PDA

View Full Version : Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới kỳ 12 (5)



vante
14-10-2008, 06:43 AM
Kính Gửi Quý ACE nội Dung hoạt động của THDGM thế giới

Khai mạc Thượng hội đồng Giám mục

Vào lúc 9 giỡ rưỡi sáng chúa nhựt hôm qua, đức thánh cha đã chủ sự Thánh lễ tại đền thờ thánh Phaolô ngoại thành để khai mạc khóa họp thường lệ lần thứ 9 của Thượng hội đồng giám mục, bàn về Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội. Đây là lần đầu tiên mà Thượng hội đồng giám mục được khai mạc tại đền thánh Phaolô, và có lý do của nó: một đàng vì chúng ta đang trong năm thánh kỷ niệm 2000 năm sinh nhật của ngài, và đàng khác, vị thánh tông đồ đã hiến trót cuộc đời cho việc rao giảng Lời Chúa, và trở nên tấm gương cho Giáo hội. Cùng đồng tế với đức Bênêđictô XVI là các nghị phụ và các cộng sự viên: 52 hồng y, 14 giám mục thuộc các Giáo hội Đông phương, 45 tổng giám mục, 130 giám mục, 85 linh mục (gồm các nghị phụ cũng như các chuyên viên). Các lời nguyện và bài đọc Sách thánh trích từ bài lễ chúa nhựt XXVII Thường niên. Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ rưỡi, và đức thánh cha trở về Vatican để chủ sự buổi đọc kinh Truyền tin. Trong bài huấn dụ, ngài đã giải thích ý nghĩa của cơ quan Thượng hội đồng giám mục, được thành lập năm 1965, nhằm thắt chặt sự thông hiệp giữa hàng giám mục thế giới với vị kế nhiệm thánh Phêrô, qua việc thông tin và bàn luận về những vấn đề quan trọng của Giáo hội. Bên thềm phiên họp lần này bàn về Lời Chúa, Đức Thánh Cha cũng nói đến một dự án do đài truyền hình RAI của Italia khởi xưóng với nhan đề “đọc Kinh Thánh ngày đêm”, bắt đầu từ 7 giờ chiều chúa nhựt hôm qua, với chương đầu tiên của sách Sáng thế do chính ngài đọc, và kéo dài trong vòng 139 giờ, cho đến 1 giờ 25 trưa thứ bảy sắp tới, với sự tham gia của gần 1200 người, thuộc 50 quốc gia. Nhờ đài truyền hình, truyền thanh cũng như internet, Kinh thánh sẽ được mang đến các gia đình.


Trước hết, chúng tôi xin dịch nguyên văn bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền tin, và tiếp đến, chúng tôi sẽ tóm lược bài giảng Thánh lễ.

Anh chị em thân mến

Sáng nay, với Thánh lễ tại đền thánh Phaolô ngoại thành, khóa họp thường lệ lần thứ Chín cua Thượng hội đồng Giám mục đã được khai mạc. Thượng hội đồng sẽ tiếp diễn ở Vatican trong vòng 3 tuần lễ, bàn về đề tài: “Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội”. Anh chị em đã biết giá trị và chức năng của Thượng hội đồng các giám mục, gồm các đại biểu của toàn thể hàng giám mục, và được triệu tập để mang lại cho vị kế nhiệm thánh Phêrô sự trợ giúp hữu hiệu, qua việc biểu lộ và củng cố dây thông hiệp của Giáo hội. Đây là một cơ quan quan trọng, do vị tiền nhiệm của tôi là đức Phaolô VI thiết lập vào tháng 9 năm 1965 (Tự sắc Apostolica sollicitudo), trong giai đoạn chót của công đồng Vaticanô II, nhằm thực thi một quyết nghị hàm chứa trong sắc lệnh về tác vụ Giám mục (Christus Dominus, số 5). Mục tiêu của Thượng hội đồng giám mục là: cỗ võ sự hợp nhất và hợp tác giữa giáo hoàng và các giám mục trên khắp thế giới; cung cấp những thông tin trực tiếp và chính xác về tình hình và những vấn đề của Giáo hội; đẩy mạnh sự hoà hợp về đạo lý và hoạt động mục vụ; đối diện với những đề tài có tầm quan trọng và hiện đại. Những chức năng này được phối hợp nhờ Văn phòng Tổng thư ký, đặt dưới sự điều hành trực tiếp của giám mục Rôma.

Chiều kích “Hội đồng” là một yếu tố cấu thành của Giáo hội, được quy tụ từ khắp mọi dân tộc và văn hóa để trở nên một trong Chúa Kitô, và đi theo Người là “đường, sự thật, sự sống” (Ga 14,6). Thực vậy, danh từ synodos gốc hy lạp gồm bởi giới từ syn (nghĩa là cùng nhau) và odos (nghĩa là đường), gợi lên ý tưởng là “cùng đi, đồng hành”, và đây là kinh nghiệm của Dân Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Ở khóa họp thường lệ khai diễn hôm nay, sau khi đón nhận ý kiến của nhiều người, tôi đã chọn đề tài “Lời Chúa” để đào sâu trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội, dưới viễn tuợng mục vụ. Công cuộc chuẩn bị đã được tham gia rất là sâu rộng từ các Giáo hội điạ phương trên khắp thế giới. Họ đã gửi những góp ý về Văn phòng Tổng thư ký, và Văn phòng đã soạn thảo Tài liệu làm việc, dụa theo đó, 253 nghị phụ (51 Phi châu, 62 Mỹ châu, 41 Á châu, 90 Âu châu, 9 Đại dương châu) sẽ trao đổi ý kiến, với sự góp phần của nhiều chuyên viên và dự thính viên, nam nữ, cũng như những “đại biểu huynh đệ” của các Giáo hội và vài thượng khách.

Anh chị em thân mến, tôi xin mời tất cả hãy nâng đỡ các công việc của Thượng hội đồng bằng lời cầu nguyện, cách riêng qua việc nài xin sự chuyển cầu của đức Trinh nữ Maria, người môn sinh tuyệt hảo của Lời Chúa.


Như đã nói trên, các bài đọc Sách Thánh của Thánh lễ khai mạc Thượng hội đồng được trích từ bài lễ chúa nhựt 27 mùa Thường niên, với bài Phúc âm thuật lại dụ ngôn về những tá điền bất nhân. Phần chính của bài giảng đã dựa trên dụ ngôn đó. Trước hết, khi nghĩ đến những tá điền đã giết hại các kẻ được ông chủ sai đến để thu lượm kết quả, Đức Thánh Cha tự hỏi: phải chăng điều này cũng đang xảy ra vào thời đại chúng ta, khi con người không những không đếm xỉa đến luật lệ của Thiên Chúa, mà còn muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống? Chúng ta đang chứng kiến nhiều quốc gia trước đây nổi bật về nếp sống đạo và phong phú ơn thiên triệu, nhưng ngày nay đã trở nên nguội lạnh. Hơn thế nữa, có những người tuyên bố “Thượng đế đã chết rồi” và họ tự phong mình làm “Thượng đế”, làm bá chủ định mạng và thế giới, tự ý tung hoành, muốn làm bất cứ điều gì theo sở thích. Tuy nhiên, khi con người loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời, thì liệu nó có được hạnh phúc hơn không? Khi con người tự xưng làm chủ vận mệnh và lịch sử, thì liệu họ có kiến tạo được một thế giới tự do, công lý hoà bình không? Hay là ngược lại, thế giới này đang ở dưới sự thống trị của bạo lực, ích kỷ, bóc lột.

Dù sao, sứ điệp của bài Phúc âm mang lại một tia hy vọng: vườn nho sẽ không bị huỷ diệt. Thiên Chúa không bỏ rơi vườn nho của mình. Ngài để cho các tá điến bất chính bị cuốn trôi theo ý đồ đen tối của chúng, nhưng Ngài đã gọi những người khác trung thành để vào vườn nho của mình. Chúa Giêsu là ví mình là “cây nho đích thực”, và ban cho những ai tháp nhập vào với mình được hưởng sự sống dồi dào. Người đã bị sát hại, nhưng Người đã sống lại: sự ác không phải là lời cuối cùng, nhưng chính Đức Kitô mới là lời hằng sống. Giáo hội có trọng trách rao giảng Tin mừng đó, theo gưong thánh Phaolô. Dĩ nhiên, trước đó, các tín hữu phải tự cảnh giác, làm sao để cho Lời Chúa phát sinh hoa trái trong cuộc sống của mình, qua việc chăm chú lắng nghe Lời Chúa và để cho Lời Chúa biến đổi cuộc sống của mình. Kế đó, Giáo hội cần phải rao truyền Lời Chúa cho thế gới hôm nay, khi mà còn biết ban dân tộc chưa biết Chúa Kitô.

Trong phần kết luận, Đức Thánh Cha cũng nêu bật rằng các tín hữu cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa cũng như bởi Mình Thánh Chúa, như công đồng Vaticanô II đã viết. Xin Đức Mẹ Maria giúp cho chúng ta biết lưu giữ Lời Chúa nhờ việc suy niệm trong tâm hồn.


Bình Hòa

vante
14-10-2008, 06:47 AM
VATICAN.

Ngày 10-10-2008, các nghị phụ Thượng HĐGM thứ 12 về Lời Chúa đã nhóm phiên họp toàn thể thứ 8 và thứ 9, để tiếp tục nghe các nghị phụ phát biểu ý kiến.

ĐTC cũng hiện diện và đặc biệt ngài đã chuyển lại cho mỗi nghị phụ Bộ Kinh Thánh bằng nhiều thứ tiếng khác nhau do Liên hiệp Kinh Thánh tại Đức tặng cho ngài trong những ngày trước đây.

Trong phiên họp ban sáng, các bài phát biểu của các nghị phụ đề cập đến vấn đề đón nhận và hội nhập Kinh Thánh trong gia đình. Một số nghị phụ đề nghị làm sao để mỗi người trong gia đình có một cuốn Kinh Thánh riêng, cổ võ việc đọc Kinh Thánh trong gia đình. Một đề tài khác được nói tới là vấn đề rao giảng Tin Mừng tại Đông Âu, Myanmar, Thánh Địa là những vùng vốn phải chịu bách hại, thiên tai và xung đột chiến tranh.

Cho đến nay đã có hằng trăm nghị phụ lên tiếng phát biểu, mỗi vị được nói tối đa 5 phút và nhiều khía cạnh của chủ đề Lời Chúa đã được đề cập đến. Sau đây, chúng tôi xin gửi đến quí vị nội dung bài phát biểu của vài nghị phụ được giới báo chí đặc biệt chú ý:

CÁC HỌC VIỆN


ĐHY Zenon Grocholewski , người Ba Lan, Tổng trưởng bộ giáo dục Công Giáo, nói về những hình thức giảng dạy tại các học viện cao đẳng của Giáo Hội, trong đó Lời Chúa phải làm căn bản cho kiến thức về mọi chân lý đức tin và nguồn mạch sự sống.

1. Trước tiên ĐHY ghi nhận rằng ngày nay có nhiều học viện dành cho giáo dân và nữ tu được thành lập, nhưng đồng thời dường như sự dốt nát của giáo hữu về tôn giáo lại gia tăng. Cuộc nghiên cứu gần đây do Liên hiệp Kinh Thánh Công Giáo thế giới thực hiện tại 10 nước Âu Châu cho thấy có sự dốt nát kinh khủng của các tín hữu về những ý niệm sơ đẳng liên quan tới Kinh Thánh, chẳng hạn có nhiều người không biết trả lời những câu hỏi như: ”Các sách Tin Mừng có phải là thành phần của Kinh Thánh hay không?”, ”có phải Chúa Giêsu đã viết ra Kinh Thánh hay không?”, ”Giữa Moisê và Phaolô, ai là nhân vật của Cựu Ước?”, v.v. Sự dốt nát như thế là mảnh đất màu mỡ cho các giáo phái phát triển. Từ tình trạng đó, chúng ta phải cứu xét một vài sự kiện:

Chúng ta vất vả nhiều, nhưng có lẽ chúng ta không phân phối năng lực một cách hợp lý trong các thể thức và cấp độ giảng dạy. Sự gia tăng các học viện gây thiệt hại cho một nền giáo dục phổ thông hơn trong việc mục vụ thông thường. Số linh mục giảm sút, nhưng con số các linh mục cảm thấy mình được kêu gọi làm giáo sư lại gia tăng, và coi nhẹ việc mục vụ thông thường. Nhưng chính đây là điều mà Tài liệu làm việc của Thượng HĐGM này nói tới. Lời Chúa được gửi tới tất cả, nhắm sinh hoa kết quả nơi mọi người. Chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về việc phân phối năng lực đúng đắn trong việc giảng dạy, những năng lực mà chúng ta sở hữu, để làm cho toàn thể Thân Mình huyền nhiệm của Chúa Kitô được tăng trưởng và hoạt động.

Trong viễn tượng đó, nên tạo điều kiện và phổ biến những khóa học thích hợp về các khoa học thánh mà không cần phải cấp các bằng cấp, như thế quần chúng có thể tham dự các khóa học đó dễ dàng hơn.
Tiếp đến, có nhiều học viện cao đẳng thường cung cấp những môn học biệt lập, và lại coi nhẹ những kiến thức căn bản về Kinh Thánh, tín lý, luân lý. Người ta thơ ngây tưởng rằng những kiến thức đó các sinh viên đã có rồi, nhưng thực tế không phải như vậy, và vì thế việc huấn luyện trí thức, về phương diện tôn giáo, không có tính cách hệ thống, thống nhất và không mang lại kết quả, do đó không chuẩn bị thực thi điều cần có về phương diện mục vụ Kinh Thánh. Cần phải đề cao tầm quan trọng của các chân lý cơ bản về đức tin, liên kết với Lời Chúa, vì các chân lý này xác định đời sống Kitô của chúng ta, quan hệ của chúng ta với Chúa, và niềm vui Kitô của chúng ta.

KINH THÁNH VÀ GIÁO HỘI


ĐHY William Levada , người Mỹ, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, trong bài phát biểu, đã đề cập đến một điều đã được ĐTC Biển Đức 16 nhiều lần nhắc tới, đó là quan hệ giữa Kinh Thánh và Giáo Hội. Ngài nói:
- Nhận xét đầu tiên của tôi là cần làm sáng tỏ quan hệ giữa Kinh Thánh và Giáo Hội. Chính trong niềm tin của Giáo Hội mà người ta hiểu đúng đắn về Sách Thánh và việc yêu mến đọc và sử dụng Sách Thách không thể không thăng tiến một cảm thức về niềm tin của Giáo Hội.

- Nhận xét thứ hai liên quan đến việc giải thích Kinh Thánh: đây không phải chỉ là một cố gắng của mỗi người về mặt khoa học, nhưng phải luôn luôn đối chiếu, tháp nhập và kiểm chứng bằng truyền thống sinh động của Giáo Hội. Tuy việc giải thách các văn bản Kinh Thánh phải luôn để ý tới kho tàng nghiên cứu khoa học của các nhà chú giải, nhưng việc giải thích ấy cũng cần một sự chú giải được phát triển trong liên hệ chặt chẽ giữa Lời Chúa và niềm tin của Giáo Hội, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính và được biểu lộ qua các thế kỷ trong giáo huấn đạo lý của Huấn Quyền Hội Thánh.

Nhận xét thứ ba về quan hệ chặt chẽ giữa Kinh Thánh và đại kết Kitô. ĐHY Levada nói: ”Người ta nhận thấy Kinh Thánh thực là một môi trường hiệp nhất, nhưng đồng thời chúng ta không thể làm ngơ sự kiện lịch sử, theo đó nơi căn cội những chia rẽ giữa các tín hữu Kitô có sự giải thích đối nghịch nhau về những văn bản Kinh Thánh nòng cốt. Chỉ cần nghĩ đến cuộc khủng hoảng bè rối Ario thời thượng cổ và cuộc cải cách của Tin Lành thời Trung Cổ. Thượng HĐGM này phải để ý tới khía cạnh đại kết đó, vì sự chú ý tới Lời Chúa được viết ra, chắc chắn là một liên hệ chặt chẽ làm cho Giáo Hội Công Giáo xích lại gần các hệ phái Kitô khác trong sự tìm kiếm chung.

Sau cùng, ”nhận xét thứ tư của tôi muốn nói về quan hệ giữa Kinh Thánh và Phụng vụ. Nên nhớ rằng trong phụng vụ trình thuật Kinh Thánh trở thành biến cố cứu độ trong hiện tại.

GIẢI THÍCH KINH THÁNH


Cha Julián Carrón, người Tây Ban Nha, Chủ tịch Phong trào Hiệp thông và Giải Phóng và là một trong hai LM được ĐTC Bổ nhiệm làm thành viên của Thượng HĐGM hiện nay. Trong bài phát biểu, cha cũng đề cập đến vấn đề giải thích Kinh Thánh và nói rằng:

”Việc giải thích Kinh Thánh là một trong những mối quan tâm được cảm nghiệm thấy nhiều nhất trong Giáo Hội ngày nay. ĐHY Ratzinger đã nêu bật nòng cốt thách đố do việc giải thích Kinh Thánh ngày nay gây ra, khi ngài viết: ”Làm thế nào tôi có thể đạt tới một sự hiểu biết không dựa trên phán đoán của những điều tôi giả thiết, một sự hiểu biết giúp tôi thực sự lãnh hội được sứ điệp của văn bản Kinh Thánh, trả lại cho tôi cái gì đó không đến từ chính tôi?”

Về khó khăn này, gần đây Huấn quyền của Giáo Hội đã mang lại cho chúng ta một số yếu tố giúp ra khỏi mọi thái độ thu hẹp Lời Chúa.

KINH MÂN CÔI VÀ KINH THÁNH


Đức Cha Tomash Peta, TGM giáo phận Đức Maria Chí Thánh ở thủ đô Astana, Chủ tịch HĐGM Kazakstan, đã đề cao vai trò của Mẹ Maria trong việc đón nhận Lời Chúa, như một mẫu gương đối với các tín hữu: Cuộc đời của Mẹ Maria là chìa khóa để hiểu Kinh Thánh. Dưới ánh sáng cuộc sống của Mẹ Maria, chúng ta có thể đọc trọn Kinh Thánh và hiểu rõ hơn các mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội, cũng như toàn thể chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Đức Cha ghi nhận Tài liệu làm việc của Thượng HĐGM đã đề cao Kinh Mân Côi như một hình thức đơn sơ và phổ quát để lắng nghe Lời Chúa trong sự cầu nguyện. Đức TGM nói: ”Tôi xác tín rằng điều quan trọng đối với thời đại chúng ta đang sống là nhắc nhớ và cổ võ việc đọc kinh Mân Côi, vì đó là con đường đến với Mẹ Maria, Mẹ đã hiểu và kết hiệp với Lời Chúa hơn ai hết”.

