View Full Version : Giải "Viết văn đường trường" 2016 - Bản tin số 4
  
dvtung
16-02-2016, 01:11 PM
Mã số: 16-037
CHIỀU “WEEKEND”
Với nhiều người, cuối tuần là ngày nghỉ ngơi, thong thả để tận hưởng  cuộc sống, đi đó đây thưởng ngoạn, thư giản với thú vui câu cá hoặc một  môn thể thao tại câu lạc bộ, chuẩn bị cho một cuộc hò hẹn với người  tình, hay đơn giản là vài phút tán gẫu với bạn bè tại một quán nước. Và  với anh em chúng tôi, những người sống theo một ơn gọi riêng, cũng có  một cuộc hẹn hằng tuần. Đến hẹn lại lên, chiếc Zace đời đầu chở số lượng  người hết mức cho phép luân phiên nhau mỗi chiều “tuấn cùi” lên “trại  phong” thăm “người hủi” ở Bến Sắn. Chúng tôi luôn đi tối đa số ghế ngồi  để lỡ khi nào xe chết máy thì có nhân lực đẩy xe, nhưng đó chỉ là chuyện  nhỏ so với ý hướng tích cực hơn, để có nhiều anh em đến thăm trại.
  Vừa nhìn thấy chiếc xe xanh dương rẽ vào, mọi người ở trại phong Bến Sắn  hẳn đã quá quen chiếc xe của một cơ sở ở Sài thành chở những chàng trai  trẻ ghé thăm. Và vì xem chúng tôi như người thân trong nhà, nên từ  ngoài ngõ, bác bảo vệ hăng hái ra mở cổng, và không tiếc chi chào đón  chúng tôi với nụ cười thật tươi thay cho lời thăm hỏi sức khoẻ. Qua khỏi  cổng, trước tiên, chúng tôi đến khu các xơ Nữ tử Bác ái Vinh Sơn đang  sống và phục vụ. Nơi đây, chúng tôi được xơ đón tiếp với những ly nước  mát để làm dịu bớt cái nắng chói chang và oi bức của đầu giờ chiều. Sau  đó, xe lăn bánh thêm vài tua tiến vào con đường đá đỏ của ngôi làng trại  phong.
 Chiếc Zace âm thầm tiếp tục cuộc hành trình của mình đưa  chúng tôi luân phiên mỗi tuần đến một khu: nào là khu Đôi bạn dành cho  người có gia đình, khu Độc thân Nam, khu Độc thân Nữ, khu Dưỡng lão, và  thậm chí có cả khu Tâm thần là nơi những bệnh nhân cùng một lúc chịu  đựng tới hai căn bệnh. Lần này đến phiên khu Dưỡng lão Nữ. Các bà cụ đón  chúng tôi bằng những “tràng pháo tay” với những tiếng pháo... lép. Chắc  ai cũng có thể đoán ra tại sao lại là những tiếng “pháo lép”, và điều  này khiến chúng tôi ít nhiều cảm thấy đắng lòng. Chúng tôi được các anh  có kinh nghiệm chuẩn bị tâm lý trước trên xe, rằng nên tế nhị cất đi  chiếc đồng hồ đang đeo hay những vật dụng gì ở nơi khuỷu tay để khỏi  khơi lại nỗi đau và sự tự ti của những người phong đã bị mất đi một phần  thân thể. Những nụ cười toe toét chỉ còn vài chiếc răng của các bà cụ  trông càng rạng rỡ là món quà quý nhất mà họ có, và sẵn sàng trao cho  chúng tôi một cách không thẹn thùng. Anh em chúng tôi cũng đáp lại bằng  thái độ trân trọng trong cách ăn bận tươm tất và vui vẻ trong việc phục  vụ.
 Đến trại phong, có dịp cho chúng tôi được trở thành những “model  designer” – những nhà tạo mẫu tóc nghiệp dư trong vài tiếng ngắn ngủi  với yêu cầu đa dạng của các “khách hàng”: nào là cắt ngắn, tỉa sơ, cắt  sát, hay cạo đầu cho... mát, cho đỡ ngứa mà không thể gãi được. Thêm vào  đó, các “thượng khách” còn tha thiết yêu cầu chúng tôi “khuyến mãi”  những việc nhỏ khác như nhổ lông mi quặp làm xốn xang đôi mắt mà không  biết cách nào để giụi hay lượm giùm đồ vật rơi dưới đất v.v.. Tất cả đều  được chúng tôi đáp ứng cách trân quý. Vừa cắt tóc, chúng tôi vừa tếu  táo bắt chuyện để góp thêm niềm vui cho các khách VIP, qua đó cũng biết  thêm nhiều hoàn cảnh, học hỏi được thêm nhiều kinh nghiệm từ những người  từng trải với đời và học cách giao tiếp với nhiều người trong xã hội  với những tính cách khác nhau; biết cả những phong tục, văn hoá từ những  đồng bào dân tộc anh em hay những người Việt gốc các nước Đông Dương  đang ngụ tại đây.
