PDA

View Full Version : SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN



littlewave
19-10-2008, 10:48 AM
SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

Jessudas là một bác sĩ trẻ, ra trường và bắt đầu hành nghề từ năm 1980. Tương lai sáng lạng nhuộm màu hồng tươi trải dài trước mắt ông. Cuộc sống gia đình cũng đầy hạnh phúc với người vợ trẻ và đảm đang cùng với hai đứa con ngoan ngoãn. Vào tháng 6 năm 1986, bác sĩ bị bệnh, một thứ bệnh vi khuẩn tương tự như bệnh cúm. Ông bạn bác sĩ đồng nghiệp chuyên về các thứ bệnh vi khuẩn khám nghiệm và xác quyết rằng bệnh tình không có gì đáng lo ngại ca.

Nhưng thực tế thì từ ngày đó, bác sĩ Jessudas cứ gầy ốm thêm. Mỗi ngày trôi qua, bác sĩ càng cảm thấy yếu hẳn đi, không còn đủ sức để đi lại nữa. Vào tháng 8, tức là hai tháng sau ngày lâm bệnh, người nhà phải đưa bác sĩ vào điều trị gấp trong bệnh viện vì bác sĩ thở không được nữa. Tại đây, nhờ các cuộc thử nghiệm kỹ càng và sâu rộng hơn, người ta khám phá ra căn bệnh ung thư hiểm nghèo đang tấn công xương sống của bác sĩ.

Như tiếng sét nổ giữa trời quang mây tạnh, bác sĩ Jessudas cảm thấy chấn động mãnh liệt. Chỉ trong chốc lát, hiện tại và tương lai màu hồng đã bị xóa tan, chỉ còn lại nổi kinh hoàng trước một định mệnh phũ phàng và sự thương đau khi nghĩ tới hai đứa con thơ còn nhỏ dại. Nhưng rồi vốn là một bác sĩ, tôi tin tưởng vào các tiến bộ khoa học của y khoa. Tôi bám víu vào lòng tin tưởng đó để hy vọng. Buồn thay, hy vọng vẫn hoàn hy vọng, bệnh tình bác sĩ vẫn càng ngày càng trầm trọng hơn. Sau kỳ trị liệu bằng quang tuyến mà vô hiệu, bệnh viện đành cho bác sĩ Jessudas trở về nhà vì không thể chữa trị thêm. Bệnh tình của bác sĩ Jessudas xem ra vô phương cứu chữa. Bác sĩ phải nằm liệt giường, bán thân bất toại và cả hai tay cũng không cử động được. Tình cảnh thật là tuyệt vọng. Bác sĩ Jessudas biết quá rõ là một khi bệnh viện cho bệnh nhân ung thư về nhà, thì hy vọng lành bệnh không còn nữa, người bệnh chỉ còn đợi giờ chết mà thôi. Một phần, bác sĩ chống chọi với thần chết bằng cách bám víu vào lòng hy vọng, phần khác, bác sĩ uất hận và hãi hùng trước viễn tượng bỏ lại vợ trẻ con thơ côi cút.

Trong khoảng thời gian cực kỳ u ám này, một bạn đồng nghiệp của bác sĩ Jessudas nói với bác sĩ về một nhóm cầu nguyện thuộc phong trào Canh tân đặc sủng Thánh Linh và ướm lời hỏi bác sĩ có muốn cầu nguyện với nhóm hay không. Cho đến lúc này, thật tình mà nói thì bác sĩ Jessudas không biết cầu nguyện là gì ngoài một vài câu kinh bổn, lõm bỏm chỗ nhớ chỗ quên. Nhưng bác sĩ luôn tin vào một Đấng Tối Cao. Nhưng nghĩ là chẳng mất mát gì nên bác sĩ Jessudas bằng lòng làm quen nhóm cầu nguyện. Vài ngày sau, một phụ nữ trong ban điều hành nhóm cầu nguyện nói trên cùng hai người bạn ghé đến thăm bác sĩ Jessudas. Họ cùng nhau quỳ cầu nguyện bên giường bệnh của bác sĩ, cầu xin cho bác sĩ được đầy ơn sủng Thánh Linh và rồi đặt tay trên bác sĩ xin cho ông được ơn khỏi bệnh. Trước khi ra về, họ ban bí tích xức dầu bệnh nhân cho bác sĩ. Bác sĩ Jessudas kể lại giây phút xúc động đó như sau: "Ngay trong lần đầu tiên đến thăm tôi, khi những người khách này đặt tay trên lưng và trên chân, tôi cảm thấy một luồng điện nóng chạy thẳng từ trên đầu xuống đến chân tôi và một khao khát cử động tay chân. Chân tôi vẫn không nhúc nhắc được, nhưng này, tay tôi đã cử động được đôi chút. Khi ba người khách cầu xin cho tôi được đầy tràn ơn Chúa Thánh Linh, vốn là một người nóng nảy bồn chồn và đang ở trong một giai đoạn bi quan chán nản, tôi cảm thấy ngay niềm bình an thanh thản đang được đổ tràn đầy trong con tim tôi. Và tôi cảm nhận rõ ràng là Chúa Thánh Thần đã chữa lành tâm lòng tôi ngay từ lần đầu tiên đó rồi. Các buổi cầu nguyện xin ơn chữa lành tật bệnh cho tôi kéo dài sau đó, và sau mỗi lần xức dầu thánh, tôi lại cảm thấy mình khỏe hơn một tý.