Đức TGM Peta nhắc lại sự kiện tại Kazakstan, có rất nhiều tín hữu Công Giáo bị cộng sản Liên xô lưu đày tới đây, trong mấy chục năm trời, họ không có LM, thánh đường, Kinh Thánh, các bí tích, ngoại trừ phép rửa tội cho trẻ em mà họ tự làm cho con cái mình. Nhưng chính nhờ kinh Mân Côi mà các tín hữu lưu đày ấy bảo tồn được đức tin, hiểu các chân lý căn bản của Công Giáo, nhân phẩm của họ và hy vọng một thời kỳ tươi sáng hơn.

Và Đức cha Peta kết luận rằng: ”Đề tài thượng Hội đồng GM chúng ta, 'Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội' không thể được suy niệm sâu xa mà không có Mẹ Maria. Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội, dạy chúng ta lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, sống phù hợp với Lời Chúa, và can đảm công bố Lời Chúa một cách trọn vẹn, không thỏa hiệp với thế gian”.

CẢI TIẾN BÀI GIẢNG


Vấn đề cải tiến bài giảng, cũng được nhiều nghị phụ đề cập đến. Đặc biệt Đức Cha Vincent Lý Bỉnh Hạo (Ri Pyung Ho), 67 tuổi, GM giáo phận Kim Châu (Jeonju), đã cổ võ việc học thuộc lòng các bản văn Kinh Thánh trong thánh lễ hằng ngày. Trong bài tham luận sáng ngày 9-10 vừa qua, ngài nói:

”Đề tài tôi chọn cho bài phát biểu này là việc giảng thuyết. Trước hết tôi muốn trưng dẫn lời cha Lucien Legrand thuộc hội thừa sai Paris, cha đã viết một bài trong tạp chí ”Dei Verbum” (n.70/71, pp.9-15) về ”Trào lưu thủ cựu và Kinh Thánh”. Cha viết: ”Như người ta thường nói, người Tin Lành đọc Kinh Thánh, còn các tín hữu Công Giáo thì nói về Kinh Thánh. Người Tin Lành học nhớ thuộc lòng phần lớn Kinh Thánh; còn chúng ta không thể trưng dẫn một câu Kinh Thánh chính xác .. (Dĩ nhiên có nhiều khía cạnh gây vấn đề trong việc giảng thuyết của Tin Lành). Nhưng ít nhất Lời Chúa là thành phần được trang bị trong tâm trí của họ để đương đầu với các vấn đề của cuộc sống.. Dầu sao đi nữa, phải chăng chúng ta không nên tháp nhập một số đoạn Kinh Thánh cần học thuộc lòng trong việc huấn giáo của chúng ta?. Cha Legrand viết tiếp: ”Người Tin Lành trưng dẫn Kinh Thánh, người Công Giáo thì rút ra những đề tài trừu tượng được coi là thuộc về Kinh Thánh. Một thí dụ điển hình về xu hướng này là thu hẹp sứ điệp Kinh Thánh vào những đoạn có thể thấy trong một vài loại bài giảng, quá thường xuyên. Trong việc dọn bài giảng của Công Giáo, vị giảng thuyết đọc đoạn Kinh Thánh ngày chúa nhật, rút gọn vào một đề tài nào đó và tiếp tục khai triển đề tài này mà không tham chiếu thêm văn bản Kinh Thánh... Chúa Giêsu là nhà kể chuyện rất tài, nhưng trong các bài giảng ngài bị biến thành người nói chuyện với một giọng nhạt nhẽo dạy luân lý một cách tầm thường hoặc lý luận không có sự sống.. Làm như thế tức là chúng ta biến sức mạnh của Lời Chúa thành một thứ số học trừu tượng.

Tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm bản thân của tôi: từ khi tôi bắt đầu sứ vụ giám mục hồi năm 1990, tôi cố gắng học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh của thánh lễ hằng ngày. Và phần lớn trong các bài giảng của tôi, chỉ cần để cho Lời Chúa tự phát biểu. Vì thế, các giáo dân của tôi hiểu rất rõ và họ vui mừng được nghe trực tiếp Lời Chúa và chính Lời Chúa cứu vớt dân chúng. Như tôi được biết, đó là cách Chúa Giêsu giảng Lời Chúa. Và khi chúng ta học thuộc lòng, chúng ta hiểu rõ hơn tại sao Mẹ Maria là mẫu gương trong việc nghe Lời Chúa. Văn bản Kinh Thánh, ”Mẹ Maria giữ tất cả những điều ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19), làm cho chúng ta ý thức rằng trước khi suy nghĩ đắn đo về Lời Chúa, Mẹ Maria đã học thuộc lòng, và suy tư đắn đo có nghĩa là Mẹ lập đi lập lại Lời Chúa trong tâm hồn trong một thời gian lâu dài cho đến khi Lời Chúa trở nên rõ ràng. Theo nghĩa đó, Mẹ biến tâm hồn Mẹ thành một thư viện Lời Chúa. Và như thế, giúp tháp nhập qua việc học thuộc lòng một số lượng Kinh Thánh vào trong chương trình đào tạo LM hiện tại và tương lai, đó chẳng phải là điều quan trọng sao? Tiếp đến, nên thiết lập cho các chủng sinh, LM một cuốn chỉ nam cụ thể về việc giảng thuyết Kinh Thánh. Nếu làm như thế, có nghĩa là các vị mục tử mặc lấy áo giáp của Chúa, đặc biệt là khí giới tấn công duy nhất trong số 6 khí giới mà thánh Phaolô đã nói đến trong thư gửi các tín hữu Ephêsô (6,10-18), là gươm của Thánh Linh, tức là Lời Chúa. Như vậy, chắc chắn Giáo Hội sẽ có một mùa xuân mới.

Thứ bẩy 11-10-2008, Thượng HĐGM Thế giới kỳ thứ 12 về Lời Chúa tiến hành được 1 phần 3 chương trình và tiếp tục ở trong giai đoạn lắng nghe ý kiến của các nghị phụ và các tham dự viên khác. Giai đoạn này còn kéo dài cho đến hết ngày thứ tư, 15-10 tới đây, rồi Công nghị GM thế giới sẽ bước sang giai đoạn thứ 2 với các cuộc thảo luận đào sâu vấn đề trong 12 nhóm nhỏ theo ngôn ngữ: tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha, mỗi thứ tiếng có 3 nhóm, tiếp đến là 2 nhóm tiếng Ý và 1 nhóm tiếng Đức. Khác với các Thượng HĐGM trước đây, lần này không có nhóm nghị phụ nào nói tiếng la tinh.

G. Trần Đức Anh OP

vante
14-10-2008, 06:49 AM
VATICAN.

Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, GM Phó giáo phận Nha Trang, đề cao vai trò của Lời Chúa trong đời sống của các tín hữu Công Giáo Việt Nam qua dòng lịch sử, giữa những gian lao thử thách.

Đức Cha Giuse Minh là Đại biểu của HĐGM Việt Nam, cùng với Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, GM Thanh Hóa, tại Thượng HĐGM thế giới hiện nay về Lời Chúa. Trong bài tham luận sáng ngày 11-10-2008, Đức cha nói:

”Giáo Hội của Chúa Kitô tại Việt Nam, từ khi đón nhận Tin Mừng vào năm 1533, và nhất là từ khi bổ nhiệm các GM đầu tiên vào năm 1659, đã trải qua con đường đầy Thánh Giá. Qua những thăng trầm của lịch sử, giống như người Do thái trong thời lưu đày, các tín hữu Công Giáo Việt Nam hiểu rằng chỉ có Lời Chúa tồn tại và không bao giờ làm cho thất vọng. Lời Chúa, thấm nhiễm kinh nguyện, chặng đàng Thánh Giá và kinh truyền Tin, các mầu nhiệm Mân Côi, các thánh ca và bài hát về đề tài Kinh Thánh, các bài học giáo lý, lòng sùng mộ bình dân, các nghi lễ á phụng vụ, những buổi cầu nguyện ban tối trong gia đình, sự lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa là một lectio divina thực sự.. và đã trở thành nguồn an ủi và sức mạnh mang lại sự cương quyết cho mọi thành phần dân Chúa, và đồng thời là điểm hội tụ giúp họ khám phá tương lai.

”Chắc chắn, đối với các tín hữu Kitô, ngoài những bất hạnh do chiến tranh gây ra, còn có nhiều bất hạnh khác dữ dằn hơn, do các cuộc bách hại. Trong những hoàn cảnh đó, chính Lời Chúa an ủi và nâng đỡ dân Chúa. Họ đến với Lời Chúa qua các bài giảng, các nghi thức á phụng vụ và những sáng tác văn chương bằng Việt Ngữ. Trong các cuộc bách hại, chính lời Chúa, dưới hình thức cụ thể của đàng Thánh Giá, kinh truyền tin, và kinh Mân Côi, là bản tóm lược Phúc Âm, mang lại sức mạnh cho các vị tử đạo để kiên trì trong đức tin của họ”.

3. ”Lời Chúa giúp khám phá chân dung đích thực của Chúa Giêsu Kitô, hiện thân tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, qua mầu nhiệm thập giá. Do kinh nghiệm đau thương mà Giáo Hội của Chúa Kitô tại Việt Nam cảm nghiệm, mầu nhiệm Thánh Giá không những trở nên gần gũi với đời sống thường nhật, nhưng còn là nhân tố thiết yếu qui tụ dân Chúa. Vốn thừa hưởng nền văn hóa ngàn năm về việc ”tôn kính tổ tiên” biểu lộ lòng hiếu thảo của dân tộc chúng tôi, các tín hữu Công Giáo, để cử hành lễ giỗ của người thân trong gia đình, thường lấy hứng từ Bữa Tiệc Ly, từ cuộc Thương Khó, sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, gương của Chúa đánh động sâu xa tâm hồn người Việt Nam. Các trình thuật về những thử thách mà các Tổ Phụ và Ngôn Sứ, đặc biệt là ông thánh Gióp trong Cựu Ước, và của Đức Mẹ Maria, thánh Giuse và các thánh tông đồ trong Tân Ước đã chịu đựng, tiếp tục nâng đỡ đức tin của các tín hữu Công Giáo.

Lời Chúa, sinh động trong dòng lịch sử Giáo Hội của Chúa Kitô tại Việt Nam, đã trở thành nguồn hy vọng cho các tín hữu bị bách hại. Kinh nghiệm của các vị Tử Đạo và các thế hệ các vị chủ chăn, tu sĩ và giáo dân, là một bằng chứng hùng hồn. Để diễn tả chân lý đó, ĐTC Biển Đức 16, trong thông điệp Spe salvi, đã trích dẫn đích danh hai người Việt Nam, đó là thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, và ĐHY rất đáng thương tiếc Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận”.
Trong phiên họp toàn thể thứ 10 sáng thứ bẩy 11-10-2008 dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY Odilo Pedro Scherer, TGM giáo phận Sao Paulo, Brazil, đã có 220 nghị phụ hiện diện. ĐTC không tham dự vì ngài bận lần lượt tiếp kiến riêng 8 GM nước Ecuador, nhân dịp các vị về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh. Ngoài Đức Cha Võ Đức Minh còn có 23 nghị phụ phát biểu ý kiến, trong đó có Cha Pascual Chavez Bề trên Tổng quyền dòng Don Bosco, và Cha José Rodriguez Carballo, Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô.

Nhiều nghị phụ nhấn mạnh rằng Giáo Hội phải đến gần giới trẻ, giúp họ đọc lại các biến cố dưới ánh sáng Lời Chúa.

Có hai đại diện các Giáo Hội Kitô Anh em cũng lên tiếng phát biểu, đó là tổng linh mục Ignatios Sotiriadis, Đại diện Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp và thầy Alois, tu viện trưởng Cộng đoàn Đại kết Taizé bên Pháp. Thầy mong ước có những bước tiến mới trong lãnh vực đại kết về linh đạo và quan tâm nhiều hơn đến nhiềm khát mong của giới trẻ về tôn giáo. (SD 11-10-2008)


G. Trần Đức Anh OP

vante
14-10-2008, 06:53 AM
Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới kỳ 12 (5)


VATICAN.


Sáng 13-10-2008, 234 nghị phụ Thượng HĐGM thế giới đã nhóm phiên họp toàn thể thứ 12 dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY William Levada, người Mỹ, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin.

Đã có 29 nghị phụ phát biểu ý kiến về các vấn đề như hội nhập Tin Mừng vào các nền văn hóa địa phương, Lời Chúa trong việc đối thoại liên tôn, bàn tiệc Lời Chúa trong Thánh Lễ, cụ thể là vấn đề các bài giảng: các vị giảng thuyết phải chuẩn bị bài giảng kỹ lưỡng, trong kinh nguyện và suy tư, làm sao để mang lại của ăn tinh thần cho các tín hữu suốt trong một tuần lễ. Một vài nghị phụ than phiền vì có những bài giảng thánh lễ chúa nhật chẳng ăn nhập gì với Tin Mừng và cuộc sống thường nhật. Một số vị khác nói về việc huấn luyện về Kinh Thánh cho các chủng sinh tại chủng viện, việc sử dụng các phương tiện truyền thông để rao giảng Lời Chúa, sự quan tâm đến tiếng kêu của dân nghèo v.v..

Ban chiều Thượng HĐGM không nhóm họp. ĐTC và các nghị phụ đã đến hành hương tại Đền thờ thánh Phaolô ngoại thành nhân dịp Năm Thánh Phaolô Tông đồ, và đã tham dự buổi hòa nhạc từ lúc 6 giờ chiều do Ban nhạc Philharmonica của thành phố Vienne bên Áo trình diễn tại đây tặng Thượng HĐGM. Dưới sự điều khiển của nhạc trưởng Christoph Eschenbach, ban nhạc đã trình bày bản hợp ca số 6 của Anton Bruckner. Buổi hòa nhạc này cũng nằm trong khuôn khổ Lễ Hội quốc tế lần thứ 7 về Âm Nhạc và Nghệ Thuật thánh diễn ra tại Roma từ ngày 12-10 đến 29-11 tới đây.

Sau đây là một số ý kiến của các nghị phụ qua các bài phát biểu.

Khuyến khích tín hữu có sách Kinh Thánh

Một số nghị phụ nêu vấn đề cơ bản: để khuyến khích giáo dân đọc Kinh Thánh thì trước tiên phải làm sao để họ có sách Kinh Thánh và phải cổ võ việc dịch Kinh Thánh ra các ngôn ngữ chưa có bản dịch Kinh Thánh.

Trong bài tham luận hôm 9-10-2008 Đức Cha Ignatius Kaigama, TGM giáo phận Jos bên Nigeria, đề nghị khuyến khích mỗi tín hữu Công Giáo có một cuốn Kinh Thánh riêng, và chắc chắn là điều sẽ giúp gia tăng lòng yêu mến và quí chuộng Kinh Thánh. Đức Cha Kaigama cho biết nhiều khi Giáo Hội tại Nigeria đòi các tín hữu phải có một cuốn Kinh Thánh như một điều kiện trước khi họ được lãnh nhận phép rửa tội, thêm sức hoặc hôn phối.
Giáo Hội tại Nigeria cũng cổ võ các tín hữu Công Giáo có phương tiện hãy giúp cung cấp sách Kinh Thánh cho người khác thiếu thốn hơn, vì các ấn bản Kinh Thánh Công Giáo rất đắt, và các ấn bản Kinh Thánh bằng tiếng địa phương hầu như không có.

Đức TGM Kaigama cho biết các cha mẹ cũng được yêu cầu mang một cuốn Kinh Thánh đến nhà thờ trong lễ rửa tội cho con cái, cuốn sách này sẽ được giữ cho con cho đến khi em có thể đọc được. Ngài nói: ”Chúng tôi khuyến khích việc đặt Kinh Thánh trên bàn thờ và chia sẻ Kinh Thánh tại gia giữa các phần tử trong gia đình, chúng tôi cũng khuyến khích sở hữu Kinh Thánh, cả những người không thể đọc được.. Lời Chúa sẽ phải mang lại hương vị cho đời sống Kitô chân chính”.

Đức Cha Kaigama nhận xét rằng: ”Rất tiếc là khi đụng đến các vấn đề bộ tộc hoặc chính trị, thì những người cùng chia sẻ Lời Chúa và Thánh Thể, lại sẵn sàng cầm võ khí chống lại nhau. Sở dĩ những cuộc xung đột như thế có thể xảy ra là vì Chúa Giêsu và Kinh Thánh không có chỗ đứng quan trọng và chỉ chiếm hàng thứ yếu trong đời sống dân chúng. Cũng có thể là khi Lời Chúa chỉ được hiểu và đón nhận hời hợt, thì các tín hữu dễ rơi vào tình trạng tôn giáo hỗn hợp, vừa là phần tử bình thường của Giáo Hội và đồng thời lại theo những hội kín”.

Theo Đức TGM Kagaima, cần có những cuộc họp liên gia, các nhóm học hỏi giáo lý, đọc và chia sẻ Kinh Thánh hằng ngày để Lời Chúa có thể giúp các tín hữu Kitô ăn rễ sâu trong các giá trị Tin Mừng và giúp biển cải xã hội và gia đình về mặt kinh tế, chính trị và xã hội.

