View Full Version : Giải "Viết văn đường trường" 2016 - Bản tin số 3
  
dvtung
16-02-2016, 01:08 PM
Mã số: 16-025
HỌA SỸ
 Ông là biểu tượng của tinh thần lao động chân chính nhiệt thành ; chẳng  khác gì con ong làm việc cần mẫn tỉ mỉ ; tựa như danh hiệu người ta gán  cho ông, coi ông như một bậc thầy ; dẫu cho ông từ chối, ông vẫn cứ nổi  danh đến mức ngay cả khi ông đang tưc giận, ném cả khay màu vào mảnh  vải trắng, thậm chí trét màu nghệch ngoạc lên bất kỳ đâu, người ta vẫn  công nhận đó là một tuyệt phẩm!Những tác phẩm trứ danh lần lượt ra đời,  nhưng ông cho đó chỉ là chút tài mọn, chẳng đáng gì để mà ngợi ca!
  Ông sống đơn độc một mình. Bởi tánh khó nên ông chẳng gần được với ai.  Có chăng chỉ vài fan hâm mộ vốn say tài ông như đổ. Suốt ngày, ông ngồi  ôm giá vẽ có khi quên cả ăn ngủ. Ông sáng tác miệt mài tưởng như không  bao giờ cạn kiệt ý tưởng. Vẽ, chính là niềm vui duy nhất của ông, là  chất kích thích đẻ ra tiền khiến ông vẽ đến quên chết. Song, lắm khi ông  cụt hứng bất tử, lại hay bị đám fan rủ rê. Thế là ông quăng bỏ hết, đi  chơi một mạch đến sáng hôm sau mới về
 Ông vẽ đủ các loại tranh,  nhưng vẽ Phật thì ông thích hơn hết, một phần do ông tôn sùng Đạo Phật.  Đức Phật dạy chúng sanh phải có lòng từ bi hỷ xả. Lời dạy của Ngài như  dòng suối ngọt ngào thấm đậm vào lòng ông, giúp ông tìm được nguồn năng  lượng đích thực, cho ông có được đời sống thanh tịnh. Mỗi khi vẽ về Ngài  lòng ông thấy thanh cao nhẹ nhàng. Ông vẽ Phật rất đẹp cũng là nhờ ông  có lòng yêu mến Ngài. Vậy nên, tranh vẽ của ông ngày càng nổi tiếng.
 Trước kia, ông vốn là người giàu có, từng có một gia đình êm ấm. Vợ  ông, một thiếu nữ xinh đẹp, hiền lành. nhưng lại là người Công Giáo,  trong khi ông là một Phật Tử sùng đạo. Tuy hai người hai tôn giáo khác  nhau nhưng khi hai con tim ập lại, không một thứ công nghệ bóc tách nào  có thể chia lìa được họ. Họ lấy nhau vì tình yêu chân thành. Cả hai thỏa  thuận đạo ai người nấy giữ. Tuy nhiên, về sống bên nhau được ít lâu ông  bỗng đổi tính, thường hay tỏ thái độ khó chịu mỗi khi chị vợ ngồi đọc  kinh hoặc đi lễ nhà thờ. Từ đó, hai vợ chồng thường bất hòa lục đục.  Cuối cùng, họ quyết định sống ly thân
 Việc ly thân với vợ chính ông  là người đề xướng. Từ ngày ra ngoài sống một mình ông tưởng đâu lòng ông  dễ chịu hơn. Nhưng không, đầu óc ông luôn nghĩ bậy bạ, lại bị đám fan  hâm mộ thường xuyên đến nhà rủ ăn nhậu, khiến ông chẳng thể ngồi yên  sáng tác được. Đã thế ông còn vừa quen một cô gái trẻ xinh đẹp thường  hẹn hò cô nàng đi chơi đây đó
 Đó là những ngày trong tâm hồn ông như  có ma quỷ, khiến ông luôn bẳn gắt hay la lối vợ con mỗi khi ông trông  thấy họ, dù họ chẳng làm gì sai trái. Trong lòng ông luôn dậy sóng, đến  nỗi, mỗi lần đi Chùa ông không tài nào ngồi tập trung tụng kinh niệm  Phật được. Ông càng sống sa đọa hơn khi bị cô nhân tình đến quấy rầy  liên tục. Cô ta quấy nhiễu ông bao nhiêu, ông càng mê say cô ta bấy  nhiêu, bất chấp cô ta đã có chồng con. Ông sa vào chuyện tình ái, rồi cơ  bạc ăn chơi nợ nần đến bán hết của cải tài sản.
 Một ngày kia, trong  túi ông chẳng còn tiền bạc rủng rỉnh đi chơi bời nữa. Cũng chẳng còn  khách hàng nào đến đặt hàng ông vẻ tranh. Đang ngồi buồn thì người vợ  bất ngờ tìm đến gặp ông. Bà nói muốn đặt hàng ông vẽ một bức tranh về  Đức Mẹ. Bà biết lúc này ông đang thất nghiệp, sẵn sàng trả cho ông giá  cao gấp đôi những nơi khác để ông có tiền tiêu xài. Bà chỉ yêu cầu ông  cố gắng thực hiện bức tranh cho đẹp là được
 Không hiểu sao lời đề  nghị của bà làm ông thấy phấn khích. Người vợ cho biết, nhân dịp lê Đức  Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội sắp đến bà muốn tặng bức tranh cho cha xứ, và bà  biết trong vùng này chỉ có ông là người thực hiện nổi bức tranh. Dù giữa  hai vợ chồng luôn mâu thuẫn nhau về tôn giáo, song bà vẫn tin ông sẽ  nhận lời vẽ giúp cho bà
 Đã lâu không gặp lại vợ ông tưởng đâu bà vợ  không còn muốn gặp ông nữa. Hôm nay bà đến thình lình ông thấy lòng xốn  xáng lạ lùng. Thêm nữa, ông đang cần tiền nên không muốn bỏ qua cơ hội.  Tuy nhiên, ông bộc bạch từng vẽ nhiều tranh về các vị thần thánh, vẽ Đức  Phật, riêng Đức Mẹ thì chưa bao giờ
 Người vợ nói vì vợ chồng sắp  chính thức ly hôn nên bà muốn ông dành cho bà một kỷ niệm đẹp, để khi xa  nhau còn có gì để nhớ về nhau. Vật kỷ niệm chính là bức tranh này. Nghe  vợ nói ông thấy mủi lòng, thật khó mà từ chối. Ông cảm nhận sau ba năm  sống ly thân, hai vợ chồng khó có thể hàn gắn lại với nhau lại như xưa,  cho nên, để không làm bà thất vọng, ông hứa sẽ cố gắng thực hiện bức  tranh thật hoàn hảo và muốn coi đây là món quà kỷ niệm cuối cùng ông vẽ  dành tặng cho bà trước khi chia tay
 Bà vơ đưa cho ông một bức ảnh về  khuôn mặt Đức Mẹ, bà muốn ông sáng tác thêm để tạo nên một bức họa khác  biệt so với những bức người ta vẽ khá nhiều về Mẹ Maria, bà không muốn  có sự trùng lắp
 Suốt ba ngày liền ông ngồi vẽ Đức Mẹ mà không sao vẽ nổi, bởi ông không tài nào tập trung được.
 Ông gọi điện nói bà cho thêm tư liệu về Đức Mẹ để ông nghiên cứu, xem  ông có thể sáng tác được không. Bà vợ gủi cho ông một cuốn sách nói về  Đức Mẹ Vô Nhiễm, bà còn gừi cho ông 100 truyện tích về Đức Mẹ Mân Côi,  ông đọc ngấu nghiến nghiên cứu suốt cả tháng trời.
 Theo kinh nghiệm  của ông, muốn sáng tác một bức họa ông phải bỏ công sức đi tìm tài liệu  nghiên cứu, sau đó phác thảo bố cục nội dung trong đầu, hình dung về mầu  sắc, nét vẽ đặc trưng của riêng ông, nắm bắt được cái hồn của tác phẩm  thì ông mới có thể bắt tay vào thực hiện bức vẽ
 Nếu muốn vẽ về Đức  Phật, hay vẽ về các nhân vật huyền thoại tôn giáo khác, đặc biệt vẽ về  Đức Mẹ cần phải có lòng yêu mến thật lòng xuất phát từ trong trái tim,  từ tận đáy lòng thì mới có thể lột tả hết cái hồn của bức tranh. Một họa  sỹ không thể khiếm khuyết về mặt này, nếu không bức họa sẽ trở nên khô  cứng, vô hồn, màu sắc bất ổn sẽ khiến tranh thiếu sức sống. Xưa nay ông  chưa vẽ một bức tranh nào mà ông không đặt hết tâm tư tình cảm của mình  vào trong tranh. Ông không thể vẽ một bức tranh để rồi khách hàng chê  bai dè bỉu ông
 Đầu tiên ông vẽ về khuôn mặt Đức Mẹ. Ông không hiểu  Đức Mẹ là ai, là người nước nào, mà sao khuôn mặt Mẹ rạng rỡ xinh đẹp  đến như vậy. Chỉ vẽ mỗi khuôn mặt Mẹ thôi ông vẽ suốt hai tuần vẫn chưa  ưng ý, vừa vẽ vừa ngắm nhìn khuôn mặt từ bi của Mẹ. Ông không thể tin  Đức mẹ có một sức thu hút mãnh liệt đến như vậy, cang vẽ ông càng thấy  háo hức
 Có khi vừa vẽ ông vừa mở sách ra nghiên cứu, nghiền ngẫm,  ông đọc không thiếu một chuyện nào về Mẹ, ông đọc say sưa và bị câu  chuyện cuốn hút vào, bởi có nhiều truyện tích mà ông đọc không biết  chán, những chuyện kể về Mầu Nhiệm Mân Côi. Ông chưa từng biết về Chuỗi  Hạt Mân Côi Đức Mẹ cầm trên tay. Nay đọc về các truyện tích ông khám phá  Chuỗi Hạt kỳ diệu này. Đã có biết bao linh hồn được cứu nhờ siêng năng  lần hạt Mân Côi. Nhờ Chuỗi Hạt mà nhiều người tội lỗi được ơn trờ nên  tốt lành. Rồi vì đọc nhiều nên bị nhập tâm lúc nào không hay, cảm thấy  hình ảnh Mẹ Maria ngày càng gần gũi với ông hơn
 Chính vì lòng ngưỡng  mộ Chuỗi Hạt, nên khi vẽ đến đôi bàn tay Đức Mẹ đang trân trọng nắm giữ  Chuỗi Hạt trong tay mẹ, khiến lòng nghệ sỹ càng thêm bị thôi thúc. Ông  nắn nót vẽ từng nét vẽ tỉ mỉ với một lòng kính trọng tuyệt đối, cho đến  khi vẽ trọn vẹn cả khuôn mặt và chuỗi Tràng Hạt. Trong lúc vẽ ông nhận  ra một điều, nếu biết đọc Kinh Kính Mừng thì ông tin ông sẽ vẽ tốt hơn  nữa. Thế là ông tìm hiểu về Kinh Kính Mừng
 Quả thật như vậy, khi vừa  vẽ vừa cầm trên tay quyển sách kinh, ông vừa đọc thầm Kinh Kính Mừng.  Ông mới thực hiện xong hai phần ba bức tranh mà không thể nào tưởng  tượng nổi, ông kinh ngạc khi thấy Chuỗi Hạt mình vẽ bỗng rực sáng không  khác gì khuôn mặt Thánh thiện của Đức Mẹ. Ông cảm thấy mình như đang vẽ  một tác phẩm diệu kỳ, một kiệt tác, lòng ông Họa Sỹ vui chưa từng có
 Buổi sáng hôm đó, khi vưa thức giấc, định đi rửa mặt, ăn sáng rồi tiếp  tục công việc. Thế nhưng, ông họa sỹ cảm thấy thèm cà phê một cách kỳ  lạ. ông muốn ra ngoài tìm một quán cà phê nào đó ngồi thưởng thức cà  phê, xong rồi về làm việc tiếp.
 Khi ông vừa định ra khỏi nhà thì cô  nhân tình ông bất ngờ xuất hiện. Cô nhân tình này mấy ngày nay thường  gọi điện cho ông, vì suốt một tháng qua ông không hề gặp mặt cô ả. Nay  cô nàng mới biết, thì ra ông say mê vẽ tranh hơn cả say mê cô nàng
  Cô nàng tức giận đã quay vào nhà định phá bỏ bức tranh, nhưng ông họa sỹ  đã nhanh tay cản lại. Cô ta ghen tức gào lên khi trông thấy người đàn  bà trong tranh kia sao quá đẹp. Hóa ra ông họa sỹ say mê vẽ bà ấy đến  nỗi cô ta gọi điện rủ ông đi chơi ông không thèm đi. Tức giận cô tình  nhân cố chấp lao đến quyết phá bức tranh cho bõ cơn tức, nhưng ông đã  cho cô gái một cái tát như trời giáng rồi đuổi cô ta đi. Bị đánh khiến  cô kia tự ái`, tức giận. Cô ta liền bỏ đi tức khắc
 Khi cô tình nhân  đi rồi, ông nhận ra một điều lạ lùng. Như thể có ma lực nào đó giúp ông  ngăn cản cô tình nhân không cho phá bỏ bức tranh. Tuy nhiên, điều ông  thấy ngạc nhiên hơn, là ông chưa từng bao giờ bạo hành cô bạn gái yêu  quý của ông, cũng như chưa hề mắng cô ta dù chỉ một lời. Vậy mà hôm nay  ông đã cho cô ta một cái tát nảy lửa, lại còn đuổi thẳng cô ta ra khỏi  nhà. Nhưng tuyệt nhiên ông không chút hối hận. Trái lại ông cảm thấy tự  hào, vui sướng, bởi tác phẩm của ông đã được thực hiện hoàn tất
 Ngày  hôm sau người vợ đền xem coi ông vẽ ra sao, vì suốt mấy tháng qua bà  cũng lo không biết ông có vẽ được không. Thật bất ngờ, khi ông đưa bức  tranh ra cho bà xem, bà suýt nữa rú lên vì kinh ngạc. Bởi bà không tin  vào mắt mình khi bức tranh ông thực hiện quá đẹp. Khuôn mặt Đức Mẹ, và  chuỗi Tràng Hạt Mẹ cầm trên tay ông vẽ rực sáng nổi bật trên nền tranh, y  như hình chụp chứ không phải vẽ
 Người vợ thắc mắc không hiểu vì đâu  mà ông có thể vẽ Đức Mẹ đẹp đến như vậy. Ông kể cho bà nghe tất cả. kể  luôn về cô bạn gái muốn phá hủy bức tranh vì ghen tức với Đức Mẹ. Ông  nói thẳng ông không bao giờ gặp lại cô gái đó nữa. Ông nói một cách thật  lòng, trên ánh mắt ông lộ rõ điều đó. Bà nhận ra ông thay đổi một cách  lạ kỳ
 Chuyện ông có bồ bây giờ bà mới biết là do chính miệng ông thú  nhận, chứ có bao giờ ông nói ra chuyện này! Chỉ bấy nhiêu thôi bà đã  thấy kinh ngạc rồi. Ông vui quá đến độ đã hết lên : “ Tất cả là nhờ ơn  Đức Mẹ “ Sau những ngày miệt mài vẽ tranh ông thấy lòng mình thanh thản  khoan khoái lạ thường
 Bà nhét vào tay ông một chiếc phong bì, như bà  từng hứa. Nhưng ông từ chối không nhận. Bởi ông cho bà biết, sáng nay  ông vừa nhận được một hợp đồng lớn. Ông nói muốn tạ ơn Đức Mẹ vì từ ngày  vào nghể ông chưa bao giờ nhận một hợp đồng lớn như vậy
  Hai ông bà  ngồi nói chuyện với nhau rất lâu trong gian phòng nhỏ như chưa bao giờ  được nói. Thái độ của họ cũng hoàn toàn khác hẳn, như thể họ là đôi tình  nhân gìà đã xa nhau từ kiếp nào, nay bất ngờ hội ngộ. Họ kể cho nhau  nghe biết bao điều, đến nỗi, họ không muốn thời gian trôi qua nhanh…Thời  gian ơi, hãy chậm lại để hai con tim quyện nhau trở lại.
Nguồn: Lm. Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
dvtung
16-02-2016, 01:08 PM
Mã số: 16-026
KẺ CHÁN ĐỜI
 Hẳn các bạn đã từng nghe câu chuyện trong Kinh Thánh kể về “đứa con  hoang  đàng”, một kẻ ăn chơi trụy lạc buộc phải xin bố chia gia tài cho  hắn. Người bố nhân hậu chia cho hắn cả một gia tài kếch xù. Vậy mà chỉ  trong thời gian ngắn hắn ăn xài phung phí không còn xu dính túi, cuối  cùng hắn phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; phải xin đậu muồng  heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho …
 Tôi cũng như hắn,  kể xấu về hắn chứ bản thân tôi có khác gì! Khi biết vợ tôi ngoại tình,  tôi tức điên lên mà chẳng làm gì được cô ta. Trong cơn điên, tôi đã vét  sạch tiền của nàng và cha tôi bỏ đi biệt tích. Tôi ăn chơi phung phí,  rượu chè, bao gái, hút sách còn hơn cả thằng con hư hỏng kia nữa. Chỉ  khác một điều, là khi tôi rơi vào hoàn cảnh khủng khiếp nhất, còn nhục  hơn cảnh phải xin đậu muồng heo mà ăn, thay vì quay về nhà xin lỗi cha  tôi, xin vợ tha thứ cho tôi, thì tôi lại muốn tự giải thoát cho mình  bằng cách đi tím cái …chết! Bởi có trở về thì gia đình tôi cũng tan nát  rồi, vợ tôi chắc chắn đã đem theo đứa con duy nhất của chúng tôi đi theo  gã tình nhân kia rồi.