 Một sự kiện được xem gây đậm dấu ấn trong tôi  nhất, là sau khi hoàn thành kiểu tóc cho một bà cụ, bà cảm ơn tôi, hỏi  thăm nào là tên tuổi, nơi chôn nhau cắt rốn... Và khi biết là người đồng  hương, trông bà mừng ra mặt. Dường như từ lâu, con cái đã “lười” đến  thăm bà; và cũng không biết từ lúc nào, con cái sợ bà lây nhiễm cho  những đứa con của họ, họ cũng e ngại sự hiện diện của bà trong gia đình  làm cản trở cuộc sống mưu sinh của con cháu. Còn bà, với mặc cảm khi ra  đi đầy đủ tứ chi, giờ thì bị mất một phần thân thể nên cũng không muốn  quay về nữa. Đối với bà, đây là nơi an toàn nhất để “giấu thân” như  chàng thi sĩ họ Hàn, là “thiên đường” của bà nơi trần thế, nơi bà thấy  được tình thương không những từ những người cùng cảnh ngộ mà còn đặc  biệt từ các xơ, các thầy dòng và chủng sinh... đều đặn thăm hỏi và chăm  sóc bà cùng những người chung quanh. Bà và những “cư dân trại phong” xem  những người này như là sứ giả của Chúa gởi tới, những nam thanh nữ tú  lành lặn và trẻ trung với tinh thần đầy nhiệt huyết. Họ phục vụ cách  không quản ngại như thể họ đã có “kháng thể” với vi trùng lao, vi trùng  cùi.
 Từ đôi mắt đã bị kéo mây khiến bà không nhìn rõ được bóng  người, nhưng dòng nước mắt không biết từ lúc nào lại lăn dài trên đôi gò  má đã nhiều nếp nhăn của bà. Rồi bà nói tiếp: “Các xơ, các thầy là  những ‘thiên thần của Chúa”. Với những gì còn lại của hai cánh tay mà  giờ đây chỉ còn hai khuỷu tay trơ ra, bà nắm lấy bàn tay tôi xoa xoa.  Hành động của bà dù không kèm theo lời nói nào, nhưng với trực giác và  xúc giác của mình, dường như tôi đọc được từ đáy lòng bà cụ như muốn  nhắn nhủ: “Hãy trân trọng đôi bàn tay quý giá mà Đấng Tạo Hoá ban cho và  sử dụng chúng sinh ích vào những mục đích tốt”. Lúc đó, bất chợt tôi  nhớ đến những dòng nhạc được nhạc sĩ Xuân Tưởng dệt nên trong bài “Lời  Thiêng”: “Bàn tay con nâng lên cao, dâng Chúa hết những ý nghĩ, dâng Chúa trót xác thân con…”
 Tôi xin dâng lên Chúa đôi tay này của anh em chúng tôi và của những  người bước theo con đường dâng hiến, xin Chúa thánh hóa những người được  Chúa gọi, xin Chúa hành động trong mỗi người chúng tôi, cho chúng tôi  trở thành khí cụ mà Chúa muốn dùng theo ý Ngài. Và lúc đó, tôi càng biết  phó thác hơn khi “... tương lai còn dài Chúa dắt con đi sợ gì những nỗi gian nguy.”
Nguồn: Lm. Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
dvtung
16-02-2016, 01:11 PM
Mã số: 16-038
  
NHỮNG CON CHIÊN CỦA CHÚA
 1.
 Hôm qua chị thấy dáng ai như dáng em gái chị đi ngang qua nhà thờ.  Người giống em gái chị ngồi sau xe máy của một người đàn ông. Là bồ, là  chồng, bạn, hay xe ôm chị không biết. Chị đứng bên kia đường ú ớ khi  nhìn thấy cái dáng giống em gái mình. Chị cố cất tiếng kêu nhưng không  kêu được. Khi chị qua được bên đường đầy những dòng xe ùn ùn tới như cố  kéo chị đi, cất được tiếng kêu tên em gái thì chiếc xe đã mất hút rồi.
 Chị ngồi xuống cổng nhà thờ, khóc nức nở.
 Có thể nói em gái chị là một con chiên lạc và là con chiên tội nghiệp  trong bầy chiên của Chúa. Mồ côi cha từ lúc nhỏ, mẹ đi bước nữa, hai chị  em chị phải sống chung với mẹ, cha dượng và những đứa con của cha  dượng. Nghèo thì cũng ráng chịu đựng được nhưng những trận đòn của cha  dượng hết ngày này qua ngày khác dội xuống hai đứa con gái riêng của vợ  thì không. Chị bỏ đi làm công nhân may khi chưa tốt nghiệp cấp ba để tự  nuôi sống mình, gởi ít tiền cho mẹ và nuôi bầy em đi học. Tưởng em chị  sẽ được học hành tử tế nhưng không ngờ sau khi bị cha dượng đánh đập  và…hãm hiếp, em đã bỏ nhà ra đi.
 Mẹ và chị đã khóc hết nước mắt. Có  những năm tháng chị đi tìm em. Hỏi thăm những công nhân may, tới những  xóm trọ dành cho những người nhập cư tứ xứ…Nhưng em bặt vô âm tín. Chị  cũng không biết em chị làm gì để sống giữa cuộc đời mà không có vốn gì  trong tay ngoài một con tim tan nát. Khi nghe có người nói ra nói vô là  thấy em làm gái, đứng chỗ đường này, đường kia. Chị đã lặn lội đi tìm.