Dịch và phổ biến Kinh Thánh

Đức Cha Vincenzo Paglia, GM giáo phận Terni, Chủ tịch Liên hiệp Kinh Thánh thế giới, trong bài tham luận, cũng nói về việc cung cấp Kinh Thánh cho các tín hữu, đặc biệt là các bản dịch trong các ngôn ngữ chưa có Kinh Thánh. Ngài nói:

”Cần cấp thiết có một Lễ Hiện Xuống mới. Chúng ta phải ra khỏi nhà Tiệc Ly và rao giảng Tin Mừng duy nhất trong các ngôn ngữ khác nhau cho ”70 dân tộc”, tức là cho tất cả mọi dân tộc trên trái đất. Một thách đố được mở ra cho chúng ta: trên trái đất có hơn 6 ngàn ngôn ngữ nhưng Kinh Thánh trọn bộ mới được dịch ra 480 thứ tiếng mà thôi, và Tân Ước được dịch ra 1.168 ngôn ngữ. Còn lại hơn 4 ngàn thứ tiếng nữa. Chúng ta đang có trước mặt một công tác lớn, kể cả về mặt kinh tế nữa. Đối với một số ngôn ngữ, có thể tái diễn một cuộc phiêu lưu, đó là hình thành chữ viết của ngôn ngữ ấy nhờ bản dịch Kinh Thánh. Hiển nhiên, đây là một thách đố thuộc phạm vi mục vụ. Hiệp định giữa Liên hiệp Kinh Thánh Công Giáo thế giới với các Hội Kinh Thánh của các Giáo Hội Kitô khác là một thí dụ nhỏ về sự hiệp thông cả trong lãnh vực đại kết. Điều cần thiết là làm sao để từ Thượng HĐGM này nảy sinh một nhiệt huyết hăng say mới mẻ đối với Kinh Thánh, như chân phước Giáo Hoàng Gioan 23 đã nói. Có những điều kiện để đạt được sự hăng say đó vì người ta cũng thấy sự hăng say phấn khởi ấy nơi dân chúng.

”Cuộc điều tra do Liên hiệp Kinh Thánh Công Giáo thực hiện cho thấy sự hưởng ứng của nhiều người đối với Kinh Thánh. Phần lớn những người được hỏi ý kiến tại 16 quốc gia trên thế giới đều nghĩ rằng thật là một điều tốt đẹp nếu Kinh Thánh được giảng dạy tại học đường. Nhưng đồng thời tất cả đều cho rằng Kinh Thánh thật là khó hiểu và dân chúng cần được giúp đỡ để hiểu Kinh Thánh. Các dữ kiện trong cuộc điều tra cho thấy nguyên Kinh Thánh mà thôi (Sola scriptura) vẫn không đủ. Cần phải có sự tháp tùng. Đó thực là thách đố được đề ra cho chúng ta.

”Nhưng chúng ta không nên sợ đặt Kinh Thánh vào tay tất cả mọi người, không những các tín hữu mà thôi, nhưng cả những người khác nữa. Điều đáng tiếng là tuy nhiều gia đình đều có sách Kinh Thánh, nhưng rất ít khi mỗi tín hữu Kitô có cuốn Kinh Thánh riêng. Theo ý tôi, điều này phải là một trong những đối tượng của Thượng HĐGM này. Vả lại, như các Giáo Phụ đã nói, nếu Kinh Thánh là ”lá thư tình của Thiên Chúa gửi cho con người, thì tại sao lại chậm trễ hoặc tệ hơn nữa, tại sao lại tránh né không trao lá thư tình ấy cho con người? Hơn nữa, chúng ta cần cố gắng gấp đôi để thực hiện chương trình tháp tùng việc đọc Kinh Thánh. Dân chúng cần phải học cầu nguyện với Kinh Thánh. Rất tiếc là cuộc điều tra cho thấy chỉ có một số rất nhỏ tín hữu thực hành việc này. Mục tiêu mà chúng ta phải đề ra là làm sao giúp các tín hữu và mọi người đọc Kinh Thánh đi sâu vào cuộc nói chuyện huyền nhiệm và cứu độ trong toàn thể Kinh Thánh. Việc siêng năng đọc Kinh Thánh mở rộng tâm trí và sưởi ấm tâm hồn”.

Đức Cha Louis Pelâtre, Đại diện Tông Tòa Istanbul, Thổ Nhĩ kỳ, trong bài phát biểu đã nói rằng:

”Tôi đến từ Tiểu Á, hiện nay là Thổ Nhĩ Kỳ. Phần lớn các sách Tân Ước đã được viết ra tại miền này. Sứ vụ của các Tông Đồ qua các miền này đặt cho chúng tôi vấn đề thông truyền sứ điệp qua các ngôn ngữ địa phương. Tiếng Hy Lạp truyền lại cho chúng tôi đã đi sau truyền khẩu và là một cố gắng dịch thuật. Hiến chế Dei Verbum của Côngđồng chung Vatican 2 nhắc nhở rằng các GM là những vị trách nhiệm đầu tiên trong việc giải thích Kinh Thánh và lưu ý về số 25 liên quan tới việc dịch Sách Thánh với những giải thích cần thiết đi kèm.

”Hiện nay trên thế giới có những Ủy ban rất tốt để dịch Kinh Thánh trong nhiều tiếng quốc tế, nhưng còn những ngôn ngữ ít người nói thì sao? Đây là một vấn đề thực sự ở Thổ Nhĩ Kỳ. Cần phải ca ngợi các anh em thuộc các Hội Kinh Thánh Tin Lành, từ lâu đã hoạt động rất tốt trong lãnh vực này, nhưng đồng thời cũng phải lấy làm tiếc vì Giáo Hội Công Giáo không hiện diện đủ và thiếu nhân sự có khả năng để tham gia vào nỗ lực dịch Kinh Thánh có chất lượng, vốn là điều kiện tiên quyết để thực thi việc rao giảng Tin Mừng trong ngôn ngữ của dân chúng. Vì thế, tôi kêu gọi tất cả các hội thừa sai hãy dành ưu tiên cho việc chọn lựa những người có khả năng về ngôn ngữ Kinh Thánh cũng như tiếng địa phương để thực hiện những bản dịch Kinh Thánh xứng đáng với Lời Chúa mà chúng ta muốn loan báo. Đáng tiếc là người ta dễ tìm được tiền bạc để in những sách đẹp, nhưng lại lại khó tìm được phương tiện để đảm bảo chất lượng của nội dung. Điều này giả thiết là phải tìm được những người thiện nguyện sẵn sàng làm công tác âm thầm lâu dài và vất vả này, như một bước đầu tiên để thực hiện công trình truyền giáo của Giáo Hội.

Tại sao giáo dân Công Giáo không đọc Kinh Thánh?

Đức Cha Benoit Comlan Messan Alowonou, GM giáo phận Kpalimé ở Togo, Phi châu, trong bài phát biểu đã nêu câu hỏi:

”Tại sao có nhiều tín hữu Công Giáo cảm thấy dửng dưng lãnh đạm đối với Kinh Thánh?”. Câu hỏi này đã được các GM Togo đặc biệt lưu ý. Biết rõ tại sao nhiều tín hữu Công Giáo không quan tâm đọc và học hỏi Kinh Thánh là một điều tiên quyết để thành công trong phần lớn các sáng kiến Kinh Thánh, đáp ứng yêu cầu của Hiến chế Dei Verbum.

”Tại Togo, người ta ghi nhận rằng trong hầu hết các giáo xứ, có nhiều tín hữu Công Giáo tỏ ra khao khát Lời Chúa, nhưng chẳng bao lâu họ không quan tâm đến vấn đề này nữa.

”Để giúp các vị bản quyền tổ chức một nền mục vụ Kinh Thánh, một cuộc nghiên cứu đã được các nhà xã hội học, các LM, tu sĩ và giáo dân được thực hiện. Cuộc nghiên cứu cho thấy lý do tại sao nhiều tín hữu Công Giáo không quan tâm đến Kinh Thánh.

”Lý do thứ I quan trọng hơn cả, có là sự không quan trọng của việc học Kinh Thánh. Các nghiên cứu học hỏi Kinh Thánh chỉ làm cho các tín hữu quan tâm theo mức đọ nó hay ho, tức là giúp họ giải quyết những vấn đề sơ đẳng hay ít là đối với họ là một nguồn gợi ích hữu hiệu. Kinh Thánh hữu ích thế nào trong đời sống thường nhật? về phương diện tinh thần, về phương diện kinh tế, chính trị và xã hội, v.v. Tóm lại, Kinh Thánh hữu ích thế nào trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

”Các tín hữu Công Giáo không được huấn luyện đủ về tầm quan trọng của Kinh Thánh và về các chương trình giảng dạy. Các giáo dân được huấn luyện kỹ có thể giúp họ tổ chức và hướng dẫn các nhóm.

Những khó khăn về kinh tế: thời gian học Kinh Thánh được coi như thời giờ uổng phí. Đàng khác, khả năng yếu về kinh tế không cho phép họ mua Kinh Thánh Công Giáo quá đắt đỏ.



G. Trần Đức Anh OP

http://www.radiovaticana.org/img_common/x.gif

vante
14-10-2008, 11:56 PM
VATICAN. Trong bài phát biểu sáng 14-10-2008 tại Thượng HĐGM thế giới, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, GM Thanh Hóa, đã đề cao sự nâng đỡ của Lời Chúa, cho các tín hữu Công Giáo tại Việt Nam, giữa các cơn thử thách, bách hại.

Trước sự hiện diện của ĐTC và 241 nghị phụ trong phiên họp toàn thể thứ 13, Đức Cha Giuse Linh nói:

”Thứ sáu vừa qua (10-10-2008), người anh em của con, Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, đã trình bày sơ lược về lịch sử truyền giáo của dân tộc chúng con. Con xin tiếp nối phúc trình của Đức Cha Minh và nói về số 28 trong Tài liệu làm việc, bàn về vai trò nâng đỡ của Lời Chúa trong lịch sử Giáo Hội, để mô tả về vai trò này trong đời sống Giáo Hội tại Việt Nam.

”Tin Mừng đã được công bố lần đầu tiên trên đất nước chúng con hồi đầu thế kỷ 16 trong bối cảnh đau thương của cuộc nội chiến giữa hai vương quốc anh em trở thành thù nghịch. Nhưng lạ lùng thay chính nhờ sự trùng hợp ấy, Tin Mừng đã trở thành một an ủi lớn cho các tín hữu đầu tiên được rửa tội và từ đó không bao giờ ngừng trở thành sự nâng đỡ tinh thần và luân lý, nguyên lý phong phú hóa Giáo Hội tại Việt Nam, một trong những Giáo Hội bị thử thách nặng nề nhất vì cc cuộc bách hại đẫm máu và liên tục. Bị đẩy vào trong một lịch sử dệt bằng hận thù, chiến tranh ý thức hệ và những hạn chế kỳ thị, các tín hữu Công Giáo chúng con ngày càng xác tín rằng chỉ có Lời Chúa mới có thể giữ chúng con ở lại trong tình thương, trong an vui, hiệp thông và bao dung.

”Con cũng đau lòng mà thưa với ĐTC và các nghị phụ rằng cho đến nay Việt Nam chiếm hàng đầu về các vụ phá thai. Nhưng điều đáng nói là thảm trạng này đã khơi lên nơi các tín hữu Công Giáo phong trào ”bênh vực sự sống”: họ đi tìm các bào thai bị phá trong các nhà thương, rửa tội cho các bào thai ấy nếu còn sống thoi thóp, và thành lập các nghĩa trang để an táng. Ban đầu, hành động này bị chính quyền và các vị lãnh đạo nhà thương coi là tội ác, khiến cho các tín hữu Công Giáo phải hành động bí mật. Nhưng nay, tuy nhà chức trách chưa cho phép, nhưng họ để cho làm. Vài nhà làm điện ảnh đã quay thành những phim tài liệu và các ký giả ca ngợi việc làm ấy của các tín hữu Công Giáo trên các cơ quan truyền thông. Tại sao có sự tiến bộ như vậy? Thưa vì người ta nhận rõ hơn chứng tá của các tín hữu Công Giáo, những người sống Lời Chúa, và dưới ánh sáng của Lời ấy, họ tôn trọng sự sống. Con muốn lập lại ở đây xác tín mà Hiến Chế Vui Mừng và Hy vọng đã nói đến trong số 44: ”Giáo Hội nhìn nhận rằng, từ sự chống đối của các đối thủ và những người bách hại, Giáo Hội rút ra được những lợi ích lớn lao và Giáo Hội có thể tiếp tục làm như vậy”.

”Một dấu hiệu khác đáng được nêu lên để chứng tỏ Lời Chúa tiếp tục nâng đỡ Giáo Hội tại VIệt Nam. Đó là cuộc trở lại của hàng ngàn người dân tộc thiểu số ít lâu sau lễ tôn phong hiển thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam hồi năm 1988. Điều lạ lùng là người người thượng ấy cho biết đã nghe Đài Phát Thanh của Tin Lành từ Manila, Phi luật tân, nhưng họ trở lại Công Giáo tại Việt Nam. Như thế, người Tin lành gieo hạt và người Công Giáo gặt hái. Lời Chúa vang dội rất xa, đi tới tai họ, và trở thành nguồn hy vọng cho những người sống hẻo lánh trên các miền rừng núi, thiếu thốn mọi sự và không có tương lai.

”Để kết luận, trong tư các là người Công Giáo Việt Nam, con muốn lập lại xác tín rằng trong các cơn bách hại, hồng ân lớn nhất của chúng con là lòng trung thành với Lời Chúa”.

CÁC BÀI PHÁT BIỂU KHÁC


Ngoài Đức Cha Giuse Linh, còn có 29 nghị phụ phát biểu trong phiên họp sáng 14-10-2008, đặc biệt ĐTC cũng ứng khẩu lên tiếng về tầm quan trọng và giá trị của việc chú giải Kinh Thánh, như giáo huấn của Công đồng chung Vatican 2 trong Hiến Chế Dei Verbum (Lời Chúa). Ngài nhìn nhận giá trị của phương pháp phê bình lịch sử để nghiên cứu Kinh Thánh: phương pháp này giúp hiểu văn bản Sách Thánh không phải là huyền thoại nhưng là lịch sử đích thực, giúp lãnh hội sự thống nhất sâu xa của toàn thể Kinh Thánh, giúp hiểu thực tại. Tuy nhiên, ĐTC cảnh giác rằng phương pháp này cũng có thể làm cho người ta nghĩ rằng Kinh Thánh chỉ là một cuốn sách của quá khứ.
ĐTC cũng cảnh giác rằng ngày nay khoa chú giải Kinh Thánh dựa trên đức tin đang nhường chỗ cho một thứ chú giải bị tục hóa, duy thực nghiệm, theo đó những yếu tố thần linh không xuất hiện trong lịch sử. Tất cả đều bị thu hẹp vào yếu tố nhân trần, như người ta thấy trong trào lưu thịnh hành về việc giải thích Kinh Thánh hiện nay ở Đức, trào lưu này phủ nhận sự sống lại của Chúa Kitô và sự thành lập phép Thánh Thể do Con Thiên Chúa. Và ĐTC kết luận rằng: ”Nói một cách cụ thể, chúng ta phải mở rộng việc huấn luyện các nhà chú giải Kinh Thánh tương lai”.

ĐHY Emmanuel III Delly, Thượng Phụ Công Giáo Canđê ở Irak nói về thảm trạng đau thương của Giáo Hội tại nước này. Ngài nhắc đến các vụ khủng bố bằng xe bom, các vụ bắt cóc và giết người, đặc biệt là vụ sát hại Đức TGM Faraj Rahho của giáo phận Mossul. ĐHY nói: ”Trong bối cảnh đó, một cuộc sống theo Lời Chúa, là một chứng tá bản thân, có thể phải trả giá bằng chính sáng sống của mình”.

Các nghị phụ đã nhiệt liệt vỗ tay để bày tỏ tình liên đới với ĐHY Thượng Phụ và toàn thể Giáo Hội tại Irak.
ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nói về giới trẻ và ngài ghi nhận chỉ có lối 13% người trẻ nghĩ rằng cần phải suy niệm về Kinh Thánh. Tuy nhiên người trẻ ngày nay sẵn sàng đón nhận chứng ta sinh động của người lớn và các nhà giáo dục.

18 dự thính viên gồm giáo dân nam nữ và nữ tu cũng lên tiếng tại phiên họp. Ông Thomas Hong Soon Han, Chủ tịch Hội đồng Tông Đồ giáo dân ở Seul, Nam Hàn, đã kêu gọi thực hiện một cuộc xét mình trong Giáo Hội, kể cả giáo quyền, về lối sống của các vị mục tử và việc sử dụng của cải. Ngoài ra ông cũng kêu gọi duyệt lại các hợp đồng thương mại trong Giáo Hội để bảo đảm nguyên tắc công bằng và trả lương xứng đáng để các công nhân viên sống và có điều kiện làm việc xứng đáng.

Trong số các dự thính viên cũng có bà Nataljia Boroskaja, người Nga, giáo sư lịch sử nghệ thuật. Bà kể lại kinh nghiệm của bà trước kia là người vô thần, không hề nghe nói về Thiện Chúa, nhưng bà nhận biết ngài qua các ảnh đạo vẽ trên gỗ, âm nhạc, tranh vẽ thời phục hưng của Italia. Bà nói: ”Ngày nay, con cũng tự hỏi làm sao nói về Thiên Chúa cho các sinh viên của con qua nghệ thuật” (SD 14-10-2008)


G. Trần Đức Anh OP

vante
15-10-2008, 10:52 AM
Mục phóng sự Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới kỳ thứ XII về Lời ”Chúa trong cuộc sống và sứ mệnh của Giáo Hội” tóm tắt ý chính các bài phát biểu của 4 vị đại biểu của các Giáo Hội kitô anh em.

Trước hết là bài phát biểu của mục sư Robert Welsh, Tổng thư ký và chuyên viên đại kết của các Môn đệ Chúa Kitô Hoa Kỳ. Mục sư nói đề tài của Thượng Hội Đồng Giám Mục ”Lời Chúa trong cuộc sống và sứ mệnh của Giáo Hội” là một đề tài chính đối với toàn thể Giáo Hội. Nó gợi lên sự vâng phục, khi chúng ta lắng nghe, công bố lời Chúa và trả lời cho Lời của Thiên Chúa nhập thể làm người vì yêu thương thế giới và để cứu rỗi thế giới. Mục sư Welsh nhấn mạnh trên hai điểm sau đây:

Thứ nhất, sự hiệp nhất kitô là trung tâm điểm sứ điệp của Tin Mừng; sự chia rẽ trong thân mình Chúa Kitô là một gương mù gương xấu trước mặt Thiên Chúa và thế giới. Các chia rẽ của chúng ta tại bàn tiệc Thánh Thể là một chối bỏ liên lỉ quyền năng của Thập Giá chữa lành, hòa giải và hiệp nhất mọi sự dưới đất cũng như trên trời. Vì thế tôi hy vọng Thượng Hội Đồng Giám Mục này đào sâu các suy tư liên quan tới những gì nối kết Lời Chúa, Thánh Thể và sư hiệp nhất giữa mọi kitô hữu trong thân mình Chúa Kitô.

