viên của Đạo Binh Thánh Giá, những người đổ xô về thànhDamiettađể chiến đấu với sự tàn bạo dã man của những con thú. Trở về, Phanxicô suy nhược, đau yếu và hầu như mù loà. Ngoài ra, ngài phải gấp rút trở về vì sự bất đồng đã nổ ra giữa các anh em. Những cha tổng đại diện mà Phanxicô đã giao phó việc cai quản nhà dòng của ngài khi ngài vắng mặt đã tự cho mình quyền hạn thêm thắt những điều khoản mới vào luật sống của các anh em. Những điều khoản này vốn có ý làm cho đời sống anh em hoà hợp theo tinh thần tu viện truyền thống nhưng lại gây rối ren cho tinh thần của những con người vẫn rất gắn bó với lý tưởng ban sơ của Phanxicô. Tuy nhiên, con số các anh em lại gia tăng đáng kể. Người ta cảm thấy cần có một tổ chức nào đó. Có nhiều giáo sĩ trong số những người mới đến, những người có trình độ học vấn cao. Không phải mọi người đều sẻ chia tính đơn sơ của các thầy Phanxicô đầu tiên, thậm chí một ước muốn nào đó về ưu tiên và quyền hạn cũng nảy sinh nơi một số anh em một sự phủ nhận thẳng thừng điều mà Phanxicô nhắm đến. Trong một hoàn cảnh như thế, mọi thứ có thể trở thành vấn đề từ ngày này sang ngày khác.

Trong bóng tối của gian phòng, Phanxicô nghĩ đến những sự kiện này bao ngày đêm. Một lần nữa, ngang qua những tầm với của ký ức, ngài lại nghe tiếng Chúa, “Phanxicô, hãy đi sửa nhà ta, nó đang sụp đổ”. Đối diện với tiếng gọi này, mọi thứ ngài đảm nhận cho đến bây giờ dường như quá nhỏ bé, như một trò đùa hay thậm chí như một ngõ cụt. Bấy giờ, Phanxicô tự hỏi, Thiên Chúa muốn gì ở mình. Tâm sự với những người bạn, ngài thổ lộ, “Cho đến bây giờ, chúng ta chưa làm gì cả. Chúng ta hãy bắt đầu làm một điều gì đó”.

“Làm một điều gì đó!”, nhưng điều gì? Không phải là vấn đề băng qua đồi núi và thung lũng để công bố “Tin Mừng” nữa. Tê liệt, mắt đau liên lỉ, cơ thể suy sụp, buộc ngài phải bất động và lặng thinh. Rồi theo dòng thời gian, Phanxicô dường như càng bị nuốt chửng trong bóng đêm. Đây có phải là sửa nhà Thiên Chúa chăng?

Chị Clara trông nom tu viện kế bên. Chị theo con đường của Phanxicô từ ban đầu và vui vẻ coi mình như “một cành cây bé nhỏ”. Chị biết nhiều điều. Chị biết, sau hành trình dài đi đến cuối đêm đen, ánh sáng sẽ trở lại với linh hồn Phanxicô. Rồi ngài sẽ nói đến những điều thực sự quan trọng. Vai trò của ngài giờ đây là cầu nguyện và thinh lặng đợi chờ.

Rồi một đêm kia, khi phải thức trắng và đau đớn, Phanxicô sức cùng lực kiệt mấp mé bên bờ thất vọng, ngài xin Thiên Chúa xót thương. Lập tức, một tiếng nói phát ra từ bên trong, “Phanxicô, hãy vui lên như thể con đã ở trong vương quốc của Ta”; đồng thời, một ánh sáng dịu nhẹ dọi vào tâm hồn, ánh sáng của vương quốc đến gần ngài. Ánh sáng này làm cho ngài thấy mọi sự trở nên mới mẻ. Nó tựa hồ ánh sáng phục sinh. Vào khoảnh khắc đó, toàn thể vũ trụ như được vinh quang Thiên Chúa chạm đến. Nước Trời đã bắt đầu, ở đây và lúc này trong sự huy hoàng tinh tuyền.

Đây không phải là lúc co cụm trong chính mình để than van, để nhìn lại hay để ước mơ. Đây là lúc tán dương và hát ca. “Hãy vui lên!”, đây là điều Chúa muốn ở ngài bây giờ. Vui lên với mọi thọ tạo. “Việc của con là hân hoan, vui mừng với vạn vật”.[2] Không có gì quan trọng hơn cho tương lai của Giáo Hội và thế gian. Đây cũng là tu sửa nhà Thiên Chúa.

Và như thế, một triều sóng ca khen mênh mông trào dâng trong tâm hồn Phanxicô, mở toang trong ngài những kho dự trữ lòng nhiệt thành và cái nhìn kỳ diệu của một đứa trẻ. Lời tán dương này hướng đến ánh huy hoàng của mặt trời, vẻ tráng lệ của những vì sao, đôi cánh của gió, những thì thầm của nước, cái dữ dội của lửa và lòng khiêm tốn của trái đất. Một vầng dương lớn đang mọc lên trong tâm hồn Phanxicô. Ngày ló dạng trênAssisi. Đó là một buổi sáng ngập tràn ánh sáng diệu vợi, Phanxicô gọi những người bạn của mình, ngài đang toả rạng. Ngài ngồi dậy, tập trung một lúc và bắt đầu hát:

Lạy Đấng Tối Cao, Toàn Năng và Tốt Lành,
mọi chúc tụng, ca khen, vinh quang và danh dự,
đều quy về Ngài;
chỉ thuộc về Ngài, lạy Đấng Tối Cao,
và không ai xứng đáng kêu tên Ngài.
Mọi thọ tạo phải tán dương Ngài, lạy Chúa,
đặc biệt là Anh Mặt Trời quý tộc,
anh mang lại ngày mới và nhờ anh, Ngài chiếu sáng chúng con:
anh đẹp, toả chiếu huy hoàng;
anh là biểu tượng của Ngài, lạy Đấng Tối Cao.Lạy Chúa,
Ngài đáng được tán dương
vì Chị Mặt Trăng và các Vì Sao:
Ngài tạo ra họ trên các tầng trời:
sáng láng, quý giá và xinh đẹp.
Lạy Chúa, Ngài đáng được tán dương,
vì Anh Gió,không khí và các tầng mây,
vì tầng trời thanh bình và mọi vùng, mọi miền,
nhờ chúng, Ngài mang lại sự sống cho các thọ tạo.
Lạy Chúa, Ngài thật đáng tán dương,
vì Chị NướcChị rất hữu ích và khiêm tốn,
quý giá và trinh khiết.
Lạy Chúa, Ngài thật đáng tán dương, vì Anh Lửa,
nhờ anh, Ngài chiếu tỏa đêm đen:
Anh đẹp và vui tươi,
bất khuất và mạnh mẽ.
Lạy Chúa, Ngài thật đáng tán dương,
vì Chị Mẹ Trái Đất của chúng con
Ngài nuôi nấng và cưu mang chúng con,
và sản sinh đủ loại trái trăng
,hoa muôn màu và cỏ cây lốm đốm.

Mang vết thương của Đức Kitô trong thân xác mình, con người này hát khen tình huynh đệ của mặt trời, các ngôi sao, gió, nước, lửa và đất. Chưa bao giờ có cuộc hội ngộ như thế giữa đêm đen của sự thất đoạt và sự huy hoàng của vũ trụ, giữa thánh giá và mặt trời.

Bài ca này sắp đặt tổ chức hôn lễ của trời và đất thật sự là bài ca về một người vừa được vinh quang Thiên Chúa chạm đến. Đó là bài ca của một người được hoà giải và cứu rỗi.

Bài ca này không phải là một ngẫu hứng thuần túy, nhưng Phanxicô đã cưu mang nó trong một thời gian nào đó. Thực ra, ngài đã ngâm nga nó suốt cả cuộc đời. Người ta thấy những biểu hiện của nó trong cái xô bồ của cuộc sống thường ngày của ngài để rồi, cuối cùng nó được cất lên tận cuối hành trình thiêng liêng, ngân vang mãi đến mức độ nên một với toàn bộ đời sống với sự trưởng thành sâu sắc của hữu thể ngài. Sự tuôn trào cuối cùng này là những khoảnh khắc sáng tạo khi hữu thể tập trung mọi sức lực sống động và toàn bộ lịch sử của nó trong một cảm xúc duy nhất, đột nhiên làm nảy sinh một thứ ngôn ngữ mới vốn diễn đạt cách toàn vẹn.

(Còn tiếp…)



[1] Celano 82, p. 297.




[2] Paul Claudel, Oeuvre poetique, Paris: La Pleiade, 1957.

hongbinh
26-05-2013, 08:39 AM
http://www.chuacuuthe.com/images/26-120x80.jpg

VRNs(22.05.2013) -
2
BÀI CA DÂNG LÊN ĐẤNG SIÊU VIỆT

Lạy Đấng Tối Cao, Toàn Năng và Tốt Lành,
mọi chúc tụng, ca khen, vinh quang và danh dự,
đều quy về Ngài;
chỉ thuộc về Ngài, lạy Đấng Tối Cao,
và không ai xứng đáng để kêu tên Ngài.

Bài ca Anh Mặt Trời bắt đầu với chuỗi ca ngợi. Những lời đầu tiên ngỏ cùng “Đấng Tối Cao”, chấp cánh cho nó bay vút tận thinh không. Lặp lại lần thứ hai trong khổ thơ đầu tiên theo một cách thức tuyệt đối, chúng mạnh mẽ chỉ ra mục tiêu duy nhất của lời tán tụng, hình ảnh Đấng Tối Cao diễn đạt tính siêu việt. Những lời này được lặp lại đến bốn lần, xuyên suốt bài ca. Mọi năng lực ca ngợi của thánh nhân được đổ dồn về nó.
Một sự tuôn trào như thế biến đổi cả một khuynh hướng sống. “Vươn tới Ngài, lạy Đấng Tối Cao”, là lời thề mà Phanxicô trình bày ở cuối Bức Thư gửi một Tu nghị. Cả cuộc đời, ngài hít thở thực tại siêu việt của Thiên Chúa. Thậm chí trên một độ cao thể lý, hữu thể ngài được nhấc lên bởi sự dịch chuyển theo chiều cao của linh hồn. Không lạ gì một đôi khi, chúng ta thấy ngài leo lên các triền núi để thả mình chiêm ngắm Đấng Tuyệt Đối.
Tiếng kêu đến tầng trời cao nhất, lên đến Đấng Tối Cao diễn tả sự chuyển động của sự siêu việt hoá chính mình. Con người không phải là một hữu thể sống co cụm trong chính mình, giam hãm một lần thay cho tất cả trong những giới hạn đặt ra. “Con người”, Pascal viết, “được tạo dựng cho vô biên”. Con người chỉ thực sự tồn tại trong dịch chuyển vốn hướng nó đến sự cao cả vô biên. Chỉ như thế con người mới hít thở không khí nguồn cội của mình: con người khám phá trong chính mình hình ảnh của Thiên Chúa. Con người một khi khát khao Đấng Tối Cao, thì chính sự siêu việt lại chạm đến nó.
Sự thôi thúc này có thể được sống bằng nhiều cách. Người ta có thể sống bằng cách nỗ lực làm chủ bản thân, như việc tìm lại chiều kích sâu xa nhất của chính mình và không gì hơn. Vì thế sự vô biên con người hướng đến được tìm thấy theo cách thức chiếm hữu của Promêthê, như một món hàng mà chúng ta có quyền sở hữu. Trở nên Thiên Chúa mà không có Thiên Chúa là giấc mơ cổ thời của con người là cám dỗ vĩnh viễn từ thuở hồng hoang.
Với Phanxicô, sự thôi thúc hướng đến Đấng Tối Cao được sống theo một cách thức hoàn toàn khác biệt. Điều nêu bật đoạn đầu tiên của bài ca là sự dịch chuyển của sự thất đoạt:

… mọi chúc tụng, ca khen, vinh quang và danh dự,
đều quy về Ngài;
chỉ thuộc về Ngài, lạy Đấng Tối Cao.

Sự thôi thúc hướng về Đấng Tối Cao này được thanh tẩy khỏi mọi động cơ chiếm hữu. Suốt đời mình, Phanxicô không ngừng phản ứng chống lại khát khao chiếm hữu vốn ở trong mỗi người và ngấm ngầm làm hỏng khát vọng Thiên Chúa nơi con người. Đây là ý nghĩa sâu sắc của sự khó nghèo nơi Phanxicô: chúng ta không nên đòi hỏi điều thiện mình làm, thậm chí không đòi hỏi cả cái khát khao sự thiện bên trong, nhưng cần dâng mọi vinh dự cho Đấng là nguồn cội của mọi sự thiện.[1] (file:///F:/VRNs/2 quyen sach Cha Minh Anh/The Song of Dawn, Fr. Minh Anh.doc#_ftn1)
Vào cuối đời, không gì còn đọng lại trong Phanxicô ngoại trừ một khát khao tinh tuyền, đó là khát khao chính Thiên Chúa. Trong bài ca này, lời ca ngợi Đấng Tối Cao hoà quyện với sự khó nghèo nội tâm tột cùng của ngài. Ở đây không có sự quy hướng về mình, không kiêu căng, không quan tâm đến bản tính của cá nhân. Tự yêu, sự quan tâm, sự hối tiếc, tất cả bị cuốn đi. Không có chỗ cho bất cứ điều gì ngoại trừ sự thờ phượng. Phanxicô nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa. Niềm vui của ngài bao la để biết rằng chỉ một mình Thiên Chúa là Thiên Chúa.
Nhận ra tính siêu việt của Thiên Chúa là một ưu tiên hàng đầu, nó không khuất phục bất cứ một điều gì; trái lại, nó nên trọn vẹn trong một cảm xúc dâng tràn lòng biết ơn. Nhất thiết đó là lòng tri ân. Lý do là vì Đấng Tối Cao không chỉ là Đấng Toàn Năng, nhưng Ngài còn là “Chúa tốt lành”; chính xác hơn, Ngài là toàn bộ quyền năng của điều lành. Đối với Phanxicô cũng như đối với toàn bộ truyền thống thần nghiệm Kitô giáo, sự thờ phượng không đơn thuần là cúi đầu trước một Đấng Toàn Năng cai trị chúng ta; nhưng sự thờ phượng còn nhận ra rằng, Đấng toàn năng này thì vô cùng tốt lành và thánh thiện, rằng, đó là một ý muốn sự thiện tinh tuyền và tối cao. Con người thờ phượng không chỉ nói “Thiên Chúa là” nhưng còn nói “Ngài đáng là Thiên Chúa, đáng là Đấng Toàn Năng”. Trong Những lời ca ngợi Phanxicô viết và đọc vào mỗi giờ kinh, ngày cũng như đêm, ngài diễn đạt sự thờ phượng của mình với lời vinh tụng ca mượn từ sách Khải Huyền, “Lạy Chúa là Cha của con, Ngài xứng đáng lãnh nhận vinh dự, ca ngợi và vinh quang, được tán dương chúc tụng”.
Nietzsche viết, “Chúng ta hãy cố lĩnh hội khái niệm về Thiên Chúa, sự thiện tối cao; nó không xứng đáng với một Thiên Chúa. Chúng ta hãy cố hấp thụ ngay cả khái niệm khôn ngoan; tính hư ảo của các triết gia tưởng tượng sự vô lý này, một Thiên Chúa vốn sẽ là quái vật của sự khôn ngoan… Không! Thiên Chúa là quyền năng siêu việt: thế là đủ!”. Nếu thực tế Thiên Chúa không là gì ngoại trừ là Đấng Toàn Năng, thì chắc chắn chúng ta thực sự phải huỷ hoại chính mình trước mặt Ngài, nhưng chúng ta sẽ không thể dâng Ngài sự ưng thuận tự do của con người chúng ta. “Chúng ta hãy giả thiết nghịch lý một lúc”, Romano Guardini viết, “rằng Thiên Chúa, thực tại vô biên và quyền năng vô hạn, chỉ là một quyền lực mù quáng, tàn bạo và không gì khác; trong trường hợp này, tự thâm tâm, tôi không phải phủ phục trước mặt Ngài. Có thể Ngài sẽ đàn áp cuộc đời tôi; nhưng con người tôi nên từ chối thờ phượng Ngài. Để tôi thờ phượng Ngài, Ngài cần không chỉ toàn năng, nhưng còn đáng được như vậy”.