 Một lần đúng là chị thấy em đứng chờ khách trên đường. Mặc chiếc váy  sát đùi em chị đẹp một cách hoang dại. Làm nghề bị xã hội dè bỉu, lên án  mà gương mặt em chị đẹp như một thiên thần. Chị đứng bên này đường nhìn  em, cố len vào dòng xe máy ùn ùn để đi qua đường, không ngớt gọi tên  em. Em ngẩng lên nhìn thấy chị, sững sờ vài giây rồi leo lên một chiếc  xe máy đứng gần đó như là bảo kê của em dọt lẹ. Chị khóc gọi theo nhưng  em không quay lại. Từ đó về sau em chị không còn quay về đứng con đường  đó nữa mà đi xa hơn, đứng những con đường chị không biết, không tìm ra  trong thành phố rộng lớn này.
 Trong thành phố này có biết bao nhiêu  con đường, con đường nào em chị đang đứng để chờ khách? Cứ mỗi chiều  lòng chị lại quặn thắt lên. Đi nhà thờ, tan lễ đi ngang qua những con  đường nhìn thấy những cô gái làm nghề như em chị đứng bên đường chờ  khách nước mắt chị lại rơi. Đi lễ lần nào chị cũng cầu nguyện cho em.  Cầu cho một con chiên lạc là em có lúc sẽ quay về.
 Mà em có quay về  không khi em đã đi lạc trên những con đường xa xôi như vậy. Em căm thù  dượng vì những trận đòn, vì dượng đã hãm hiếp em. Cái đói, cái nghèo,  những trận đòn, bị hành hạ về tinh thần lẫn thể xác, mẹ và chị lại không  bảo vệ em được. Em đã bỏ ra đi mà không dám và cũng không muốn quay về.  Càng đi em lại càng lạc thêm, xa thêm con đường của Chúa. Em cứ đi mãi  trong bóng tối, đi mãi và đi mãi.
 Nhưng chị- người chị gái của em cứ  cầu nguyện và cầu nguyện. Chị biết làm gì hơn là cầu nguyện. Cầu cho em  quay về như người đi lạc trên đường chợt nhìn thấy một ánh sao để biết  phương biết hướng. Chị vẫn đi tìm em gái chị. Chị không có gì ngoài lời  cầu nguyện và tình thương của một người chị ruột dành cho em gái tội  nghiệp của mình.
 Lời cầu đó chị tin chắc Chúa sẽ nghe và một ngày nào đó em gái chị cũng sẽ nghe.
  
 2.
 Buổi tập hát đã xong. Các ca đoàn viên về hết. Điện cũng đã tắt, chỉ  còn ánh điện trên bàn thờ Chúa hắt xuống. Anh ngồi trong bóng đêm vừa  muốn đứng lên, vừa muốn nán lại. Nước mắt rịn ra trên gương mặt anh lúc  nào không biết.
 Anh về nhà có gì? Ai chờ anh ở đó? Vợ anh vừa mới  qua đời. Ở tuổi 50, chưa già anh trở thành người góa vợ. Hai đứa con đi  làm trong thành phố. Chúng không có nghề nghiệp ổn định, làm công nhân  cũng chật vật áo cơm, ít về thăm nhà.
 Mà về nhà buồn quá. Đi ra, đi  vào chỉ có anh thôi. Đứa cháu trai nhỏ con gái gởi vì ở thành phố không  có đủ tiền đi nhà trẻ đang nằm ngủ ngon lành trên chiếc ghế trong nhà  thờ. Ngày nào đi tập hát anh cũng dẫn nó theo. Anh trở thành gà trống  nuôi cháu.
 Anh quỳ đọc kinh, nghĩ về sự cô đơn và nhiều thứ khác.
 Sự cô đơn lúc này và quãng thời gian dài dằng dặc nuôi vợ bệnh anh  không biết thứ nào dễ chịu hơn? Hình như chẳng có thứ nào dễ chịu cả. Vợ  anh bị ung thư, phải nằm chiến đấu với căn bệnh ung thư trong một thời  gian dài. Những ngày trước đi đâu cũng hai vợ chồng, đi coi ruộng, gặt  lúa, phơi lúa, đi nhà thờ…Đi tập hát về (anh là trưởng ca đoàn) lúc nào  cũng có vợ chờ. Tiếng ti vi và tiếng vợ cười ấm áp căn nhà. Rồi vợ anh  đổ bệnh, nằm như tàu lá, chưa chết nhưng chỉ nằm chờ chết. Một người sắp  chết, đau đớn, chẳng còn thiết tha gì cuộc đời này ngoài việc được bớt  những cơn đau. Bác sĩ chạy, chỉ nằm ở nhà chịu đựng những cơn đau đớn  cuối đời. Mà lúc trẻ vợ anh rất hiền, chẳng làm đau ai, sao cuối đời lại  phải chịu những cơn đau kinh hồn đến vậy?
 Rồi vợ anh đi vì không  chịu nổi những cơn đau nữa. Giờ đây anh đi đâu, làm gì cũng lủi thủi một  mình. Đút cơm cho thằng cháu nhiều khi anh khóc. Anh không quen cô đơn  cô độc.