Thứ hai, tôi hy vọng công việc và các cuộc thảo luận trong Thượng Hội Đồng Giám Mục này phân tich sâu rộng hơn những gì nối kết giữa Lời Chúa và sứ mệnh của Giáo Hội, nhất là đối với những người nghèo, người đau khổ, bị áp bức hay bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Giáo Hội của chúng tôi đã dấn thân trên con đường hiểu biết sứ mệnh dựa trên nguyên tắc hướng dẫn của sự ”hiện diện phê bình” trong một sứ mệnh đặt ưu tiên trên thừa tác vụ đối với các chi thể nghèo khổ nhất. Giáo Hội không chỉ lắng nghe họ, mà cũng đi trước để gặp gỡ họ với Lời hằng sống của Chúa trong mọi cuộc chiến đấu và chứng tá hằng ngày của niềm hy vọng trước tuyệt vọng, của sự sống trước cái chết. Sau cùng tôi cầu xin cho Thượng Hội Đồng Giám Mục và các suy tư về Lời Chúa không chỉ là dịp canh tân cuộc sống của Giáo Hội Công Giáo, mà cũng phục vụ toàn Giáo Hội nữa, và để nó là dịp canh tân phong trào đại kết và tất cả mọi Giáo Hội trong ơn gọi chung là truyền giáo trên thế giới.

Vị thứ hai phát biểu là Đức Cha Gunnar Stalsett, nguyên Giám Mục Oslo, đại diện cho Liên hiệp Luther Thế Giới. Đức Cha nói đề tài của Thượng Hội Đồng Giám Mục thật là có tính cách đại kết, vì nó liên lụy với mọi tôn giáo và đề ra một sứ điệp cho thế giới này. Cuộc đối thoại giữa các tín hữu công giáo Roma và các tín hữu Luther trong 30 năm qua đã góp phần vào nội dung đề tài của Thượng Hội Đồng Giám Mục này với các vấn đề nòng cốt như giáo lý về sự công chính hóa, vai trò của thừa tác được truyền chức và bản chất của Giáo Hội. Trong Giáo Hội Luther sự phân biệt giữa Thánh Kinh như là điều luật làm ra luật và các niềm tin hay truyền thống khác của Giáo Hội như là điều luật được làm ra khiến Thánh Kinh trở thành quyền bính cuối cùng của Giáo Hội. Ba tôn giáo của Kinh Thánh là Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo bị siết chặt giữa khuynh hướng duy đời và khuynh hướng cuồng tín.

Tự do tôn giáo và tự do diễn tả là các quyền căn bản của con người. Điều này bao gồm sự kiện các kiểu diễn tả niềm tin cuồng tín cũng có chỗ trong xã hội, cả khi chúng có dẫn tới khuynh hướng giáo phái và các chia rẽ đi nữa. Nhưng khủng bố nhân danh Thiên Chúa là một đối đầu với tất cả mọi tôn giáo cũng như một bạo lực đối với Thiên Chúa.

Chỉ có sự giải thích Kinh Thánh trung thực hơn mới có thể đối chọi lại khuynh hướng cuồng tín này mà thôi. Vì thế Giáo Hội phải tiếp tục làm cho sự khoan nhượng và sự thật được quân bình. Các mục tiêu phát triển Ngàn Năm Mới, do Liên Hiệp Quốc đề ra, là một lời mời gọi mọi tín hữu thắng vượt cảnh bất công, nghèo túng, các bất bình đẳng, nạn mù chữ, nạn thất nghệp, các khổ đau trong cuộc sống của một phần lớn nhân loại ngày nay. Bệnh dịch liệt kháng đã đốn ngã hàng triệu người và có lẽ sẽ theo đuổi nhiều thế hệ nữa. Các cộng đoàn tu sĩ thuộc mọi tôn giáo, đặc biệt là các Giáo Hội và cộng đoàn công giáo địa phương, đang góp phần săn sóc và trợ giúp các bệnh nhân với tình yêu thương. Nhưng rất tiếc một vài giải thích tôn giáo cũng đưa con người tới chỗ bị thương tích. Vì thế chúng ta phải tiếp tục tìm ra các các phương cách phù hợp với lòng tin để che chở sự sống của các bệnh nhân liệt kháng trong và ngoài hôn nhân một cách tốt đẹp hơn. Nỗi âu lo và tuyệt vọng toàn cầu cũng kêu gọi toàn cầu hóa ơn cứu rỗi và niềm hy vọng. Hàng lãnh đạo tôn giáo được mời gọi thi hành chức thừa tác của hòa bình và hòa giải.

Thứ ba là bài phát biểu của Linh mục trưởng Ignatios Moysis Sotiriadis, cố vấn phái bộ đại diện Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp cạnh Liên Hiệp Âu châu. Cha nêu bật rằng Kinh Thánh là con đường của giáo Hội, Lời Chúa làm sống động mọi thời, và khi được giải thích một cách tinh tuyền theo Thánh Truyền Thống, thì nó dẫn đưa tín hữu tới Thánh Thể, hay tới sự hiệp thông cá nhân với Thiên Chúa - Ngôi Lời. Tuy nhiên trong lịch sử Kitô giáo cũng có đầy dẫy các tội phạm, các lỗi lầm và sai trái. Vì thế cần phải hoán cải và thay đổi con tim yêu đuối của chúng ta. Xã hội đòi buộc chúng ta là các kitô: hữu công giáo, chính thống, tin lành, anh giáo phải làm chứng chung. Đó là trách nhiệm của chúng ta như là chủ chăn các Giáo Hội của thế kỷ XXI. Đó cũng là sứ mệnh đầu tiên của Giám Mục Đầu Tiên của Kitô giáo và nhất là của Đức Giáo Hoàng là Thầy dậy Thần Học: là dấu chỉ hữu hình và hiền phụ của sự hiệp nhất, dưới sự hướng dấn của Chúa Thánh Thần và theo Thánh Truyền Thống, cùng với các giám mục toàn thế giới hướng dẫn toàn nhân loại tới với Chúa Kitô Cứu Thế.

Tiếp đến là bài phát biểu của thầy Alois Tu viện trưởng tu viện đại kết Taizé. Liên quan tới việc thông truyền lòng tin cho người trẻ, thầy Alois bầy tỏ âu lo đối với việc trợ giúp giới trẻ liên hệ gới Giáo Hội và một cách cụ thể hơn, với các giáo xứ, cũng như cố gắng đáp ứng khát vọng tinh thần của họ khi họ tới hành hương Taizé. Làm thế nào để đón tiếp họ trong một bầu khộng khí tin tưởng để họ khám phá ra rằng Thiên Chúa đã ở trong họ, cả khi lòng tin của họ có bé nhỏ đi nữa. Thầy Roger Schutz đã tìm cách khiến cho Phụng Vụ các Giờ Kinh của cộng đoàn trở thành gần gũi hơn với giới trẻ bằng cách thức khác nhau. Chẳng hạn như khiến cho nơi cầu nguyện có bầu khí tiếp đón hơn. Chỉ đọc các văn bản kinh thánh ngắn, để dành các văn bản dài và khó hơn cho việc dậy giáo lý bên ngoài giờ cầu nguyện chung. Thế rồi duy trì các lúc thinh lặng dài sau mỗi bài đọc từ 8 tới 10 phút. Hát trong vòng vài phút cùng một câu kinh thánh hay một câu của truyền thống phụng vụ. Lo lắng làm sao để có các tu huynh và các linh mục mỗi chiều cho việc giải tội hay lắng nghe người trẻ muốn trình bầy và thổ lộ tâm tư của họ. Nhấn mạnh trên ý nghĩa và giá trị của các cử chỉ biểu tượng: chẳng hạn mỗi chiều thứ sáu các bạn trẻ đến đặt trán mình trên thánh giá Chúa để ở dưới đất, và qua cử chỉ biểu tượng này họ tín thác nơi Chúa Kitô các gánh nặng cá nhân và các khổ đau của toàn thế giới.

Tiếp đến thầy Alois nhấn mạnh trên hai thực tại nối kết các kitô hữu: thứ nhất là Lời Chúa và thứ hai là bí tích Rửa Tội. Cùng nhau lắng nghe Lời Chúa dẫn đưa chúng ta vào một sự hiệp nhất trước, có lẽ bất toàn nhưng thật sự. Và thấy Alois đề nghị cần phải cùng nhau lắng nghe Lời Chúa như thế mỗi ngày thay vì chỉ cùng nhau lắng nghe Lời Chúa vài lần trong năm.


Linh Tiến Khải

vante
18-10-2008, 10:38 AM
Phóng Sự Về Kỳ Họp THĐGM Thế Giới ......................Ngày 18/10/2008
Link Download:
https://thanhcavietnam.net/forum/attachment.php?attachmentid=254&stc=1&d=1224729028 (http://ultrashare.net/hosting/fl/6c2c014edc/PsTHDTG)


(http://ultrashare.net/hosting/fl/6c2c014edc/PsTHDTG)

vante
21-10-2008, 03:36 PM
Phóng Sự Thượng Hội Đồng Giám Mục ngày 21/10/2008

Link Download:
https://thanhcavietnam.net/forum/attachment.php?attachmentid=254&stc=1&d=1224729032 (http://ultrashare.net/hosting/fl/ef188bc419/PsTHDTG21)

vante
23-10-2008, 01:24 AM
VATICAN.


Sáng 21-10-2008, 243 nghị phụ Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 12 đã nhóm phiên họp toàn thể thứ 20, trước sự hiện diện của ĐTC, để nghe trình bày về danh sách thống nhất 53 đề nghị bằng tiếng la tinh đúc kết công nghị GM hiện nay.

Danh sách này đã được ĐHY Tổng tường trình viên Marc Ouellet, Đức TGM Laurent Monsengwo Tổng thư ký đặc biệt và 12 vị tường trình viên của 12 nhóm sinh ngữ hoàn thành dựa vào các đề nghị do các nhóm đề ra trong 3 phiên họp cuối tuần qua.

Đi từ tiền đề về những lợi ích phong phú về thần học và mục vụ do Hiến Chế Dei Verbum, Lời Chúa, của Công đồng chung Vatican 2 mang lại, các nghị phụ bày tỏ mong ước các tín hữu gia tăng ý thức về sức mạnh cứu độ của Lời Chúa, và Giáo Hội cần tăng cường ơn gọi truyền giáo của mình.

Các đề nghị không quên nhắc đến những trình trạng xung đột và căng thẳng về tôn giáo, đồng thời mong ước sự dấn thân của các tín hữu trong việc xây dựng những nhịp cầu đối thoại, và một xã hội hòa hợp hơn.

Các nghị phụ cổ võ mỗi tín hữu hãy có cuốn Kinh Thánh riêng; và trong phụng vụ, sách Kinh Thánh phải được chỗ nổi bật tại các nhà thờ; cần đào sâu và tăng cường vai trò của các độc viên; tận dụng các phương tiện truyền thông mới mẻ.

Các nghị phụ nhấn mạnh chỗ đứng quan trọng của bài giảng cần được chuẩn bị kỹ lưỡng trong kinh nguyện và được nuôi dưỡng bằng đạo lý. Các vị cũng ủng hộ việc thiết lập cuốn chỉ nam về giảng thuyết; duyệt lại sách các bài đọc thánh lễ; đề cao tầm quan trọng của phụ nữ không những trong gia đình và trong công tác huấn giáo, nhưng cả trong việc đọc các bài đọc Kinh Thánh nữa.

Vấn đề lectio divina cần được cổ võ trong các giáo xứ, gia đình, các phong trào của Giáo Hội, trong việc huấn luyện các linh mục tương lai, việc giảng dạy giáo lý, v.v..

Danh sách các đề nghị cũng bàn đề cập đến việc chú giải Kinh Thánh và cần vượt thắng thái độ nhị nguyên (dualisme) giữa khoa chú giải Kinh Thánh va thần học. Về vấn đề sứ vụ truyền giáo, có những đề nghị bàn đến việc rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, người ở ngoài lề, người tàn tật. Các nghị phụ bày tỏ lo ngại trước hiện tượng các giáo phái và cổ võ việc nghiên cứu phương thức đối phó.

Vấn đề đối thoại với người Do thái và người Hồi giáo cũng được nhắc đến trong một số đề nghị.

Sau khi nghe trình bày, các nghị phụ có nhiệm vụ góp ý sửa chữa trong 4 phiên họp nhóm, mỗi nhóm khoảng hơn 30 người. Danh sách các đề nghị sẽ được bỏ phiếu chung kết vào sáng thứ bẩy, 25-10 tới đây. Trước đó, trong phiên họp toàn thể thứ 21 vào sáng thứ sáu 24-10, các nghị phụ sẽ bỏ phiếu thông qua Sứ điệp gửi Cộng đồng Dân Chúa. (RG 21-10-2008)


G. Trần Đức Anh OP

vante
24-10-2008, 11:30 PM
http://www.radiovaticana.org/img_common/x.gif
http://www.radiovaticana.org/img_common/x.gif
http://www.radiovaticana.org/img_common/x.gif


VATICAN. Hôm 24-10-2008, các nghị phụ Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 12 đã thông qua sứ điệp gửi Cộng đồng dân Chúa, mời gọi các tín hữu đến gần Bàn Tiệc Lời Chúa để được nuôi dưỡng bằng những Lời từ miệng Chúa phát ra (Mt 4,4).

Sứ điệp đã được thông qua trong phiên họp toàn thể thứ 21 dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY William Levada, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, với sự hiện diện của 243 nghị phụ. Ngoài phần nhập đề và kết luận, Sứ điệp dài 10 trang được chia thành 4 phần với 15 đoạn, lần lượt đề cập đến: Tiếng nói của Lời Chúa, tức là mạc khải (I), khuôn mặt của Lời Chúa là Đức Giêsu Kitô (II); Nhà của Lời Chúa là Giáo Hội (III); và sau cùng là Những nẻo đường của Lời Chúa: sứ mạng truyền giáo (IV).

Các nghị phụ nhấn mạnh sự kiện Lời Chúa có trước và vượt ra ngoài Kinh Thánh, vì thế, đức tin của chúng ta không có trọng tâm là cuốn sách Kinh Thánh mà thôi, nhưng là lịch sử cứu độ và một nhân vật là Đức Giêsu Kitô, Lời Thiên CHúa nhập thể làm người và là lịch sử. Vì thế, người đọc Kinh Thánh luôn luôn cần có sự hiện diện của Chúa Thánh Linh, Đấng dẫn đến chân lý toàn vẹn (Gioan 16,13).

Cũng trong sứ điệp, các nghị phụ nêu bật sự kiện Kinh Thánh được diễn tả trong những ngôn ngữ đặc thù, qua những hình thức văn chương và lịch sử, trong những ý niệm gắn liền với một nền văn hóa cổ xưa.. Vì thế, cần có sự phân tích lịch sử và văn chương, được thực hiện qua nhiều phương pháp và lối đề cập vấn đề khác nhau mà khoa chú giải Kinh Thánh cung cấp. Mỗi độc giả Kinh Thánh, dù là người đơn sơ nhất, đều phải có kiến thức tương ứng về Sách Thánh, và cần nhớ rằng Lời Chúa mang hình thức những lời cụ thể, được giải thích và thích ứng để có thể được nhân loại nghe và hiểu. Nếu không để ý tới điều đó, người ta có thể rơi vào thái độ chỉ hiểu Kinh Thánh theo nghĩa đen (fondamentalisme), thái độ này trong thực tế chối bỏ sự nhập thể của Lời Chúa trong lịch sự và không nhìn nhận rằng Lời được diễn tả trong Kinh Thánh theo ngôn ngữ loài người, và phải được giải ngữ (decifrato), nghiên cứu và hiểu”.

Trong ý hướng đó, Sứ điệp Thượng HĐGM thế giới nhấn mạnh sự cần thiết của ”Truyền thống sinh động của toàn thể Giáo Hội” (DV 12) và sự cần thiết của đức tin để hiểu Kinh Thánh một cách thống nhất và trọn vẹn.
Trong phần III nói về Giáo Hội như Căn nhà của Lời Chúa, các nghị phụ Thượng HĐGM trình bày 4 cột trụ lý tưởng nâng đỡ tòa nhà Giáo Hội, đó là giáo huấn của các tông đồ, sự hiệp thông trong việc Bẻ Bánh, kinh nguyện và sự hiệp thông huynh đệ.

Qua các cột trụ này, các nghị phụ nói về tầm quan trọng của việc giảng thuyết trong thánh lễ và thái độ của các vị giảng thuyết trong việc soạn thảo và trình bày bài giảng; tầm quan trọng của phụng vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ, giá trị của việc cầu nguyện, đặc biệt là phụng vụ các giờ kinh, việc đọc và cầu nguyện với Kinh Thánh, quen gọi là lectio divina; sau cùng sự hiệp thông huynh đệ như kết quả của việc lắng nghe và sống Lời Chúa một cách đích thực: Đời sống của những người tốt lành là một bài đọc sinh động về Lời Chúa.

Sau cùng, trong phần nói về sứ mạng truyền giáo, Sứ điệp của các nghị phụ gửi cộng đồng dân Chúa nhắc đến lời Chúa Kitô Phục Sinh dạy các môn đệ hãy ra đi rao giảng cho muôn dân. Các vị đặc biệt cổ võ việc dùng tất cả các phương tiện truyền thông tân kỳ ngoài các phương tiện cổ điển, để rao giảng Lời Chúa.

Sứ điệp cũng nhắc đến vai trò của gia đình và cổ võ việc sở hữu cũng như đọc Kinh Thánh trong gia đình; các nghị phụ liên đới với những người đau khổ và nghèo túng; đề cao tầm quan trọng của liên hệ với dân tộc Do thái, đối thoại đại kết và liên tôn, giá trị của văn hóa nghệ thuật để diễn tả Kinh Thánh.

Các nghị phụ nhắn nhủ rằng: ”Anh chị em thân mến, hãy giữ Kinh Thánh tại gia, hãy đọc, đào sâu và hiểu trọn vẹn các trang Kinh Thánh, hãy biến các trang này thành kinh nguyện và chứng tá cuộc sống, hãy lắng nghe Kinh Thánh với lòng tin yêu trong phụng vụ. Hãy kiến tạo sự thinh lẳng để lắng nghe Lời Chúa hữu hiệu và hãy giữ thinh lặng sau khi lắng nghe, để Lời Chúa tiếp tục ở lại, sống và nói với anh chị em. Hãy làm cho Lời Chúa vang dội vào đầu mỗi ngày của anh chị em, để THiên Chúa có lời đầu tiên và hãy để cho Lời Chúa vang âm trong anh chị em vào buổi tối để Lời Chúa là lời nói cuối cùng.”