Ngày nay, tôi không còn bị tê bại nằm liệt trên giường nữa. Tôi đi đứng lại được gần như bình thường và tự tay chăm sóc gia đình tôi. Tôi cũng đã trở về với công việc thường lệ của một bác sĩ trong nhà thương, vì căn bệnh ung thư hiểm nghèo đã biến mất, không để lại dấu tích nào khác hơn là các tấm ảnh chụp quang tuyến. Tôi cử động bình thường trở lại được cả tứ chi và tôi tin chắc rằng nếu không có phong trào Canh tân đặc sủng và lời cầu nguyện của các nhóm thành viên, thì tôi không thể nào có được ngày nay. Thật không ai có thể đo lường được sức của lời cầu nguyện cả."


MAIANH (…119)

Martino_TANATY
20-10-2008, 10:07 AM
thật là kỳ diệu
những việc nào mà có Chúa tác động đến thì thật là mầu nhiệm
con người chỉ còn bít ngơ ngác :shock4:và ca tụng Thiên Chúa:nhay:

Anna_Nguyen
20-10-2008, 07:05 PM
Kì diêu thay lời cầu nguyện và niềm tin đã làm cho vị bác sĩ khỏi bệnh.

Nguyên Xuân
20-10-2008, 07:45 PM
Một người khỏi bệnh đã lạ kì, lại là một bác sĩ càng lạ kì hơn, lại khỏi một căn bệnh hiểm nghèo lại là một điều lạ kì.
Đối với Thiên chúa, không có gì là không làm được theo ý Người.
Chúng ta hãy cùng ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa hết lòng. A-men.

bethichconlua
02-11-2008, 09:58 PM
thật là kỳ diệu
những việc nào mà có Chúa tác động đến thì thật là mầu nhiệm
con người chỉ còn bít ngơ ngác :shock4:và ca tụng Thiên Chúa:nhay:
.......mình cũng ngơ ngác......không có việc gì chúa không làm được....lạy chúa xin dạy con biết cầu nguyện mỗi lúc....đẹp lòng chúa.Amen:53:

sue
03-11-2008, 02:34 PM
cầu nguyện ..... xin dạy chúng con biết cầu nguyện ..... học theo gương Mẹ ..... xin vâng ..... cầu nguyện .....

Rocky
04-11-2008, 10:14 AM
Lạy Chúa xin dạy con biết cầu nguyện...

cầu nguyện thực lòng,

cầu nguyện chân thành, và đơn sơ....

littlewave
14-11-2008, 10:36 AM
Sức mạnh của lời cầu nguyện vô hiệu hóa cả bom nguyên tử

Viên phi công phụ cùng ngồi trên chiếc máy bay đã thả quả bom nguyên từ đầu tiên xuống thành phố Hiroshima / Nhật Bản vào cuối trận thế chiến II vừa qua đã kể lại như sau:



http://www.vietcatholic.org/pics/atombombe.jpg




Quả bom nguyên tử nổ tại Hiroshima năm 1945



«Vào tháng 8 năm 1945, một chiếc máy bay loại B29 cất cánh tại đảo Tinian lúc 2giờ 45 đêm và trực chỉ quần đảo Nhật Bản. Để tiêu diệt bộ máy chiến tranh Nhật Bản, thành phố Hiroshima cần phải bị xóa sổ. Khóa gài quả bom nguyên tử được mở ra để cho quả bom rớt xuống trên thành phố bất hạnh này với trên dưới một nửa triệu dân cư. Mọi sự diễn ra theo đúng kế hoạch đã dự định.

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại người ta dám làm điều đó, dám sử dụng bom nguyên tử. Lúc đó kim đồng hổ chỉ 8 giờ 15 sáng. Một tia chớp loé ra khủng khiếp, và toàn thể thành phố bị bao trùm bởi một làn khói cực kỳ nóng hực, làm nổ tung mọi nhà cửa dinh thự. Một đám khói trắng khổng lồ chỉ trong vòng khoảng 3 phút đã bốc lên cao từ 10.000 đến 20.000 mét. Toàn thể thành phố bị tiêu diệt hoàn toàn. Không gì còn sót lại ngoài tối tăm, máu chảy, các đám cháy, sự kêu la đau đớn và sự khủng khiếp bành trướng mau lẹ. Tôi sẽ không bao giờ tẩy xoá được sự ám ảnh của những giây phút kinh hoàng rùng rợn này khỏi trí óc, dù cho tôi có sống lâu cả 100 tuổi đi nữa.»