 Anh không biết cầu gì trong đêm tối này? Vợ anh mất rồi. Lúc  trước anh cầu cho vợ anh lành bệnh, cầu cho vợ bớt đau. Nhưng Chúa  không nghe hay Chúa có chương trình của Chúa mà anh không biết. Cầu cho  hai đứa con anh ở thành phố. Chúng cũng tội nghiệp quá. Làm công nhân có  gì vui? Ở trọ trong những căn phòng chật chội, ăn uống dè sẻn, tiết  kiệm mà vẫn không đủ tiền trang trải sinh hoạt. Đi làm thì cả ngày nhốt  mình trong nhà xưởng, không nhìn thấy ánh mặt trời. Có lúc tăng ca về  nhà là người rã rời. Lấy vợ, lấy chồng, sinh con mà cũng chẳng có tiền  nuôi. Cái đói, cái nghèo, sự thiếu thốn cứ đuổi theo mãi.
 Anh còn  một thứ là niềm vui, niềm hi vọng của anh. Thằng cháu đang ngủ chèo queo  trên chiếc ghế bên cạnh anh. Nó biết mẹ nó ở xa, không có tiền nuôi nó,  cha nó thì đã bỏ mẹ nó khi hai người không vượt qua được cuộc sống chật  vật thiếu thốn áo cơm. Nó biết người đút cơm lâu nay cho nó là bà ngoại  đã mất, bây giờ là ông ngoại. Nó biết thân biết phận lầm lũi theo anh,  nắm tay anh, cùng trải qua cuộc sống cô độc với anh. Bây giờ nó lại là  người nghe anh trò chuyện.
 Một ca đoàn nhỏ của anh cũng có biết bao  nhiêu thân phận. Vợ chồng bỏ nhau, li thân. Con cái không nghe lời, con  cái đi làm xa, thất nghiệp. Trong nhà có người ốm đau. Rồi người này  người kia cô độc…Hình như cuộc đời trần gian là vậy, hỉ nộ ái ố phong  phú đủ màu sắc. Có khi đứng đánh nhịp, nghe tiếng hát, nhìn gương mặt  anh biết ai đang hạnh phúc, ai đang đau khổ mà cố dằn lòng…
 Lạy  Chúa! Anh cầu nguyện trong đêm khuya…Anh cầu cho tương lai thằng cháu  nhỏ và cầu cho hai đứa con mạnh khỏe ở xứ người. Nước mắt anh rịn ra  trong đêm…
  
 3.
 Người đưa thư vừa đi ngang qua nhà anh. Có  tiếng gọi ngoài cổng nhưng anh không mở cổng được. Anh cố nói to lên  nhưng con bé đưa thư không nghe. Anh không biết thư gì? Chắc là mấy cái  bill thu tiền điện, điện thoại. Chớ nhà anh làm gì có thư. Hai vợ chồng  anh đều làm nông, cả đời không viết thư và cũng không nhận được bức thư  nào kiểu như thư đúng nghĩa.
 Anh đang ngồi trên một chiếc ghế và  ngồi bất động, không nhúc nhích. Anh bị liệt nửa người. Lâu rồi anh  không nhớ thời gian nữa. Tự nhiên cuộc đời anh lại ngồi đây, bất động  trong chiếc ghế này. Không thể làm chồng và không thể làm một con người  tự do đi lại.
 Nếu vợ anh là một người ngoại đạo chắc vợ anh đã bỏ  anh đi rồi. Nhưng vợ anh có đạo. Luật Chúa không cho phép li hôn. Và vợ  anh cũng còn chút tình nghĩa với anh, chấp nhận nuôi anh- một người  liệt.
 Giờ này vợ anh đang ở ngoài ruộng. Nhổ cỏ mướn cho người ta  hay đi thăm ruộng nhà anh. Còn anh thì ngày nào cũng ngồi trên chiếc  ghế, không nhúc nhích, không di chuyển nhìn qua cửa sổ, nhìn chăm chăm  những tán lá và chờ thời gian trôi.
 Nếu có tiền anh sẽ mua cho mình  một chiếc xe có bánh lăn để anh có thể di chuyển trong nhà hay ra ngoài  ngõ. Nhưng nợ nần nhiều quá, tiền mua thuốc uống còn không có, một chiếc  xe có bánh lăn để thay thế chân anh trở thành một giấc mơ xa xỉ. Anh  không dám đòi hỏi nhiều ở vợ, cũng không dám đòi hỏi gì ở cuộc đời.
  Thế giới của anh bây giờ chỉ là một ô cửa sổ. Nhà anh có ti vi nhưng để  tiết kiệm tiền điện anh không mở ti vi. Anh không thể mở ti vi suốt ngày  trong khi vợ đi làm quần quật ở ngoài, mà anh cũng không thể với tới  cái bật ti vi. Anh chỉ có thể ngồi nhìn hai thứ: ô cửa sổ luôn mở cửa để  anh ngó ra ngoài và chiếc đồng hồ trên tường cho anh biết mấy giờ. Lúc  nào thì vợ anh đi ruộng về, đi chợ về, lúc nào con anh đi học về. Lúc ấy  là phút giây anh hạnh phúc.