”Chúng tôi phó thác anh chị em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Ngài” (TĐCV 20,32). Với cùng câu nói của Thánh Phaolô trong diễn văn từ biệt các vị thủ lãnh Giáo đoàn Ephêsô, các nghị phụ chúng tôi cũng phó thác các tín hữu thuộc các cộng đồng rải tác trên mặt đất cho Lời Chúa, Lời này cũng là lời phán xét, nhưng nhất là lời ân sủng, sắc như gươm nhưng cũng dịu ngọt như mật ong. Lời Chúa mạnh mẽ và vinh hiển, hướng dẫn chúng ta trên những nẻo đường lịch sử qua tay của Chúa Giêsu Đấng mà anh chị em cũng như chúng tôi đều yêu mến bằng một tình yêu vững bền không hư nát” (Eph 6,24)


Chiều 24-10-2008, các nghị phụ đã nhóm phiên họp toàn thể thứ 22 để nghe trình bày về danh sách 53 đề nghị đã được tu chính.

Trong phiên nhóm thứ 23 sáng thứ bẩy 25-10-2008, các nghị phụ sẽ bỏ phiếu chung kết thông qua các đề nghị để sau đó đệ lên ĐTC.

Tiếp đến, các nghị phụ và các tham dự viên khác sẽ dùng bữa trưa với ĐTC. Ban chiều Thượng HĐGM tái nhóm để nghe kết quả cuộc bỏ phiếu về các đề nghị. Công nghị GM thế giới kỳ thứ 12 sẽ bế mạc với thánh lễ trọng thể do ĐTC chủ sự lúc 10 giờ sáng chúa nhật 26-10-2008 tại Đền thờ Thánh Phêrô”. (SD 24-10-2008)


G. Trần Đức Anh OP

vante
31-10-2008, 10:23 AM
:Tanghoa:

Mến chúc anh chị em ” bình an cũng như bác ái và niềm tin từ Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô. Nguyện xin ân sủng ở cùng tất cả những người yêu mến Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta bằng một tình yêu không hư nát ”. Với lời chào nồng nhiệt và đầy yêu thương như thế, thánh Phaolô đã kết thúc Thư ngài gửi cho các tín hữu Kitô thành Ephêsô (6,23-24). Cũng với những lời ấy chúng tôi, các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục, nhóm khóa họp thường kỳ thứ 12 tại Roma, dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha Biển Đức 16, mở đầu sứ điệp này gửi tới chân trời mênh mông của tất cả những người thuộc các miền trên thế giới đang theo Chúa Kitô như những môn đệ của Ngài và tiếp tục yêu mến Chúa bằng tình yêu không hư nát. Chúng tôi tái đề nghị với họ tiếng nói và ánh sáng của Lời Chúa, lập lại lời mời gọi xưa kia: ” Lời này rất gần với bạn, ở nơi miệng và trong con tim của bạn, để bạn mang ra thực hành ” (Dnl 30,14). Chính Thiên Chúa sẽ nói với mỗi người: ” Hỡi con người, tất cả những lời Ta nói với ngươi, hãy đón nhận vào lòng và hãy lắng nghe bằng tai ” (Ed 3,10). Giờ đây, chúng tôi đề nghị với tất cả một cuộc hành trình thiêng liêng qua 4 giai đoạn, từ vĩnh cửu vô cùng của Thiên Chúa, dẫn chúng ta đến tận gia cư và dọc theo nẻo đường thành thị của chúng ta”.


Tiếng nói của Lời: Mạc Khải


1. ” Thiên Chúa đã nói với các ngươi giữa lửa hồng: các ngươi nghe tiếng nói, nhưng các ngươi không thấy hình dạng nào, không có gì khác ngoài tiếng nói !” (Dnl 4,12). Chính Môisê nói, khi gợi lại kinh nghiệm mà Israel đã trải qua trong cảnh cô độc cam go ở sa mạc Sinai. Tại đó, Chúa tự giới thiệu không phải như một ảnh hay hình nhân, hoặc tượng giống như con bò vàng, nhưng “như một âm thanh của lời nói”. Đó là một tiếng nói xuất hiện ngay từ đầu công trình tạo dựng khi màn thinh lặng của hư vô bị xé toang: ” Từ khởi thủy... Thiên Chúa nói: Hãy có ánh sáng! Và đã có ánh sáng... Từ khởi thủy đã có Lời.. và Lời là Thiên Chúa.. Tất cả được tạo thành nhờ Người và nếu không có Người thì chẳng có gì đang hiện hữu được tạo thành ” (St 1,1.3; Ga 1,1.3). Tạo vật không nảy sinh từ cuộc chiến giữa các thần minh như huyền thoại cổ xưa của miền Mesopotamie đã dạy, nhưng vạn vật được tạo thành từ một lời nói chiến thắng hư vô và tạo nên sự hữu. Tác giả Thánh Vịnh ca lên: ” Từ lời nói của Chúa, trời được tạo thành, từ hơi thở miệng Ngài tất cả đạo binh của Ngài.. vì Ngài đã nói và mọi sự liền có, Ngài truyền và mọi sự hiện hữu” (Tv33,6.9). Và Thánh Phaolô về sau lập lại: ” Thiên Chúa ban sự sống cho kẻ chết và kêu gọi những sự chưa có đi vào hiện hữu” (Rm 4,17). Thế là chúng ta có được mạc khải đầu tiên ”có tính chất vũ trụ” làm cho toàn thể thụ tạo giống như một trang bao la mở ra trước toàn thể nhân loại, và trong đó ta có thể đọc được sứ điệp của Đấng Tạo Hóa: ” Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Ngài làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. Chẳng một lời lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển ” (Tv 19,2-5).


2. Nhưng Lời Chúa cũng ở nơi căn cội của lịch sử loài người . Người nam và người nữ là ” hình ảnh giống Thiên Chúa ” (St 1,27) và vì thế họ mang trong mình dấu vết Thiên Chúa, họ có thể đối thoại với Đấng Tạo Hóa và cũng có thể xa lìa và chối bỏ Ngài do tội lỗi. Bấy giờ, Lời Chúa cứu vớt và xét xử, thấu nhập vào các tế bào lịch sử với những thăng trầm và các biến cố: ” Ta đã thấy, Ta đã thấy lầm than của dân Ta ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng kêu của họ.. phải, ta biết những lo âu của họ. Ta xuống để giải thoát họ khỏi tay người Ai Cập và đưa họ từ miền đất này tiến về một miền đất xanh tươi và rộng lớn ” (Xh 3,7-8). Vì thế có sự hiện diện của Chúa trong những biến cố của loài người, các biến cố này, qua hoạt động của vị Chúa Tể lịch sử, được ghi vào trong một ý định cứu độ cao cả hơn, để ” mọi người được cứu thoát và nhận biết chân lý ” (1 Tm 2,4).


3. Vì vậy Lời Chúa, hiệu năng, sáng tạo và cứu độ là nguồn gốc của vạn vật và lịch sử, công trình sáng tạo và cứu chuộc. Chúa đến gặp nhân loại và tuyên bố: ”Ta đã nói và ta đã làm!” (Ed 37,14). Nhưng còn một giai đoạn nữa mà tiếng nói của Chúa vượt qua: đó là giai đoạn lời được viết ra, Graphé hoặc Graphai, các Sách Thánh, như Tân Ước nói với chúng ta điều đó. Ông Môisê đã từ đỉnh núi Sinai đi xuống ”tay cầm hai bia đá ghi chứng từ, những tấm bia được viết hai mặt. Những tấm bia đó là công trình của Thiên Chúa, chữ viết là bút tích của Thiên Chúa ” (Xh 32, 15-16). Và chính Môisê truyền cho Israel phải giữ gìn và viết lại những ”bia chứng từ ấy”: ” Ngươi hãy viết trên đá tất cả những lời của luật này, bằng chữ thật rõ ràng” (Dnl 27,8).


”Kinh Thánh là 'chứng từ' của Lời Chúa dưới hình thức chữ viết, là văn kiện tưởng niệm theo qui luật, lịch sử và văn chương, làm chứng biến cố mạc khải sáng tạo và cứu độ. Vì thế, Lời Chúa đi trước và đi xa hơn Kinh Thánh, Kinh Thánh cũng được Thiên Chúa linh hứng, và chứa đựng Lời Chúa hiệu năng (cf 2 Tm 3,16). Chính vì thế, đức tin của chúng ta không có trọng tâm là cuốn Kinh Thánh mà thôi, nhưng là lịch sử cứu độ và một nhân vật là Chúa Giêsu Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể làm người và là lịch sử. Vì thế, người đọc Kinh Thánh luôn luôn cần có sự hiện diện của Chúa Thánh Linh, Đấng dẫn đến chân lý toàn vẹn (Ga 16,13). Đây chính là đại Truyền Thống, là sự hiện diện hữu hiệu của Thánh Thần chân lý trong Giáo Hội, là người giữ gìn Kinh Thánh, được Huấn Quyền Giáo Hội giải thích chính Với Truyền thống, ta đi đến sự hiểu biết, giải thích, thông truyền và làm chứng về Lời Chúa. Chính thánh Phaolô, khi công bố kinh Tin Kính đầu tiên của Kitô giáo, đã xác nhận mình ”truyền lại” điều đã nhận được từ Truyền Thống (1 Cr 15,3-5).


II. Khuôn mặt của Lời Chúa: Đức Giêsu Kitô


4. Trong nguyên ngữ Hy Lạp, chỉ có 3 từ căn bản: Lógos sarx eghéneto , ”Ngôi Lời/Lời nhập thể”. Đây không những là cao điểm trong Lời Tựa Tin Mừng theo thánh Gioan (1,14), một bảo vật quí giá về phương diện thi phú và thần học, nhưng còn là trọng tâm của đức tin Kitô. Lời vĩnh cửu và thần linh đi vào không gian vào thời gian, nhận lấy một khuôn mặt và căn cước phàm nhân, đến độ ta có thể đến gần và trực tiếp xin Ngài, như nhóm người Hy Lạp hiện diện ở thành Jerusalem: ”Chúng tôi muốn thấy Đức Giêsu ” (Ga 12,20-21). Những lời nói nào không có một khuôn mặt thì bất toàn, vì không thực hiện đầy đủ cuộc gặp gỡ, như ông Gióp đã nhắc nhớ vào cuối hành trình tìm kiếm bi thảm của ông: ” Con đã nhận biết Ngài qua điều Ngài nói, giờ đây mắt con trông thấy Ngài ” (42,5).


Chúa Kitô là ” Lời ở nơi Thiên Chúa và là Thiên Chúa ”, là ” hình ảnh Thiên Chúa vô hình, được sinh ra trước mọi loài thụ tạo ” (Cl 1,15); nhưng Ngài cũng là Đức Giêsu thành Nazareth bước đi trên những nẻo đường trong một tỉnh ngoại biên của đế quốc Roma, Ngài dùng ngôn ngữ địa phương, biểu lộ những sắc thái của một dân tộc, dân Do thái, và nền văn hóa của dân tộc này. Vì thế, Chúa Giêsu Kitô đích thực là một con người mong manh và hay chết, là lịch sử và nhân tính, nhưng cũng là vinh quang, là thần tính, mầu nhiệm: Ngài là Đấng đã mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa mà chưa ai được thấy (Ga 1,18). Con Thiên Chúa tiếp tục như thế cả trong thi hài được an táng trong mộ và sự sống lại của Ngài là chứng cớ sinh động và hữu hiệu về sự kiện ấy.


5. Truyền thống Kitô giáo thường đặt song song Lời Chúa nhập thể làm người với chính Lời Chúa trở thành sách. Đó là điều được nói đến trong kinh Tin Kính khi ta tuyên xưng rằng Con Thiên Chúa ”nhập thể làm người do hoạt động của Chúa Thánh Linh trong lòng Đức Trinh Nữ Maria ”, nhưng cả khi ta tuyên xưng niềm tin nơi ” Chúa Thánh Linh, Đấng đã nói qua các ngôn sứ ”. Công đồng chung Vatican 2 đã đón nhận truyền thống cổ kính theo đó ” Mình của Chúa Con là Kinh Thánh được thông truyền cho chúng ta ” - như thánh Ambrosio đã quả quyết (In Lucam VI, 33) và minh bạch tuyên bố rằng: ” Lời Chúa, được biểu lộ qua ngôn ngữ người trần, đã trở nên giống ngôn ngữ loài người, cũng như Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, sau khi nhận lấy những yếu đuối của bản tính con người, đã trở nên giống loài người ” (DV 13).


Thực vậy, Kinh Thánh cũng là ”xác thể”, là ”chữ” được diễn tả trong những ngôn ngữ đặc thù, qua những hình thức văn chương và lịch sử, trong những ý niệm gắn liền với một nền văn hóa cổ xưa, bảo tồn ký ức về những biến cố nhiều khi bi thảm, các trang Kinh Thánh nhiều khi đầy những vết máu và bạo lực, trong Kinh Thánh vang dội tiếng cười của nhân loại và những dòng nước mắt chảy dài, cũng như kinh nguyện của những kẻ bất hạnh được trổi lên và niềm vui của những kẻ yêu nhau. Do chiều kích ”thể xác” này Kinh Thánh cần có sự phân tích lịch sử và văn chương, theo nhiều phương pháp và lối đề cập vấn đề khác nhau mà khoa chủ giải Kinh Thánh cung cấp. Mỗi độc giả Kinh Thánh, dù là người đơn sơ nhất, đều phải có kiến thức tương ứng về Bản Văn thánh, và cần nhớ rằng Lời Chúa mang hình thức những lời cụ thể, được giải thích và thích ứng để có thể được nhân loại nghe và hiểu. Đây chính là một công việc cần thiết: nếu không để ý tới điều đó, người ta có thể rơi vào thái độ chỉ hiểu Kinh Thánh theo nghĩa chữ (fondamentalisme), thái độ này, trong thực tế, chối bỏ sự nhập thể của Lời Chúa trong lịch sử và không nhìn nhận rằng Lời được diễn tả trong Kinh Thánh theo ngôn ngữ loài người, và phải được giải đoán, nghiên cứu và hiểu, và thái độ như thế cũng cố tình không biết rằng sự linh hứng của Chúa không xóa bỏ căn tính lịch sử và nhân cách riêng của các tác giả nhân trần. Nhưng Kinh Thánh cũng là Lời vĩnh cửu thần linh và vì thế, Kinh Thánh đòi hỏi một sự hiểu biết khác, được Thánh Linh ban cho, Ngài là đấng biểu lộ chiều kích siêu việt của Lời Chúa, hiện diện trong những lời nhân trần.


6. Đó chính là sự cần thiết của ” Truyền thống sinh động của toàn thể Giáo Hội” (DV 12) và của đức tin để hiểu Kinh Thánh một cách thống nhất và trọn vẹn. Nếu ta chỉ dừng lại ở ”chữ viết”, thì Kinh Thánh chỉ là một văn kiện trang trọng của quá khứ, một chứng từ cao quí về mặt luân lý đạo đức và văn hóa. Đàng khác, nếu loại bỏ sự nhập thể, thì người ta có thể rơi vào sự lầm lạc duy nghĩa đen (fondamentalistico) hoặc một thái độ duy linh hay duy tâm lý mơ hồ. Vì vậy, kiến thức về chú giải phải liên kết chặt chẽ với truyền thống linh đạo và thần học để sự hiệp nhất giữa chiều kính thần linh và nhân trần của Chúa Giêsu Kitô và của Kinh Thánh không bị phá vỡ.

Trong sự hòa hợp được phục hồi như thế, khuôn mặt của Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trọn vẹn và giúp chúng ta khám phá một sự hiệp nhất khác, đó là sự hiệp nhất sâu xa và thâm thúy hơn của Bộ Kinh Thánh, gồm 73 cuốn, nhưng được tháp nhập vào một ”Sổ Bộ” duy nhất, một cuộc đối thoại duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, trong một ý định cứu độ duy nhất. ” Sau khi đã nói với các Tổ Phụ và Ngôn Sứ xưa kia, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, trong những ngày sau hết này, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Con của Ngài” (Dt 1,1-2). Như thế, Chúa Kitô chiếu ngược ánh sáng của Ngài vào toàn thể lịch sử cứu độ trước đó và cho thấy sự hòa hợp, ý nghĩa và đường hướng của lịch sử ấy.


Ngài là dấu ấn, ” Alpha và Omera ” (Kh 1,8) của cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và mọi loài thụ tạo, được kéo dài trong thời gian và được chứng thực trong Kinh Thánh. Chính dưới ánh sáng của dấu ấn cuối cùng ấy mà những lời của Môisê và các Ngôn Sứ đạt được ”ý nghĩa trọn vẹn”, như chính Chúa Giêsu đã nói, trong một buổi chiều mùa xuân, khi Ngài đi từ Jerusalem đến làng Emmaus, đối thoại với Cléophas và bạn ông, và Ngài giải thích cho họ ” những gì nói về Ngài trong toàn thể Kinh Thánh” (Lc 24,27). Sở dĩ như thế vì ở trọng tâm của mạc khải, có Lời Chúa trở thành khuôn mặt, mục đích tối hậu của kiến thức Kinh Thánh không phải ở ” trong một quyết định luân lý đạo đức hay một ý tưởng lớn, nhưng là cuộc gặp gỡ với một biến cố, với một Người, mang lại cho cuộc sống một chân trời mới và qua đó một hướng đi quyết định ” (Deus caritas est, 1).




Căn nhà của Lời Chúa: Giáo Hội


Như sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong Cựu Ước đã xây nhà trong thành thị của những người nam nữ và đặt nhà ấy trên 7 cột (cf Cn 9,1), cũng vậy Lời Chúa có nhà trong Tân Ứơc: chính Giáo Hội có khuôn mẫu ở trong cộng đồng mẹ Jerusalem, Giáo Hội được xây dựng trên Phêrô và các Tông Đồ, và ngày nay qua các Giám Mục hiệp thông với Đấng Kế Vị thánh Phêrô, tiếp tục là người bảo tồn, loan báo và giải thích Lời Chúa (cf LG 13). Thánh Luca, trong Tông Đồ Công Vụ (2,42), đã phác họa cấu trúc Giáo Hội dựa trên 4 cột trụ lý tưởng, ngày nay vẫn còn được các cộng đoàn Giáo Hội, với những hình thức khác nhau, làm chứng: ”Họ chuyên cần lắng nghe lời dạy của các Tông Đồ, trung thành với niềm hiệp thông huynh đệ, bẻ bánh và cầu nguyện”.