Đối với Phanxicô Assisi, không có sự do dự nào hơn: Thiên Chúa thực sự đáng là Thiên Chúa. Toàn hữu thể ngài cảm nhận một sự bình thản lớn lao với ý nghĩ duy nhất này. Sự siêu việt mà Phanxicô chiêm ngắm thực sự không phải là một thực tại xa lạ đóng khung trong chính mình. Nó tự biểu lộ cho chúng ta trong mầu nhiệm Nhập Thể, trong nhân tính của Con Thiên Chúa. Sự siêu việt của Thiên Chúa không phải được tìm kiếm ở nơi nào khác; nó không thể bị tách khỏi mầu nhiệm khiêm hạ và yêu thương này. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa thực sự xứng đáng là Thiên Chúa, “Con chiên bị sát tế xứng đáng”, Phanxicô viết, “sức mạnh và thiên tính, khôn ngoan, quyền lực, danh dự và vinh quang, và đáng được ca khen chúc tụng”.[2] (file:///F:/VRNs/2 quyen sach Cha Minh Anh/The Song of Dawn, Fr. Minh Anh.doc#_ftn2)
Sự thờ phượng của Phanxicô không giữ lại điều gì. Nó là một điều kỳ diệu trường cửu. Trong sự khiêm tốn của Con Thiên Chúa, Phanxicô khám phá sự huy hoàng ẩn giấu của Đấng Tối Cao, sự huy hoàng của tình yêu đến với chúng ta, tháp nhập chúng ta ở tận cùng nỗi đau của mỗi người dù chúng ta không có công trạng gì. Cái nhìn “đầy phân vân” về Thiên Chúa giải thoát Phanxicô khỏi chính mình và giao ngài cho sự tán dương.
Nhưng Phanxicô ý thức về những giới hạn trong lời tán dương của mình. Đoạn đầu tiên của bài ca kết thúc bằng câu, “và không ai đáng kêu tên Ngài”. Thiên Chúa không chỉ là Đấng mọi lời ca khen hướng đến, nhưng trên hết, Ngài là sự tán dương. Thậm chí trong ánh sáng mặc khải, con người không thể nghĩ ra ý gì xứng đáng với Ngài. Thiên Chúa luôn Nhiệm Mầu. Dù luôn ở với chúng ta, Ngài vẫn luôn vượt xa chúng ta. Ngài luôn vượt quá mọi ý tưởng mà chúng ta nói về Ngài cho chính mình.
Ý tưởng được diễn đạt trong câu cuối cùng này rõ ràng đã nằm trong Luật Đầu Tiên rồi, “Tất cả chúng ta, bần cùng và tội lỗi, chúng ta không đáng kêu tên ngài”.[3] Ở đây, hãy hiểu theo nghĩa Thánh Kinh cho việc xưng danh, vì trong Thánh Kinh, tên diễn tả một ngôi vị hay một điều gì đó trong tiếng gọi sâu sắc của nó. Vì thế, việc gọi tên có nghĩa là nắm lấy hữu thể, chiếm lấy hữu thể bởi tinh thần. Vì thế, trong sách Sáng Thế, sau khi được Thiên Chúa tác thành, con người được mời gọi đặt tên cho mọi động vật và khẳng định trong chính hành động đó sự làm chủ của con người.[4] Nhưng khi Jacob hỏi tên của đối phương vô danh, người mà ông đã vật lộn suốt đêm, thì ông nghe người đó nói, “Tại sao ngươi hỏi tên ta?”.[5] Và rồi, Jacob được đối phương thừa nhận là “mạnh hơn Thiên Chúa”. Nhưng Thiên Chúa, Đấng để chính mịnh bị khuất phục, vẫn là Thiên Chúa. Ngài ganh tỵ giữ kín mầu nhiệm của mình, chỉ vì Ngài là Thiên Chúa, bởi vì Ngài Duy Nhất. Chung quanh Thiên Chúa, có một vinh quang không dò thấu được.
“Đấng Tối Cao”, Eliade viết, “là một chiều kích con người không thể đạt tới”. Đây là điều Phanxicô nhận ra. Thiên Chúa mà ngài đề xuất ca ngợi trong Bài Ca Thọ Tạo không phải là linh hồn thế giới, cũng không phải là chiều sâu tận cùng của con người. Chính Thiên Chúa được nâng cao vượt trên tất cả, tức là, ngay cả trên tất cả những gì có thể được nghĩ đến. Đó là một Thiên Chúa mà sự đề cao Ngài không thể diễn đạt bởi các thọ tạo.
Chúng ta không thể lướt qua câu cuối cùng của đoạn thơ đầu tiên này; như thế sẽ rất hời hợt. Đó cũng sẽ là sự hiểu lầm chiều kích thực sự vũ trụ tôn giáo của Phanxicô Assisi. Chúng ta sẽ không bao giờ có thể diễn đạt vũ trụ này vươn lên Đấng Siêu việt ở mức nào. Những lời kinh khác nhau mà Poverello để lại cho chúng ta là một sự tán dương, như đoạn thơ đầu tiên này, về sự siêu việt của Thiên Chúa. Sự tán dương này là phần truyền thống tinh tuyền nhất của những nhà thần nghiệm vĩ đại. Ở đây, chúng ta cần dừng lại bài ca của Gregory of Nazienzen:

Ôi Đấng vượt xa tất cả,
làm sao chúng con có thể gọi Ngài bằng một danh xưng khác…
Ngài là Đấng duy nhất chúng con không thể gọi tên.