 Tôi đến một vùng đất vốn là nơi nổi danh về  thắng cảnh địa lý, nơi có nhiều con sông lý tưởng để tôi có thể tìm cái  chết một cách êm ả nhất. Tôi đứng trên một cây cầu cao chót vót, định là  sẽ trầm mình xuống dòng sông đen ngòm dưới kia, nơi tôi biết dòng nước  sẽ rất lạnh, nước cuồn cuộn chảy như thác đổ cuốn cái xác tôi đi, rồi  lạnh lùng nhấn chìm tôi xuống tận đáy sông, như nhấn chìm cái xác thối  rữa của một con chó bị người ta vứt bỏ …cho đến khi tôi vĩnh viễn rời xa  thế giới này!
 Vào lúc tôi nhắm mắt lại, chuẩn bị nhảy xuống thì tai  tôi bỗng nghe tiếng kêu thất thanh của một người đàn bà. Giật thót  mình, tôi mở mắt ra, từ trên cao tôi thấy một phụ nữ đang gào thét la  lên inh ỏi.
 - Cứu …cứu con tôi! Làm ơn cứu con tôi!
 Chị ta vừa  kêu la,vừa chỉ tay xuống con sông nước đục ngầu, nơi có đứa bé đang ngụp  lặn chới với giửa dòng nước xoáy. Nhưng giờ phút này tôi chẳng cón nghĩ  gì khác ngoài việc tự sát. Không bận tâm đến người đàn bà, tôi lao  nhanh xuống sông và lập tức bị dòng nước cuốn đẩy tôi đi. Khi hai tay,  hai chân tôi đang quơ quẫy duỗi đạp trong tuyệt vọng, tôi thấy mình vừa  đụng phải một cái xác, tay tôi vô tình quơ trúng thằng bé có gương mặt  dễ thương bầu bĩnh với đôi mắt nhắm nghiền. Bất giác, tôi chợt nghĩ đến  thằng con trai duy nhất của tôi, nó cũng trạc tuổi thằng bé này. Tôi  thấy nó đang từ từ chìm xuống. Nghĩ đến con mình tôi bỗng lạnh tóc gáy.  Nhanh như cắt tôi túm lấy cậu bé rồi đạp chân thật mạnh bơi trồi lên mặt  nước như một phản xạ tự nhiên của một kẻ sắp chết đuối. Tôi vẫn chưa  tin mình có thề gặp lại thế giới này và ánh sáng trên bầu trời chói  chang kia như làm tôi tỉnh giấc. Có cảm giác tôi và thằng bé như vừa  trải qua một cuộc đắm tàu, và chúng tôi đả thoát chết một cách hi hữu.  Tôi lấy sức đẩy mạnh đứa bé về phía trước cố sức bơi vào bờ. Tôi không  còn đủ sức nữa. Tay tôi vừa chạm vào ai đó thì ngất đi
 Tỉnh lại, tôi  thấy mình nằm sấp trên vai một người đàn ông lực lưỡng, miệng tôi liên  tục ọc ra một thừ nước mặn chát, toàn thân tôi bị nhấc lên nhồi xuống  như cục bột nhồi bánh khổng lồ, cho đến khi người đàn ông đặt tôi nằm  ngửa trên bãi cát, và ông ra sức làm hô hấp nhân tạo cho tôi… Một lúc  sau tôi mới tỉnh hằn. Tôi thấy rất đông người đứng vây quanh nhìn tôi,  chắc họ tưởng tôi đã đi gặp …” hà bá! “ Thật bất ngờ và buồn cười làm  sao Tôi muốn chết hóa ra lại được sống! Còn cậu bé không muốn chết lại  được một thằng sắp chết cứu nó! Cuộc đời đúng là một cuộc trải nghiệm mà  Thượng đế chẳng khi nào báo trước cho ai biết…
 Người đàn bà khi nãy  đến bên tôi cám ơn rồi rít mà tôi chẳng biết chuyện gì! Hóa ra thằng bé  được tôi cứu là con của chị. Chị xúc động nắm chặt tay tôi, trào nước  mắt, nói tôi là vị cứu tinh đã cứu con chị thoát chết trong gang tấc.  Trưa hôm đó, chị mời tôi về nhà chơi cho biết nhà, nhân thể chị ta muốn  đền ơn tôi. Tôi từ chối, nhưng chị cố nài nỉ. Cuối cùng tôi nói tôi đang  rất đói, tôi muốn có một bữa ăn ngon. Thế là chị thiết đãi tôi một bữa  thịnh soạn tại một nhà hàng đặc sản nằm ven bãi biển.
 Chúng tôi ngồi  nói chuyện rất lâu trong nhà hàng. Tôi đói quá ăn hết cả nồi canh chua  cá bớp, nó ngon đến nỗi tôi cứ thế ngồi húp xùm xụp cho đến khi cạn đáy  nồi mới chịu buông chén. Ngổi nhìn tôi ăn người đàn bà nói không ngớt  miệng. Ăn no rồi tôi mới nghe chị ta nói về mình. Chị tên Hân. Trong khi  Hân nói tôi ngước nhìn gương mặt tròn trịa xinh xắn của cô nàng. Hân  cho biết vừa chia tay chia tay chồng chưa đầy 2 tiếng thì con trai cô  gặp nạn, rằng chồng cô là một gã lười thôi thây chẳng biết làm ăn gì,  chỉ biết ăn bám vợ, đã vậy còn sáng say chiều xỉn nên Hân muốn chia tay  anh ta để giải thoát cho mình.
 Tôi đi với Hân suốt buổi chiều hôm đó,  đến nỗi Hân phải gửi cậu con trai cho một người quen để có thì giờ đi  với tôi. Hân bảo, nàng đang rất buồn vì số phận hẩm hiu của mình, nàng  đang rất cô đơn. Buổi tối, tôi muốn bỏ đi nhưng Hân cứ muốn giữ tôi lại,  vì Hân nói cuộc đời nàng chỉ có đứa con trai duy nhất, nếu không có tôi  thì giờ này nàng không còn được gặp nó nữa, nàng nhắc đi nhắc lại câu  nói muốn đền ơn tôi, Nghe nàng thủ thì, người tôi như nóng bừng lên, như  con chuột đói rã vớ được khúc thịt hầm. Bời, đời tôi còn gì nữa đâu để  mà luyến tiếc, vợ tôi thì giờ này chắc đang ở bên gã tình nhân của cô ta  rồi. Bây giờ, lúc sắp chết lại có nàng cứu vớt. Đêm đó, chúng tôi vào  một khách sạn sang trọng ở bờ biển.
 Vào khách sạn tôi nhìn đồng hồ  đúng 6 giờ chiều. Tình yêu chợt đến nhưng tôi tin đó không phải là mối  tình nửa vời hay tình một đêm, bởi nhìn cử chỉ ánh mắt của Hân tôi biết  nàng thật lòng muốn đến với tôi, Nàng trân trọng tôi, luôn miệng ca ngợi  tôi là một anh hùng, một kẻ đã gây cho nàng ấn tượng sâu sắc. Nàng bảo,  người đàn bà không chỉ thích nhất người đàn ông hào hoa phong nhã, mà  còn thích tính cách một “ chính nhân quân tử “, có “ lòng quả cảm “! Tôi  nghe nàng thốt ra những từ ngữ “ đao to “ đó mà phát ngượng, thành ra,  tôi nghĩ cô nàng đã lầm to! Một “ chính nhân quân tử “ sao lại lấy cắp  tiền của vợ đi bao gái ăn chơi không còn xu dính túi đến phải đi… tự  sát! Thật nhục nhã xấu hổ làm sao! Cũng may, nhờ tự sát mà tôi gặp được  nàng.
 Dẩu sao, tôi quyết không muốn bỏ qua cơ hội được ở bên một cô  nàng xinh đẹp như Hân, vào lúc này, bất chấp nàng có chồng con hay không  tôi vẫn muốn có nàng. Vào lúc chùng tôi chuẩn bị cho cuộc truy hoan  mang mầu sắc lãng mạn, tương tự như mấy bộ phim “đen” mà tôi thường hay  coi lúc nửa đêm, thì tiếng chuông bỗng vang lên từ chiếc điện thoại nàng  để trên bàn. Ai đó đã báo cho Hân biết đứa con trai của nàng đã bị bố  nó bắt đi. Nghe tin, Hân bủn rủn tay chân, phải mất một lúc sau nàng mới  bình tỉnh trở lại. Hân hớt hãi đi tìm con của nàng. Tôi chạy theo Hân  một lúc thì đến một nơi mà tôi thấy rất quen. Đúng rồi! Đó là nơi có  chiếc cầu cao tôi từng đứng đó gieo mình xuống dòng sông đục ngầu dưới  kia. Không thể tin được, tôi và Hân choáng ngợp khi trông thấy người đàn  ông tôi đoán là chồng của Hân đang đứng trên bục cao của cây cầu cùng  với đứa con trai. Có vẻ như họ sắp nhẩy xuống tự sát! Nếu đúng như vậy  thì ngày hôm nay đúng là ngày của những kẻ ngu xuẩn, giống như tôi, kẻ  muốn chết lãng nhách!
 Thật tội nghiệp cho Hân khi phải chứng kiến  cảnh này, nàng gần như tuyệt vọng trước anh chồng đang toan tính làm  điều dại dột. Người chồng hăm dọa, nếu Hân không quay về anh ta sẽ ôm  đứa con nhẩy xuống sông ngay lập tức. Hân gào lên chửi rủa hắn, nhưng  rồi nàng cảm thấy hối hận, nàng van xin hắn đừng giết chết đứa con, nó  không có tội gì, mọi tội lỗi là do nàng. Hân hứa sẽ quay về. Tôi chợt  hiểu ra,dẫu sao Hân vẫn là người mẹ tuyệt vời, với nàng đứa con vẫn như  một báu vật. Và sư có mặt của tôi lúc này chẳng khác gì mồi lửa gần bên  bình gas đang bị xì. Vậy nên tôi lập tức bỏ đi. Tôi bỏ đi trong hy vọng  rằng chồng Hân sẽ kịp nghĩ lại, mong họ đừng làm điều ngu xuẩn như tôi  đã từng làm.
 Đêm đó, tôi lê lết trên bãi biển vì chẳng còn một xu  dính tùi. Tôi muốn mua rượu uống cho thật say, để tôi có thể quên đi mối  tình chóng vánh giửa tôi và Hân nhưng không biết phải làm sao. Tôi lại  thấy đói cồn cào ruột gan và cứ thế bước đi, tôi đi mãi chẳng biết về  đâu.
 Hóa ra tôi tự lần mò về đến nhà vào lúc nửa đêm. Trong màn tối  mịt mù, tôi thoáng trông thấy hai bong người vẫn đang ngồi trước cửa  nhà. Nhìn kỹ, tôi nhận ra vợ tôi và đứa con trai đang ngồi trên ghế đá  trước nhà tựa đầu vào nhau. Tôi biết họ đang oán hận tôi! Có thể họ đang  chờ gặp tôi để lôi tôi ra công an. Nhưng vào lúc này, tôi đang đói rã  ruột, lại thêm nỗi nhớ thằng con trai đến phát điên lên, chỉ cần nhìn  thấy nó thôi tôi cũng hả lòng dạ. Bây giờ, tôi chỉ muốn gặp đứa con một  lần rồi muốn ra sao thì ra. Nghĩ đến đó tôi mạnh dạn bước vào sân nhà.
 Vừa trông thấy tôi, thằng con trai đang ngồi gục đầu bên mẹ bỗng choàng  dậy chạy ào đến ôm lấy tôi òa khóc : “ Sao bố đi lâu quá không về với  con! “. Tôi ôm chặt lấy nó lòng đau như xát muối. Vơ tôi đứng chết lặng  nhìn tôi tay gạt nước mắt. Tôi định đến xin lỗi nàng, thì cha tôi từ  trong nhà bước ra. Trông thấy tôi ông không giấu được xúc động, nghẹn  ngào, ông nhào đến …ôm chặt lấy thằng con, Bố tôi nói, từ lúc tôi đi cả  nhà ngày nào cũng ra sân ngồi ngóng chờ tôi trở về, hôm nay cũng vậy, bố  tôi mệt nên đi nghỉ sớm, vợ con tôi vẫn ngồi chờ tôi trên ghế đá “ Sao  lại như thế! Một thằng ôn vật như con thì có đáng gì để cả nhà phải ngồi  trông chờ nó, hả bố!” Tôi nói với bố tôi như vậy cảm thấy mình chỉ muốn  chui đầu xuống đất. Nhưng con trai tôi vui mừng hơn bao giờ hết, bởi nó  trông thấy bố vẫn mạnh khỏe trở về. Bố tôi nói ngày mai sẽ làm tiệc ăn  mừng
 Buổi trưa hôm sau, khi cả nhà quây quần, vui vẻ ăn tiệc mừng.Vợ  tôi vẫn chưa nói gì với tôi. Đang ăn bỗng nàng bỏ đi đâu đó. Tôi đi tìm  vợ thì thấy nàng đang quỳ chắp tay trước tượng Đức Mẹ. Lát sau, vợ tôi  quay ra, trông thấy tôi nàng chạy đến ôm chặt lấy tôi. Nàng chỉ nói một  câu duy nhất : “ Cám ơn Chúa và Mẹ Maria“. Tôi cảm thấy vơ tôi vừa bật  khóc sau khi nói câu ấy. Nàng kể, từ lúc tôi bỏ đi không đêm nào hai mẹ  con không quỳ trước Đức Mẹ cầu nguyện cho tôi, mong ngày tôi quay về.
 Nghe vợ nói tôi chợt nhớ lại tất cả, từ lúc lao mình xuống dòng sông  chạm vào thằng bé sắp chết đuối tôi giờ đã hiểu vì đâu, động lực nào  khiến tôi ra tay cứu thằng bé, để rồi nhờ đó tôi đã tự cứu mình, có phải  chính Đức Mẹ đã khiến tôi làm như vậy, vì Mẹ muốn cứu lấy linh hồn tôi.  Khi tôi vào khách sạn với Hân, chuẩn bị ngoại tình, thì cũng chính Mẹ  khiến tôi phải rời xa người đàn bà đó. Tất cả, chắc chắn có bàn tay của  Mẹ khi tôi hiểu rằng đêm nào vợ tôi cũng quỳ trước Mẹ cầu nguyện cho tôi  …
 Chỉ nói riêng về đứa con thơ ngây thiếu vắng tình cha thôi tôi  cảm nhận mình đã quá tàn nhẫn rồi, việc người cha từ chối cuộc sống đã  là một điều sai lầm không thể chấp nhận được. Tôi không nhận ra được  rằng đứa con trai lành mạnh của tôi chính là món quà quý báu mà tạo hóa  trao ban. Dù cho chúng tôi đang thiếu thốn, ngôi nhà chúng tôi vẫn cũ kỹ  rách nát, vợ con tôi vẫn bình an như hôm qua là quá đủ! Tôi cám ơn Chúa  ví mình đã khác, đã đổi mới. Bây giờ tôi mới hiểu ra ” hạnh phúc tiểm  ẩn trong chính tôi bấy lâu nay mà tôi lại muốn lánh xa nó “. Có lẽ với  cuộc sống như vầy vẫn có thể sống vui…”. Và như thế, tôi nhận ra bổn  phận và trách nhiệm của mình. Tôi có thể mang lại niềm vui cho vợ con  tôi và cả cho người khác. Tôi cám ơn Chúa một lần nữa cuộc sống có ích  cho cuộc đời vẫn là trên hết.
dvtung
16-02-2016, 01:08 PM
Mã số: 16-027
NGÀY TRỞ VỀ
 Đúng vào ngày tôi trở lại giáo xứ Bảo Lâm sau mười hai năm xa cách là  ngày lễ Kính Thánh Augustino mà lẽ ra hôm nay tôi có mặt trong buổi Lễ  Kính long trọng này. Thế nhưng, vào lúc này, đứng trên ngọn đồi lộng gió  nhìn đăm đăm về hướng ngôi Nhà Thờ Bảo Lâm vẫn nét cổ kính như ngày  nào, từ tháp chuông Nhà Thờ đến cây Thánh Giá màu trắng rực sáng dưới  ánh nắng mặt trời, lòng tôi bỗng quặn thắt một nỗi buồn sâu thẳm
  Đứng lấp ló ngoài cánh cổng nhà xứ, tôi dáo dác nhìn quanh, không thấy  bóng người nào. Tôi nôn nóng muốn gặp cha xứ ngay bây giờ, nhưng không  thấy ngài đâu. Khu khuôn viên nhà xứ rộng rãi thoáng mát im ắng nhơ tờ.  Mùi hoa hồng thơm ngát lan tỏa ; mấy khóm cúc trắng xen lẫn những bụi  hoa vàng dày đặc dọc theo lối đi nổi bật cả góc vườn. Bên cạnh đài Đức  Mẹ Tôi thấy một nam thanh niên còn trẻ đang đứng ngơ ngác. Tôi đinh quay  trở ra thì anh chàng kia bỗng cất giọng sang sảng :
 - Con chào Cha!
 Tôi giật mình,quay lại nhìn chàng thanh niên có nụ cười tươi khoe hàm răng lấp lánh
 - Anh là ai? Sao anh biết tôi?
 - Dạ …con đoán vậy thôi. Nhưng nhìn người con biết ngay không phải là giáo dân vùng này, phải là một linh mục mới đúng!
 Tôi bật cười trước câu nói quả quyết của chàng thanh niên
 - Không, anh lầm rồi! Tôi ở Sài Gòn mới ra, không phải linh mục đâu
 Anh thanh niên ra vẻ ngỡ ngàng liền đổi giọng
 - Sao trông bác giống linh mục vậy? Cháu xin lỗi đã nhìn lầm!
 - Không có gì! À …làm ơn cho hỏi thăm. Tôi muốn gặp cha xứ, anh có thấy ngài đâu không?
 - Dạ không thưa bác. Cháu cũng đang muốn gặp cha
 - Vậy à!
 - Dạ! Cháu là dân ngoại đạo ở làng bên cạnh. Cháu muốn theo đạo Kitô đến xin cha rửa tội cho cháu
 - Ồ!
 Tôi kêu lên một tiếng như vừa bị ai đó thụi cho một cái. Nhìn anh chàng từ đầu đến chân tôi buột miệng hỏi
 - Anh biết nhiều về Chúa Giêsu chưa mà muốn xin cha rửa tội?