7. Trước tiên là didaché, giáo huấn Tông Đồ, tức là việc rao giảng Lời Chúa. Thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta rằng ” đức tin đến từ việc lắng nghe và lắng nghe ở đây là nghe Lời Chúa ” (Rm 10,17). Từ Giáo Hội nảy sinh tiếng nói của người công bố trình bày cho tất cả mọi người ”Kérygma”, tức là sự loan báo tiên khởi và cơ bản mà chính Chúa Giêsu đã loan báo khi Ngài mới bắt đầu sứ vụ công khai: ” Thời giờ đã mãn, và nước Chúa gần kề; anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng ” (Mc 1,15). Các tông đồ loan báo sự khai mạc Nước Thiên Chúa và đó là sự can thiệp quyết định của Chúa trong lịch sử nhân loại, các vị công bố cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô: ” Không có ơn cứu độ nơi người nào khác: thực vậy, dưới bầu trời này, không có danh xưng nào khác được ban cho loài người trong đó có thiết định rằng chúng ta được cứu thoát ” (Cv 4,12). Kitô hữu làm chứng về niềm hy vọng này ”một cách dịu dàng, tôn trọng và với lương tâm ngay chính”, nhưng cũng sẵn sàng chịu liên lụy và bị đảo lộn vì cơn lốc của thái độ từ chối và bách hại, với ý thức rằng ” chẳng thà chịu đau khổ khi làm điều thiện hơn là làm điều ác ” 1 Pr 3,16-17).


Rồi trong Giáo Hội, cũng vang lên lời huấn giáo : việc huấn giáo này nhắm đào sâu nơi Kitô hữu, ”mầu nhiệm Chúa Kitô dưới ánh sáng Lời Chúa để toàn thể con người được ánh sáng ấy chiếu tỏa ” (Gioan Phaolô 2, Catechesi tradendae, 20). Nhưng tột đỉnh của việc rao giảng là ở nơi bài giảng mà ngày nay đối với nhiều tín hữu Kitô, đó là lúc quan trọng chủ yếu để gặp gỡ với Lời Chúa. Trong việc giảng, thừa tác viên cũng phải trở thành ngôn sứ. Thực vậy, vị giảng thuyết phải có ngôn ngữ rõ ràng, quyết liệt và có chất lượng, không những ”loan báo một cách thế giá những công trình kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ” (SC 35), những công trình được trình bày trước tiên qua việc đọc một cách rõ ràng và sinh động bản văn Kinh Thánh mà phụng vụ đề nghị, nhưng cũng phải thời sự hóa những công trình ấy trong thời đại thính giả đang sống và làm nảy sinh nơi tâm hồn họ câu hỏi về sự hoán cải và sự dấn thân quyết liệt: ” Chúng tôi phải làm gì đây ?” (Cv 2,37).


Vì vậy, việc loan báo, huấn giáo và giảng thuyết đòi phải đọc, hiểu, diễn nghĩa và giải thích, một sự can dự của tâm trí trong đó. Trong việc giảng thuyết có hai chuyển động. Chuyển động thứ nhất, ta đi ngược tới căn cội của các đoạn Sách Thánh, các biến cố, những câu nói tạo nên lịch sử cứu độ, để hiểu chúng trong ý nghĩa và sứ điệp của chúng. Chuyển động thứ hai ta đi xuống hiện tại, tới cuộc sống thực tế của người nghe và đọc, luôn luôn dưới ở dưới ánh sáng của Chúa Kitô vốn là sợi dây rạng ngời nhắm thống nhất toàn thể Kinh Thánh. Đó là điều mà chính Chúa Giêsu đã làm - như đã nói - trong hành trình từ Jerusalem đến Emmaus, khi tháp tùng hai môn đệ của Ngài. Đó cũng là điều mà sau này Thầy Phó Tế Philiphê đã làm trên đường từ Jerusalem đến Gaza, khi Thầy bắt chuyện với một quan chức người Ethiopie: ” Ông có hiểu điều ông đang đọc không ?.” và ông đáp: ” Làm sao tôi có thể hiểu nếu không có ai chỉ dẫn cho tôi ?” (Cv 8,30-31). Và mục đích nhắm tới là gặp gỡ trọn vẹn với Chúa Kitô trong bí tích. Và đó là cột trụ thứ hai nâng đỡ Giáo Hội là nhà của Lời Chúa”.


8. Cột trụ này là việc Bẻ Bánh . Cảnh tượng Emmaus (cf Lc 24,13-35) một lần nữa lại là tấm gương và diễn lại điều xảy ra hằng ngày trong các thánh đường của chúng ta: tiếp nối bài giảng của Chúa Giêsu về Môisê và các ngôn sứ, là việc Bẻ Bánh Thánh Thể tại bàn ăn. Đó chính là lúc đối thoại thân tình của Thiên Chúa với dân của Ngài, là hành vi giao ước mới được ký kết trong máu Chúa Kitô (cf Lc 22,20), là công trình tột đỉnh của Ngôi Lời, Đấng hiến mình làm lương thực trong thân thể chịu hiến tế, là nguồn mạch và là tột đỉnh đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Trình thuật Tin Mừng về bữa Tiệc Ly, tưởng niệm hy tế của Chúa Kitô, khi được công bố trong Thánh Lễ, trong lời cầu xin Chúa Thánh Linh trở thành biến cố và bí tích. Chính vì thế, Công đồng chung Vatican 2 đã tuyên bố trong một đoạn rất xúc tích rằng: ” Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như đã tôn kính chính Mình Chúa Kitô, Giáo Hội không bao giờ bỏ qua, nhất là trong phụng vụ thánh, mà không nuôi dưỡng mình bằng Bánh Sự Sống nơi bàn tiệc Lời Chúa cũng như bằng Mình Chúa Kitô và trao ban cho các tín hữu ” (DV 21). Vì vậy, cần phải đưa trở lại vị trí trung tâm đời sống Kitô giáo ”phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, vốn được liên kết chặt chẽ với nhau đến độ họp thành một hành vi thờ phượng duy nhất ” (SC 56)


9. Cột trụ thứ ba của tòa nhà thiêng liêng Giáo Hội, nhà của Lời Chúa, là kinh nguyện được dệt bằng ”các ca vịnh, thánh ca và những bài ca tinh thần” (Cl 3,16) như thánh Phaolô đã nói. Phụng vụ các giờ kinh dĩ nhiên chiếm chỗ đứng ưu tiên, vì là kinh nguyện tuyệt hảo của Giáo Hội, nhắm phân nhịp ngày và mùa trong năm Kitô giáo, cung cấp lương thực thiêng liêng hàng ngày cho các tín hữu, nhất là với bộ thánh vịnh. Bên cạnh phụng vụ này và các buổi cử hành chung Lời Chúa, tuyền thống còn du nhập ”lectio divina”, tức là việc đọc và cầu nguyện trong Thánh Linh, có khả năng mở ra cho tín hữu kho tàng Lời Chúa, và cũng tạo nên cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô là Lời Chúa hằng sống.


Phương pháp này bắt đầu bằng việc đọc (lectio) đoạn Kinh Thánh, gợi lên một câu hỏi về việc hiểu biết chính xác nội dung đích thực của văn bản: đoạn Kinh Thánh này tự nó nói lên điều gì thế? Tiếp đến là suy niệm (meditatio) trong đó câu hỏi là: đoạn Kinh Thánh này nói gì với chúng ta? Và sau đó là cầu nguyện (oratio), việc làm này giả thiết một câu hỏi khác: chúng ta nói gì với Chúa để đáp lại Lời Ngài? và cuối cùng là chiêm niệm (contemplatio) trong đó chúng ta đón nhận như hồng ân của Chúa chính cái nhìn của Ngài khi nhận xét về thực tại và chúng ta tự hỏi: Chúa đang yêu cầu chúng ta phải hoán cải tâm trí và cuộc sống như thế nào?


Đứng trước người đọc và cầu nguyện với Lời Chúa có tấm gương lý tưởng của Mẹ Maria, Mẹ của Chúa, Mẹ ” đã giữ tất cả những điều ấy và suy niệm trong lòng ” (Lc 2,19;cf 2,51), nghĩa là - như nguyên bản tiếng Hy lạp chỉ rõ - tìm thấy một mấu chốt sâu đậm liên kết các biến cố, các hành động và sự việc trong kế hoạch rộng lớn của Thiên Chúa, tuy rằng bề ngoài chúng có vẻ rời rạc không liên hệ với nhau. Hoặc tín hữu khi đọc Kinh Thánh cũng có thể nghĩ đến thái độ của bà Maria, em bà Marta, ngồi dưới chân Chúa và lắng nghe lời ngài, không để cho những giao động bên ngoài hoàn toàn xâm chiếm trọn tâm hồn, dành không gian tự do cho ”phần tốt hơn” không bị tước đoạt mất (cf Lc 10, 38-42).


10. Và cột trụ cuối cùng nâng đỡ Giáo Hội, nhà của Lời Chúa, là ” koinonia, sự hiệp thông huynh đệ , một danh xưng khác của từ agápe, nghĩa là tình yêu Kitô. Như Chúa Giêsu nhắc nhớ, để trở thành anh chị em của Ngài, thì cần phải là ” những ngừơi lắng nghe Lời Chúa và mang ra thực hành ” (Lc 8,21). Lắng nghe đích thực chính là vâng lời và hành động, là làm cho công lý và tình thương nảy sinh trong cuộc sống, là làm chứng tá trong cuộc sống và trong xã hội theo đường hướng tiếng gọi của các ngôn sứ, liên tục nối kết Lời Chúa với cuộc sống, niềm tin và sự ngay chính, việc phụng tự và sự dấn thân xã hội. Đó là điều Chúa Giêsu đã nhiều lần lập lại, từ lời nhắn nhủ nổi tiếng trong Bài Giảng trên núi: ” Không phải kẻ nói rằng: Lạy Chúa, Lạy Chúa! mà được vào nước trời, nhưng là những người thi hành ý Cha Thầy ở trên trời” (Mt 7,21). Trong câu nói này dường như vang âm Lời Chúa đã được ngôn sứ Isaia trình bày: ” Dân này chỉ đến gần Ta bằng lời nói, cầu khẩn Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng xa Ta” (29,13). Lời cảnh giác này cũng nói về các Giáo Đoàn khi họ không trung thành lăng nghe Lời Chúa trong tinh thần vâng phục. Vì thế, Lời Chúa phải hiển hiện và có thể đọc được trên khuôn mặt, và trong đôi tay của tín hữu, như thánh Gregorio Cả đã gợi ý khi thấy nơi thánh Biển Đức và các vĩ nhân khác của Chúa như những chúng nhân về sự hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em, Lời Chúa được biến thành cuộc sống. Người công chính và trung thành không phải chỉ ”giải thích” Kinh Thánh, nhưng còn ”triển khai” Kinh Thánh trước mọi người như một thực tại sinh động và được thực hành. Chính vì thế ” viva lectio, vita bonorum ”, đời sống của những người tốt lành là một bài đọc/bài học sinh động về Lời Chúa. Thánh Gioan Kim Khẩu đã nhận xét rằng các tông đồ xuống núi Galilea, nơi mà trước đó các vị đã gặp Chúa Phục sinh, các vị không mang theo bia đá được viết chữ trên đó như trường hợp ông Môisê: từ lúc đó chính cuộc sống của các tông đồ đã trở thành sách Tin Mừng sống động.



Trong nhà của Lời Chúa, chúng ta cũng gặp các anh chị em của các Giáo Hội khác và các cộng đồng Giáo Hội , tuy vẫn còn chia cách, nhưng vẫn cùng liên kết với chúng ta trong việc kính mến Lời Chúa là nguyên lý và là nguồn mạch của sự hiệp nhất đầu tiên và thực sự, cho dù sự hiệp nhất này không toàn vẹn. Mối liên hệ này phải luôn luôn được củng cố qua các bản dịch Kinh Thánh cung, phổ biến Sách Thánh, cầu nguyện đại kết với Kinh Thánh, đối thoại về chú giải, nghiên cứu và đối chiếu các giải thích khác nhau về Kinh Thánh, trao đổi các giá trị hiện hữu trong các truyền thống linh đạo khác nhau, loan báo và làm chứng tá chung về Lời Chúa trong một thế giới bị tục hóa”.




Những nẻo đường của Lời Chúa: việc truyền giáo


” Từ Sion Thánh Luật ban xuống và từ Jerusalem Lời Chúa phán truyền ” (Is 2,3). Lời Chúa được nhân cách hóa ”đi ra” khỏi nhà mình, ra khỏi đền thờ và tiến bước dọc theo những nẻo đường thế giới để gặp cuộc đại lữ hành mà các dân tộc trên trái đất đã khởi xướng hầu tìm kiếm chân lý, công lý và hòa bình. Thực vậy, cả nơi các thành thị hiện đại bị tục hóa, nơi các quảng trường và đường phố, nơi mà dường như thái độ bất tín và dửng dưng đang hiển trị, nơi mà sự ác dường như lướt thắng sự thiện, tạo cho người ta có cảm tưởng thành Babilone chiến thắng Jerusalem, vẫn có một khao khát thầm kín, một niềm hy vọng manh nha, một nỗi rên xiết mong chờ. Như ta đọc thấy trong sách ngôn sứ Amos, ” Này đây sẽ đến ngày Ta gửi đói khát đến trong xứ, không phải đói cơm bánh, cũng chẳng phải là khát nước, nhưng là đói khát nghe Lời Chúa ” (8,11). Sứ mạng truyền giảng Tin Mừng của Giáo Hội muốn đáp ứng sự đói khát ấy.


Cả Chúa Kitô phục sinh cũng kêu gọi các tông đồ đang do dự hãy ra khỏi biên cương chân trời được bảo bọc của họ: ” Các con hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.. giảng dạy họ tuân giữ tất cả những gì Thầy đã truyền cho các con ” (Mt 28,19-20). Kinh Thánh đầy những lời mời gọi ”đừng im tiếng”, hãy ”gào lên”, hãy ”loan báo Lời Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện”, hãy trở thành những người lính canh phá tan im lặng của sự dửng dưng lãnh đạm. Những nẻo đường mở ra trước chúng ta giờ đây không phải chỉ là những con đường trên đó thánh Phaolô hoặc những nhà truyền giáo đầu tiên đã đi qua, hoặc sau các vị, là tất cả những nhà thừa sai tìm đến với dân ngoại ở những vùng đất xa xăm.


11. Giờ đây, việc truyền thông trải rộng một mạng lưới bao trùm toàn thể địa cầu và lời mời gọi của Chúa Kitô nay có một ý nghĩa mới: ” Điều mà Thầy nói với các con trong bóng tối hãy nói trong ánh sáng, và điều các con nghe rỉ tai hãy rao giảng trên mái nhà ” (Mt 10,27). Chắc chắn, Lời Kinh Thánh phải duy trì sự hiển hiện đầu tiên và phổ biến qua văn bản được in ấn, với những bản dịch được thực hiện theo những ngôn ngữ khác nhau trên trái đất. Nhưng tiếng nói của Lời Chúa cũng phải vang dội qua đài phát thanh, các mạng Internet, các kênh truyền bá trực tuyến, các đĩa CD, DVD, các Podcast, vv; Lời Chúa phải xuất hiện trên các màn ảnh truyền hình, điện ảnh, trên báo chí, trong các biến cố văn hóa và xã hội.


Hình thức truyền thông mới mẻ này, so với truyền thông theo truyền thống, có những qui luật riêng để diễn tả và vì thế, cần phải trang bị, không những về mặt kỹ thuật, nhưng cả về mặt văn hóa cho công trình này. Trong một thời đại bị hình ảnh thống trị, hình ảnh được trình bày đặc biệt qua phương tiện trổi vượt trong ngành truyền thông là truyền hình, kiểu mẫu được Chúa Kitô ưu tiên sử dụng vẫn còn đầy ý nghĩa và gợi ý. Ngài dùng các biểu tượng, kể chuyện, ví dụ, kinh nghiệm thường nhật, dụ ngôn: ” Chúa nói với họ về nhiều điều bằng dụ ngôn.. và Ngài không nói gì với dân chúng mà không dùng dụ ngôn ” (Mt 13,3.34). Khi loan báo nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu không bao giờ lướt trên đầu những người đối thoại với một thứ ngôn ngữ mơ hồ, trừu tượng và xa lạ, nhưng Ngài chinh phục họ ngay từ phần đất nơi họ đặt chân lên, để hướng dẫn họ, từ cuộc sống thường nhật đến mạc khải nước trời. Vì thế, cảnh tượng mà thánh Gioan gợi lại thật là ý nghĩa: ” Một số người muốn bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai dám ra tay bắt Ngài. Lính canh trở về gặp các trưởng tế và người Biệt Phái; những người này nói với họ: Tại sao các người không điệu hắn về đây? Lính canh đáp: ”Chưa hề có ai nói như ông ấy !” (7,44-46).


12. Chúa Kitô tiến bước dọc theo những con đường trong thành thị chúng ta và dừng lại trước ngưỡng của nhà chúng ta: ”Này đây, Ta đứng ở cửa và gõ. Nếu có ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào, dùng bữa tối với người ấy và người ấy ở với Ta ” (Kh 3,20). Gia đình , với những niềm vui và thảm kịch trong 4 bức tường gia cư, là một không gian cơ bản mà Lời Chúa phải đi vào. Kinh Thánh rải rác những mẫu chuyện lớn nhỏ về gia đình và tác giả Thánh Vịnh mô tả một cách linh hoạt khung cảnh thanh thản một người cha ngồi tại bàn ăn, với người vợ, giống như cây nho sai trái, và các con cái, như những ”ngành ôliu” (Tv 128). Chính Kitô giáo nguyên thủy đã cử hành phụng vụ trong đời sống thường nhật của một gia cư, cũng như Israel ủy thác cho gia đình việc cử hành lễ Vượt Qua (cf Xh 12,21-27). Sự thông truyền Lời Chúa diễn ra qua hệ thống gia đình, trong đó cha mẹ trở thành ”những người đầu tiên thông truyền đức tin” (LG 11). Và tác giả Thánh Vịnh cũng nhắc nhớ rằng ” điều mà chúng tôi đã nghe và đã biết, và cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi, chúng tôi không giấu diếm con cái chúng tôi, nhưng kể lại cho thế hệ mai sau những hoạt động vinh hiển và quyền năng của Chúa và những kỳ công Chúa đã làm.. và sau này chúng sẽ kể lại cho con cháu của chúng ” (Tv 78,3-4.6).