Ở cuối đoạn thơ đầu tiên của Bài Ca Anh Mặt Trời chúng ta không khỏi ngạc nhiên thấy bài hát của Phanxicô chìm trong thinh lặng. Cái nhìn của thánh nhân dường như thoát ra khỏi trần thế để đánh mất chính mình hoàn toàn khi hướng về Đấng Tối Cao.
(Còn tiếp)


[1] Praises of the Lord, final prayer Cf. 1 Rule, ch.17, vv. 17-19.
[2] The Praises before the Office.
[3] 1 Rule, ch. 23.
[4] Kn 2, 19-20.
[5] Kn 32, 30.

hongbinh
26-05-2013, 08:46 AM
http://www.chuacuuthe.com/images/32-120x80.jpg

VRNs (23.05.2013) –


3
TÌNH BẰNG HỮU VŨ TRỤ


Bài Ca Thọ Tạo trên hết là một sự tuôn trào lời tán dương dâng về Đấng Tối Cao. Nhưng với cái nhìn đầu tiên, sự thôi thúc này xem ra nhấc cao nhiều điều rời xa mặt đất; cách đặc biệt, ở đây, chúng ta thấy một sự hiệp thông huynh đệ giữa các thọ tạo: “Lạy Thiên Chúa của con, mọi thọ tạo tán dương Ngài”. Đây là sự tinh tế của bài ca. Để tán dương Thiên Chúa, Phanxicô không cảm thấy cần làm giảm giá trị những thọ tạo của mình. Không phải qua việc rêu rao tính tầm thường của sự vật và tìm cách tránh né chúng để rồi ngài đến với Thiên Chúa. Đúng ra là điều ngược lại: Ngài dẫn chính mình đến với Đấng Tối Cao bằng cách hiệp thông chính mình với mọi thọ tạo ở mức độ sâu sắc nhất bằng cách suy tư về vạn vật. Lời tán dương Đấng Tối Cao của ngài cũng là lời tán dương của mọi thọ tạo. Tính cách mới mẻ trong thông điệp của Phanxicô Assisi “là sự khẳng định cao nhất vốn được hình thành từ giá trị của con người và cuộc sống như thể chúng ta đã lãnh nhận tất cả từ chính tay Thiên Chúa”, Louis Lavelle viết.

Tính độc đáo này càng nổi trội hơn khi chúng ta nhận ra rằng, một dòng chảy linh đạo mạnh mẽ hướng những con người nhiệt huyết nhất vào thời đó theo một chiều hướng hoàn toàn ngược lại. Chúng ta biết hậu quả của học thuyết Catharist trong Kitô giáo thời Trung Cổ. Nhân danh một đức tin tinh tuyền, học thuyết này đặt Thiên Chúa và thọ tạo vật chất vào thế đối lập. Thế giới vật chất bị xem là vương quốc của tâm hồn tội lỗi: một lãnh địa của bóng đêm vốn phải bị bỏ lại đằng sau để bước vào ánh sáng của thần khí Thiên Chúa. Phanxicô Assisi tuân theo một sự linh ứng hoàn toàn khác biệt. Ở chính trọng tâm của những thực tại vật chất, ngài khám phá con đường ánh sáng dẫn đến Đấng Tối Cao.

Khi làm vậy, Phanxicô đặt mình vào truyền thống Thánh Kinh, truyền thống của Thánh Vịnh và các ngôn sứ, những người tán dương Thiên Chúa trong các tác phẩm của mình. “Cũng như trước đây”, Thomas Celano viết, “ba chàng trai trẻ trong lò lửa mời mọi yếu tố ca tụng và tán dương Đấng Tạo Thành của vũ trụ; cũng thế, Phanxicô, đầy thần khí Thiên Chúa, không ngừng chúc tụng, khong khen và ca ngợi Tạo Hoá và Chủ muôn loài vì các yếu tố và mọi thọ sinh”.[1]

Với Phanxicô, bài ca của ngài mang một giọng điệu thực sự mới mẻ và riêng tư cùng với sự linh hứng có tính Thánh Kinh. Ngài hài lòng không chỉ với việc ca khen Thiên Chúa vì thọ tạo của Ngài, nhưng còn trở nên anh em với chúng. Đây là điểm mới mẻ. Điều nổi trội nhất trong toàn bộ bài ca của ngài thực sự là mỗi yếu tố vũ trụ được gọi là anh là chị. Phanxicô không hiểu rõ thế nào là mặt trời, là gió, là nước, lửa, v.v.. nhưng ngài gọi “Anh Mặt trời”, “Anh Gió”, “Chị Nước”, “Anh lửa”. Đối với ngài, đây không phải là một lối nói phúng dụ đơn giản. Trong cuộc sống thường nhật, Phanxicô thực sự cảm nhận một tình huynh đệ với các thụ tạo vật chất nhất. Ở đây, một loại hình nhạy cảm mới mẻ thấy được ánh sáng ban ngày.