 - Dạ, cháu chỉ biết chút chút thôi bác. Cháu nghe Cha xứ giảng nhiều về Chúa Giêsu, nhưng thú thật cháu chưa hiểu nhiều lắm
 - Nếu vậy thì chưa đủ đâu! Nhưng thử hỏi anh một câu nữa nhé, anh có thể nói cho tôi biết Chúa Giêsu sinh ra ở đâu không?
 Bỗng dưng bị tôi sát hạch khiến chàng trai bối rồi
 - Cháu …cháu không nhớ rõ lằm. Cháu có tham dự vài khóa giáo lý trong nhà xứ, nhưng cháu lại quên mất!
 - Thế thì hỏng rồi! – Tôi tỏ vẻ thất vọng – Anh cần phải học giáo lý  nhiều hơn nữa. Đã theo đạo thì cần phải học giáo lý càng nhiều càng tốt,  như vậy anh mới có thể hiểu nhiều về Thiên Chúa …
 - Dạ vâng! Vậy …chắc là …bác đây hiểu rất rõ về Chúa Giêsu?
 Đến lượt anh ta hỏi lại khiến tôi trơ mắt nhìn anh. Bỗng anh ta cúi chào tôi
  - Dạ, cháu xin phép, cháu phải về nhà có chút việc, một lát cháu quay  lại gặp cha xứ sau …Cháu rất muốn tìm hiểu nhiều về Chúa Giêsu, cháu  biết bác hiểu rõ về Ngài, lát nữa quay lại cháu xin bác giải thích cho  cháu được không ạ?
 - Được, được…- Tôi cười vồn vã – Nếu có dịp gặp lại anh bạn tôi sẵn sàng
  Dạ, cháu hiểu rồi. Cháu chào bác
 Chàng trai đi rồi tôi vẫn còn đứng thộn người ra, trong đầu miên man  nghĩ ngợi. Bởi, hình như tôi vừa làm sai điều gì đó tôi luôn vấp phạm,  đôi khi tôi quên khuấy đi cả những điều tôi luôn tự nhắc mình cố gắng  hạn chế sai lầm càng nhiều càng tốt. Bao nhiêu lần tôi tự hỏi, đã xét  mình kỹ chưa mà đã vội cao giọng dạy dỗ người khác! Đây có lẽ là điều  khó nhất với một kè từng được coi là “ đứng sát bên Chúa”  như tôi, bởi  lòng kiêu ngạo như một con quỷ luôn ẩn náu trong lòng tôi, chỉ chờ tôi  sơ hở là nó tấn công ngay. Thật khó lòng tống nó ra khỏi người tôi .
 Trở về ngôi làng xưa sau thời gian dài, tôi tưởng đâu sẽ có được những  phút giây hân hoan khi gặp lại những con người xưa kia trong ngôi làng  bé nhỏ này ; nơi từng gia đình nhỏ ; từng con người còn rất nghèo khó  trong ngôi làng đầy khốn khổ đó ; đó là những bác nông dân quanh năm bán  mặt cho đất bán lưng cho trời, ngày ngày cặm cụi trên cánh đồng cháy  nắng ; những bà mẹ lam lũ vất vả ngày đêm lo từng bữa ăn giấc ngủ cho lũ  con thơ vẫn in đậm trong lòng tôi ; những con người đơn sơ mộc mạc ấy  dù vất vả thế nào chiều đến vẫn lũ lượt kéo nhau đến Nhà Thờ tham dự  Thánh lễ, đọc kinh, cầu nguyện thật sốt sắng.
 Thoáng nhìn vào căn  phòng nhỏ, nơi tôi thường quỳ gối cầu nguyện hàng giờ trước Chúa ngày  nào. Tôi nhớ mình nói nhiều với Chúa. Có lúc tôi khóc với Ngài. Nhưng  bây giờ, nếu như có ai đó chợt hỏi tôi từng nói gì và cầu nguyện gì,  thậm chí vì sao tôi khóc với Ngài. Thú thật, tôi không sao nhớ được!  Song, có lẽ, đó là những lời tự biện, phân trần với Chúa nhiều hơn là  những lời sám hối!
 Khi tôi còn đang đứng thờ thẫn, chợt nghe tiếng  cửa kẽo kẹt phía sau bức tường màu đỏ sẫm, nơi có tượng Đúc Mẹ đứng  giang hai tay như muốn ôm lấy đàn con tội lỗi. Cánh cửa mở ra, tôi thấy  cha xứ chậm rãi bước vào rồi quay lưng tư từ đóng cửa lại. Bất chợt  trông thấy tôi ngài bỗng khựng lại, còn tôi đứng đó, vẻ bối rối, ngượng  nghịu
 - Ô …có phải …Hoàng không nhỉ? – Cha xứ gỡ kiếng nhìn tôi – Đúng rồi, đúng là Hoàng rồi!
 - Dạ vâng …con là Hoàng đây, thưa cha!
 Tôi vui mừng tiến lại bắt tay cha xứ. Nhưng ngài biểu lộ niềm vui còn  hơn tôi tưởng. Ngài không bắt tay tôi nhưng ôm chặt lấy tôi thật thắm  thiết. Điều này khiến tôi thấy lạ, bởi tôi biết ngài trước kia từng là  người khó tính nhất ở đây. Tôi cứ ngở. ngày trở lại đây của mình chỉ là  một cuộc đón tiếp nhạt nhẽo hoặc những lời trách móc của cha. Nhưng  không, tôi chưa bao giờ thấy cha xứ vui đến vậy
  - Trời ơi! Không  thề ngờ có ngày gặp lại cựu linh mục phụ tá tại đây! – Cha xứ lại ôm lấy  tôi một lần nữa rồi ngài nói giọng xúc động – Vào đây, vào nhà đi rồi  muốn gì hãy nói
 Cha xứ cầm tay tôi lôi vào căn phòng khách nhỏ ấm  cúng. Nỗi vui mừng càng hiện rõ trên gương mặt ngài, như thể lâu lắm rồi  ngài mới gặp lại người thân của mình. Căn phòng khách vẫn như xưa, xung  quanh vẫn bài trí đồ đạc, tranh tượng gọn gàng ngăn nắp như cách nay  mười mấy năm tôi từng ở đó
 Cha xứ nhanh nhẹn với tay lấy chiếc bình  trà đã pha sẵn còn nóng hổi rồi rót ra hai tách. Mùi trà gừng thoang  thoảng bay vào mũi tôi một mùi thơm dễ chịu, ngất ngây, mùi của một thời  ký ức xa xăm, khiến tôi càng thêm nhớ những ngày còn ở đây, cũng tại  căn phòng quen thuộc này, khi ngoài kia tiết trời đông về, gió bấc thổi  luồn qua khe cửa lạnh thấu da, có bình trà gừng nóng ngồi nhâm nhi  thưởng thức mới thấy thú vị làm sao. Thế nhưng, vào lúc này đây, dù tiết  trời ngoài kia khá lạnh, song tôi ngồi đó lòng như lửa đốt
 - Thưa Cha con…con xin lỗi Cha..- Tôi cất giọng run run
 Cha xứ khoát tay
 - Thôi, chuyện cũ rồi, bỏ qua đi anh Hoàng, không ai nợ ai điều gì hết! Nếu anh cảm thấy có lỗi anh hãy xin lỗi Chúa
 Cha xứ nói và chỉ tay lên bức ảnh Chúa Lòng Thương Xót, nét mặt ngài tươi vui hơn lúc nào hết
 Tôi lấy trong túi ra chiếc phong bì
 - Thưa Cha. con gửi lại cha số tiền … con …
 - Thôi, được rồi anh Hoàng. Ai cũng có lúc sai lầm. Nhưng hôm nay tôi thật vui mừng khi thấy anh trở lại đây…
 Cha xứ nói giọng đầy hân hoan, còn tôi, mồ hôi trán bắt đầu rỉ ra
 - Vâng …con không thể không trở lại đây, vì con còn nợ Cha rất nhiều …Thưa Cha..số tiền này
 - Không – Cha xứ lại cắt ngang lời tôi – không nhắc chuyện quá khứ nữa.  Còn số tiền anh đưa cho ban điều hành giáo xứ đi, tôi đã quên hết mọi  chuyện từ lâu rồi. Hôm nay anh ở đây dùng cơm với tôi nhé. Đừng nghĩ  ngợi gì nữa
 Chưa kịp ngồi chuyện trò với cha, khách lại kéo đến thăm  cha đầy nhà. Tôi vội xin lỗi cha bước ra ngoài để ngài tiện tiếp đoàn  khách, hình như cũng vừa từ xa đến. Đi dạo quanh vườn nhà xứ, tôi thoáng  nghe tiếng cười nói ồn ào, khiến tôi liên tưởng đến những ngày còn làm  việc mục vụ tại đây. Khách ghé thăm phần nhiều nhờ Cha xin lễ cầu nguyện  cho một linh hồn nào đó, kèm theo những bao thư tiền xin lễ và cả tiến  biếu riêng cha …
 Ngày đó, khi vừa tốt nghiệp khóa thần học từ nước  ngoài trở về, tôi lập tức bắt tay vào việc củng cố phát triển giáo xứ,  làm thế nào để lôi kéo nhiều người ngoại vào đạo Công Giáo và giúp biến  đổi những giáo dân sống xa Chúa, nguội lạnh trong việc đi tham dự Thánh  Lễ, cầu nguyện …Tôi đã cật lực truyền bà đức tin cho mọi người, giúp họ  có được đời sống đạo tốt hơn. Khốn thay, trong khi truyền bá cho mọi  người lối sống đạo tốt, tôi càng ngày càng ít dành thời gian cho việc  cầu nguyện, chăm lo đời sống Đức Tin của chính mình. Tôi miệt mài trong  những suy nghĩ, ưu tư về những con chiên tội lỗi. Tôi lao vào các thư  viện tìm tòi, rồi viết sách về các tội lỗi mà con người luôn mắc phạm.  Những sách tôi viết được bề trên, giáo dân đón nhận nhiệt liệt. Có lúc  tôi tưởng đã gặp được Chúa, Ngài luôn ở bên tôi, giúp tôi trở nên một  linh mục hoàn hảo, Nhưng càng nổi tiếng bao nhiêu tôi càng xao lãng đời  sống cầu nguyện bấy nhiêu, tôi đã không thực hành chính những điều tôi  nói và viết hằng ngày trên bục giảng.
  Có những bài gỉang tôi biết  Chúa thường nhắc nhở con chiên mỗi ngày “"Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ  mình, vác thập giá mình mà theo Thầy?" (Mt 16,24)” ; “ Phúc cho ai có  tinh thần nghèo khó …Tôi biết. Song thực tế, mọi điều tôi rao giảng  trước giáo dân hằng ngày, miệng tôi nói ra nhưng tôi chưa bao giờ thực  hiện được “ Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó …” Tôi tự ý sống theo ý  mình. Chỉ riêng căn phòng của tôi thôi đã tràn ngập những thứ xa hoa phù  phiếm. Tôi tự thiết kế cho mình căn phòng khang trang đầy đủ tiện nghi  như một phòng hạng sang trong khách sạn VIP. Tôi lố bịch đền độ mỗi lần  đến thăm các sơ, trong khi các chị ăn uống đơn giản, ngủ giường chiếu,  thì tôi được các sơ tiếp đải trọng thị, được ngủ giường nệm và ăn uống  không thiếu một món ngon nào
 Tôi cả gan chống lại bề trên, thậm chí  vượt quyền cha xứ. Tôi tham vọng muốn xây lại Nhà Thờ cho thật đẹp, thật  to, có thề nói tôi ao ước muốn có một Ngôi Thánh Đường lớn nhất vùng.  Thế nhưng, Cha xứ đã kiên quyết cản tôi lại, vì ngài cho rằng gíao xứ  còn nghèo, giáo dân chưa đông thì chưa nên xây Nhà Thờ lúc này. Ngài  khuyên tôi hãy dùng tiền giúp đỡ người nghèo sẽ có ích hơn. Có lẽ, do bị  quỷ xui khiến nên tôi đã to tiếng với ngài. Thậm tệ hơn, trong thời  gian đó, có một phụ nữ vốn là giáo dân đến gặp tôi ngỏ ý muốn giúp tiền  để tôi xây Nhà Thờ. Tôi thường xuyên đi với phụ nữ đó và đã bị bà ta  quyến rũ khiến tôi mê đắm trong ái tình. Cha xứ biết chuyện nhiều lần  khuyên tôi nhưng tôi bỏ ngoài tai tất cả. Tôi quyết định rời khỏi giáo  xứ chạy theo tiếng gọi người đàn bà kia cùng số tiền tôi lấy đi của nhà  xứ …
 
…
 Trưa hôm đó, cha xứ mời tôi dùng cơm với ngài. Ngài thiết  đãi tôi bữa cơm đạm bạc đậm tình cha con. Trong suốt bữa ăn Cha chỉ  toàn nhắc lại những việc làm tốt của tôi trước kia, không hề đá động gì  những việc làm sai trái, xấu xa của tôi. Tôi ngồi nghe từng lời khuyên  răn của ngài, lòng tự hỏi,liệu tôi có rút ra được gỉ cho mình! Hay những  lời cha …sẽ lại tan theo mây khói!
 Tôi nghĩ, để sống được như cha  có lẽ còn cả một quãng đường dái xa tít. Tôi khổ đau day dứt vì những  lời cha khuyên, vì cuộc đời phức tạp của mình. Cha xứ yên vui thầm lặng  trong địa vị khiêm nhu của ngài. Ngài nhỏ nhẹ khuyên tôi : chẳng cần  phải làm gì cho cao siêu vĩ đại. Cứ lấy lòng khiêm tốn ra mà suy xét mọi  việc trước sau, và luôn làm việc phục vụ tha nhân trong tình mến Chúa  dạt dào. Tôi đã khóc một lần nữa, bởi những điều tưởng chừng như đơn  giản ấy sao tôi vẫn cứ mãi loay hoay, vẫn mãi vụng về … Có lúc tưởng đâu  tôi đã tỉnh ngộ! Nhưng không, tôi thấy mình còn u mê dại khờ lắm!
  Lúc ăn cơm xong tôi gặp lại chàng thanh niên có nụ cười và hàm răng lấp  lánh ban sáng. Anh ta kể cho tôi nghe vì sao anh lại muốn theo đạo Công  Giáo. Anh ta nói như thế này : ‘ Cháu rất tiếc vì mình đã không sớm biết  về Chúa Giêsu. Ba năm trước, cháu là một tên nghiện rượu, sáng say  chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình cháu bị khủng bố buộc phải bán  nhà đi trả nợ, ra ngoài ở nhà thuê. Mỗi tối, khi cháu trở về nhà, vợ và  các con trông thấy cháu không muốn đến gần. Thế mà, bây giờ thì cháu đã  dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, mua được căn nhà  nhỏ. Gia đình cháu đã tìm lại được hạnh phúc, các con cháu ngông ngóng  chờ cháu về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai  khác hơn, chính Chúa đã làm cho cháu. Và đó là tất cả những gì cháu biết  về Người...’
dvtung
16-02-2016, 01:08 PM
Mã số: 16-030
SÁM HỐI
 Bóng dừa chao nghiêng bên thềm ngập ngụa nắng chiều, mấy giọt buồn trưa  vẫn còn vương vấn đâu đó trên mái nhà, ông dụi mắt cố nhìn xuyên qua  cái chói chang le lói giữa từng nếp lá đó, thở dài đánh thượt. Ông thấy  đắng họng. Mấy ly rượu nhạt ban trưa vẫn còn ngậy mùi từ trên khóe  miệng, ông đưa tay quệt ngang mép, chặt lưỡi, đói. Lão Hùng điên chệnh  choạng đứng lên từ đống quần áo cũ nhàu nát, cái ổ chó mà mấy đứa trẻ  vẫn thường nhổ toẹt nước bọt vào đó khinh bỉ, nó vẫn là cái nơi ấm áp  nhất của ông, của cuộc đời ông còn sót lại. Xiêu vẹo cố bước qua bậc  thềm cũ nát, ông tựa cửa, đưa mắt nhìn ra xa đó, nơi mà ông luôn muốn  được tìm về, nhưng vẫn luôn rất sợ phải về. Nơi mà ông đã mất đi chính  mình. Mất đi tất cả.
 
***
 Anh hứng khởi đạp xe qua mấy con đường  dốc, trong lòng ngập tràn hạnh phúc đang rung lên từng hồi theo cái đong  đưa của vật tròn tròn nho nhỏ nơi túi áo, đang nhấp nhô theo từng nhịp  lưng còng ướt sũng mồ hôi của anh học trò trẻ tuổi. Anh đang mang đến cô  lời cầu hôn chân thành của chàng trai 18 lần đầu được yêu, và lần đầu  nhận được cái gật đầu miễn cưỡng của bố mẹ, chỉ vì “Không có cô ấy, con  sẽ chết!’. Bố mẹ anh chẳng thể cản được. Không ai có thể ngăn cản được  một con tim đang yêu cả, dù đó là một người trưởng thành hay chỉ là một  cậu nhóc mới lớn.
 Nhưng nụ cười anh chưa kịp bừng sáng, đã vội tắt ngúm.
 - Anh, em có thai!
 - Em đùa à?
 - Không, em nói thật.
 - Em đùa không vui đâu! Không lẽ em có thai nhờ Thiên Thần truyền tin như Đức Bà sao? Haha
 Cô nhìn anh bằng đôi mắt kinh ngạc, cái kiểu cười này đã làm cô đau đớn  khủng khiếp cái đêm mưa gió đó, khi anh uống say với đám bạn học và đưa  cô về nhà mình. Hôm nay, nó lại một lần nữa làm cô đau đến nghẹt thở.
 - Anh, anh không nhớ sao?