Vì thế, mỗi nhà cần có cuốn Kinh Thánh riêng, gìn giữ cẩn thận và xứng đáng, đọc và cầu nguyện với Kinh Thánh; gia đình phải đề ra những hình thức và kiểu mẫu giáo dục cầu nguyện, huấn giáo, học hỏi về việc sử dụng Kinh Thánh, để ”các thanh niên thiếu nữ, người già cùng với trẻ em” (Tv 148,12) lắng nghe, hiểu, chúc tụng và sống Lời Chúa. Đặc biệt các thế hệ trẻ, trẻ em và người trẻ, phải được giáo dục thích hợp và chuyên biệt để giúp họ cảm thấy sự thu hút của hình ảnh Chúa Kitô, mở rộng cửa trí thông minh và tâm hồn họ, kể cả bằng những cuộc gặp gỡ và chứng tá chân thực của người lớn, ảnh hưởng tích cực của bạn hữu và sự tháp tùng rộng lớn của cộng đồng Giáo Hội.


13. Chúa Giêsu, trong dụ ngôn về người gieo giống, nhắc nhở chúng ta rằng có những thửa đất khô cằn, nhiều sỏi đá, bị những bụi gai bóp nghẹt (cf Mt 13,3-7). Ai tiến bước trên những nẻo đường thế giới cũng khám phá thấy những hố trũng, những đau khổ và nghèo đói , tủi nhục và áp bức, nạn bị gạt ra ngoài lề và lầm than, bệnh tật thể lý và tâm lý, cô đơn. Nhiều khi những sỏi đá trên đường bị đẫm máu vì chiến tranh và bạo lực, nơi các dinh thự quyền lực nạn tham nhũng quyện với bất công. Vang lên tiếng kêu của những người bị bách hại vì trung thành với lương tâm và niềm tin của họ. Có những người bị chao đảo vì cuộc khủng hoảng hiện sinh hoặc có một tâm hồn vắng bóng hướng đi mang lại ý nghĩa và giá trị cho chính cuộc sống. Giống như ”những bóng đi qua, như một hơi thở tàn lụi” (Tv 39,7), nhiều người cảm thấy bị đè nặng vì sự im lặng của Thiên Chúa, vì Ngài dường như vắng bóng và dửng dưng: ” Lạy Chúa, Chúa tiếp tục quên con cho đến bao giờ? Chúa che giấu tôn nhan với con cho đến bao giờ ?” (Tv 13,2). Và sau cùng là mầu nhiệm sự chết xuất hiện trước mắt mọi người.


Tiếng thở than khắp nơi vì đau khổ như thế đi từ đất lên tới trời cao không ngừng được Kinh Thánh diễn tả, Kinh Thánh đề nghị một đức tin có chiều kích lịch sử và nhập thể. Chỉ cần nghĩ đến những trang đầy bạo lực và áp bức, tiếng kêu ai oán và liên lỷ của Ông Gióp, những lời cầu khẩn thiết tha trong Thánh vịnh, cuộc khủng hoảng tinh tế trong nội tâm phủ ngập tâm hồn Qohelet, những lời tố giác mạnh mẽ của các ngôn sứ chống lại các bất công xã hội. Đàng khác, tội lỗi căn cội bị quyết liệt lên án, không chút giảm khinh, tội lỗi xuất hiện với tất cả quyền lực tàn phá của nó ngay từ đầu nhân loại trong một văn bản nền tảng của sách Sáng Thế (c.3). Thực vậy, ”mầu nhiệm sự ác” hiện diện và hành động trong lịch sử, nhưng nó bị Lời Chúa vạch trần, trong Đức Kitô, Thiên Chúa bảo đảm chiến thắng của sự thiện trên sự ác.


Nhưng trong Kinh Thánh, hình ảnh trổi vượt nhất chính là Chúa Kitô, Ngài khai mạc sứ vụ công khai với mộ lời loan báo hy vọng cho những người rốt cùng trên trái đất: “Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi; vì thế Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi và sai tôi đi mang tin mừng cho người nghèo khó, công bố sự giải thoát cho các tù nhân và người mù được thấy; trả tự do cho những người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Đôi tay của Chúa bao lần đặt trên những thân thể bệnh hoạn hoặc bị nhiễm bệnh, lời Ngài công bố công lý, trao ban hy vọng cho người bất hạnh, ban ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi. Sau cùng, chính Ngài hạ mình xuống mức độ tột cùng, ” từ bỏ mọi vinh quang, mặc lấy thân phận tôi tớ, trở nên giống phàm nhân.. Ngài cư xử như một người thường và càng hạ mình hơn nữa, vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá ” (Pl 2,7-8).




Vì thế, Ngài cảm thấy sợ chết (”Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này xa con!), cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi, và bị bạn hữu phản bội, đi sâu vào trong tối tăm của đau đớn dữ dằn nhất về thể lý với cuộc đóng đanh, và thậm chí cả trong tăm tối do sự im lặng của Chúa Cha (”Lạy Chúa của con, Lạy Chúa con, sao Chúa bỏ con ?”) và đi tới tận vực thăm của mỗi người, vực thẳm của cái chết (”Ngài kêu lớn tiếng rồi tắt thở ”). Quả thực người ta có thể áp dụng cho Ngài định nghĩa mà ngôn sứ Isaia đã đành cho Người Tôi Tớ Chúa: ” Người của đau khổ, quen thuộc với khổ đau” (53,3). Nhưng chính trong lúc cùng cực ấy, Ngài không ngừng là Con Thiên Chúa: trong tình liên đới yêu thương và với sự hy sinh bản thân, Ngài đặt trong sự giới hạn và trong sự ác của nhân loại một hạt giống thiên tính, hay một nguyên lý giải thoát và cứu độ; qua sự hiến thân cho chúng ta, qua sự cứu chuộc, Ngài chiếu sáng đau khổ và chết chóc mà Ngài đã chấp nhận và sống, và cũng mở ra cho cả chúng ta bình binh của sự sống lại. Vì thế, Kitô hữu có sứ mạng loan báo Lời Chúa hy vọng, bằng cách chia sẻ với người nghèo và người đau khổ, bằng chứng tá đức tin trong Nước sự thật và sự sống, thánh thiện và ân phúc, công lý, tình thương và hòa bình, qua sự gần gũi yêu thương không xét đoán và kết án, nhưng nâng đỡ, soi sáng, an ủi và tha thứ, theo Lời Chúa Kitô: ” Hãy đến cùng tôi hỡi anh em là những người mệt mỏi và bị áp bức, tôi sẽ bổ dưỡng cho ” (Mt 11,28).


14. Trên những nẻo đường thế giới, Lời Chúa tạo cho các tín hữu Kitô một cuộc gặp gỡ khẩn trương với dân tộc Do thái , mà chúng ta có liên hệ mật thiết vì cùng nhìn nhận và yêu mến Kinh Thánh Cựu Ước và vì từ Israel ”Chúa Kitô đến theo xác thể” (Rm 9,5). Tất cả các trang Sách Thánh Do thái chiếu sáng mầu nhiệm Thiên Chúa và con người, biểu lộ các kho tàng suy tư và luân lý, vạch rõ hành trình dài của lịch sử cứu độ cho đến khi viên mãn, mạnh mẽ chiếu sáng cuộc nhập thể của Lời Chúa trong những biến cố con người. Những trang Sách Thánh ấy cho chúng ta hiểu trọn vẹn hình ảnh Chúa Kitô, Ngài đã tuyên bố ” tôi đến không phải để hủy bỏ Luật và các Ngôn Sứ, nhưng để hoàn tất ” (Mt 5,17). Các trang ấy là con đường đối thoại với dân tuyển đã ”được Thiên Chúa nhận làm con, được vinh quang, giao ước, lề luật, việc phụng tự và lời hứa” (Rm 9,4), và phong phú hóa sự giải thích của chúng ta về Kinh Thánh với những nguồn mạch phong phú của truyền thống chú giải Do thái.


” Phúc cho người Ai Cập dân Ta, người Assiri công trình của tay Ta và Israel gia sản của Ta” (Is 19,25). Vì thế Chúa mở rộng áo choàng bảo bọc của phúc lành Ngài trên mọi dân tộc trên trái đất, Chúa muốn rằng ” Mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý ” (1 Tm2,4). Cả các tín hữu Kitô chúng ta, dọc theo những con đường của thế giới, cũng được mời gọi đi vào cuộc đối thoại, trong niềm tôn trọng, với những người nam nữ thuộc các tôn giáo khác mà không rơi vào chủ trương tôn giáo hỗn hợp lẫn lộn và làm suy giảm căn tính tinh thần của mình. Họ là những người lắng nghe và trung thành thực hành những chỉ dẫn trong Sách Thánh liên hệ, bắt đầu từ Hồi giáo là tôn giáo đón nhận nhiều nhân vật, biểu tượng và đề tài Kinh Thánh vào trong truyền thống của họ, và nêu cho chúng ta chứng tá một đức tin chân thành nơi Thiên Chúa duy nhất, từ bi và thương xót, là Đấng Sáng Tạo mọi loài và là Thẩm Phán của nhân loại.


Ngoài ra, Kitô hữu tìm được những hòa hợp chung với các truyền thống tôn giáo lớn từ Đông phương; qua các Sách Thánh của họ, họ dạy chúng ta sự tôn trọng sự sống, sự chiêm niệm, thinh lặng, đơn sơ, từ bỏ, như trong Phật giáo. Hoặc như trong Ấn giáo, có sự ca ngợi ý thức thánh thiêng, hy sinh, hành hương, chay tịnh, những biểu tượng thánh thiêng. Hoặc, trong Khổng giáo, họ dạy sự khôn ngoan và các giá trị gia đình và xã hội. Cả đối với các tôn giáo cổ truyền với các giá trị tinh thần của họ được biểu lộ qua các nghi lễ và qua các nền văn hóa truyền khẩu, chúng ta cũng muốn bày tỏ mối quan tâm thân tình và đối thoại với họ trong niềm tôn trọng, Và cả những người không tin Thiên Chúa, nhưng đang cố gắng ” thực hành công lý, yêu mến điều tốt lành, tiến bước trong sự khiêm tốn ” (Mi 6,8), chúng ta phải cộng tác với họ để đạt tới một thế giới công bằng và an bình hơn, và trong cuộc đối thoại, làm chứng tá chân thành về Lời Chúa, Đấng có thể tỏ lộ cho họ những chân trời mới mẻ và cao cả hơn của chân lý và tình thương.

15. Trong Thư gửi các nghệ sĩ (1999), Đức Gioan Phaolô 2 nhắc nhớ rằng ”Kinh Thánh đã trở thành một thứ ”Bộ từ điển mênh mông” (Paul Claudel) và một thừ ”bản đồ ảnh tượng” (Marc Chagall) mà văn hóa và nghệ thuật Kitô kín múc từ đó” (n.5). Văn hào Goethe xác tín rằng sách Tin Mừng là ”tiếng mẹ của Âu Châu”. Như người ta vẫn thường nói, Kinh Thánh là ”Bộ luật lớn nhất” của văn hóa hoàn cầu: các nghệ sĩ đã ”chấm” bút vẽ vào trong bộ mẫu tự ấy, được trang điểm bằng bao nhiêu câu chuyện, biểu tượng, hình ảnh trong các trang Kinh Thánh; các nhạc sĩ đã lấy hứng từ các văn bản thánh, nhất là các thánh vịnh, để tạo nên các bản hợp xướng của họ; các văn sĩ, qua bao thế kỷ, đã lấy lại các trình thuật cổ xưa để biến thành các dụ ngôn hiện sinh; các thi sĩ đã tự hỏi về mầu nhiệm tinh thần, về vô biên, sự ác, tình yêu, sự chất và sự sống, thường lấy hứng thơ văn từ các trang Kinh Thánh; các nhà tư tưởng, khoa học gia và ngay cả xã hội nhiều khi cũng tham chiếu các quan niệm tinh thần và luân lý đạo đức của Lời Chúa, cho dù là để đối nghịch (ví dụ chúng ta nghĩ tới Mười Giới Răn). Cả khi hình ảnh hoặc ý tưởng hiện diện trong Kinh Thánh bị bóp méo, người ta vẫn nhận thực rằng hình ảnh hay ý tưởng ấy là điều không thể thiếu được và chúng tạo nên nền văn minh chúng ta.

Chính vì thế, Kinh Thánh là điều cần thiết không những đối với các tín hữu, nhưng cả với tất cả mọi người để tái khám phá ý nghĩa đích thực của các thành ngữ văn hóa và nhất là tìm lại chính căn tính lịch sử, văn minh, nhân bản và tinh thần của chúng ta. Kinh Thánh cũng dạy chúng ta via pulchritudinis , con đường thẩm mỹ, để hiểu và đạt tới Thiên Chúa (như Thánh vịnh thứ 47,8 mời gọi chúng ta: ” Hãy hát mừng Thiên Chúa bằng nghệ thuật !”). Chính nơi Kinh Thánh có căn cội sự cao cả của chúng ta và qua đó chúng ta có thể tự giới thiệu với một gia sản cao quí cho các nền văn minh và văn hóa khác, không mang mặc cảm tự ti nào. Vì thế, Knh Thánh phải được mọi người nhận biết và nghiên cứu, dưới khía cạnh vẻ đẹp và sự phong phú nhân bản và văn hóa.

Tuy nhiên, Lời Chúa ”không bị xiềng xích” vào một nền văn hóa nào, nói theo hình ảnh đầy ý nghĩa của thánh Phaolô (2 Tm 2,9); trái lại, Kinh Thánh khao khát vượt lên các biên giới và chính Thánh Tông đồ là người đặc biệt thực hiện sự Hội nhập văn hóa sứ điệp Kinh Thánh vào các nên văn hóa mới. Đó chính là điều mà Giáo Hội ngày nay được mời gọi thực hiện qua một tiến trình tế nhị nhưng cần thiết đã được giáo huấn của ĐGH Biển Đức 16 đẩy mạnh. Giáo Hội phải làm cho Lời Chúa thấu nhập vào các nền hóa khác nhau và biểu lộ Lời Chúa theo các ngôn ngữ, ý niệm, biểu tượng và truyền thống tôn giáo của họ. Nhưng Giáo Hội luôn luôn phải có khả năng bảo tồn bản chất chân thực nội dung của Kinh Thánh, canh chừng và kiểm soát những nguy cơ đi lệch đường.


Vì thế, Giáo Hội phải làm cho các giá trị mà Lời Chúa cống hiến cho các nền văn hóa khác, được chiếu sáng rạng ngời, để các nền văn hóa này được thanh tẩy và trở nên phong phú. Như Đức Gioan Phaolô 2 đã nói với hàng Giám Mục Kenya trong cuộc viếng thăm tại Phi châu hồi năm 1980, ” Sự hội nhập văn hóa sẽ thực sự phản ánh việc nhập thể của Ngôi Lời, khi một nền văn hóa được biến đổi và tái sinh nhờ Tin Mừng, tạo nên những kiểu diễn tả độc đáo về sự sống, về việc cử hành và tư tưởng Kitô, trong chính truyền thống của mình”.


KẾT LUẬN


” Tiếng nói mà tôi đã nghe từ trời nói với tôi: ”Hãy cầm lấy cuốn sách được tay thiên thần mở ra ..”. Và thiên thần nói với tôi: ” Hãy cầm lấy và ăn ngấu nghiến; nó sẽ làm cho ruột ngươi đầy cay đắng, nhưng miệng ngươi sẽ ngọt như mật ong”. Tôi cầm lấy cuốn sách nhỏ từ tay thiên thần và ăn ngấu nghiến; trong miệng tôi cảm thấy ngọt như mật, nhưng sau khi tôi nuốt vào, tôi cảm thấy trong ruột tất cả sự cay đắng ” (Kh 10,8-11).


”Anh chị em thân mến trên toàn thế giới, cả chúng ta cũng hãy đón nhận lời mời gọi ấy; chúng ta hãy đến gần bàn tiệc Lời Chúa, để nuôi sống mình ” không những bằng bánh nhưng còn bằng những gì từ miệng Thiên Chúa phán ra ” (Dnl 8,3; Mt 4,4). Như một vĩ nhân của nền văn hóa Kitô giáo đã quả quyết, Kinh Thánh ” có những đoạn thích hợp để củng cố mọi hoàn cảnh nhân loại và những đoạn thích hợp để gây sợ hãi ” (B. Pascal, Tư Tưởng, n.532, Ed. Brunschvicg). Thực vậy, Lời Chúa ”ngọt hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19,11), và là ”đèn soi bước chân và ánh sáng soi đường đi” (Tv 119,105). Nhưng cũng như ”lửa hồng và như cái búa đập vỡ tảng đá” (Gr 23,29). Lời Chúa như mưa tưới gội đất đai, làm cho đất phì nhiêu và làm nảy mầm, như thế làm cho cả sự khô cằn của các sa mạc tinh thần chung ta được trổ bông (cf Is 55,10-11). Nhưng Lời Chúa cũng ” sinh động, hữu hiệu, sắc bén hơn gươm hai lưỡi; thấu tận nơi phân cách trong linh hồn và tinh thần, đến tận xương tủy và phân biệt những tình cảm và tư tưởng của con tim ” (Dt 4,12).


Chúng tôi thân ái nghĩ đến các học giả, các giáo lý viên và những người phục vụ Lời Chúa, để bày tỏ với họ lòng biết ơn nồng nhiệt và chân thành vì sứ vụ quí giá và quan trọng của họ. Chúng tôi cũng ngỏ lời với các anh chị em đang bị bách hại hoặc bị sát hại vì Lời Chúa và vì chứng tá của họ cho Chúa Giêsu (Kh 6,9): với tư cách là chứng nhân và tử đạo, họ kể cho chúng ta ”sức mạnh của Lời Chúa” (Rm 1,16), là nguồn cội đức tin, đức cậy và lòng yêu mến của họ đối với Thiên Chúa và con người.


Vậy chúng ta hãy kiến tạo sự thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa một cách hữu hiệu và bảo tồn sự thinh lặng sau khi lắng nghe, để Lời Chúa tiếp tục ở lại, sống và nói với anh chị em. Hãy làm cho Lời Chúa vang dội vào đầu mỗi ngày của anh chị em, để Thiên Chúa là lời đầu tiên và hãy để cho Lời Chúa vang âm trong anh chị em vào buổi tối để Lời Chúa là lời nói cuối cùng.” Anh chị em thân mến, ”tất cả những người đang ở với chúng tôi chào chào thăm anh chị em. Xin anh chị em chào thăm tất cả những người yêu mến chúng tôi trong đức tin. Xin ân sủng ở cùng tất cả anh chị em ” (Tt 3,15).