 Trong đời người hạnh phúc ở mỗi giai  đoạn có nội dung khác nhau. Với trẻ con, hạnh phúc đơn giản chỉ là đòi  kẹo và người lớn cho nó kẹo. Mút một viên kẹo trẻ con đã thấy hạnh phúc  rồi. Rồi hạnh phúc nằm trong chiếc áo mới, đôi giày mới, chiếc cặp mới,  được điểm cao, được múa hát, được có đồ chơi yêu thích…Lớn lên hạnh phúc  đòi hỏi tăng lên. Và một lúc nào đó hạnh phúc là tìm thấy một người  khác, gắn bó với một người khác. Hạnh phúc có nghĩa là có đôi có cặp,  không lẻ loi một mình. Và sau nữa hạnh phúc là vật chất. Là nhà, là xe,  là tiện nghi đầy đủ. Hạnh phúc tiếp nối khi con cái lớn lên, thành đạt.
 Không ai nghĩ rằng hạnh phúc là có đầy đủ thân thể (với người khuyết  tật), hạnh phúc là bớt cơn đau (với một người đang chịu đựng những cơn  đau), là có miếng ăn (với người không làm ra tiền mua thực phẩm), là đi  lại được (với những người không thể đi lại, như anh đây bị liệt nửa  người phía dưới). Hạnh phúc là thứ người ta thêm vào và còn là những thứ  người ta không có, hay bị mất đi.
 Hạnh phúc với anh bây giờ không  phải là một đôi chân vì anh biết anh không thể có một đôi chân lành lặn,  mà là một chiếc xe lăn. Nhưng anh nghèo quá, từ khi anh bệnh nợ nần gây  ra cho vợ nhiều quá nên anh không với tới chiếc xe lăn được.
 Nhiều  khi ngồi một mình trong nhà, nhìn những chiếc lá ngoài cửa sổ anh ước gì  gặp Chúa. Chúa bảo “Con đứng lên, rời khỏi chiếc ghế này đi”. Và thế là  anh đứng lên, đi lại như đoạn kinh thánh anh đã nghe hồi đi lễ nhà thờ.  Nhưng Chúa lại bảo “Con cứ ngồi trên chiếc ghế này và suy ngẫm cuộc đời  đi”. Ôi chao! Anh đã trách Chúa nhiều biết bao, nhưng rồi anh không  trách nữa. Vì anh biết anh không phải là người duy nhất trên thế giới bị  cái hoàn cảnh này. Rất nhiều người, không hoàn cảnh này thì hoàn cảnh  khác. Và anh chỉ là một trong số những nạn nhân.
 Rồi sau này ngồi  bất động trên chiếc ghế anh trò chuyện với Chúa, về vợ con anh,  những  người anh quen biết. Anh cũng xin Chúa cho mình có được nụ cười. Rất lâu  rồi anh không cười, vì bệnh và vì buồn.
 Anh đã cười vô thức khi  nhìn tán lá ngoài cửa sổ. Cười lúc tầm trưa cánh cửa nhà mở ra, vợ con  anh trở về. Cười khi có người ghé nhà hỏi thăm. Và cười một mình khi  nhìn con thằn lằn trên tường nhà…
 Trong ngôi nhà đóng kín cửa, trên chiếc ghế bất động, không ai biết có một người đàn ông bị liệt mỉm cười.
  
 4.
 Một linh hồn nhỏ vừa bay ngang qua bầu trời. Bay qua phố đông có người  chị gái lang thang tìm em, bay qua nhà thờ nhỏ có một người đàn ông ngồi  khóc, bay qua ngôi nhà luôn đóng kín cửa có một người đàn ông bị liệt  bên trong…Linh hồn nhỏ cứ bay và bay mãi.
 Linh hồn nhỏ ấy đã bay lên bầu trời.
 Chúa hỏi:
 - Sao con lại về đây? Chẳng phải là con đã đến trần gian sao?
 - Vâng, thưa Chúa- Linh hồn nhỏ dịu dàng đáp- Con đã đến trần gian nhưng mẹ con chưa sẵn sàng. Mẹ đã để con quay trở lại.
 - Ta hiểu- Chúa vỗ về linh hồn nhỏ- Có rất nhiều linh hồn nhỏ đã quay  về đây vì người mẹ chưa sẵn sàng. Nhưng con đừng giận mẹ con nhé. Chắc  mẹ con cũng buồn nhiều lắm.
 - Không, con không giận đâu ạ. Nhưng nếu một ngày nào đó mẹ con thay đổi ý định Chúa vẫn cho con được trở về với mẹ con nhé.
 Chúa ôm linh hồn nhỏ vào lòng. Ru linh hồn bé bỏng ngủ. Và linh hồn nhỏ ngủ ngoan như những thiên thần.
 
* * *
 Bạn đã xin gì trong cuộc đời mình? Miếng cơm manh áo, tìm được người  thân, vượt qua sự cô độc, đầy đủ chân tay hay như linh hồn nhỏ được chào  đời, được gọi tiếng “Mẹ” chứ không phải bay về lại cái hành trình dài  trong lẻ loi và cô đơn. Hay bạn không cầu những điều trên vì bạn đã đầy  đủ rồi. Bạn sẽ xin những thứ khác: sự thành công, giàu có, danh vọng.  Bạn muốn rất nhiều, có thật nhiều thứ, và muốn có nhiều hơn.
 Và nếu một lúc nào đó bạn thất bại, bạn cầu nguyện điều gì?