 - Nhớ gì? Tôi đã làm gì em đâu! Hay là…
 - Anh! Rõ ràng là hôm đó…
 - Này cô, dù là chúng ta yêu nhau, nhưng đừng đem mấy chuyện này ra vu  cho tôi nhá! Tôi đã bảo là đêm đó tôi có làm gì cô đâu, tôi ngủ ở nhà  tôi còn gì! Cô dừng ngay cái thói bịa chuyện ấy đi!
 Đôi mắt cô như  dại đi, và cái người cô yêu đang đứng trước mặt kia không còn là anh  nữa. Cái đêm kinh hoàng đó, và cái khốn nạn của thằng đàn ông đó, nó bóp  nát trái tim cô, cơ thể cô, bóp nát luôn cả niềm tin cô vẫn luôn dành  cho anh. Làm sao anh có thể tàn nhẫn và dã tâm đến mức như vậy? Cô đã ép  mình phải bỏ qua cho anh chuyện đó, nhưng cái cách anh thoái thác trách  nhiệm này, cô không thể tha thứ được. Và một cái tát tuy không đủ mạnh  nhưng vẫn đủ gây sự ngạc nhiên nơi anh, đã được cô dứt khoát tặng vào má  trái của anh như một sự cắt đứt. Tất cả đã sụp đổ.
 Nhưng tất cả như  mới bắt đầu trong tâm trí người con trai trẻ tuổi bốc đồng nông nỗi đó.  “Tại sao em đánh tôi? Tôi tin chắc tôi không làm gì phạm đến em, em đã  vu oan cho tôi thì thôi, đã vậy còn mang cái thai hoang ấy về gán lên  tôi, nay lại dám đánh tôi!” Tia giận dữ sáng lòa cả mắt, nó như ngọn lửa  địa ngục, kéo toàn bộ bóng tối bao trùm lên trái tim anh, và cuộc đời  anh. Anh đánh trả cô thật mạnh, đến nỗi cô ngã nhào vào chiếc xe đạp anh  đựng cạnh đó. Cô lồm cồm bò dậy, ngay lập tức tặng cho anh một tia nhìn  khinh khi và ghê tởm. Điều đó càng làm anh điên tiết. Nên khi cô vừa  gượm quay đi thì anh đã kéo tay cô lại hết sức thô bạo mà hét vào mặt  cô:
 - Là thằng nào? Thằng nào?
 …
 - LÀ THẰNG NÀO?
 Mỗi một  câu “Thằng nào” được thốt ra từ anh là một cú đấm thật mạnh vào đầu cô,  vào mặt cô. Cô ngã dúi dụi xuống bãi cỏ xanh mượt đang rơi dần từng  giọt nắng. Và cô cũng đang rơi dần vào tuyệt vọng và hoảng sợ, cô không  kịp la lên một tiếng. Anh siết cô trong đôi tay rắn chắc. Siết thật  mạnh, thật mạnh. LÀ THẰNG NÀO MÀ DÁM CẮM SỪNG LÊN ĐẦU TAO?
 
***
  Chuông đánh liên hồi từ nhà nguyện nhỏ xíu lụp xụp đầu làng. Lão như bị  kéo ngược về hiện tại. Hôm nay chủ nhật à? Hay là có người chết? Mặc kệ  chúng bây!
 Lão lê lết đôi chân mỏi mệt và lã đi vì đói ra phía con  đường nhỏ dẫn đến đầu làng. Mấy đứa trẻ con được mẹ mặc cho áo trắng mua  từ Tết, đóng thùng hẳn hoi, nô nức đi Lễ chiều, vừa nhìn thấy hắn đã  hét lên: “Ông điên!”, “Ông Hùng già điên!” rồi cười ngặt nghẽo… Những  người mẹ vội vã thúc vào lưng tụi nhỏ, giục chúng bước nhanh kẻo không  kịp giờ Lễ, mắt không quên liếc nhìn e ngại và tỏm lợm về phía lão. Lão  lườm bọn trẻ, miệng khè khè vài tiếng, rồi văng tục liên hồi. Lão hét,  lão tru, lão chửi và rồi lão cười, tiếng cười ma dại mà đến cả bản thân  lão còn thấy kinh sợ mỗi khi đêm về. Nhưng như để trả đũa lại cuộc đời  tàn nhẫn, trả đũa lại Chúa Trời giả dối đã đẩy lão vào chốn bần cùng,  lão cứ cười và cứ chửi. Cười và chửi cả thế giới này, cái thế giới chỉ  có bóng tối!
 Buổi Lễ chiều nơi cái làng bé nhỏ nghèo nàn ấy, cũng  như những buổi Lễ chiều khác, vẫn diễn ra giữa những con người lam lũ và  xác tín, giữa những dối trá và hơn thua của cuộc đời ngoài kia. Không  ai nói một câu nào về lão, cũng không ai muốn than phiền hay trách móc  thêm một chút nào về lão, vì sự ấy đã quen rồi. Họ chỉ biết cố gắng dâng  mình lên Đấng thiêng liêng của họ, dâng cuộc đời nghèo khổ và những ước  mơ no đủ. Không ai muốn quan tâm đến lão. Tiếng kinh cầu hòa cùng tiếng  chửi rủa của lão vang xa, vang xa.
 
***
 Ngày hôm đó nắng rất  đẹp. Anh bước ra khỏi căn nhà của bố mẹ, hít một hơi thật sâu cái không  khí của sự tự do. Cuộc sống tù tội 16 năm đã dạy anh quá nhiều điều, anh  trưởng thành hơn, biết suy nghĩ hơn, và quan trọng là anh đã biết sợ  hãi nhiều hơn. Sợ con người và sợ cuộc đời. Những năm dài sống trong tủi  nhục của một kẻ tù chung thân vì tội giết người, anh thấm thía cái gọi  là tự do và được tôn trọng, thấm thía cái cảm giác hối hận và luyến  tiếc, thấm thía sự khao khát được làm lại cuộc đời và thề rằng sẽ không  bao giờ quay trở về cái nơi đó nữa.
 Anh vẫn luôn nhớ về cô và nỗi  đau trong trái tim anh suốt 16 năm. Dù đã nhiều lần anh tìm đến nhà và  mộ cô để xin tha thứ, nhưng lần nào anh cũng bị xua đuổi. Nhưng anh vẫn  luôn động viên mình hãy kiên trì, vì anh phải được họ tha thứ thì lương  tâm anh mới thanh thản. Sáng nay, anh định ra mộ cô thì được cấp phép  vào thăm người bạn thân trong tù, thế nên anh cùng vài người bạn quay  lại nơi đó. Nhưng lần này không phải với tư cách tù nhân, mà là một thân  nhân, một người lương thiện hẳn hoi.
 Và ở đó, hôm đó, anh được gặp An.
 Đôi mắt đó và sự thánh thiện dịu dàng đó, nụ cười đó và sự hài hước rất  duyên đó, anh như gã trai trẻ lần đầu được yêu năm xưa. Đôi mắt anh  sáng lên, trái tim anh rung động, anh không biết nên nói gì và làm gì,  anh chỉ biết mỉm cười, vì trước An, anh chỉ là thằng nghèo xác và vô  dụng, lại mới ra tù, anh không dám…
 Nhưng dường như Chúa đang muốn  bù đắp cho những tủi nhục và đau khổ mà anh đã phải chịu đựng suốt bao  nhiêu năm qua, nên đã mang An đến cuộc đời anh. An quá hiền lành đến nỗi  cô không hề chê bai hay khinh khi gì quá khứ của anh, cô nhẹ nhàng và  luôn dành cho anh những nụ cười thật thân thiện. Anh một lần nữa đắm say  trong mật ngọt của tình yêu.
 - Anh ở trong đó vẫn đi lễ đủ hả?
 - À, anh không được đi lễ đâu em, trong tù mà, đâu ai cho mình đi đâu. Nhưng anh vẫn cầu nguyện hằng đêm đấy!
 - Vậy, anh đã xưng tội chưa?
 Đôi mắt An cười thật hiền từ chỉ để mong anh không tổn thương vì những  câu hỏi chạm đến quá khứ ấy của mình, nhưng với anh, nụ cười đó là tất  cả. Anh nhớ ra mình chưa từng xưng tội trong một thời gian dài. Anh cũng  chợt nhớ anh đã không cần đến Chúa trong suốt khoảng đời đó. Sự thù hận  và tủi nhục đã khiến anh quên mất Ngài.
 Vậy là cứ mỗi chiều Chúa  nhật dù nắng hay mưa, anh đều đến nhà An để cùng đi lễ với cô. An trong  sáng quá, và anh ngất ngây trong cái thứ hạnh phúc anh tự dựng xây cho  mình, thầm cảm ơn Chúa Trời đã ban cho anh cái hạnh phúc quá đỗi ngỡ  ngàng ấy, dù muộn màng. Nhưng việc xưng tội anh cứ lần lựa mãi…
 Tình  yêu âm thầm anh dành cho An cũng đến lúc không thể giấu kín, anh hồi  hộp chờ đến ngày được gặp cô, được trao cho cô tiếng yêu thương chân  thành, được đề nghị sẽ cùng cô đi hết cuộc đời dù gian nan hay bão tố,  dù mạnh khỏe hay yếu đau… Trong anh, mặt trời như lại mọc lên từ khô  cằn, và ánh sáng của nó đẩy lùi bóng tối cuộc đời đã chôn vùi anh tưởng  chừng là mãi mãi. Anh lại một lần nữa, ôm ấp cái nôn nao của chàng trai  mới yêu lần hai, khấp khởi đến nhà An trong cái nắng chói chang của một  buổi trưa đầu xuân rực rỡ.
 An đã đến nhà một người bạn, có lẽ là đi  chúc Tết. May thay người bạn ấy anh cũng có quen biết, thế là anh lập  tức sang đó với An. Mọi người đón tiếp anh rất ân cần, bố mẹ và cô bạn  của An, cả An nữa, quây quần bên mâm cơm hết sức ấm cúng. Nụ cười chưa  bao giờ tắt trên môi anh kể từ khi anh được nhìn thấy An đang ngồi trước  cửa nói cười, và anh nguyện sẽ trọn đởi dành nó cho An. Cái viễn cảnh  thánh đường lung linh hoa trắng và nến sáng, có anh dìu tay An bước vào  thề nguyền dưới chân Đức Chúa, anh lơ lửng trên chín tầng mây.
  Nhưng, anh như nhận ra sự khác thường giữa hai cô bạn gái này. Nụ cười  và ánh mắt họ dành cho nhau đó quá dịu dàng, quá thân thuộc, quá “tình  tứ”. Anh mơ hồ nhận ra An dành cho cô bạn của mình sự quan tâm đặc biệt,  đặc biệt trên hết những sự quan tâm của bạn bè bình thường. Họ gắp thức  ăn cho nhau, họ nắm tay nhau, thậm chí, họ ngả người vào nhau mỗi khi  có ai đó làm họ cười, và nụ cười ấy hạnh phúc biết bao!
 Ôi, không lẽ…
 Đôi mắt anh mờ đi khi nhận cái lắc đầu của An, ánh mắt thương cảm dịu  dàng của cô, thanh âm trong trẻo từ môi cô đang cố giải thích rằng cô  chỉ xem anh như người anh trai đáng kính, tất cả tan đi trong cơn mê  muội phẫn nộ. Anh nghe thấy có tiếng gào thét bên trong mình, “Chúng nó  khinh thường mày, chúng nó đồng tính, chúng nó bệnh hoạn, TRỜI ƠI, vậy  mà lại dám từ chối mày, chúng nó không đáng sống!”
 Tiếng la ó hốt  hoảng, tiếng bước chân chạy rầm rập, tiếng người kêu cứu, và đôi mắt mở  to kinh ngạc chìm trong máu vẫn nhìn chằm chằm vào anh, anh sợ hãi, và  anh bỏ chạy, chạy mãi, chạy mãi…
 
***
 Lão cảm nhận rất rõ cơn đau  nhói khủng khiếp đang đâm thủng nội tạng của lão, và máu tuôn ra không  ngừng từ từng đường gân thớ thịt. Lão rên xiết, lão gầm gừ, cố gắng  gượng dậy, nhưng cơn đau lại quật ngã lão. Lão nằm sóng soài trên cái ổ  hôi thối ẩm ướt, nhầy nhụa dịch nôn và phân. Đêm qua lão uống rất nhiều,  sau khi đã mắng chửi thỏa miệng và vòi vĩnh bà hàng nước một chai rượu  trắng, lão nốc hết sạch mà không ăn gì. Ảo ảnh nhòe nước mắt hiện về làm  lão đê mê. Những gương mặt, những nụ cười, những ánh mắt và những cái  đụng chạm. Lão lờ mờ nhìn thấy người yêu đang khóc lóc van xin lão,  nhưng đôi bàn tay của lão không chịu dừng lại, và cái thứ bên trong quần  nó cứ muốn đòi thêm, đòi thêm nữa. Lão lại mơ hồ nhìn thấy anh cán bộ  quản trại đang giáo huấn những lời cay nghiệt, những trận đòn của bạn  tù, những lần đói ăn và những lần ngã nhào xuống hố tự hoại nhà xí… Lão  lại rên xiết, tiếng ư ử cứ không ngừng phát ra từ cổ họng khô cháy. Lão  lại nôn, lại tiêu ra rất nhiều máu. Lão đảo mắt nhìn xung quanh, đưa tay  cố xua đi hình ảnh cái nhà lao phủ rêu xanh mốc đang vây lấy mình, lão  định ngồi dậy, nhưng lão không thể làm gì được với tay chân, chúng nó  không chịu nhấc lên dù chỉ chút ít. Cơn đau lại hành hạ, lão kêu lên một  tiếng giữa ngôi nhà tồi tàn mong sẽ có ai đó đến cứu mình. Nhưng chẳng  có ai.
 Lão lại chìm vào cơn mơ màng của âm thanh và ảo ảnh. Lão thấy  mặt trời như dị dạng đi, và mái tóc của An vừa bay ngang qua khuôn mặt  lão. An cười thật tươi, và giọng An yếu ớt, máu rỉ ra từ ngọn dao cắm  nửa vời vào bụng. Lão hốt hoảng, lão bỏ chạy. Lão vấp ngã, lão thấy An  đưa tay đỡ lão, lão thấy cán bộ chĩa súng vào lão, lão thấy những đôi  mắt phán xét, những tràng cười ghê rợn, những bàn tay thô bạo túm lấy  lão… Lão chạy thục mạng, không kịp thở, không kịp ngoái đầu. Lão đau  đớn, lão sợ hãi. Lão hối hận.
 Cái nắng ban trưa gay gắt làm lão khát  khô. Lão vẫn nằm mê man trên cái đống ướt mèm máu, miệng không ngừng  gọi tên An. An đang ở đó, đưa tay ra cho lão, cùng lão bước vào Nhà thờ.  Tiếng nói trong trẻo dịu dàng vang lên xa xa đâu đó như vọng về từ quá  khứ, nhưng cũng thật gần như đang vang ra từ trái tim, “Anh đi xưng tội  nhanh đi, để lâu quá, Chúa không tha hết tội cho anh đâu!”.
 “Vâng, anh sẽ xưng tội mà, nhưng An phải hứa là làm vợ anh nhé!”
 “Dạ!”
 Lão hân hoan khôn tả, lão đâu muốn giết An, lão yêu cô nhiều lắm mà.  Rồi cô sẽ là của lão, hạnh phúc đó là của lão, chỉ cần lão xưng tội  thôi. Lão gắng gượng, lê lết cái thân nặng trĩu, lết bằng tất cả sức lực  còn sót lại, bằng tất cả sự mong đợi của An, lão cứ thế lê mãi, lê mãi.
 Lão thấy Cha xứ chạy ra dìu lão, thấy mọi người xúm quanh lão, lão cảm  thấy có một dòng nước mát chảy vào cổ họng. Lão bừng tỉnh. Lão xin Cha  cho lão được xưng tội. Lão nhìn thấy Thánh giá Chúa treo cao, đôi mắt  Ngài hiền từ nhìn lão, máu rỉ ra từ trái tim đầy gai nhọn đó, nhưng Chúa  vẫn rất nhân từ với lão. Lão rơi nước mắt. Lão cười, cái nụ cười thật  sự mà lâu lắm rồi lão đã không có…
 
***
 Buổi chiều đó, người ta tìm thấy lão Hùng Điên nằm chết trên vũng phân máu, đôi mắt mở hờ, tay nắm chặt Thánh giá treo trên cổ.
 Buổi chiều đó, có tiếng chuông Nhà nguyện vang xa, vang xa…
dvtung
16-02-2016, 01:08 PM
Mã số: 16-031
HI VỌNG
 Buổi chiều rải nắng dài trên sông. Mấy giọt óng ánh loang ra, theo con  nước cuốn mãi về phía xa đó. Xuồng lá dập dìu đánh sóng, tay người chèo  thoăn thoắt, tiếng cười nói rộn rã. Mấy đứa trẻ vẩy nước vào nhau, cười  tung tóe. Còn mẹ chúng thì bực dọc chau mày, miệng la oai oái, nghiêng  đầu né mấy tia nước sông chực tát vào mặt, tay không ngừng tét vào mông  mấy đứa nhỏ. Những cô gái trẻ vừa nghiêng nón lá che nắng, vừa thầm thì  mấy điều chi mà cười khúc khích. Áo dài trắng phấp phới bay. Chiều nay  đẹp quá!
 Con Mén lóng ngóng ngửa cổ ngó miết ra mé sông. Nó nuốt  nước miếng ừng ực, tay vò vò vạt áo nhàu nát mấy miếng vá, chân cứ thập  thò muốn phóng xuống xuồng theo dòng người nô nức đi luôn. Hôm nay chiều  Chúa nhật, người ta đi lễ nhà thờ vui như đi coi hát. Nó léo nhéo với  má nó:
 - Lẹ má ơi, người ta đi hết rồi kìa!
 - Từ từ con, để má bắt cái nồi cơm đã! Mà tắm chưa đó?
 - Con tắm nãy giờ rồi. Mà năn nỉ hoài hổng chịu may cho người ta cái áo dài, mặc cái áo rách hoài coi sao đặng má?
 - …
 - Mấy chị kia mặc áo dài trắng kìa! Chu choa, nó đẹp bá chấy, má! Cái tà áo bay bay kìa má! Nón lá nữa má!... Má!