Tình huynh đệ vũ trụ đã bén rễ sâu trong Phanxicô. Trước tiên, nó liên kết niềm tin rất sống động của ngài vào vai trò làm cha vũ trụ của Thiên Chúa. Ngài “đã leo lên đến tận Nguồn Cội đầu tiên của mọi sự”, thánh Bonaventure viết, “Phanxicô cảm nhận một tình bạn tuôn trào đối với chúng, và thậm chí gọi những thọ tạo thấp bé nhất là “anh” là “chị” vì ngài biết rằng, ngài và chúng đều phát xuất từ một nguyên lý, một cội nguồn duy nhất”.[2] Cái nhìn thần học – và có thể nói – siêu hình này ở chính trọng tâm của tình bằng hữu vũ trụ của Phanxicô. Yves Congar phát biểu chí lý rằng, “Chính theo nghĩa thần học mạnh nhất của từ ngữ, không chỉ trong chức năng của một bài thơ vui tươi, mà Phanxicô nói về chim chóc, lửa, mặt trời… về chính cái chết như anh chị em của mình”.

Tuy nhiên, trực giác sâu sắc này của ngài không bị giảm thiểu thành một nhãn quan thuần tuý tri thức. Thực ra, trước tiên nó không phải như thế. Sự nhiệt thành và thể thơ trữ tình sáng tạo khó có thể tuôn trào từ một ý tưởng thuần tuý. Tình huynh đệ vũ trụ của Phanxicô không thể tách khỏi một kinh nghiệm cảm thông và sự tham gia đầy cảm xúc với mọi thọ tạo sống động và hiện hữu. Trước tiên ở mức độ này mà nó được cảm nhận. Như một quà tặng đặc biệt mà riêng ngài nhận được, Phanxicô được ơn cảm thông. Thomas Celano và Thánh Bonaventure nhận ra điều này, “Những cảm xúc hoàn toàn tự nhiên của tâm hồn đủ để làm cho Phanxicô trở nên huynh đệ với mọi thọ tạo”.[3] Nhận xét này thật quan trọng. Ai không có những tâm tình đầy cảm xúc trong tương quan giữa con người, với sự vật và thọ tạo thì những tuyên bố đẹp nhất của họ về tình bằng hữu sẽ lạc điệu khi rung lên.

Tuy nhiên, sẽ sai lầm khi giảm thiểu kinh nghiệm cảm xúc này là một cảm xúc thuần tuý. Điều chúng ta có ở đây thật sự sâu sắc và mênh mông hơn nhiều. Cảm xúc lay động toàn hữu thể của Phanxicô trước sự hiện diện của thọ tạo nhỏ bé nhất chính là sự nhận thức giá trị. Phanxicô trực tiếp và đánh giá cao giá trị của mọi vật sống và mọi hữu thể như những biểu hiện của tình yêu sáng tạo. Chính ở chiều kích này mà làn sóng dao động giữa ngài và các thọ tạo được thiết lập. Trong sự cảm thông dành cho thọ tạo, ngài rung một nhịp với chúng và mở lòng mình ra để đón lấy hơi thở sự sống và hữu thể ban sơ. Từ đó phát xuất lòng tôn trọng và kính cẩn trước mọi điều hiện hữu. Cũng từ đây, khơi lên cái nhìn thẩm thấu vốn cho phép ngài khám phá sức sống tươi mới ở chính trung tâm của mọi hữu thể. Thomas Celano viết, “Ngài gọi mọi thọ tạo là anh là chị; và theo một cách thức khác thường mà người khác không biết. Nhờ vào sự nhạy bén của tâm hồn, ngài biết cách thẩm thấu vào trong sự mật thiết sâu xa nhất của mỗi thọ tạo”.[4]

Những gì Bergson nói về một tình yêu huyền nhiệm được xác minh đầy đủ ở đây, “Nó không theo cảm giác hay lý lẽ. Nó rõ ràng là cái này hay cái kia, và thực tế nhiều hơn thế. Vì như mọi cảm nhận khác, chính một tình yêu như thế thì ở tận gốc của cảm giác và lý trí. Trùng hợp với tình yêu Thiên Chúa dành cho thọ tạo của mình, một tình yêu làm nên mọi sự, nó mang cho Ngài bí mật của thọ tạo đó. Nó mang tính siêu hình nhiều hơn là luân lý… Hướng của nó là hướng của một đà sống; chính đà sống này, liên kết khắn khít với một số người được ưu tiên”. Chính trong sự cảm thông với đà sáng tạo này mà Phanxicô trở nên anh em thân thiết với mọi thọ tạo.