 Chúa đang ru linh hồn nhỏ. Chúa cũng đang ru ta, những con chiên của  Chúa, thành công hay thất bại, giàu sang hay đói khổ, kiêu hãnh đi đúng  đường hay buồn khóc vì đi lạc…
 Chúa đang nghe và Chúa đang ru ta. Giống như những cơn gió đi ngang qua nhà bạn, nhìn thấy nước mắt bạn và thổi khô chúng.
 Những con chiên của Chúa
 Đi trên đường cuộc đời
 Khóc hay cười
 Chúa luôn nhìn thấy
 Chúa sẽ ru ta…
dvtung
16-02-2016, 01:11 PM
Mã số: 16-039
LỜI THÌ THẦM CỦA GIÓ
 “Gió là lời thì thầm của các linh hồn”. Ai đó đã từng nói với tôi như  vậy. Cơn gió chiều từng cơn xào xạc ở bệnh viện Chợ Rẫy này khiến người  ta phát ớn lạnh. Lúc nhỏ, tôi hay nghe báo đài nhắc về bệnh viện Chợ Rẫy  như cái nơi định mệnh của sự sống chết. Nơi mà thiên thần và ác quỷ  dường như đang tranh giành từng sinh mạng.
 - Thế đã gửi xe chưa? Vào thôi.- Tiếng gọi của cha giám đốc nhà ứng sinh khiến những suy nghĩ mơ màng của tôi vụt tắt.
 - Hôm nay, cha vào xức dầu cho một cụ bà. Con của cụ là ân nhân trong  nhiều năm của nhà dòng…- Vừa nói cha vừa đưa cho tôi chiếc khẩu trang y  tế. Giống như người rành đường mọi ngóc ngách nơi đây, cha thoăn thoắt  đi nhanh. Tôi còn bỡ ngỡ vì là lần đầu tiên đến đây.
 Không khí nơi  đây khiến người ta nhớ đến thời chiến tranh. Mùi của máu, tiếng thét  gào, tiếng xầm xì ồn ào. Từ dãy cầu thang bộ đến phòng bệnh là người nằm  kẻ đứng chật cả lối đi. Người ta nhìn. Người ta xầm xì. Người ta để ý  người đàn ông mang cổ cồn trắng đang tiến vào dãy phòng bệnh.
 Trong  khi cha giám đốc của tôi đang cử hành bí tích xức dầu cho cụ bà thì tôi  lân la ra ban công. Từ tầng cao của bệnh viện tôi nhìn ngắm xung quanh.  Phía bên kia đang là dòng người ra vào. Tiếng còi xe hú vang, tiếng bước  chân ai đó chạy dồn dập. Đột nhiên máu dưới da tôi lạnh toát. Từ đằng  sau, có ai đó nắm giật giật áo của tôi. Tôi ngoảnh lại. Một đôi mắt to,  tròn đen đang nhìn tôi.
 - Anh là linh mục hả?-  Ánh mắt thành thật của chị đang nhìn tôi.
 - Dạ không, cha ở trong kia.- Rồi tôi chỉ hướng về cha giám đốc của mình: “Em chỉ là người phụ tá thôi”.
 Có chút im lặng bất ngờ khiến tôi muốn tiếp lời: “Chị muốn gặp linh mục  không?”. Đôi mắt chị nhẹ nhàng chớp lia lịa như dấu chỉ cho sự đồng ý.
 Đợi cho cha xong việc, tôi nhanh nhảu chạy vào thì thầm đôi ba câu.  Dường như ngài hiểu ý, tiến thẳng về ghế đá nơi hành lang chị đang ngồi.
 - Chào chị ! Chị muốn gặp tôi ư?
 - Dạ vâng, thưa linh mục.
 Chị sinh ra ở Long An, một tỉnh lỵ gần Sài Gòn. Học hành chẳng được mấy  nên chị theo nghề hớt tóc để mong có cuộc sống khá hơn. Bẵng đi một  thời gian, chị cũng có chút vốn liếng cho riêng mình. Chị quyết định lên  Sài Gòn, vừa làm ăn vừa hỗ trợ đứa em trai đang học ở đây.
 Tự dưng thấy mắt chị ứa lệ.
 - Em con nó ham chơi hơn học, suốt ngày lêu lổng với mấy đứa con nhà  giàu. Bao nhiêu tiền cũng không đủ với nó. Trong khi con mệt mỏi với đứa  em, thì con gặp anh ấy.
 Anh ấy là huynh trưởng một xứ đạo gần nơi  chị sống. Hai anh chị quen nhau rồi yêu thương nhau. Anh ấy bằng tuổi  chị, đang là chủ tiệm buôn bán xe máy. Anh ấy rất hiền, tính cách lại dễ  gần nên sớm chiếm lấy cảm tình của chị.
 Chị không ngại cùng anh đến  nhà thờ. Trước giờ, chị không có thiện cảm lắm với người có đạo. Bởi họ  cũng sống giống y như người ngoài đời. Nhưng nay, sao chị thấy Chúa  cũng dễ thương quá, dễ thương giống anh.
 - Con và anh ấy đã học xong  giáo lý hôn nhân. Chuẩn bị về ra mắt gia đình con ở Long An thì …- Nói  tới đây thì chị nghẹn ngào, nấc lên từng hồi, không nói tiếp được. Cha  giám đốc nháy mắt cho tôi tỏ ý. Tôi chạy vội xuống căn-tin mua cho chị  lon nước Coca.