 - Ờ, thấy rồi. Còn nhỏ mà đòi mặc áo dài gì hả con? Để lớn chút má may cho!
 - Mười ba tuổi mà nhỏ gì nữa má! Người ta bằng tuổi con mặc tràn lan rồi! Mà…
 Con Mén im bặt. Người ta mười ba tuổi rước lễ thêm sức hết trơn, nó thì  còn chưa được rửa tội, bon chen chi mấy cái áo dài. Nó mặc áo dài cho  đẹp chi mà vô đi lễ không dám nhìn lên, toàn nhìn xuống đôi dép. Má nó  cũng không dám cho nó vô nhà thờ, sợ bà nội nó đi ngang mà thấy là hai  má con nó bị đòn nhừ tử liền. Nó thở dài đánh thượt, nghĩ đời mình lận  đận, khổ hơn cô Lựu.
 Má ngó thấy cái mặt con nít ngồi thở dài coi xạo quá, khẽ đầu nó cái nhẹ: “Tương tư gì đó cô nương! Thôi, đi, hông là trễ à!”.
 Má lôi ra cái áo sơ mi trắng cũ mèm của má, má mới vá lại mấy chỗ, giặt  ủi sạch sẽ thơm tho, biểu nó thay đi. Cái áo cũ của má để dành lâu rồi  với nó bây giờ là cả gia tài, bởi dù rách vá mấy chỗ nhưng vẫn ngon lành  hơn cái áo màu cháo lòng nát bét của nó. Nó mừng rơn nhảy cẩng lên, rồi  phóng cái ào vô buồng thay áo, không khí sau lưng nó chưa kịp xáo động  là nó đã phóng ào trở ra, toe toét ngó má nó. Áo trắng đi lễ của má mà,  cỡ nào cũng đẹp!
 Trên con đường làng chiều nay có hai đôi dép tung tăng đi nhà thờ.
 Má con Mén tuần nào cũng đi nhà thờ như vậy đó, thành cái lệ rồi. Hồi  nhỏ, mấy buổi chiều Chúa nhật thấy má tất bật lo cơm nước cho sớm, rồi  lôi nó đang chạy nhảy sau hè về tắm rửa, thay áo mới rồi dắt nó đi vô  cái nhà thờ đầu xóm Mắm dự lễ. Nó cứ thắc mắc hoài, má dắt đi vô đó chi,  toàn nghe người ta đọc cái gì buồn ngủ gần chết, mà tuần nào cũng bắt  nó phải đi theo, nó năn nỉ gãy lưỡi mà có khi nào má chịu tha cho nó  đâu! Nó càng không hiểu khi mà có hôm bà nội nó lôi má nó xềnh xệch từ  nhà thờ về, vừa đi vừa chửi má ghê lắm, còn lôi nó ra đánh mấy cái, hằn  luôn mấy bàn tay lên cái mông đen thui của nó. Lúc đó má khóc ròng ôm  lấy nó, quỳ gối năn nỉ bà nội nó, hứa là không đi nhà thờ nữa. Nó hỏi má  hoài, bà nội hổng cho má đi mà, sao má đi chi hoài cho bà nội đánh con  vậy? Má rầu rầu nhìn nó, làm nó thấy nó có lỗi với má quá. Sao nó nói  vậy, khác chi nó lấy dao đâm má nó mấy cái luôn cho rồi! Nó biết chuyện  mà!
 Tía má lấy nhau tại má mang bầu anh Hai trước, nên lúc làm đám  cưới bà nội cứ liếc xéo má, miệng cười cười với bà con lối xóm vậy chứ  trong bụng coi thường má lắm. Nên tía nó đâu có được theo đạo của má,  đâu có được rửa tội, má nó đâu có được vô nhà thờ làm lễ cưới đâu. Đã  vậy, bà nội còn bắt má bỏ đạo. Bà nội nói: “Tụi bây thờ ông bà mình  thôi, thờ ông này bà nọ chi! Không cho đốt nhang ha, không cho lạy ha,  không cho làm đám giỗ ha! Riết rồi thành bất hiếu hết! Tao cấm nha, bây  coi sao cho được đó! Tao mà còn thấy đi cái gì lễ lộc chúa chiếc gì, tao  đánh què giò à!”. Má nó khóc tới mờ mắt. Hồi sanh anh Hai, rồi tới anh  Ba, má khổ với bà nội lắm. Tới khi mang bầu nó, tía má nó ra riêng, về ở  xóm dưới, còn bà nội sức khỏe yếu nên về ở chung với cô Hai bên xóm  trên, má nó mới nhẹ thở được chút. Má sanh nó ra, lo cho hai anh nó lên  thành phố học chữ, nhà càng ngày càng rớt hết mồng tơi, nên nó không  được đi học. Tía nói, con gái học chi nhiều, lớn lên gả chồng đẻ đái,  biết cơm nước là đủ rồi. Nó buồn hiu. Má nó cũng buồn hiu. Nên má thương  nó lắm. Từ hồi về xóm dưới ở, má nó lén bà nội đi lễ được bữa nào là  cho nó đi theo bữa đó.
 Lúc mới đi lễ nó không hiểu gì mấy câu kinh  đó, nên cứ ngủ gà ngủ gật. Nhưng càng lớn nó càng thích. Thích mấy bài  Thánh ca dễ thương (mấy bài “Cầu cho cha mẹ” là nó thích nhất). Thích  mấy đứa nhỏ trạc tuổi cũng theo ba má đi lễ. Thích mấy chị mặc áo dài  đứng nghiêm trang. Thích ông Cha xứ già, lần nào đi lễ ra cũng xoa đầu  nó, cho nó cục kẹo.
 Lớn hơn chút, nó thích được bàn luận giáo lý với  mấy đứa xóm Mắm. Tụi nó ỷ được học giáo lý, tụi nó nổ banh nhà lầu, nó  phải cãi lại cho đám kia bớt nổ. Nó lại thích được rước lễ, thích quỳ  gối trong nhà thờ, thích chính mình được cất tiếng hát, được cao rao  những câu kinh dù thuộc lòng mà chưa hiểu hết nghĩa. Thích mặc áo dài  trắng giống mấy chị em đồng tuổi, cầm nến trắng bước lên đền thánh nhận  bí tích Thêm sức, dù là nó chẳng hiểu Cha thêm sức gì cho chị em đó, chỉ  hiều lờ mờ, chắc thêm sức cho khỏe, cho đi lễ đều đều, cho khỏi bỏ  Chúa. Cái hiểu đơn sơ đó của nó mấy lần làm má rớt nước mắt. Má vui buồn  lẫn lộn. Nó nhìn thấy càng rầu thêm, má này, khóc chi khóc hoài!
  Giờ lớn hơn chút nữa, nó lại thích đi lễ vì má nói, con đi lễ cầu  nguyện, cầu gì cũng được hết đó, Chúa sẽ ban cho con. Nó mở to mắt, linh  dữ vậy hả má! Vậy nên nó càng sốt sắng muốn đi lễ, dù là nó chưa xin gì  lớn lao ngoài món cá kho, ngoài con diều nàng tiên cá, ngoài cái áo mới  đi lễ, nhưng bấy nhiêu thứ đó thôi nó đã thấy yêu Chúa quá đỗi rồi! Má  mừng trong bụng lắm, nhưng cũng buồn lắm, làm sao cho nó được rửa tội  bây giờ?
 Má còn đang tính đường nói chuyện với tía, tía còn đang  ngày ngày trừng mắt ngó hai má con nó, theo kiểu: “Hai má con bị đòn  chưa tởn hả?” Má chưa kịp chờ tía gật đầu thì đã bị cơn đau nặng năm đó  vật đến te tua.
 Mùa mưa đó má bệnh nặng lắm, cứ sốt giật từng cơn  suốt đêm, người thì ướt mèm mồ hôi. Má vẫn than lạnh dù là Mén đã trùm  lên người má cả cái mền của nó, rồi nằm luôn lên giường mà ôm chặt lấy  má, má cứ rên hừ hừ. Nó cuống lên, quay vòng vòng như con bọ hung bị lật  ngửa, hết lấy thau nước ấm tới lấy khăn lau trán má, hết lấy mền tới  chạy đi lấy ly nước cho má, hết chạy đi tìm tía rồi lại chạy lên xóm  trên tìm thầy Thạch, người nó thấm đầy nước mưa mà má cũng không chịu  bớt rên chút cho nó mừng. Má rên đã rồi má mê sảng, nói ú ớ gì trong  miệng không rõ. Lòng con Mén lúc này ướt hơn cả bộ đồ nó đang mặc, nước  mắt nó rớt xuống còn nhiều hơn nước mưa ngoài kia. Thầy Thạch nói má  sưng phổi nặng lắm rồi, không lên thành phố chữa là chuyến này không qua  khỏi. Nó bấu vô vai má nó mà lắc, mà lay, mà gọi má. Nó nhìn thầy Thạch  đứng thì thầm với tía mà mếu máo, má ơi!
 Tía cứ châm hết điều này  tới điếu khác, má thì vẫn còn mê sảng, mắt nhắm chặt dù là nó kêu má bao  lâu má cũng không thèm trả lời nó. Nó khóc tới sưng bụp hai mắt, ngó  tía hỏi, sao tía hông đưa má lên thành phố hả tía, má chết cho coi! Tía  thở dài. Nó sợ tía lắm, nó chỉ dám hỏi trong thinh lặng, nên thấy tía  thở dài, nó càng không dám lên tiếng, khóc cũng không dám khóc lớn. Nó  quỳ bên má, níu níu áo, kéo kéo cái mền như thể nó đang cố níu kéo chính  má nó quay lại vậy. Má im lặng. Tía im lặng. Ông trời thì tiếp tục gào  thét.
 Chợt Mén nhớ má từng biểu nó cầu nguyện, nói nó mà ngoan thì  cầu điều gì Chúa cũng cho hết. Nó phóng cái ào vô buồng má, lôi cuốn  kinh nhỏ và xâu chuỗi của má ra, lần mò đọc kinh. Mà nó đâu thuộc hết  kinh, nó đọc được kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng với kinh Sáng danh là hết  biết rồi, mấy mầu nhiệm thánh nó đâu rành, thành ra cứ ba kinh ấy mà  đọc miết, đọc miết. Tía ngồi trước hiên nhà ngó vô, thấy nó lầm rầm  trong miệng, cũng đoán được nó đang cầu nguyện, tía xán vô định đuổi nó  đi, giờ này mà còn tụng kinh gì nữa hả! Nhưng tía vừa bước tới, chưa kịp  lên giọng là nó đã ngước đôi mắt sưng bụp lên tía, năn nỉ: “Tía cho con  đọc kinh cho má nghen tía, nghen tía, chứ giờ hông đọc kinh biết làm gì  hả tía? Má nói đọc kinh cầu nguyện là cái gì cũng được Chúa cho hết đó!  Tía!”. Tía im lặng nhìn nó, rồi nhìn vợ mình, ông không nói gì nữa. Nó  ngạc nhiên, lần đầu tiên nó thấy tía không la nó chuyện liên quan đến  đạo của má. Tía nó cũng không hiểu tại sao ông không rầy nó như mọi bữa,  chắc có lẽ ông cũng muốn thử tin một lần.
 Ông đâu phải không thương  vợ, không muốn theo đạo của vợ đâu. Ngày xưa lúc mới thương nhau, ông  cũng hay đưa bà đi lễ nhà thờ mà, cũng hứa hẹn sẽ theo đạo, sẽ vô đi lễ,  sẽ xin má… Nhưng vì cái bồng bột của tuổi trẻ và sự thiếu bản lĩnh của  đứa con trai mới lớn, vì sự tham lam của cơn dục vọng và men say, ông  đành thất hứa và để vợ chịu cảnh má chồng con dâu, chịu sự đánh đòn của  nội, và nặng nề hơn nữa là ông phải bắt vợ mình bỏ đạo, bỏ luôn cái điều  mà ngay từ ngày đầu tiên mới quen bà đã khẳng định với ông rằng cả hai  phải cùng đạo thì mới chịu nên vợ nên chồng. Nhìn thấy vợ bị má mình  đánh khi bị bắt quả tang đi lễ nhà thờ, ông đau lòng lắm chứ, nhưng biết  làm sao, ông đâu dám cãi lời của má. Vì lẽ đó mà hai vợ chồng dù thương  nhau lắm, vẫn luôn có một khoảng cách khó lấp đầy, mà ông biết rõ là  tại ông hết. Giờ ngồi dưới mái hiên nhà rả rích mưa này, ông nhìn thấy  cái lỗi của mình với vợ to lớn quá, tới lúc bà sắp đi rồi mà ông vẫn  chưa thể bù đắp được gì cho bà. Ông bất giác lại thở dài.
 Sáng hôm  sau má đỡ run hơn, cũng bớt sốt được chút. Thầy Thạch đem tới nhà nó mấy  chai nước thủy tinh, rồi treo lủng lẳng trên đầu má, gắn sợi dây dài  nối vô cánh tay má. Thầy nói thầy lấy thuốc từ trên thành phố về cho má,  thầy chạy suốt đêm. Tía rưng rưng nắm chặt tay thầy Thạch, nghẹn ngào  nói không thành tiếng, thầy Thạch gật gật đầu rồi đi ra. Mén ngó thấy  mấy chuyện này cũng hiểu lờ mờ là má nó được cứu rồi, nên nó sung sướng  hôn liên tục lên mặt má, lên tay má, nó lay má, nói má ơi má sắp khỏe  rồi má ơi! Miệng nó cười toét mà mắt nó rớt nước liên tục, con Mén mắc  cỡ quẹt tay lau nước mắt nước mũi, lật đật chạy ra sau nhà bắt nồi cháo,  đợi lát má dậy có cháo mà ăn, chắc má đói lắm rồi!
 Hôm sau má mới  tỉnh, còn yếu lắm nhưng cũng ráng húp miếng cháo khét Mén nấu. Má sốt  thêm ba bữa là hết sốt hẳn, nhưng còn ho nhiều. Người má xanh như tàu lá  chuối, Mén bày đặt làm mẹ, rầy má:
 - Má không chịu nghe lời nè, dầm  mưa nè, đã nói bữa đó mưa lớn ở nhà mà má hổng chịu nè, ráng đi lễ chi  cho bịnh thấy chưa! Hổng nhờ con bữa đó đọc kinh thì giờ đâu có tỉnh  đâu, thấy chưa!
 Má phì cười, đưa ngón trỏ ịn lên trán nó cái nhẹ, con nhỏ này! Tía nghe nó nói, lầm bầm:
 - Nhờ thầy Thạch chuyến này chạy lên thành phố mua thuốc cho mình mới  đỡ đó, để tui kiếm cái gì đem qua bển cám ơn ổng một tiếng!
 Má ừ với  tía, mắt vẫn trìu mến nhìn Mén. Mén canh lúc tía không để ý, nói nhỏ:  “Cũng nhờ con cầu nguyện nữa chứ bộ!”. Tía tằng hắng, ý nói Mén đừng có  nổ nữa, nó lắm lét nhìn tía rồi im ru, không dám nói nữa. Má cũng không  nói gì thêm, dù má tin bàn tay kỳ diệu của Chúa đã đưa thầy Thạch đến  cứu má, nhưng không dám bênh vực nó, phần má cũng định bụng sẽ từ từ nói  với tía sau. Tía ngó thấy hai má con chù ụ, cũng hơi áy náy, tía biểu  vài bữa xin thầy Thạch cho nó theo học chữ, chứ lớn rồi không biết chữ  cũng thiệt thòi với người ta! (Bữa đó cầm cuốn kinh mà có biết đọc đâu,  có mấy kinh mà đọc hoài!). Mắt Mén sáng lên:
 - Bên nhà thờ người ta  có dạy chữ đó tía, gần mà hông tốn tiền nữa đó tía! Tía cho con qua đó  học nha tía, người ta còn dạy đủ thứ nữa tía!
  Má ngó nhanh tía, nói thêm vô:
 - Thầy Thạch bận bịu chuyện trạm xá, mình đừng phiền thầy!
 Tía tần ngần hồi lâu, con Mén nhanh như cắt chạy lại níu tay tía, nằn  nì năn nỉ, nó làm cái mặt đáng thương chu mỏ nheo mắt, nó giật giật tay  tía làm tía lảo đảo. Tía phát bực, trừng mắt với nó. Mén sợ quá, lật đật  buông tay tía ra, mắt lấm lét ngó tía. Trong thoáng chốc nó thấy tía  cười thiệt là nhẹ với má, nó chộp ngay:
 - À há, tía cười rồi nha, tía chịu rồi nha, tía cho con đi học nha tía. Nha tía!
 - Cười hồi nào?
 - Có cười mà, con thấy mà!
 - Không có!
 - Có mà, có mà tía! Tía ơi tía!
 Tía không nhịn được, ừ đại với Mén. Mén hú một tiếng dài sung sướng, nó  chạy cái vèo ra đầu ngỏ, rồi chạy vòng vòng sân như đứa trẻ lên năm.  Tía lắc đầu ngó má, mắt má ánh lên lời cảm ơn trìu mến dành cho tía. Tía  ngó đứa con gái út, thấy thương nó quá. “Chuyến này không biết nói sao  với nội, thôi kệ, cho nó đi học cũng tốt mà, bên nhà thờ chắc sẽ dạy  giáo lý luôn, thôi tới đâu thì tới!”. Con Mén không thèm để ý tới vẻ mặt  đăm chiêu nhưng lại quyết tâm của tía, nó tung tăng như trẻ được quà,  nhảy chân sáo mà hát líu lo:
 “Mẹ cha thương con, tình như núi non,
 không hao mòn, là không hao mòn.