G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

vante
13-11-2008, 08:53 AM
:106:Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới có ích lợi gì?:106:


http://www.gpbanmethuot.net/uploads/News/pic/small_1225378792.nv.jpg


Thượng Hội Đồng đến rồi Thượng Hội Đồng đi, đến nay đã là lần thứ 12 và ngay lúc THĐ này chưa chấm dứt thì đã có chuyện “bầu bán” một hội đồng gồm 15 vị giáo phẩm cao cấp đại diện mọi miền thế giới để chuẩn bị cho THĐ kế tiếp,
dù chưa biết THĐ ấy khi nào họp và họp về vấn đề gì. Có người hỏi: Thượng Hội Đồng phải chăng cũng chỉ là một cuộc chạy đua marathon bằng lời giữa các bậc thức giả và mục tử năm châu? Nào có ích lợi chi? Như Nathanael ngày xưa khi được Philip kể về Chúa Giêsu thành Nadarét, đã “phang” một câu: “Có chi đáng giá phát xuất từ Nadarét đâu?”. Philip chỉ ôn tồn bảo: “Thì đến mà coi!”.

Thành tựu dĩ vãng

Các THĐ ít khi gây được hiệu quả trực tiếp, tức khắc đối với cuộc sống của tín hữu. Tuy nhiên, một số THĐ trong quá khứ được nhiều người ghi nhớ nhờ các đóng góp đáng kể cho Giáo Hội và thế giới.

Cha Thomas Rosica, CSB, một trong năm tùy viên báo chí của THĐ lần này, nhắc tới THĐ năm 1971, là THĐ đã bàn đến cả hai vấn đề: chức linh mục thừa tác và công lý trên thế giới. Về chủ đề thứ hai, các giám mục đã đưa ra lời tuyên bố hết sức sâu sắc như sau: “Đối với chúng tôi, hành động nhân danh công lý và tham gia vào việc biến cải thế giới chính là một chiều kích cấu thành sứ mệnh rao giảng Phúc Âm”. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, sau đó, đã ủng hộ ý niệm ấy khi minh xác rằng hành động vì công lý không phải là việc tùy tiện muốn làm hay không trong lối sống Kitô giáo của một thiểu số ưu tú.

Sau THĐ năm 1974 về phúc âm hóa, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban hành một tông huấn, được nhiều nghị phụ của THĐ lần này trích dẫn, nhấn mạnh tới trách nhiệm của mọi người Công Giáo phải truyền bá tin mừng. Ngài cũng khẳng định vai trò độc đáo của các nhà truyền giáo trong tghế giới hiện đại và thách đố đặc biệt phải bản vị hóa Phúc Âm bằng cách kính trọng các phong tục và niềm tin của địa phương.

Sau THĐ năm 1980 về gia đình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khuyến khích các gia đình hãy “trở nên điều các con vốn là”, tức một cộng đồng nhân vị dấn thân vào đối thoại và phục vụ Giáo Hội cũng như xã hội, qua hình ảnh của Công Đồng Vatican II coi gia đình như một giáo hội tại gia.

Sau THĐ năm 1988 về giáo dân, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lên tiếng ca ngợi sự tham gia của hàng ngũ giáo dân vào sinh hoạt của Giáo Hội, không quên tái khẳng định ơn gọi đầu hết của họ là “lên men” cho xã hội.

Các hệ quả trực tiếp

Cha Thomas Rosica cho rằng trái với thái độ của những kẻ hoài nghi, hơn bất cứ THĐ nào trước đây, THĐ lần này sẽ có những hệ quả trực tiếp đối với người Công Giáo và các Kitô hữu khác. Cha dựa vào sứ điệp sau cùng của THĐ lần này để quả quyết việc đó.

Sứ điệp trên đã được toàn thể THĐ chấp thuận tại phiên khoáng đại thứ 21. Đây là một sứ điệp dài, do một học giả Thánh Kinh Ý là Đức Tổng Giám Mục Gianfranco Ravasi, soạn thảo. Ngài vốn là một nhân vật nổi tiếng của ngành truyền hình và hiện là chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hóa, Di Sản Văn Hóa và Khảo Cổ Thánh. Theo cha Rosica, nội dung sứ điệp này đã được kết cấu chặt chẽ, có thể dùng làm tài liệu suy niệm sâu sắc về Thánh Kinh, tuy cần phải “được tháo gói” (unpacked). Sau đây là một số trích đoạn:

“Bốn điểm chúng tôi muốn kêu gọi sự chú ý của dân Chúa và chúng tôi xin đề cập tới bốn điểm này qua bốn hình ảnh sau đây: Tiếng Nói, Khuôn Mặt, Căn Nhà và Con Đường Lời Chúa.

“Tiếng Nói của Chúa…đã vang lên từ buổi nguyên thủy của sáng thế…làm xuất hiện các kỳ công của vũ trụ. Đó là một Tiếng Nói đã đi sâu vào lịch sử, một lịch sử vốn bị tội lỗi con người xé nát và đau thương cũng như chết chóc ám ảnh…Đó là một Tiếng Nói đã bước vào các trang Sách Thánh mà hiện ta đang đọc trong Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần”.

“Khuôn Mặt đây là chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng vốn là Con Thiên Chúa vĩnh hằng và vô biên, nhưng cũng là con người hay chết, nối kết với một giai đoạn lịch sử, với một dân tộc, với một lãnh thổ”.

“Chính Người đã mạc khải cho ta ý nghĩa ‘đầy đủ và hợp nhất’ của Thánh Kinh, và nhờ thế, Kitô giáo là một tôn giáo đặt một con người làm trọng tâm của mình, đó chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mạc khải Chúa Cha. Chính Người đã giúp chúng ta hiểu: Thánh Kinh chính là ‘thân xác’”.

“Căn Nhà Lời Chúa…chính là Giáo Hội, một cơ chế, theo lời Thánh Luca, được chống đỡ bằng bốn cột trụ: “giảng giải” hay đọc và hiểu Thánh Kinh và công bố nó cho mọi người; “bẻ bánh” hay Thánh Thể, nguồn suối và đỉnh cao của đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội,…các tín hũu được mời gọi tới nuôi dưỡng mình trong phụng vụ Lời Chúa và Mình Máu Chúa; “cầu nguyện”…đọc Sách Thánh trong suy gẫm, cầu nguyện và chiêm niệm sẽ dẫn ta tới gặp gỡ Chúa Kitô, Lời của Thiên Chúa hằng sống; “hiệp thông huynh đệ”, vì muốn là Kitô hữu đích thực, ‘nghe lời Chúa’ không đủ mà còn phải ‘thực hành lời ấy nữa’”.

”Hình ảnh cuối cùng trong bản đồ thiêng liêng này là Con Đường trên đó Lời Thiên Chúa đang du hành… Lời Chúa phải chu du khắp các nẻo đường trên thế giới, mà ngày nay bao gồm cả những con đường truyền thông điện tử, truyền hình và gần như thực (virtual). Thánh Kinh phải đi vào các gia đình…trường học và mọi môi trường văn hóa… Sự phong phú có tính biểu tượng, thi ca và thuật truyện biến nó thành dấu chỉ của cái đẹp, đối với cả đức tin lẫn văn hóa, trong một thế giới thường bị sự xấu xa và bạo tàn làm cho méo mó”.

“Tuy nhiên, Thánh Kinh cũng cho thấy những hơi thở đau đớn từ đất vọng lên, thoát thành tiếng oán của người bị áp bức, tiếng than của người bị bỏ rơi. Mà đỉnh cao chính là thánh giá trên đó, Chúa Kitô, cô đơn và bị bỏ rơi, phải kinh qua thảm kịch đau đớn xé lòng và saucùng là cái chết. Chính nhờ có sự hiện diện này của Con Thiên Chúa, đêm đen của sự ác và sự chết bừng lên ánh sáng Phục Sinh và hy vọng vinh quang…Dọc các nẻo đường thế giới, ta thường gặp những người của các tôn giáo khác, những người đang lắng nghe và trung thành thực hành các giới luật trong các sách thánh của họ và đang cùng chúng ta xây dựng một thế giới hoà bình và đầy ánh sáng”.

Những Điều Ấm Lòng

Nhiều bài báo tường thuật khá méo mó về thủ tục đầu phiếu tại THĐ. Phải chứng kiến việc đầu phiếu thông qua các đề nghị cuối cùng, họ mới thấy tính hiệp đoàn (collegiality) trong Giáo Hội. Chỉ cần nhắc tới mức độ nhất trí hết sức cao cũng đã đủ, một mức độ mà các THĐ trước đây chưa bao giờ đạt được. Điều ấy khiến nhiều người thán phục tinh thần làm việc của các nghị phụ lần này.

Sự nhất trí trên cũng cho thấy sức làm việc tích cực của vị Tổng Phúc Trình Viên là Đức HY Marc Ouellet và nhóm của ngài trong việc tổng hợp 354 điều tu chính, đề nghị viết lại cũng như gợi ý thành 55 đề nghị sau cùng, được mang ra đầu phiếu và chấp thuận để đệ trình lên cho Đức Giáo Hoàng. Các đề nghị này sẽ giúp Đức Thánh Cha trong việc soạn thảo tông huấn hậu THĐ.

Trong cuộc họp báo trình bầy các đề nghị cuối cùng này, ĐHY Ouellet gọi THĐ là một hành trình, một cuộc gặp gỡ. Chúng ta như các môn đệ trên đường Emmaus, vừa bước đi vừa thảo luận nhiều điều liên quan tới các biến cố từng xẩy ra trước đó ở Giêrusalem. Tuy nhiên THĐ cũng đem lại những giây phút gặp gỡ kỳ thú, không phải gặp lời lẽ mà là gặp gỡ Ngôi Lời là chính Chúa Giêsu Kitô. Ta phải mang Người đến cho con người và cho thế giới.

Sau cuộc họp báo kéo dài một tiếng đồng hồ, Đức Hồng Y Marc Ouellet trở lại Đại Sảnh Đường Phaolô VI để dự tiệc chia tay do Đức Giáo Hoàng khoản đãi các nghị phụ, nhưng chỉ kịp ăn tráng miệng. Cuối bữa tiệc này, Đức GH ứng khẩu nói truyện với cử tọa. Ngài lên tiếng cám ơn mọi người từ hồng y, tổng giám mục, giám mục tới các chuyên viên, dự thính viên, đại biểu các giáo hội anh em đến các nhân viên kỹ thuật. Điều hết sức đặc biệt là Ngài cám ơn cả những nhân viên lo ẩm thực. Ngài nói: “ Cha cũng muốn cám ơn những người lo ẩm thực đã chuẩn bị bữa ăn trưa tuyệt diệu này và mọi người phục dịch. Cám ơn chúng con vì hồng ân này”. Ai bảo vị giáo hoàng “bác học” này thiếu ấm áp! Vị GH “bác học” này còn không quên “tếu” một câu làm ấm lòng rất nhiều, vâng rất nhiều nghị phụ, khi Ngài nhìn nhận mình đã “vi phạm nhân quyền” vì đã “tước đoạt” quyền nghỉ ngơi vào cuối tuần của các ngài (một số nghị phụ phải làm việc luôn các ngày cuối tuần!). Ngài hứa sẽ “sửa sai” trong các THĐ sắp tới. Khỏi nói, lời Ngài đã được mọi người vỗ tay vang dội.

Cũng nên nhắc lại điều ấm lòng nữa là trong THĐ lần này, câu truyện Emmaus được lặp đi lặp lại rất nhiều lần, đủ để chứng minh rằng học hỏi Thánh Kinh không phải chỉ là việc của trí mà thôi mà còn là việc của tâm nữa. Chỉ với trái tim hồi hộp và bừng cháy, ta mới đạt được đức tin. Emmaus là câu truyện có đủ hoài nghi lẫn hy vọng. Điều ấm lòng là người lữ hành với họ trên đường Emmaus đã nghiêm chỉnh tiếp nhận cả niềm hoài nghi lẫn hy vọng của họ để dệt thành niềm tin tìm lại! Bốn cột trụ của Giáo Hội đều có mặt trong câu truyện đầy chất biểu tượng này.

Một điều nữa cho thấy tính chất ấm áp của vị Giáo Hoàng từng bị nhiều người cho là lạnh lùng này.Trong bữa tiệc chia tay vừa nhắc ở trên, Đức HY George Pell, Tổng Giám Mục Sydney, đã dùng tiếng Ý, đại diện mọi người, đọc diễn văn chào mừng Đức Giáo Hoàng. Đức HY Pell nói dỡn rằng THĐ này ít hứng thú nhất vì là một THĐ có “nhiều thoả thuận và hiệp thông” nhất xưa nay. Đáp lời, Đức Giáo Hoàng cho hay Ngài không biết liệu THĐ này có phải là THĐ ít hay nhiều hứng thú nhất, nhưng nhất định là cảm kích nhất. Ngài giải thích: lý do vì khi nghe nhau nói về Lời Chúa, ta sẽ nghe Lời Chúa tốt hơn. Quả thế, Ngài quả quyết rằng các tham dự viên quả đã học được cách lắng nghe Lời Chúa tốt hơn, khám phá ra nhiều khả thể mới trong nó. Suy gẫm và suy niệm không bao giờ múc cạn hết kho tàng vô giá này.

55 đề nghị sau cùng

Như trên đã trình bầy, THĐ đã đúc kết mọi tham luận và tranh luận thành 55 đề nghị trình lên Đức Giáo Hoàng. Các đề nghị này đã được đưa ra để 244 nghị phụ đầu phiếu thông qua. Muốn được thông qua, mỗi đề nghị phải được 2/3 đa số chấp thuận. Tất cả 55 đề nghị đều đã được đa số ấy thông qua vào trưa Thứ Bẩy vừa qua, cho thấy đây là một THĐ có mức nhất trí cao nhất kể từ khi Công Đồng Vatican II tái lập định chế này.

Phần một

Phần một bao gồm các đề nghị liên quan đến Lời Chúa trong đức tin của Giáo Hội. Các đề nghị ở phần này đưa ra các gợi ý để các cộng đoàn Kitô hữu hiểu và sống tốt hơn mối liên hệ của họ với Ngôi Lời, tức Chúa Giêsu Kitô, Đấng ta có thể gặp trong lúc đọc và suy gẫm Sách Thánh.

Các gợi ý trên nhấn mạnh tới vai trò Chúa Thánh Thần, Giáo Hội và Thánh truyền, cũng như mối liên hệ thân thiết giữa Thánh Kinh và Thánh Thể.

Có ba đề nghị trình bầy Lời Chúa như Lời hòa giải, Lời dấn thân vì người nghèo, và là căn bản của luật tự nhiên. Phần này cũng xem sét mối liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước.

Phần hai

Phần hai (các đề nghị từ 14 tới 37) xem sét Lời Chúa trong đời sống Giáo Hội. Trong đó, các ý tưởng cụ thể đã được đưa ra nhằm cải thiện việc giảng lễ (homilies), duyệt lại sách các bài đọc, cũng như cổ vũ cách đọc lời Chúa (lectio divina). Cũng ở phần này, có đề nghị thiết lập chức đọc sách cho phụ nữ. Phần này cũng kêu gọi việc phải vượt qua sự chia rẽ giữa các nhà chú giải và các nhà thần học hay giữa các nhà chú giải và các mục tử. Đề nghị số 37 có một giá trị lịch sử vì nó tiếp nhận phần đóng góp của Thượng Phụ Chính Thống Giáo Bartholomew I của Constantinople.

Phần ba

Các đề nghị từ 38 tới 54 đề cập tới Lời Chúa trong sứ mệnh của Giáo Hội. Phần này nói đến mối liên hệ của Lời Chúa với nghệ thuật và văn hóa, cũng như việc dịch và phổ biến rộng rãi Thánh Kinh. Nó cũng đề cập tới việc truyền đạt Lời Chúa trong truyền thông cũng như lối đọc Thánh Kinh có tính cực đoan và hiện tượng giáo phái (sects). Nó cũng đưa ra các đề nghị liên quan tới đối thoại liên tôn, cổ vũ việc hành hương và nghiên cứu tại Đất Thánh, đối thoại với Do Thái Giáo và Hồi Giáo, cũng như mối liên hệ giữa Lời Chúa và việc bảo vệ môi trường.

Đề nghị cuối cùng dành cho Đức Mẹ Maria, mời gọi cổ vũ việc đọc Kinh Truyền Tin và Kinh Mân Côi, chiêm niệm Lời Chúa qua đôi mắt Mẹ Chúa Kitô.

Điều hết sức đặc biệt là theo truyền thống, các đề nghị của THĐ đuợc giữ bí mật, nhưng Đức Bênêđíctô XVI đã yêu cầu Văn Phòng Tổng Thư Ký của THĐ cho đăng tải bản dịch tạm, không chính thức bằng tiếng Ý cho công chúng đọc.

Lời Chúa là ưu tiên của Giáo Hội

Bài giảng trong Thánh Lễ kết thúc THĐ đã giải thích nghĩa cử trên của Đức Bênêđíctô XVI. Ngài cho hay: ưu tiên đối với Giáo Hội ngày nay trên hết là tự nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, để có thể đẩy mạnh việc tân phúc âm hóa.

Ngài cho hay các kết luận của THĐ phải được “đưa tới cho mọi cộng đoàn” sao cho “mọi người hiểu rõ nhu cầu phải biến lời đã nghe thành hành động yêu thương, vì chỉ nhờ cách ấy, việc công bố Lời Chúa mới khả tín, bất chấp các yếu đuối của con người”. Đức Thánh Cha nhiều lần nhấn mạnh tới tầm quan trọng của mối liên kết giữa việc nghe Lời Chúa và việc phúc âm hóa, như điểm căn bản trong chứng tá Kitô hữu giữa trần gian, nhất là với những người không tin.

Nhắc tới ý nghĩa bài Phúc Âm trong ngày, Đức Thánh Cha cho hay: “Viên mãn của Lề Luật, trong tư cách Lời Chúa, là tình yêu. Ai nghĩ rằng mình đã hiểu Thánh Kinh, hay ít nhất một phần của nó, mà không cố gắng dùng trí khôn để bồi đắp lòng yêu mến kép kính Chúa yêu người, thì trên thực tế chỉ chứng tỏ là họ còn xa lắm mới hiểu được ý nghĩa thâm sâu của nó”



Vũ Văn An