 Chị nhận từ tôi và nhẹ nhàng nói:
 - Cám ơn anh.
 Rồi chị tiếp lời:
 - Em trai con bị tai nạn xe, hôn mê mấy ngày rồi qua đời. Con lo mọi  việc từ cửa tiệm đến bệnh của em khiến con mệt nhoài, không còn sức lực  để mà đứng vững được.
 Tôi đứng đó, lắng nghe câu chuyện của chị, không biết chị thật sự đang cần điều gì nơi cha con chúng tôi.
 - Năm trước, bác sĩ báo con bị nhiễm HIV, cũng là giai đoạn cuối rồi.  Gia đình, bà con thân nhân chẳng ai dám đến đây thăm con. Người yêu cũ  của con có đến mấy lần nhưng con tránh mặt. Con muốn anh ấy có một cuộc  sống bình yên như bao người. Giờ đây cuộc sống với con mong manh lắm.
 Cha giám đốc ân cần bảo:
 - Tôi thông cảm với nỗi niềm chị. Không biết tôi giúp được gì cho chị?
 - Thưa linh mục, con muốn được rửa tội.
 Nghe đến đây tôi nghẹn ngào nhìn cha giám đốc của mình.
 - Tôi đồng ý với chị.- Cha ôn tồn trả lời.
 Sau một vài câu hỏi về đức tin cho người đã trưởng thành, cha chuẩn bị cử hành bí tích rửa tội cho chị.
 Chị nhìn cha rồi nói khẽ:
 -  Thưa linh mục, con có sẵn bao tay y tế ở đây. Dù sao con cũng là …
 - Không ! Tôi sẽ làm bằng chính đôi tay của mình…
 Nghe lời ấy, tôi thấy chị đã khóc thật sự, khóc cho nỗi niềm của chị  bấy lâu, và khóc cho sự cảm động đang diễn ra trong sâu thẳm cõi lòng  của chị.
 - Madalena, Tôi rửa chị. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
 Những dòng nước từ trên mái tóc chị đổ xuống như muốn xóa sạch mọi ký  ức đau buồn đã theo chị bấy lâu nay. Giờ đây chị sẽ có một đời mới thật  sự.
 Cha và tôi ra về. Loáng thoáng từ trên tầng lầu ấy, vẫn có người  đứng nhìn chúng tôi. Tôi trở về cộng đoàn với nhiều boăn khoăn. Trong  giờ kinh chiều, tôi cầu nguyện  cho các bệnh nhân, cách riêng cho chị,  những người đang chống chọi hằng ngày với bệnh tật.
 
--o0o--
 Sáng hôm sau giờ ăn sáng. Tôi nhận điện thoại của cha giám đốc:
 - Alô! Huấn à!
 - Dạ con nghe thưa cha.
 - Cô gái hôm qua được cha rửa tội, sáng nay đã ra đi lúc 4h sáng. Con nói anh em thêm lời cầu nguyện cho cô ấy.
 Đặt nhẹ điện thoại xuống bàn, tôi chợt nhớ đến đôi mắt to tròn của chị  khi chị nhìn tôi lúc ấy. Sao nhanh quá vậy? Đâu đó có cơn gió bỗng nhiên  lùa vào phòng. Gió là lời thì thầm của các linh hồn. Một linh hồn đang  cố nói điều gì đó với tôi.
dvtung
16-02-2016, 01:11 PM
Mã số: 16-040
MỘT BƯỚC NHẢY
 Bên triền dốc núi Kỳ Sơn, có căn nhà lá nhỏ, nép giữa những bụi gai bàn  chải. Ở đó có một bà góa quen gọi là bà Hai và cậu con trai tên Long.
 Cậu là món quà đặc biệt, là gia sản quý hiếm của bà, tuy vất vả, mẹ con  lúc nào cũng vui vẻ. Có những lúc thấy con thiếu thốn vật chất và thiếu  tình thương của cha, bà rất xót xa nên ngày đêm cầu kinh khẩn Phật phù  hộ độ trì cho con. Long rất hiền và ngoan. Học xong tiểu học trường làng  cậu ở nhà làm thuê giúp mẹ. Mặc cho bà ép con lên huyện học tiếp. Trước  mặt nhà là con đường chạy dài đến Tuy Phước, gọi là đường chứ thật ra  chỉ là lối đi nhỏ mà người đi lỡ quên bước rộng hay dang tay ra là gai  bàn chải sẽ gắn chặt vào thân. Toàn núi chỉ có gai bàn chải là sống sót,  bởi đất cằn sỏi là sỏi với đá nên chẳng ai canh tác được. Ngoài những  ngày chợ phiên ở Tuy Phước thì con đường rất vắng, nhưng đặc biệt là chủ  nhật hằng tuần, cứ khoảng ba giờ sáng là lai rai từng tốp người đi  ngang qua đây để về Gò Thị dự lễ. Họ là người có đạo, nhìn rất dễ phân  biệt vì họ không gánh mang gì ngoài chiếc áo dài vắt vai và các đứa trẻ  tay xách dép lon ton chạy theo người lớn. Đến gần trưa họ lại trở về,  thế mà lúc nào Long cũng thấy họ vui tươi chuyện trò không tỏ ra mệt  nhọc, không tiếc công sức. Tại sao họ lại thế, Long rất thắc mắc. Rồi  thời gian cứ trôi, anh lớn lên và vài lần theo họ. Anh cũng tham dự lễ  lớn như Giáng Sinh để rồi có một lần nhận ra anh là thanh niên trong xã,  chú Tám là cán bộ xã là người đạo Công giáo. Tuần nào chú cũng đi lễ  theo con đường này, chú đi chếc xe đạp trông oai lắm. Long và chú đã tâm  sự nhiều, biết Long mộ đạo, chú hướng dẫn, Long thích lắm nhưng ngặt  nỗi làm sao tỏ bày với mẹ đây. Anh lo quá, anh thẩn thờ như người mất  hồn. Mẹ anh nhận ra nỗi buồn phiền đang gặm nhấm con trai mình. Bà gặng  hỏi, không giấu được, anh đã trình bày.