 Dù mai sau đây đời con lớn khôn,
 chẳng hề quên, xin chẳng hề quên…”
dvtung
16-02-2016, 01:08 PM
Mã số: 16-034
  
DẪU CÓ MUỘN MÀNG
  Trung Thành và Diệu Hiền là những con chiên ngoan đạo trong Giáo xứ.  Hai anh chị đẹp người, đẹp nết kết hôn với nhau thành “cặp đôi hoàn  hảo”. Chị sinh cho anh bốn cháu trai, một cháu gái và đặt tên: Nhân, Lễ,  Nghĩa, Trí, Tín. Cưới nhau rồi, anh chị vẫn tiếp tục tham gia các sinh  hoạt trong Giáo xứ. Khi cháu út học lớp năm, Cha xứ mời anh chị cộng tác  vào việc truyền giáo trên Cao Nguyên.
 Từ đó, anh chị Thành – Hiền  hăng say, nhiệt tình tham gia công tác ấy. Chị Hiền rất an tâm đi lo  việc Chúa vì mọi việc ở nhà có Bích Nghĩa đảm đang. Chị cảm thấy vô cùng  hạnh phúc vì Chúa cho gia đình êm ấm, hạnh phúc. Các con chị cháu nào  cũng ngoan và học giỏi. Hai vợ chồng chị cùng đồng lòng với nhau chăm lo  việc Chúa. Chị Hiền nghĩ: gia đình chị được như hôm nay tất cả là nhờ  Lòng Chúa Thương Xót ban ơn. Bởi từ khi Giáo xứ có phong trào tôn sùng  Lòng Chúa Thương Xót, gia đình chị nhiệt tình tham gia và loan truyền.  Chị càng vững tin vào Lòng Chúa Thương Xót thì mọi việc chị làm ngày  càng thành công, nhất là việc đi khuyên giải các gia đình bất hòa, ly  tán. Trước khi đến với các gia đình ấy, chị Hiền luôn xin Hội Lòng Chúa  Thương Xót cùng cả nhà chị cầu nguyện. Gặp những gia đình có vấn đề phức  tạp, chị phải tới lui nhiều lần và xin cầu nguyện tha thiết hơn với  Lòng Chúa Thương Xót. Cuối cùng Chúa cũng thương cho họ được tái hợp,  nên họ rất biết ơn chị.
  Các bà hiền mẫu mến phục gia đình chị Hiền lắm. Một hôm, sau buổi họp Chị Thu lên tiếng trước:
 - Em thấy gia đình chị Hiền con cái ngoan ngoãn mà phát thèm. Con nhà em có hai đứa mà mệt muốn đứt hơi luôn.
 Chị Hồng cạnh nhà chen vô:
 - Em ở kế bên nhà mấy chục năm nay mà chẳng bao giờ nghe anh chị to  tiếng với nhau. Bộ anh chị không bao giờ cãi nhau hay sao ấy?
  Chị Minh tiếp lời:
 - Anh Thành đúng là mẫu đàn ông lý tưởng: Không rượu chè, cờ bạc; không  cà phê, thuốc lá; không trai gái lăng nhăng… Còn mấy ông chồng nhà ta  thấy mà phát chán, không chứng này cũng tật nọ. Anh Thành suốt ngày lo  việc nhà Chúa, về nhà thì lo giúp đỡ vợ con.
 Chị Duyên có ông chồng hay dối chị đi bia ôm, lên tiếng:
 - Chị Hiền cũng nên đề phòng, cánh đàn ông rất hay yếu lòng.
 Chị Hiền trả lời một cách tự hào:
 - Ai chứ ông Thành nhà mình thì mình chẳng sợ. Anh ấy không bao giờ  giấu mình điều gì cả, nên mình rất yên tâm và tin tưởng nơi ảnh.
 - Bà coi chừng, lù khù vác cái lu mà chạy lúc nào không hay đấy!
 - Không bao giờ, mình tuyệt đối tin anh ấy! 
 - Thời gian sẽ trả lời.
 Hôm kỷ niệm hai mươi lăm năm ngày cưới, anh chị Trung Thành_Diệu Hiền  tổ chức cách long trọng. Chị rất vui và hãnh diện vì được Cha xứ cùng  mọi người khen ngợi gia đình chị là đạo đức, gương mẫu. Anh cũng hãnh  diện vì được các gia trưởng trầm trồ, thán phục:
 - Anh Thành hay  thật: ‘Giỏi giang việc nước, chu đáo việc nhà’. Làm cách nào mà vẹn cả  đôi đàng, truyền thụ kinh nghiệm cho anh em với!
 - Anh Thành khéo  dạy con thật. Hai ông bà bỏ nhà đi suốt mà các con vừa ngoan lại vừa  giỏi. Có lẽ đi khỏi nhà là sử dụng hệ thống điều khiển từ xa hay sao mà  chúng nó vào khuôn hết vậy?
 Anh Hải chồng chị Hồng chen vô:
 -  Tôi ở sát nhà anh mấy chục năm nay mà chẳng bao giờ nghe anh chị to  tiếng với nhau. Dường như hai người không biết cãi nhau à! Nếu không  biết thì hôm nào sang tôi chỉ cho.
 - !!!
 Mọi người cùng nhau cụng ly, cười đùa vui vẻ. Lúc này anh Thành mới lên tiếng:
 - Không giấu gì các anh, các chú: Hai vợ chồng tôi không có cãi nhau là  vì từ lúc cưới nhau về đã thỏa thuận với nhau: “Mọi việc trong nhà:  việc lớn do chồng quyết định, còn việc nhỏ để vợ toàn quyền”. Nhưng từ  hồi cưới nhau đến giờ chưa có việc gì lớn cả, nên cứ thế tiến hành cách  êm xuôi không gặp trở ngại gì.
 Mọi người được một trận cười vì sự dí dỏm của anh Thành.  
 
***
  Cuộc sống gia đình chị Hiền êm trôi trong thắm nồng, hạnh phúc. Cha Xứ  lập thêm ba cứ điểm truyền giáo, dường như anh chị Thành_Hiền không còn  thời gian cho mình nữa. Vả lại chị Hiền sắp bước sang tuổi năm mươi, nên  sức khỏe càng dần đi xuống; đặc biệt là chứng thấp khớp làm chị đi lại  khó khăn trong những lúc trở trời, nên chị có phần lo lắng. Về phần  chồng chị, anh vắng nhà thường xuyên hơn, có khi mỗi tháng đi một tuần  hay mười ngày. Chuyến nào về anh cũng có quà cho chị cùng các con và kể  lại tỉ mỉ về công việc ở cứ điểm truyền giáo để gia đình tạ ơn Chúa và  cầu nguyện thêm.
 Gần một năm nay, thỉnh thoảng anh Thành nghe đau  nhói ở ngực và khó thở, vài bữa sau thấy tự khỏi. Tuy nhiên lần này đi  về, anh cảm thấy khá mệt và ho dai dẳng mấy tuần liền. Sau khi âm thầm  đi kiểm tra sức khỏe, anh báo cho gia đình biết mình bị ung thư phổi  giai đoạn cuối. Chị Hiền và các con sững sờ khi nghe tin ấy. Chị bảo anh  mau đi chạy chữa thì anh can:
 - Anh đã đi nhiều bệnh viện rồi, ở đâu họ cũng nói thế. Thôi, em và các con nên đón nhận ý Chúa.
 - Thưa ba, “còn nước còn tát” chứ ba để vậy chúng con không yên lòng_Các con anh nói.
 Chị Hiền thêm vào:
 - Con nó nói phải đó anh.
 - Em và các con đừng lo lắng nữa. Bác sĩ nói: chỉ có phép lạ mới chữa  được thôi. Bây giờ mình cứ tin tưởng phó thác nơi Chúa. Nếu Chúa muốn  thì Chúa sẽ chữa cho mình, còn nếu Chúa đã định thì “xin vâng ý Chúa”.
 Thấy anh Thành bình tĩnh và xác tín như vậy, chị Hiền cũng đỡ bối rối.  Ngày đêm chị khấn xin Lòng Chúa Thương Xót cứu chữa cho anh. Chị vô cùng  lo lắng và tận tụy chăm sóc cho chồng. Nghe nói ở đâu có thuốc hay,  thầy giỏi là chị tìm đến. Chỉ mới mười ngày mà mắt chị thâm quầng, mặt  mày phờ phạc. Mấy hôm nay anh mệt nhiều do ăn không được và phải thức  trắng đêm vì những cơn ho không ngớt. Chị Hiền đi một ngày một đêm xuống  tận Cà Mau bốc thuốc cho chồng. Về đến nhà lúc rạng sáng, chị vội sắc  thuốc ngay. Anh uống chén thuốc ấy đến trưa đã dịu hẳn cơn ho và ăn được  lưng tô cháo. Anh uống chén thuốc nữa rồi đi nằm nghĩ. Anh vừa chợp mắt  một lúc thì điện thoại của anh có tin nhắn, chị Hiền mở lên xem:
  “Anh Thành ơi! Hơn tuần nay bé Duy đã nhập viện vì đau đầu và sốt cao.  Các bác sĩ đã làm hết xét nghiệm và chụp CT rồi mà vẫn chưa tìm ra bệnh.  Bây giờ em lo lắm. Anh mau lên trông con phụ em và đem cho em ít tiền.  Em xin lỗi vì đã tự ý nhắn tin cho anh. Sao mấy tuần nay anh không liên  lạc với em làm em lo quá. Lên sớm nghe anh. Em Thu Hà”.
 Chị Hiền đọc  đi, đọc lại tin nhắn mấy lần mà vẫn không tin vào mắt mình, Chị nghĩ:  chắc có sự nhầm lẫn gì đây? Chị cố gắng lấy lại bình tĩnh, sau một lúc  suy nghĩ liền bấm máy gọi lại số ấy.
 - Alô. Anh Thành hả?
 Chị Hiền cố dịu giọng:
 - Chào chị. Em là em gái của anh Thành. Lúc sáng nay anh Thành có việc đi gấp nên để quên máy ở nhà em.
 - Ảnh đi chừng nào mới về vậy chị?
 - Chắc khoảng hai tuần. Nếu chị có việc cần gấp em sẽ nhắn dùm. Mà chị quen biết thế nào với anh Ba của em?
 - Không giấu gì chị, em ở Buôn Mê Thuột. Lâu nay anh Thành đi công tác  trên này rồi quen biết em. Ảnh sống với em sáu năm nay và bé Duy là con  của anh ấy.
 - Trên đó nhà chị ở chỗ nào?
 - Dạ, em ở nhà anh  Thành, ảnh mới sang tên cho em sáu tháng nay. Em nhờ chị nhắn tin ấy cho  anh Thành giúp em với. Em cám ơn chị rất nhiều.
 - Dạ không có chi. Em sẽ nhắn cho ảnh liền. Chào chị.
 Đặt chiếc di động xuống bàn, chị Hiền không còn đứng vững. Chị vội giơ  tay chạm vào chiếc ghế rồi khụy xuống, khuôn mặt nhợt nhạt thất thần,  chị cảm thấy như trong lồng ngực có một khối đá đè nặng làm chị không  thể nào thở nổi. Tuy vậy, chị vẫn chưa tin. Chị nghĩ: Có lẽ nào…? Chị cố  gắng trấn tĩnh lại và muốn nghe sự thật từ chính miệng của chồng. Chị  vội đi lên nhà gọi anh dậy:
 - Anh Thành. Anh Thành! Dậy. Dậy đi!
 Anh Thành choàng dậy, ngơ ngác hỏi:
 - Có chuyện gì vậy em?
 - Cô Thu Hà nhờ nhắn với anh là: “Bé Duy con anh bị bệnh sắp chết rồi!”.
 Anh Thành lo lắng hỏi:
 - Em nói sao?
 Chị lặp lại lời nhắn và thấy mặt anh biến sắc. Chị Hiền nghe đau nhói  trong tim. Các con chị nghe dưới nhà ồn ào liền chạy xuống thì thấy mắt  chị đỏ ngầu, khuôn mặt tím tái, chị gằn từng tiếng:
 - Có phải anh sống với cô ta sáu năm qua và có với nhau một đứa con, lại còn sang tên căn nhà trên ấy cho mẹ con nó phải không?
 Anh Thành sửng sốt lắp bắp:
 - Sao… Sao em biết?
 Chị Hiền ném mạnh chiếc điện thoại vào tường, gào lên:
 - Đồ phản bội!
 Chị dùng hết sức lực tát vào mặt anh một cái rồi từ từ qụy xuống. Anh  Thành nhào tới đỡ chị, anh ôm chị trong tay vừa lay gọi vừa đấm vào ngực  mình mà khóc.
 
***
  Chị Hiền lục lọi những thứ đồ đạc trong vòng  sáu năm qua anh mua cho chị, rồi mang hết ra sân: thứ nào đốt được thì  đốt, còn lại chị đập nát hay là đem bán đi; Kể cả chai rượu mật gấu giúp  chị giảm đau khớp trong những lúc trở trời chị cũng đập luôn. Ngày  trước gia đình hạnh phúc, vui vẻ, êm ấm bao nhiêu thì nay đau khổ, buồn  bã, ảm đạm bấy nhiêu. Từ xưa đến nay tối nào gia đình cũng đọc kinh,  nhưng nay im ắng mỗi người một góc. Trước đây chị yêu thương, kính  trọng, tin tưởng anh bao nhiêu thì nay chị căm ghét, khinh bỉ và oán hận  anh bấy nhiêu. Trong lòng chị chất chứa bao lời mắng nhiếc chua cay.  Mỗi lần nghe anh nói lời xin lỗi là chị muốn xổ ra cho hả giận, nhưng  cơn uất hận dâng lên làm chị nghẹn lời. Với chị bây giờ, nước mắt của  anh là “nước mắt cá sấu” và trăm ngàn lời xin lỗi của anh chỉ là những  lời dối trá, điêu ngoa. Chị chỉ còn biết khóc và khóc vì không thể nào  tha thứ được cho anh.  Chúa Nhật tuần rồi, trước lễ chị đi xưng tội  nhưng khi đến kinh Lạy Cha chị quay trở về.
 Lần anh chịu phép Xức  Dầu, trước mặt các con anh quỳ dưới chân chị mà xin lỗi, nhưng chị vẫn  im lặng trong tiếng nấc nghẹn ngào, lồng ngực như muốn vỡ tung vì uất  hận. Chị đấm mạnh vào ngực mình, anh nhào tới giữ tay chị lại và nói  trong tiếng thều thào:
 - Nếu em còn giận anh thì cứ đánh, cứ chửi anh đi.
 Chị đấm vào người anh mấy cái, gào lên:
 - Anh giết tôi rồi, anh Thành ơi!
 Rồi chị ngất lịm trong vòng tay của anh. Anh chỉ nói được một câu cuối cùng:
 - Trời ơi! Tôi là thằng khốn nạn mà… - Rồi anh gục xuống.
 Các con anh chỉ còn biết khóc và cầu nguyện cho bố mẹ: Xin Chúa giải thoát gia đình chúng con khỏi cảnh khổ này.
  
***
  Suốt ba tuần nay, kể từ ngày chồng mất, chị Hiền gần như điên loạn vì  căm tức sự phản bội của anh. Ngày nào chị cũng ra mộ anh mắng nhiếc,  chưởi rủa và đấm vào mộ anh cho đến khi bàn tay bầm tím, sưng vù. Chị đi  xưng tội, nhưng rồi lại bỏ lễ về khi đến kinh Lạy Cha. Nghe lời chị bạn  mách bảo, chị Hiền đến tĩnh tâm ở một Nữ Đan Viện. Trong bầu khí tĩnh  lặng, ấm cúng, linh thiêng của Đan Viện chị thấy tâm hồn có phần lắng  dịu, bình tâm. Chị tham dự hết những giờ kinh của các Sơ, nhưng ba ngày  đầu cứ đến kinh Lạy Cha là chị bước ra ngoài nhà nguyện vì chị không thể  tha thứ được cho chồng.
 Chị Hiền kể tỉ mỉ cho vị Linh mục già nghe gia cảnh của mình, rồi chị kết luận:
 - Con biết, nếu bây giờ con chết chắc là sa hỏa ngục vì con chưa thể  tha thứ được. Mấy chục năm nay con đi khuyên giải cho hàng trăm gia đình  bất hòa tái hợp. Tới phiên mình con mới biết tha thứ thật là khó.
 -  Tha thứ mà chị gọi là “khó” à? Phải nói là “quá khó” và “không thể làm  được” bằng sức con người, vì “tha thứ” là chuyện “độc quyền” của Chúa.  Cha khuyên chị đừng quá cố gắng tha thứ khi lòng mình chưa muốn.
 Chị Hiền ngạc nhiên nhìn Cha, Cha nói tiếp:
 - Chị cứ giận cho hết sức mình. Có một người cũng cùng cảnh ngộ như  chị: vừa bị phản bội, vừa bị môn đệ bán, lại còn bị đồng hương giết chết  cách nhục nhã. Chị hãy nhìn lên Thánh Giá trên cao đó và chị hãy đến  với Người để Người chỉ cho chị cách trả đũa. À! Cha muốn kể cho chị nghe  chuyện này. Chị có đọc Kinh Thánh Cựu Ước lần nào chưa nhỉ?
 - Thưa Cha, con có đọc mấy vòng.
 - Chị biết những nhân vật như: Samson, Đavít và Salomon chứ?
 - Dạ biết. trong sách Thủ Lãnh, Samuen và sách Các Vua ạ!
 - Chị khá đấy! Này nhé: Một Samson giết một ngàn tên Philitinh bằng cái  hàm lừa, vậy mà chết vì một người đàn bà phản trắc; rồi một vị được gọi  là “Thánh vương” với rất nhiều cung phi, mỹ nữ, lại đi giết Uria để  cướp vợ anh ta; Một vị vua khôn ngoan xuất chúng như Salomon: “trước  ngươi không ai sánh bằng, sau ngươi không ai bì kịp”(1V3,12), vua có bảy  trăm bà vợ chính thức và ba trăm cung phi, nhưng cuối đời lại bị các bà  ấy làm vua hư hỏng, lạc xa đường lối Chúa. Đấy chị xem, con người ta  yếu đuối biết chừng nào. Thánh Augustino có lý khi nói rằng: mọi sự đều  là của Chúa, chỉ có “tội” là của mình thôi. Cha thấy chính bản thân mình  cũng biết bao lần bội bạc với Chúa, nếu Chúa giận mình một chút thôi  thì chắc tiêu đời rồi. Tóm lại, Cha muốn nói với chị là: Thân phận con  người rất yếu đuối, dễ sa ngã. Nếu không có ơn Chúa giúp chúng ta chẳng  làm được gì cả. Chị hãy đến với Lòng Chúa Thương Xót, chính Người sẽ dạy  cho chị biết phải làm sao. Cha và các Sơ ở đây sẽ làm tuần cửu nhật  kính Lòng Chúa Thương Xót để cầu nguyện cho chị.
