vante
09-11-2008, 03:00 AM
TRẢ LỜI CÁC VẤN NẠN DARWIN ĐÃ GÂY RA CHO TRIẾT HỌC VÀ THẦN HỌC HIỆN ĐẠI
Trong bối cảnh xã hội hiện đại, chúng ta chứng kiến sự tiến bộ không ngừng và còn có triễn vọng tiến xa mãi của khoa học. Không ai có thể phủ nhận những thành tựu to lớn mà khoa học mang lại cho đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Tuy nhiên, dưới nhãn quan tư tưởng, chúng ta nhận thấy những phát minh khoa học ở thế kỷ XVI-XVII về thiên văn của Copernic, Kepler, Galilei, về Lực hấp dẫn của Newton và ở thế kỷ XIX về sinh vật học Darwin đã tạo ra không ít vấn nạn cho triết học và thần học trong mấy thế kỷ qua.
Trong bối cảnh đó, Đức John Paul II đã ban hành thông điệp “Đức Tin Và Lý Trí”, năm 1998. Trong Thông điệp này, ngài đề cập đến mối tương quan giữa đức tin và lý trí, bằng cách khẳng định chức năng và khả năng của lý trí đi tìm chân lý và chứng minh giá trị phổ quát của đức tin. Quan điểm này của ngài như phương cách soi sáng cho người Kitô hữu trong cách suy nghĩ về các giá trị mới của khoa học và cách thức làm thần học và triết học trong thời đại hôm nay.
Đúng 20 năm sau ngày ra đời của Thông Điệp Đức tin và lý trí, chúng ta thử khám phá lại tư tưởng của ngài và trả lời cho những vấn nạn mà thuyết Darwin đã làm “lung lay” nền thần học và triết học Kitô giáo trong mấy thập niên qua.
1.Mối Tương Quan Giữa Đức Tin Và Lý Trí.
Bằng lối tiếp cận lịch sử, Đức John Paul II đã phác họa một bức tranh khá rõ ràng về tương quan giữa đức tin và lý trí trong hành trình đi tìm kiếm chân lý. Đó là một tương quan mang tính hỗ tương: “Đức tin và lý trí được ví như đôi cánh giúp cho trí khôn con người vươn lên chiêm ngắm chân ly”. Theo ngài, chân lý mặc khải của thần học sẽ cung cấp “nội dung câu trả lời” và sự khôn ngoan của triết học sẽ cho “hình thừc câu hỏi”.
Triết học và thần học có một mối quan hệ qua lại theo quy luật của vòng tròn trôn ốc, nghĩa là một khi triết học cung cấp nội dung câu hỏi, thần học trả lời nó và dẫn đến sự hiểi biết chân lý rõ ràng hơn, và lý trí triết học lại tiếp tục suy tư và có những tra vấn mới cao hơn và thần học lại tiếp tục tìm câu trả lời mới…, vòng tròn càng ngày càng đi lên và gần hơn với chân lý tối hậu (x.TĐ, Đức tin và lý trí, Số 105).
Trong lĩnh vực Phúc Âm Hoá, con người tìm hiểu văn hoá của một dân tộc và tìm hiểu triết học của tôn giáo của dân tộc đó. Triết học sẽ đóng vai trò trung gian kết nối Lời Chúa với văn hoá địa phương. Theo cách hiểu này thì triết học chuẩn bị “cày xới” miếng đất mới, để cho thần học “gieo vãi” hạt giống chân lý Tin Mừng.
Đức John Paul II cũng quan tâm đến sự tách rời giữa đức tin và lý trí và hậu quả của nó trong việc tìm kiếm chân lý: “Sự tách rời ngày càng lớn hơn giữa đức tin và lý trí triết học” làm cho triết học sao nhãng việc tìm kiếm chân lý tối hậu. Tuy nhiên theo ngài, nếu xem xét tỉ mỉ hơn, người ta sẽ thấy ngay trong suy tư của những người đã góp phần nới rộng thêm hố ngăn cách giữa đức tin và lý trí đôi khi vẫn có những mầm mống tư tưởng quí báu khả dĩ đưa tới việc khám phá ra con đường chân lý, nếu được tiếp tục và phát triển với một tâm trí ngay thẳng” (Số 48).
Trong viễn ảnh đó, ngài nhắm đến việc kết hợp giữa đức tin và lý trí với lý do: “Đức tin và lý trí mà thiếu nhau đều bị làm nghèo đi và bị suy yếu. Bị tước mất những gì Mặc khải cống hiến, lý trí đã đi theo những con đường ngang khiến nó có nguy cơ sao lãng mục đích cuối cùng của mình. Còn đức tin thiếu lý trí, đã nhấn mạnh vào tình cảm và cảm nghiệm, và như thế nó liều mình không còn là một lời đề nghị phổ quát nữa”. Qua đó ngài mời gọi: “Đức tin và triết học phải tìm lại sự hiệp nhất sâu xa cho phép chúng hoà hợp với bản chất của mình mà vẫn tôn trọng tính tự lập của nhau. Đối lại với sự tuân phục [“parrhêsia”] của đức tin phải có sự táo bạo của lý trí”. (Số 48).