Ngày nay, dường như sự hiện diện bằng hữu với thế giới có nguy cơ khó thực hiện. Nhiều người sẽ xem nó như một giấc mơ kỳ lạ. Thái độ của chúng ta trước những thực tại thiên nhiên, thực ra, được đánh dấu bởi sự tuân thủ của mỗi người trước một cảm hứng hoàn toàn khác biệt. Nền văn minh công nghiệp được xây dựng hoàn toàn trên ý tưởng rằng con người là “chủ và là người sở hữu thiên nhiên”; nó dựa trên ý muốn cai trị thiên nhiên. Con người không ngừng gia tăng quyền hạn của mình trên thiên nhiên bằng cách phát minh những phương tiện hành xử ngày càng hoàn hảo và hiệu quả hơn. Đối mặt với một quyền lực như vậy, thiên nhiên không là gì ngoại trừ một đống vật thể phải được thống trị và khai thác, hoặc một kho dự trữ năng lượng phải được xâm chiếm và rút ra hết, con người trong thời đại công nghiệp đã tách mình khỏi thiên nhiên, đã cố ý đặt mình trên thiên nhiên. Giữa con người và thiên nhiên, giờ đây, đã có một nền công nghệ cao vốn không dành chỗ cho bất cứ một sự thông hiệp nào vì chỉ dành cho ý muốn thống trị mà thôi. Được củng cố bởi quyền lực của mình, con người bắt thiên nhiên trong mọi lĩnh vực phải thuần phục một cách đối xử gây sốc thực sự để buộc nó phải sản xuất tối đa.

Nhưng hôm nay, chúng ta khám phá những giới hạn của một thái độ như vậy. Các nhà sinh thái trên toàn thế giới băn khoăn tự hỏi con người sẽ như thế nào nếu nó tiếp tục lao mình xâm chiếm và cướp phá thiên nhiên, con người đang huỷ hoại môi trường tự nhiên của mình. Nước và không khí ngày càng trở nên ô nhiễm, đất hoang phế, các loài cây và động vật đang trên đà tuyệt chủng, một sự cân bằng toàn thể đang bị đảo lộn. Trái lại, ngay khi thiên nhiên bị xem chỉ như một công cụ sản sinh năng lượng, thì nó trở nên một vật cầm cố trong cuộc chiến giữa những con người đi tìm năng nượng. Bằng cách đó, các mối tương quan giữa con người bị xuyên tạc và đảo lộn sâu sắc, vì tất cả chỉ nhắm đến chiếm hữu và quyền lực. Từ chối tình bằng hữu với thiên nhiên thì chắc chắn làm cho mình không thể trở nên anh em với người khác.

Chính vì lý do này mà một thái độ như thái độ của Phanxicô đối với những thực tại của thiên nhiên không thể bị xem nhẹ. Có lẽ giờ đây, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tái khám phá tinh thần của tình huynh đệ vũ trụ này.

Nhưng trước hết, hãy tẩy sạch bầu khí hiểu lầm. Trở nên huynh đệ với những thọ tạo nhỏ bé hơn thì không tránh khỏi từ bỏ việc sử dụng chúng hay từ bỏ việc đặt chúng phục vụ những nhu cầu của chúng ta. Phanxicô nhận ra công dụng của sự vật: chúng là anh em trong chính công dụng của chúng. Anh Mặt Trời cho chúng ta ánh sang, “anh mang lại ngày”. Anh Gió, bằng hơi thở mạnh mẽ của mình, tiếp sức cho mọi sinh vật sống. Chị Nước rõ ràng được ca ngợi là “hữu ích”. Anh Lửa chiếu sáng đêm tối của chúng ta. Chị Mẹ Trái đất của chúng ta dưỡng nuôi chúng ta bằng cách sản sinh ra đủ loại trái trăng. Vì thế, không có chỗ cho việc đối nghịch tình bằng hữu thọ tạo với việc sử dụng chúng của con người. Quyền lực mà con người đạt được trên thiên nhiên nhờ vào tiến bộ khoa học và công nghệ, thậm chí có thể làm cho các yếu tố vũ trụ thân thiết với nhau hơn bằng cách giải thoát chúng khỏi tất cả những gì là mù quáng và huỷ hoại.

Vậy theo nghĩa tích cực, tình bằng hữu với mọi thọ tạo có ý nghĩa gì? Nó là một điều gì đó liên quan đến toàn thể nhân loại, và nó không dễ dàng. Nó giả định trước tiên một sự biến đổi thật sự trong nhãn quan và tâm hồn con người.
Cám dỗ của mọi quyền lực là bạo lực. Con người xâm phạm thiên nhiên khi chìm ngập trong sức mạnh của quyền lực trên thiên nhiên, con người bắt nó tuân theo ham muốn trục lợi của mình. Con người xâm phạm nó thậm chí nghiêm trọng hơn khi con người dùng cùng quyền lực này để buông lỏng ý muốn quyền lực chống lại thiên nhiên. Và điều đó có thể bị đẩy rất xa. Say men chinh phục, con người ngày nay muốn chiếm chỗ của Đấng Toàn Năng, sở hữu quyền năng sáng tạo cho chính mình, tái tạo thế giới theo cách thức của riêng mình và cuối cùng trở nên chủ sự sống và thọ tạo của mình. Giấc mơ của Prômêthêô thì cốt tại việc xâm chiếm thế giới, ý muốn quyền lực gia tăng để trở thành một ý muốn tự sáng tạo. Dự án này không được theo đuổi mà không có sự thù hằn hay bạo lực chống lại mọi thứ vốn nối kết con người với thiên nhiên, chống lại mọi thứ vốn biến chúng ta thành những hữu thể phụ thuộc được nối kết với một thực tại và một lịch sử vượt xa chúng ta.

Dự án này căn bản là một cuộc nổi dậy chống lại điều kiện thọ tạo của chúng ta và vì thế, chống lại sự siêu việt của Thiên Chúa. Sự khước từ cội rễ của chúng ta luôn là sự xem thường tính siêu việt.