 Nghe những lời  khuyên giải của Cha, chị Hiền mới ngộ ra: Thân phận con người thật yếu  đuối, dễ sa ngã và luôn bất trung, thất tín với Chúa nhưng Chúa vẫn bao  dung, tha thứ, vậy mà mình lại cố chấp không bỏ qua sự yếu đuối cho  chồng. Quỳ trước ảnh Lòng Chúa Thương Xót, nước mắt chị tuôn tràn. Không  phải chị khóc vì căm hờn, oán hận và tức tối, nhưng là những giọt nước  mắt của thứ tha, hối hận và bao dung. Trong tiếng nấc nghẹn ngào chị  thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, con xin tạ ơn Lòng Thương Xót nhân từ của  Chúa, vì đã giải thoát con khỏi sự  oán hờn cố chấp, mà tha thứ cho sự  bội bạc của chồng con…Dẫu có muộn màng với cái chết của chồng con nhưng  Lòng Thương Xót Chúa thức tỉnh con ngay hôm nay, bây giờ và mãi mãi…  không bao giờ là điều quá muộn màng”. Chị Hiền thấy nhẹ nhỏm trong lòng  như vừa trút đi một gánh nặng. Chị liền lấy tràng chuỗi ra để đọc kinh  Lòng Chúa Thương Xót cầu nguyện cho chồng: “Lạy Cha chúng con ở trên  trời…”.
dvtung
16-02-2016, 01:08 PM
Mã số: 16-035
  
ĐƯỜNG VỀ...
Cuộc  đời như con nước lớn nước nhỏ, khi đục ngầu hôi tanh bùn đất, khi trong  lành mát rượi dưới cái nắng trời hè, khi đầy, khi cạn, khi giận dữ, khi  êm đềm, khi lả lơi dưới mạn thuyền vỗ sóng, lúc lặng lẽ im lìm dưới ánh  sao khuya.
 Dòng đời như nước cuốn, dường như ông trời vẫn không bỏ  được cái tật “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Cái phận của Liên  bảy nổi ba chìm, chín cái long đong. Mỗi lần chìm là những tháng ngày  sặc sụa vì hôi tanh bùn đất.
 Bước vào tuổi mười tám, cái tuổi của  gió và trăng. Gió nâng mái tóc thề, trăng vuốt ve làn da trắng mịn. Liên  hồn nhiên như bao cô gái quê khác.
  Học xong cấp ba, cánh cửa đại  học không khép lại trước người con gái đẹp. Gia đình khá giả nên Liên  không phải bận tâm về tài chính, bố mẹ mua hẳn cho chiếc xe máy để đi  học.
 Những ngày đầu của đời sinh viên nơi thành phố còn bỡ ngỡ đối  với Liên. Nhớ lời bố mẹ dặn, Liên vẫn cố gắng đi lễ mỗi ngày vào buổi  chiều khi tan lớp.
 Thời gian dần trôi qua, cái nét hồn nhiên, thơ  ngây, e thẹn của người con gái quê nơi Liên dần phai đi, khi nó bị đánh  bóng bởi cuộc sống phồn hoa của phố thị. Những bộ đồ giản dị được vất bỏ  để thay vào đó là những mốt thời trang đắt tiền. Bạn bè ngày mỗi nhiều  hơn, chung quanh Liên có biết bao chàng trai công tử theo đuổi.
  Những giờ phút lặng lẽ trong nhà thờ của mỗi chiều dần vắng đi, thay vào  đó là những buổi tiệc tùng sinh nhật, hay thác loạn trong vũ trường,  quán bar. Thời gian đầu Liên cảm thấy áy náy và bứt rứt trong tâm hồn.  Nhưng dần dần, cái cảm giác đó không còn nữa, việc bỏ lễ Chúa nhật là  đều Liên không bao giờ dám nghĩ tới khi ở quê mà giờ đây Liên cũng chỉ  cho qua bằng một cái chắt lưỡi.
 Năm thứ nhất đại học khép lại cũng  là lúc Liên biết mình mang thai. Quá chai lì trong mặc cảm tội lỗi, Liên  trút bỏ nó một cách không thương tiếc. Không  dừng lại ở đó, Liên còn  lao mình vào những trò hút chích mà đám bạn rủ rê. Những tiết học vắng  dần sau những lần phê thuốc.
 Tiền hằng tháng bố mẹ ở quê gửi lên  không đủ cho Liên xài. Mốt cặp bồ với đại gia được Liên nghĩ tới. Từ  ngày quen được lão Đại tiệm vàng ở gần chợ, Liên lại lao vào những thú  vui mới. Không còn biết đến nhà thờ là gì nữa. Những ngày về thăm bố mẹ  vắng dần. Bố mẹ có hỏi, Liên chỉ đáp gọn lỏn một câu “con bận học”.
  Cái tin Liên cặp bồ với chồng đến tai vợ lão Đại, bà lồng lộn lên như  con sư tử bị giật mất mánh mồi. Phụ nữ khi bình thường thì thật đúng là  phái đẹp, nhưng khi cơn ghen nổi lên thì cay như ớt nồng như vôi. Mà  cũng đúng thôi, hoạ chăng ông ăn chả, bà ăn nem mới không thèm để ý nhau  làm gì. Cái bệnh hoạn thư thì dường như bà nào cũng có.
 Kế hoạch  trả thù Liên được bà vạch lên trong từng giấc ngủ, ngoài mặt, bà vẫn làm  như không hay biết chuyện gì, khiến lão Đại vẫn âm thầm lén lút rút  tiền mang cho Liên.
 Tối Valentine, đêm lễ tình yêu, lão Đại trốn vợ  với lý do đi công chuyện, bà biết tỏng tòng tong là ông đi gặp bồ. Quát  vội con ở trông nhà, bà gọi ngay thằng cậu chở bà chạy theo lão Đại.  Chạy tới khu nhà trọ sinh viên, lão nhìn trước ngó sau rồi đi thẳng tới  phòng Liên ở. Chỉ chờ có thế, kẻ hận tình xông vào với cái kéo trên tay,  màn đánh ghen làm náo loạn cả dãy nhà trọ. Bà chửi bới, nắm tóc, đánh  đập Liên một cách tàn nhẫn. Trong khi lão Đại đứng như trời trồng, rồi  âm thầm bỏ chạy mặc cho Liên bị đánh đập như một con chó.
  Sau đợt  đó Liên phải nghỉ học vì mặt mày thâm tím. Mái tóc dài ngang lưng giờ bị  cắt ngắn như cái chổi sể cùn. Không chịu nổi những ánh mắt đầy khinh bỉ  của bạn bè, Liên rời khỏi cổng trường đại học khi đã được nửa năm thứ  ba. Ở lại thành phố vì không muốn về quê gặp bố mẹ, Liên làm tiếp viên  cho một quán bia ôm, đó là những tháng ngày đen tối nhất của Liên.
  Chôn vùi mình trong vũng bùn của xã hội, Liên giấu bố mẹ với công việc  của một nhân viên bán hàng. Ông bà ở quê nhà vẫn không hay biết gì về  cuộc sống của con gái, thỉnh thoảng vẫn gọi điện bảo con nhớ siêng năng  đi lễ đọc kinh, Liên chỉ ậm ờ cho qua chuyện. Đối với Liên, nhà thờ đã  đi vào dĩ vãng, Liên không còn niềm tin vào Chúa, không còn là chỗ cho  cô tìm đến những lúc buồn vui của cuộc sống như trước kia. Thay vào đó,  vũ trường, quán bar, tình dục mới là chỗ cho cô trút bầu tâm sự.
  Thời gian trôi đi, Liên sống chung với một người đàn ông đã có vợ ở quê.  Những ngày đầu chung sống còn có chút mặn mà, nhưng khi cái bụng đòi ăn  thì mới có chuyện tiền anh tiền tôi. Không chịu nổi trước cái vũ phu  của thằng chồng hờ, Liên cuốn gói bỏ đi với cái thai được 4 tháng.
  Liên nhìn cuộc đời bằng con mắt thù hận, Liên muốn trả thù đời, Liên  muốn chôn vùi đi quá khứ. Bước vào tuổi hai mươi tám, nhan sắc giờ không  còn mặn mà như trước kia. Cuộc đời đưa đẩy như cánh bèo trôi dạt giữa  dòng sông, mong sao gặp được mạn thuyền để tựa. Liên Nhắm mắt mặc cho  dòng đời nổi trôi, một lần nữa Liên lại muốn bỏ đi cái mầm sống mà mình  đang cưu mang.
 Vào bệnh viện với lý lịch đã từng nạo phá thai, bác  sĩ khuyên Liên nên giữ lại mầm sống, vì có thể cô sẽ không còn khả năng  sinh sản nếu phá thai lần này. Nữ bác sĩ trẻ với ánh mắt đầy cảm thông  và yêu mến đã làm cho Liên nghĩ tới tình mẫu tử thiêng liêng. Trong con  người Liên bị giằng co bởi hai lựa chọn. Nhưng cuối cùng tình mẫu tử nhỏ  nhoi trong con người Liên cũng đã thắng, cô quyết định đến mái nhà tình  thương nơi dành cho những chị em lỡ lầm, với suy nghĩ sinh xong sẽ bỏ.
 Cô bác sĩ trẻ trong bệnh viện đã động viên khích lệ Liên giờ đây lại  tươi cười trong tà áo của một ma-soeur dòng Phaolô. Liên không dám nói  mình là người có đạo, trong con người Liên, cô đã chôn vùi ký ức của  mình là người Công giáo.
 Những tháng ngày ở trong mái nhà tình  thương để chờ tới lúc sinh đã làm cho Liên dần tỉnh ngộ, trước cuộc sống  bình an, vui vẻ đầy yêu thương phục vụ của các soeur, Liên nhận ra tiền  tình là tù tội. Mặc cảm tội lỗi ập về trong tâm hồn Liên. Những giọt  nước mắt chảy dài trong đêm sau khi nghe lời chia sẻ trong những ngày  tĩnh tâm mà các soeur tổ chức cho chị em.
 Liên nhận ra ở đời đâu  phải có tiền là có tất cả, đâu phải hạnh phúc được xây dựng bằng vật  chất, đâu phải con người ta sống chỉ cho riêng mình, đâu phải chết là  hết, nhưng chết là mở ra một cõi đi về. phù vân nối tiếp phù vân, tất cả  chỉ như gió cuốn mây bay. Những gì Liên muốn giữ chặt, lại tan chảy như  giọt nước giữa trời hè oi bức. Niềm vui Liên kiếm tìm trong vật chất,  lạc thú, chỉ để lại cho cô cảm giác trống rỗng chán nản mỗi lúc nó tàn.
 Liên thất vọng với chính bản thân mình, cô nghĩ rằng Chúa sẽ không tha  thứ cho mình sau chừng ấy năm dập vùi trong nhơ nhớp. Cô mặc cảm, tự dằn  vặt mình, cảm thấy mình như kẻ đáng nguyền rủa. Cái mặc cảm đó cũng là  một bức tường ngăn cách để đưa Liên về với Chúa qua bí tích hoà giải.  Liên vẫn giấu mình trong lớp áo của kẻ ngoại đạo, mặc cho trong thâm tâm  cô đầy những tiếng gào thét của sự ăn năn thôi thúc.
 Ngày sinh cũng  đã tới. Liên quằn quại đau đớn trong cơn chuyển dạ. Đứa bé trai cất  tiếng khóc chào đời trong sự vui mừng của các soeur. Nước mắt Liên hoen  nhoè, cô khóc không phải vì đau đớn, nhưng là khóc vì niềm vui mà Liên  không thể nghĩ tới trước đây. Ôm trong lòng đứa con mà mình đã từng có ý  định bỏ đi khi còn trong trứng nước, Liên ân hận vì đã lầm lỡ khi bỏ đi  đứa con lần đầu. Ôm chặt nó vào lòng, Liên sợ sẽ mất nó trước những mũi  kéo mà cô gặp trong mơ.
 Chính đứa con đã cho liên thêm động lực để  sống, để bước đi trở về với Chúa sau bao năm gục ngã trên đường đời.  Liên muốn làm lại cuộc đời của mình, vất bỏ đi những lỗi lầm quá khứ, để  sống một cuộc sống khác, một cuộc sống sẽ đưa cô trở lại với những gì  mà cô đã đánh mất từ ngày cô đắm chìm trong lạc thú.
 Trong buổi tối  của ngày thứ bảy, khi vị linh mục vào để rửa tội cho các trẻ sơ sinh,  Liên đã xin với các soeur cho thằng bé được rửa tội. Nước mắt hoen nhoè,  Liên kể cho xơ bề trên biết về những tháng ngày tăm tối.
 Sự sẻ  chia, yêu thương và thông cảm của soeur bề trên là động lực để giúp Liên  đến với bí tích hoà giải. Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài sẵn  sàng chữa lành và tha thứ. Ngài không để một ai trở lại với Ngài phải  thất vọng. Ngài đem bình an đến cho tâm hồn. Liên chan hoà nước mắt của  niềm vui trở về khi bước ra khỏi toà giả tội.
 Sinh con được hai tháng, Liên gửi thằng bé lại nhờ các soeur nuôi, một mình cô lại bươn chải giữa dòng đời.
 Làm nhân viên cho một quán ăn khá lớn ở chợ Ga Vinh, thời gian trôi đi  thật nhanh, mới đó mà đã hai năm. Liên gặp Quang, người đàn ông đã goá  vợ. Quang sống một mình từ ngày vợ anh mất đi khi vừa cưới nhau được hai  tháng trong một tai nạn. Chiếc xe tải do người tài xế say rượu lái đã  tông vào vợ anh khi cô đang trên đường về thăm mẹ. Nổi đau đó làm Quang  như điên dại, anh sống lầm lì với công việc của một nhân viên vận chuyển  nước đá.
 Từ khi Liên và Quang gặp nhau, hai người đã yêu nhau. Một  tình yêu tuy muộn nhưng rất chân thành. Nhưng sự đời thật éo le. Ngay  khi Liên đang mơ tưởng đến một cuộc sống đơn giản bên người mình yêu  trong mái ấm gia đình thì cô lại phát hiện ra mình bị ung thư. Cuộc sống  như đảo lộn, Liên buông xuôi tất cả trong sự tuyệt vọng.
 Liên lặng  lẽ ra đi mà không nói với Quang một tiếng. Cô sợ sẽ làm liên luỵ đến  cuộc sống của Quang. Cô thầm trách số phận hẩm hiu của mình, nước mắt  lại chảy dài trên khoé mắt, cô nhớ nhà, nhớ bố mẹ.
 Liên đến ở trong  nhà dành cho bệnh nhân của các soeur. Những cơn đau ngày càng làm Liên  tiều tuỵ. Sau một thời gian không tin tức về cho gia đình. Cô đánh bạo  gọi điện về nhà. Tiếng khóc nức nở của mẹ qua điện thoại làm nước mắt  Liên chảy dài. Thằng Bi thấy mẹ khóc cũng khóc theo.
 Lại một lần  nữa, tình thương của gia đình và của các soeur đã giúp Liên đứng vững  trong đức tin. Sự cậy trông nơi Chúa đã đưa Liên ra khỏi bầu trời thất  vọng. Quang tìm đến trong nghẹn nghào:
 - Sao em ra đi mà không nói một tiếng...!
 - Em chỉ sợ làm anh đau khổ...
 - Đau khổ nào bằng đau khổ không có em...!
 Hai người ôm nhau mà khóc. Quang tận tình chăm sóc cho Liên sau những lúc tan việc.
 - Quang... anh đi đi..vì yêu em không có tương lai.... em không xứng  với tình yêu của anh. Liên cố gượng người dậy mỗi khi Quang đến.
 -  Anh sẽ không đi đâu hết... đừng nói nhiều... cố gắng nghỉ ngơi cho  khoẻ... anh tin là em sẽ vượt qua. Quang trả lời, đôi bàn tay vẫn cầm  chặt tay Liên.
 Dường như Quang cũng hiểu rõ, định mệnh lại một lần  nữa sắp cướp đi người con gái anh yêu. Nhìn Liên ngày càng tiều tuỵ,  lòng anh tan nát. Là một người ngoại đạo, nhưng anh đã cất lên lời  nguyện cầu với Chúa những lúc lặng lẽ ngồi trong nhà thờ của các soeur  để chờ Liên tham dự thánh lễ.
 Chuyến hành hương tại linh địa La Vang  đã trở thành một phép lạ, khối u ác tính dần dần biến mất mà không phải  do thuốc hay xạ trị. Bố mẹ, người thân, các soeur không cầm được nước  mắt trước nổi vui mừng của Liên. Lời kinh tạ ơn được họ hát lên trong  hạnh phúc.