Quang Huyền,OFM
Trong bối cảnh xã hội hiện đại, chúng ta chứng kiến sự tiến bộ không ngừng và còn có triễn vọng tiến xa mãi của khoa học. Không ai có thể phủ nhận những thành tựu to lớn mà khoa học mang lại cho đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Tuy nhiên, dưới nhãn quan tư tưởng, chúng ta nhận thấy những phát minh khoa học ở thế kỷ XVI-XVII về thiên văn của Copernic, Kepler, Galilei, về Lực hấp dẫn của Newton và ở thế kỷ XIX về sinh vật học Darwin đã tạo ra không ít vấn nạn cho triết học và thần học trong mấy thế kỷ qua.
Trong bối cảnh đó, Đức John Paul II đã ban hành thông điệp “Đức Tin Và Lý Trí”, năm 1998. Trong Thông điệp này, ngài đề cập đến mối tương quan giữa đức tin và lý trí, bằng cách khẳng định chức năng và khả năng của lý trí đi tìm chân lý và chứng minh giá trị phổ quát của đức tin. Quan điểm này của ngài như phương cách soi sáng cho người Kitô hữu trong cách suy nghĩ về các giá trị mới của khoa học và cách thức làm thần học và triết học trong thời đại hôm nay.
Đúng 20 năm sau ngày ra đời của Thông Điệp Đức tin và lý trí, chúng ta thử khám phá lại tư tưởng của ngài và trả lời cho những vấn nạn mà thuyết Darwin đã làm “lung lay” nền thần học và triết học Kitô giáo trong mấy thập niên qua.
1.Mối Tương Quan Giữa Đức Tin Và Lý Trí.
Bằng lối tiếp cận lịch sử, Đức John Paul II đã phác họa một bức tranh khá rõ ràng về tương quan giữa đức tin và lý trí trong hành trình đi tìm kiếm chân lý. Đó là một tương quan mang tính hỗ tương: “Đức tin và lý trí được ví như đôi cánh giúp cho trí khôn con người vươn lên chiêm ngắm chân ly”. Theo ngài, chân lý mặc khải của thần học sẽ cung cấp “nội dung câu trả lời” và sự khôn ngoan của triết học sẽ cho “hình thừc câu hỏi”.
Triết học và thần học có một mối quan hệ qua lại theo quy luật của vòng tròn trôn ốc, nghĩa là một khi triết học cung cấp nội dung câu hỏi, thần học trả lời nó và dẫn đến sự hiểi biết chân lý rõ ràng hơn, và lý trí triết học lại tiếp tục suy tư và có những tra vấn mới cao hơn và thần học lại tiếp tục tìm câu trả lời mới…, vòng tròn càng ngày càng đi lên và gần hơn với chân lý tối hậu (x.TĐ, Đức tin và lý trí, Số 105).
Trong lĩnh vực Phúc Âm Hoá, con người tìm hiểu văn hoá của một dân tộc và tìm hiểu triết học của tôn giáo của dân tộc đó. Triết học sẽ đóng vai trò trung gian kết nối Lời Chúa với văn hoá địa phương. Theo cách hiểu này thì triết học chuẩn bị “cày xới” miếng đất mới, để cho thần học “gieo vãi” hạt giống chân lý Tin Mừng.
Đức John Paul II cũng quan tâm đến sự tách rời giữa đức tin và lý trí và hậu quả của nó trong việc tìm kiếm chân lý: “Sự tách rời ngày càng lớn hơn giữa đức tin và lý trí triết học” làm cho triết học sao nhãng việc tìm kiếm chân lý tối hậu. Tuy nhiên theo ngài, nếu xem xét tỉ mỉ hơn, người ta sẽ thấy ngay trong suy tư của những người đã góp phần nới rộng thêm hố ngăn cách giữa đức tin và lý trí đôi khi vẫn có những mầm mống tư tưởng quí báu khả dĩ đưa tới việc khám phá ra con đường chân lý, nếu được tiếp tục và phát triển với một tâm trí ngay thẳng” (Số 48).
Trong viễn ảnh đó, ngài nhắm đến việc kết hợp giữa đức tin và lý trí với lý do: “Đức tin và lý trí mà thiếu nhau đều bị làm nghèo đi và bị suy yếu. Bị tước mất những gì Mặc khải cống hiến, lý trí đã đi theo những con đường ngang khiến nó có nguy cơ sao lãng mục đích cuối cùng của mình. Còn đức tin thiếu lý trí, đã nhấn mạnh vào tình cảm và cảm nghiệm, và như thế nó liều mình không còn là một lời đề nghị phổ quát nữa”. Qua đó ngài mời gọi: “Đức tin và triết học phải tìm lại sự hiệp nhất sâu xa cho phép chúng hoà hợp với bản chất của mình mà vẫn tôn trọng tính tự lập của nhau. Đối lại với sự tuân phục [“parrhêsia”] của đức tin phải có sự táo bạo của lý trí”. (Số 48).
Quang Huyền,OFM