Con người một khi thân thiện với thiên nhiên, sẽ từ bỏ cuộc nổi loạn này. Con người nhận ra chính mình như một thọ tạo và tái gia nhập vào một gia đình lớn hơn của thọ tạo. Chào đón những yếu tố huynh đệ hèn mọn nhất như anh và chị là thừa nhận những ràng buộc gia đình trực tiếp tồn tại giữa chúng và chính mình, những ràng buộc dẫn con người và tạo vật trở về lại một nguồn cội siêu việt và phổ quát.

Trước Đấng Tối Cao, Đấng mà “không ai đáng gọi tên”, Phanxicô đặt mình giữa các thọ tạo với “lòng khiêm tốn lớn lao”. Khi làm thế, Ngài nhận ra rằng, chỉ Thiên Chúa là Thiên Chúa và đáng được như vậy. Hiệp thông huynh đệ với các thọ tạo là một phần hướng đến sự thờ phượng của ngài.
Khi hành động như vậy, Phanxicô thực sự được sinh ra cho thế giới và cho chính mình. Không gì có thể ngăn cản những trực giác về sự cảm thông và lòng nhân hậu của ngài phát triển đầy đủ. Không mặc cảm tự tôn nào có thể ngăn cản chúng. Không gì còn lại nơi một con người, về mặt này thì khép mình trong sự thù hằn, hay mặt kia thì xa lạ và căm phẫn. Chỉ có công trình của Thiên Chúa là duy nhất cách sâu sắc. Phanxicô khám phá chính mình ở chính trọng tâm của sự hiệp nhất thọ tạo. Làn sóng cảm thông vốn nối kết ngài với những hữu thể khác tháp nhập ngài vào trong chính tình yêu sáng tạo. “Trong mỗi thọ sinh, cũng như trong rất nhiều dòng suối nhỏ”, thánh Bonaventure viết, “với lòng trắc ẩn đặc biệt, ngài cảm nhận cái duy nhất phát xuất từ sự tốt lành của Thiên Chúa”.[5] Ngài không chỉ nhận ra sự tốt lành tinh tế này mà còn tham gia vào đó nữa. Từ con người thân thiện này, người bạn của mọi thọ tạo, toả chiếu một sức mạnh và một hơi ấm vốn đi vào trong sự vật, làm cho chúng phong phú hơn, sáng lạn hơn và vui vẻ hơn. “Không nghi ngờ gì nữa, chưa bao giờ có ai hiến dâng trọn vẹn hơn khi hiến dấng sự hiện diện và toàn bộ bản ngã của mình như là quà tặng, một quà tặng mà họ ý thức là chính Thiên Chúa đã làm từ chính bản thân mình ở mọi khoảnh khắc và cho mọi cá nhân”.[6]

Dưới ánh sáng đời sống như đời sống của Phanxicô Assisi, rõ rang, không phải bằng cách xâm phạm và bắt thiên nhiên làm nô lệ thì con người mới có thể tăng cường giá trị sống của mình; trái lại, bằng cách hợp tác với công việc sáng tạo, trong đó, mọi sinh vật sống cùng tham gia. Say men quyền lực mới, con người của xã hội công nghiệp đã cư xử như một ông vua chuyên chế đối với thiên nhiên. Bây giờ trong một thời gian dài con người đã tưởng tượng mình là Prômêthêô. Có lẽ bây giờ con người bắt đầu nhận ra rằng, sức mạnh đích thực của mình cốt tại việc xem mình như là một thọ tạo có trách nhiệm. Trách nhiệm và thân thiện.

Tình huynh đệ vũ trụ nhất thiết phải đi qua sự khiêm tốn để nhận ra thân phận thọ tạo của mình. Tình huynh đệ này sẽ không làm được gì nếu không có một sự từ bỏ tận căn mà Bài Ca Thọ Tạo ngân đi vang lại bằng cách ca khen những yếu tố hèn mọn nhất như anh chị em, bao gồm “Mẹ Trái đất của chúng ta”.

Bằng bảo vệ trái đất, với tất cả những gì sống động trong đó, Phanxicô đã hướng mình lên Đấng Tối Cao. Bài ca của ngài, trong sự chiếu rọi của trời xanh sáng rực, giữ lại sắc thái đường nét đầu tiên của nó.
(Còn tiếp)


[1] Celano 80, p. 296.
[2] Legenda Major, ch. 8, p. 692.
[3] 2 Celano 172, p. 500; Legenda Major, ch. 9, p. 700.
[4] 1 Celano 81, p. 297.
[5] Legenda Major, ch. 9, p. 698.
[6] Louis Lavalle, Quatre Saints,Paris, 1951, p. 88.
Post to Facebook
333333333
Post to Twitter
Add to LinkedIn
Post to Google+

hongbinh
27-05-2013, 06:42 AM
Quý bạn có thể tải nguyên cuốn sách về máy xem dần.....cuốn sách dày 81 trang hay và ý nghĩa, hongbinh sẽ không post từng phần nữa..

Giới thiệu toàn bộ cuốn sách "Bài ca của bình minh" (The Song Of The Dawn)
Nguyên tác: The Song of The Dawn
Tác giả: Eloi Leclerc

Người dịch: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)

=> Cuốn sách dạng Word, xin nhấn vào đây để tải về máy (http://tonggiaophanhue.net/home/dulieu/tulieu/The_Song_of_Dawn_tiengviet.doc)