 Sau hai tháng, Quang được rửa tội. Một đám cưới nhỏ bé  đơn giản được tổ chức, cô dâu chú rể tay trong tay, theo sau là thằng cu  Bi tò te gọi mẹ.
dvtung
16-02-2016, 01:08 PM
Mã số: 16-036
TÂM NGUYỆN CUỐI CÙNG
                             “Lạy Cha! Xin tha cho họ vì họ lầm”
  
 Hơn ba năm qua, dường như lúc nào câu nói “Lạy Cha! Xin tha cho họ vì họ lầm”  cũng văng vẳng bên tai kể cả trong giấc ngủ chập chờn hay  những lúc bươn trải nơi trường đời, nó vẫn cứ vang vọng trong  tim, trong hồn anh. Nhưng có lẽ anh đã không nghe hay nói đúng  hơn, anh cố tình không muốn nghe. Đã có lúc anh muốn thực hiện  tâm nguyện sau cùng của ba nhưng mỗi lần nghĩ đến cái chết tức  tưởi, lúc ba nằm giãy giụa trong vũng máu, nghĩ đến cuộc  sống hiện tại chua chát của mình, nghĩ đến thằng em nhỏ côi  cút, anh lại muốn gạt phăng câu nói ấy ra ngoài, không muốn  thực hiện tâm nguyện cuối cùng trước khi chết ba trối lại. “Ai  mà cũng như ba thì thế giới này thành thiên đàng mất, con sẽ  không làm theo tâm nguyện của ba đâu, nhất định con sẽ trả thù  cho ba”. Những ý tưởng này cứ trồi lên hiện xuống, giằng  xé trong đầu anh không biết bao nhiêu lần. Mỗi khi ý tưởng trả  thù vừa xuất hiện thì lời nói của ba lại vang lên “hãy tha  thứ, đừng trả thù con nhé”. Vì thế mà anh không thể nào thực  hiện được ý định điên cuồng của mình.
 Anh ngồi đó, ánh mắt  nhìn xa xăm vào khoảng tối mịt mù. Ba năm, khoảng thời gian không  phải là ngắn nhưng cũng chưa dài đủ để có thể quên đi tất cả. Ba năm,  kể từ cái chết bi thảm của ba xảy ra đến nay anh vẫn còn chưa hoàn hồn.  Vết thương quá lớn đã cứa nát trái tim còn non nớt nơi anh – một thằng  bé vừa đủ lớn để hiểu được vấn đề. Ba năm ba ra đi là ba năm anh khép  lòng với mọi người và với cả chính anh. Hầu như lúc nào căn nhà anh  cũng đóng kín chỉ trừ có lúc chập tối người ta mới nhìn thấy ánh sáng  lờ mờ hắt ra. Đó là lúc vui vẻ và đoàn tụ của hai anh em, còn ban ngày  chẳng ai thấy anh ở đâu. Thằng em nhỏ đang giở những tờ lịch cũ, như  sực nhớ ra điều gì nó dừng lại, chạy ra mé cửa nơi anh đang ngồi  lay lay vào vai.
 - Anh Hai ơi! Ngày mai giỗ ba anh có đi lễ với em không?
 Anh quay lại nhìn thằng em bé nhỏ tội nghiệp của mình rồi kéo nó ngồi  xuống đùi, anh vuốt nhẹ lên mái tóc hoe vàng của nó, lâu lắm rồi hôm  nay anh mới bồng nó ngồi vào lòng mình, anh thương nó còn nhỏ mà đã  thiếu thốn tình thương của ba mẹ. Càng thương nó anh càng thấy căm ghét  người mẹ vô tâm. Thương em nhưng anh không thể bên cạnh nó vì anh phải  lo đi kiếm tiền để nuôi em và còn phải cho nó đi học. Thay vì trả lời  câu hỏi của nó anh lại kéo nó vào lòng và thì thầm hỏi:
 - Hôm nay Tuấn Anh được mấy điểm, có bị ai bắt nạt không?
 - Dạ em được chín điểm anh ạ, em làm sai một bài.
 - Đưa anh xem nào.
 Tuấn Anh chạy nhanh như bay vào giường xách chiếc cặp ra lấy tập đưa  cho anh. Ngồi kiểm tra bài cho em, anh nhớ lại hình ảnh ba, mỗi lần  anh đi học về ba thường gọi anh lại kiểm tra bài, và tặng cho  anh một nụ hôn thật ấm áp. Từ khi mất ba, mất mẹ anh không còn có  cơ hội đến trường, không được đùa nhảy tung tăng với các bạn  …tuổi thơ của anh đã khép lại từ đó. Và cuộc đời của anh kể  từ đó cũng bước vào một khúc ngoặt mới. Anh trở nên lầm lì  ít nói, anh bỏ luôn các đoàn thể mà trước đây anh đã từng gắn  bó. Vì nơi đó anh chẳng tìm được nguồn nâng đỡ tinh thần.
  Nhà thờ, nơi người ta thường đến để ngụp lặn trong dòng suối  yêu thương, để kín múc nguồn ân sủng từ Chúa và rồi khi ra về  họ có thêm can đảm, nghị lực tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng  với anh, nơi đó lại chính là địa ngục ở trần gian. Ngoài ông  cha xứ lạnh lùng, bà trùm hay cáu gắt còn có những bà già  nhiều chuyện, soi mói. Hầu như lúc nào họ cũng có chuyện để  nói, lúc bàn tán gia đình anh thế này, khi thì nói xấu mẹ anh  thế nọ. Họ chê ba anh nhu nhược, họ xem thường hai anh em của  anh, dưới mắt họ anh là một đứa trẻ nguy hiểm phải loại trừ  vì tội cắp vặt. Họ đồn đại với nhau “bé cắp gà, già cắp  trâu” cho nên ai thấy anh cũng phải đề phòng. Mỗi lần đến đó anh  cảm thấy một bầu khí ngột ngạt, nặng trĩu. Ở giữa một rừng  người mà anh vẫn cảm thấy thật lẻ loi. Nơi lớp giáo lý của  bà trùm có mấy thằng bạn cà chớn nghiện ghêm chuyên ăn cắp  tiền của các bạn nữ và một vài đồ vật trong nhà giáo lý,  bà chẳng tìm hiểu nhưng một mực bảo anh là “tội phạm”. Bị oan  ức nhưng anh không biết phải thanh minh thế nào vì hầu như  chẳng ai tin anh, một đứa trẻ mồ côi không tiếng nói. Mỗi lần  bà có chuyện bực dọc ở gia đình, ở nhà xứ thì tự nhiên anh  vô tình trở nên chiếc thùng chứa để bà xả vào đó mọi bực  bội của mình.
 Anh, một thằng bé mới mười mấy tuổi chưa  một lần nếm trải trường đời nhưng khi bị “đẩy vào đời” thì  “đời” lại quá nghiệt ngã. Cú xốc quá lớn và xảy ra thật  nhanh làm cho anh không kịp đối phó, đương đầu với những khắc  nghiệt của cuộc đời. Biết làm sao vì trời ở quá xa. Từ khi ba  chết, anh phải lo cho mình và cả thằng em nhỏ. Anh bắt đầu lao  vào đời như con thiêu thân lao tìm ánh sáng. Chính nơi đây đời giúp  anh trưởng thành, nhưng cũng chính đời gieo vào anh lòng hận thù ghen  ghét, một thứ mà từ nhỏ tới giờ anh chưa được làm quen. Anh bươn trải đủ  nghề: từ việc đi bán vé số, bán kem, đánh giầy, đến đi kéo hàng thuê  cho mấy người trong chợ để có được nắm gạo nuôi em. Nhưng không phải  lúc nào công việc cũng thuận buồm, xuôi gió. Những ngày đầu  anh thường xuyên về nhà tay không vì bị “cánh đàn anh” ăn hiếp.  Có hôm chúng giành khách với anh và còn dạy cho anh một trận  đòn chí tử. Nhiều hôm đi làm cả ngày mà chỉ đủ mua một ổ  bánh mì, có những lúc anh nhịn đói để nhường cho em ăn. Một  lần đi ngang qua vườn khoai, sự đói khát làm cho anh mất tự chủ.  Những củ khoai căng tròn nhô lên khỏi mặt đất, không kìm chế được anh  nhổ mấy giây định bụng tối nay về hai anh em được một bữa ngon  lành. Nhưng thật không may cho anh, vườn khoai đó là của bà  trùm. Vừa lúc anh từ vườn khoai đi lên thì bà cũng tới đầu  ruộng. Bà giật lại mấy giây khoai trên tay anh rồi quất túi bụi  vào mặt, vừa tát vừa chửi: đồ ăn cắp, đồ trắc nết, đồ không  có người dạy. Có bao nhiêu cái “đồ xấu xa” bà gán hết cho anh. Chưa  hết, bà đi rêu rao trong xóm phải đề phòng vì anh là đứa hay cắp vặt.  Nên hễ trong xóm mất mát cái gì người ta cũng nghĩ ngay đến anh.  Uất ức nhưng không làm gì được, nên ước muốn “trả thù đời” ngày càng  tăng lên.
 Mất niềm tin nơi con người anh nghi ngờ cả Tình yêu của  Chúa. Đối với anh Chúa thật xa vời, nếu Chúa hiện diện nơi những con  người anh gặp gỡ đó, nơi sự lạnh lùng khó tả của ông cha xứ,  nơi bà trùm điêu ngoa…thì anh chẳng cần phải tin, phải yêu vì “Chúa”  cũng đâu có tốt gì để anh phải tôn trọng. Đã ba năm anh không  tới nhà thờ, không đón nhận các bí tích. Nhớ lại giây phút cuối  cùng ba chỉ kịp nói với anh có một câu: “đừng trả thù, hãy tha thứ, hãy  lo cho em thay …b..a”. Ông đã vĩnh viễn ra đi để lại đứa em hơn chín  tuổi và anh 13 tuổi. Cái tuổi anh chưa thể hiểu hết được “tình  Chúa” khác xa “tình người”. Anh chỉ nhìn thấy những gì cụ thể  nơi những con người vẫn nói về tình yêu của Chúa lại chẳng  thể hiện “Tình Chúa” chút nào. Trước đây khi còn được sự bao  bọc của ba mẹ, anh vẫn thường đến nhà thờ, vẫn thường tham dự  các đoàn thể…anh thấy họ nói về Chúa thật đẹp. Chúa tốt  lành, Chúa quyền năng…bây giờ với anh, những từ đó chỉ là giả  dối. Nếu Chúa là tình yêu và tốt lành sao lại để cho mẹ anh –  người mẹ ruột giết ba, chiếm tài sản, và bỏ rơi hai anh em  của anh để đi theo người khác? Cứ nghĩ đến đó thôi thì nỗi  uất hận lại dấy lên trong anh chứ đừng nói chi đến việc thực  hiện tâm nguyện của ba. Cúi xuống nhìn thằng em đang ngồi gọn  trong lòng mình anh ôm chặt lấy nó.
 - Thôi, ngủ đi em ngày mai em còn phải đi học.
 - Anh Hai ơi! Nhưng mà mai giỗ ba.
 - Ừ, anh biết rồi.
 - Vậy mình có đi lễ không anh?
 - Đi lễ hả?
 - Đi lễ để cầu nguyện cho ba chứ anh.
 - Anh bận lắm, em cứ đi một mình đi.
 - Chỉ đi một lúc thôi mà anh, mấy năm rồi anh Hai đâu có đi lễ.
 - Thì có em đi thay anh rồi đó.
 - Không được đâu anh Hai, mai lễ của ba em muốn anh Hai đi lễ với em cơ.
 - Thôi, ngủ đi nào.
 - Ứ, anh chưa trả lời em.
 - Được rồi, mai anh đưa em đi, được chưa?
 - Nhưng anh có vào ngồi với em không?
 - Thì anh đưa em tới đó là được rồi, nhiều chuyện quá đi.
 - Hôm trước cha xứ nói ngày mai lễ khai mạc năm lòng Chúa thương xót. Trùng vào ngày lễ giỗ ba nên em thấy vui.
 - Xót gì mà xót, chẳng ai xót mình đâu em. Giờ chỉ có tiền,  tiền sẽ là người xót cho tất cả mọi chuyện. Có nó mọi việc  sẽ êm hết, em không thấy có những ngày anh không làm ra tiền anh  em mình phải đi ngủ với cái bụng đói sao. Rồi cũng vì tiền mà  mẹ đã giết ba, đã bỏ anh em mình sao…Thôi ngủ đi, ngày mai anh  còn phải kiếm tiền để cho cái bao tử của anh và em khỏi réo.
 Nghe anh nói vậy, đứa em nhỏ chỉ biết khóc. Nó không nghĩ anh  Hai của nó lại có thể ăn nói như một người không có niềm tin.  Nó úp mặt vào lòng anh khóc nức nở, trong tiếng khóc nó  hướng về Chúa để cầu nguyện cho người anh tội nghiệp của nó.  Nó thật sự thương anh, nó cũng biết anh vất vả vì nó. Từ khi  ba chết, anh phải lao vào trường đời, phải tranh giành để tồn  tại, bị hắt hủi, bị xem thường như một kẻ mồ côi đúng  nghĩa…nên nó hiểu được phần nào về sự thất vọng nơi anh. Nó  không trách anh, thật sự anh chẳng có lỗi, chính môi trường  nghiệt ngã này tạo nên nhân cách nơi anh. Sở dĩ anh không còn  cảm nhận được lòng thương xót và sự đỡ nâng của Chúa, bởi anh  không gặp được Chúa nơi con người. “Chúa ơi, anh giận những  người đó cũng được nhưng sao anh lại giận Chúa? Chúa đâu có  làm gì anh? Chúa vẫn luôn yêu thương, bao bọc anh…Chúa ơi, xin  hãy cứu anh con, cho anh nhận ra tình yêu của Chúa để anh biết  quay về với Ngài”.
 Thấy em vẫn còn khóc, anh không thể cầm  lòng đành cúi xuống hôn vào mái tóc của nó, anh nói qua loa  để cho nó yên tâm nín lại:
 - Thôi, ngủ đi mai anh vào dự lễ với em.
 - Thật hả anh?
 Nó mừng như thể vừa tìm lại được vật gì quý lắm mà bấy lâu  nay hai anh em nó đã đánh mất. Mấy năm rồi anh không hề đến nhà  thờ, suốt ngày anh chỉ lo đi kiếm tiền, tối về anh lăn ra ngủ.  Nó thì thầm với Chúa “Chúa ơi, con cảm ơn Chúa vì đã đón nhận  ước nguyện của con” rồi ngước lên nhìn anh:
 - Cảm ơn anh hai, nó thiếp đi trong hạnh phúc.
 Hai anh em lên nằm nhưng mãi mà anh không sao chợp mắt được. Những lời  nói ngây ngô của nó làm cho anh suy nghĩ nhiều “mấy năm rồi anh  Hai đâu có đi lễ”. Anh tự hỏi “không biết tại sao anh lại dễ  dàng bỏ đi niềm tin mà từ bé anh đã được gieo vào, tại sao vì  người khác mà anh lại giận Chúa. Đúng rồi, Chúa đâu có làm  gì anh, Ngài vẫn thương anh như lúc ban đầu dù anh đã vô cớ giận  và bỏ Ngài mấy năm nay”. Anh khóc, khóc nhiều hơn lúc ba chết.  Từ trước tới giờ có lẽ đây là lần đầu tiên anh khóc, giọt  nước mắt sám hối lăn dài trên gò má như đang tẩy rửa từng vết  bụi của bao năm lang thang, rời khỏi mái ấm Tình Cha. Anh từ  từ thiếp đi, trong giấc ngủ chập chờn anh thấy bóng ba hiện về và nói  lại ước nguyện của ba: “con ơi, sao con chưa thực hiện điều ước  của ba?”. Nghe ba hỏi anh ấp úng trả lời.
 - Con không thể, không thể tha thứ.
 - Tại sao vậy con?
 - Ba có biết vì bà ấy mà chúng con khổ cực như thế nào  không? Chúng con chẳng còn ba, chẳng còn mẹ, tự nhiên trở thành  những đứa trẻ mồ côi, đói khổ bị sỉ nhục và xem thường, vậy  mà ba còn bảo con tha thứ cho bà ấy, không đời nào.
 - Con có thể vì ba một lần không? Nếu con không thực hiện tâm nguyện của ba thì ba vẫn chưa được giải thoát.
 - Ba, giờ này ba vẫn còn trong luyện tội sao ba? Con xin lỗi ba,  mấy năm nay con không cầu nguyện cho ba vì trong con luôn chất  chứa sự hận thù. Con đâu có nghĩ vì con mà ba phải chịu cực  hình. Ba ơi, vâng vì ba nhất định con sẽ thực hiện tâm nguyện  của ba ngay bây giờ.
 Rồi anh không còn thấy gì ngoài làn  khói trắng bay mù mịt. Tự nhiên anh thấy hối hận vì đã không thực  hiện ước nguyện của ba. Anh chạy theo bóng ba nhưng càng chạy thì  càng  không thấy dấu vết gì. Anh khóc, khóc thật to. Tỉnh dậy mới  biết mình đang mơ. Anh vội vàng bật dậy, đi tới bàn thờ lấy  đèn pin rọi vào khuôn mặt ba. Anh giật mình vì nhìn vào bức di  ảnh hôm nay sao thấy ba buồn thật buồn, không phải khuôn mặt  vẫn tươi cười ấu yếm nhìn anh em của anh mọi ngày. Anh quỳ gối  xuống trước di ảnh và khóc:
 - Ba ơi! Ba tha lỗi cho con, mấy  năm nay con vẫn chưa thực hiện tâm nguyện của Ba, chưa thể tha  thứ cho người mẹ không tốt của mình và nhất là con đã không  cầu nguyện cho ba. Con bỏ Chúa, bỏ nhà thờ…hôm nay, đúng ba năm  ba về với Chúa. Con xin hứa, ngay hôm nay con sẽ đi giao hòa với  Chúa, con sẽ thực hiện đúng tâm nguyện của ba, con sẽ tha thứ cho  tất cả những ai gây đau khổ cho con.
 Vừa lúc đó, tiếng chuông đầu ngày từ ngôi thánh đường vang lên, anh nghe văng vẳng bên tai mình: “Ba ước mong rằng nơi nào con hiện diện nơi đó sẽ trở thành những hải đảo thương xót giữa lòng đại dương vô cảm này”. Anh bước lại giường, nơi đứa em nhỏ còn say sưa ngủ, anh lay em và bảo:
 - Tuấn Anh, Chúa gọi rồi, dậy đi lễ em, đi để cầu nguyện cho ba.  Hôm nay lễ xong hai anh em mình vào trại đi thăm mẹ em nhé.
 Thằng em nhỏ tròn xoe mắt ngạc nhiên nhìn anh:
 - Thật không anh Hai? Em chờ ngày ấy đã lâu.
 
Powered by vBulletin® Version 4.1.7 Copyright © 2025 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.