Không chỉ viên phi công phụ này mà toàn thể thế giới vào lúc bấy giờ đều bị «sốc» mạnh. Thành phố Hiroshima muôn đời là một lời cảnh cáo nghiêm trọng. Tuy nhiên, còn rất nhiều điều xảy ra tại nơi đây mà mãi cho tới nay vẫn chưa được nhiều người biết đến. Một trong những điều đó là việc Đức Maria, Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi đã bảo vệ chở che một cách vô cùng lạ lùng cộng đoàn cầu nguyện bé nhỏ của 4 Linh mục Dòng Tên tại một nhà xứ, cách trung tâm thành phố Hiroshima, nơi quả bom nguyên từ nổ, chỉ 8 căn nhà mà thôi.

Cha Hubert Schiffer, mới 30 tuổi, phụ trách công tác mục vụ tại giáo xứ Đức Mẹ Lên Trời, một trong những nhân chứng của sự kiện khủng khiếp đó, đã tường thuật lại dịp Đại Hội Thánh Thể tại Philadelphia (USA) như sau:

«Bầu trời trong xanh Hiroshima bỗng nhiên, chỉ trong vòng một hơi thở, được chiếu sáng rực lên bởi một luồng ánh sáng chói loà, cực kỳ mạnh không thể diễn tả được. Còn chung quanh tôi chỉ còn ánh sáng loé lên, khiến tôi không còn có thể nghe hay suy nghĩ được gì nữa cả. Mọi sự vào lúc đó đều hoàn toàn chìm vào yên lặng. Tôi bơi lội trong đại dương ánh sáng, bất lực và đầy sợ hãi. Cả không gian như ngừng thở trong bầu tử khí. Rồi bỗng chốc tất cả bao trùm trong một tia chớp sáng loè phát ra từ một tiếng nổ dữ dội. Một sức mạnh vô hình cuốn lôi tôi khỏi chiếc ghế tôi đang ngồi. Tôi bị va vào khắp nơi, bị quay cuồng, đảo lộn trong không khí như một chiếc lá trong cơn gió mùa thu. Sau đó, mọi sự lại chìm vào bóng tối, vào sự vắng lặng, vào cõi hư không. Vào lúc đó, tôi vẫn luôn tỉnh táo, chứ không ngất xỉu, vì tôi cứ suy nghĩ và tìm hiểu sự gì đã xảy ra. Với các ngón tay, tôi cảm nhận được chính mình trong sự tối mù hoàn toàn đó. Tôi nằm úp mặt xuống trên những thanh gỗ nằm rải rác dưới đất. Một vật gì nặng đè lên lưng tôi, máu chảy xuống trên mặt tôi. Tôi không còn có thể nhìn thấy và cũng không nghe được gì cả. Tôi nghĩ mình đã chết. Bấy giờ tôi nhận ra được tiếng mình. Đó cả là một cảm nghiệm khủng khiếp. Nhưng cũng chính điều đó giúp tôi biết được mình hãy còn sống, và vô cùng khiếp sợ khi biết rằng một tai hoạ nào đó đã xảy ra. Suốt cả một ngày tôi và ba người anh em cùng Dòng phải sống trong lò lửa hoả ngục, trong khói mịt mù và trong phóng xạ đó, mãi cho tới khi chúng tôi được những người cứu thương tìm thấy và đưa về nơi an toàn. Tất cả chúng tôi đều bị thương, nhưng nhờ ơn Chúa, chúng tôi đều được thoát chết.»



http://www.vietcatholic.org/pics/Atombombe-Hiroshima.jpg





Hiroshima chỉ còn là đống tro tàn khổng lồ sau khi quả bom nổ



Đứng về phía nhân loại thì không ai có thể cắt nghĩa được tại sao 4 vị Linh mục Dòng Tên này, là cha Lasalle, cha Kleinsore, cha Cieslik và cha Schiffer – mà vào năm khai mạc Đại Hội Thanh thể 1976 vẫn còn sống – là những người duy nhất trong hàng trăm ngàn người sống trong chu vi 1,5 km mà vẫn sống sót một cách hầu như bình thường. Đối với các người chuyên môn về bom nguyên tử thì đó cả là một bí mật không thể tìm ra được câu giải thích, là tại sao không một ai trong bốn vị Linh mục Dòng Tên này không hề bị nhiễm phóng xạ, khi quả bom nguyên tử nổ chỉ cách nhà các ngài vài trăm thước và tại sao căn nhà xứ nơi các ngài ở vẫn nguyên vẹn trong khi tất cả các nhà cửa khác đều bị thiêu ra tro cả.

Trên 200 các bác sĩ và các nhà khoa học Mỹ cũng như Nhật Bản sau khi kiểm tra và tìm hiểu những tường thuật của cha Schiffer, cũng không tìm ra được sự giải thích nào. Và mãi 33 năm sau khi quả bom nổ, cha Schiffer vẫn sống khoẽ mạnh bình thường, chứ không hề bị bất cứ hậu quả nào do phóng xạ gây ra.

(Trích trong: «Gruss aus dem Barmherzigkeitskloster», 2008)
Lm Nguyễn Hữu Thy