 - Con muốn theo đạo Chúa.
 Xung quanh bà mọi vật như quay cuồng, con bà theo đạo bỏ bà sao? Sau  này, ai là người cúng giỗ bà? Bà đã bỏ cơm và khóc suốt đêm. Từ đó Long  không dám nhắc lại ý định của mình nữa, cả ngày anh chỉ biết đi làm, ăn,  rồi ngủ, không có tiếng cười nói của anh, căn nhà lặng câm đáng sợ. Anh  lầm lì, nhưng anh không trách mẹ, không cãi mẹ. Và rồi việc gì nó cũng  có hồi kết. Bà Hai than thở:
 - Đất không chịu trời, thì trời phải chịu đất thôi.
 Bà chấp nhận cho Long  theo đạo nhưng không được tháo tượng Phật trên  cổ, mà bao năm nay bà đã đeo cho anh. Chìu ý mẹ, Long vâng lời.Nhờ chú  Tám giúp đỡ, anh được học đạo. Rồi ngày rửa tội đến. Ngày hồng ân đặc  biệt ấy, chú Tám đã mời cơm anh. Trong bữa ăn, cả gia đình Bõ rất vui  khi có mặt anh, ai cũng ép anh ăn nhiều, anh thấy có một tô thịt to thơm  nức mũi, Bõ gắp bỏ vào chén cho anh, anh ăn thấy ngon và lạ miêng nên  hỏi :
 - Thịt gì ngon vậy Bõ?
 Cười, Bõ đáp :
 - Thịt chó đấy, chắc chưa bao giờ con dám ăn
 - Dạ, mẹ con cấm ăn thịt chó, vì tu Phật tại gia như mẹ không được ăn.
 Chú Tám cười diễn giải :
 - Mọi con vật ở trên trái đất này, Thiên Chúa trao ban cho con người,  mình được quyền ăn, tại sao cũng là vật nuôi mà trâu bò gà, vịt, mình ăn  được, còn chó thì không?
 Hình như nhờ tuổi cao, học biết nhiều nên  cái gì Bõ cũng biết. Long an tâm có một người Bõ như chú Tám . Cũng ngày  đầu tiên ấy, theo đạo Bõ đưa cho anh một tượng ảnh thánh giá bảo anh  đeo vào cổ. Bao lâu nay, dù đeo tượng Phật nhưng chưa bao giờ anh để cho  Bõ và người nhà Bõ biết. Nhưng nay thì sao, một liều ba bảy cũng liều.  Tay nắm kỹ tượng Phật, tay kia anh xỏ tượng Chúa vào. Trước mặt Bõ, anh  để tượng Chúa trước ngực, và tượng Phật nằm sau lưng. Khổ nỗi, khi về  bên mẹ, anh phải làm ngược lại, tượng Phật trước ngực. Mới có một ngày,  mà là ngày đầu tiên lãnh nhận phép rửa tội nữa chứ. Ngày mà bao lâu nay,  anh mong chờ, nay đã thành sự thật. Vui rất là vui, nhưng lo như một  tên phạm tội, sợ người ta phát hiện lỗi của mình. Anh không muốn mẹ  buồn, lại không nỡ để Bõ mất niềm tin vào đứa con tinh thần đầu tiên.  Anh biết rõ mình đã tin vào Chúa, anh theo đạo Chúa là đúng. Đêm ấy, anh  ngủ ngon, sáng hôm sau, nhìn vẻ vui tươi của con. Bà Hai thấy một vầng  sáng hiện rõ trên mặt, nhưng bà biết con chưa được hạnh phúc trọn vẹn,  có lẽ nó đang lo cho bà, bà cũng suy nghĩ nhiều, bà định nói với Long,  nhưng anh đã vòng tay lên cổ tháo tượng Phật hai tay đưa cho mẹ, anh nói  thật khẽ nhưng rất rõ: “Mẹ! Con con biết, trong lòng mẹ chỉ có con và  con cũng vậy nhưng cổ con không thể đeo hai tượng được, xin trao lại cho  mẹ”. Anh tưởng sẽ nhìn thấy ánh mắt đau buồn, những câu hờn trách của  mẹ. Nhưng kìa bà dang hai tay ôm con trai, cái thằng nay cao hơn mẹ nó  một cái đầu mà lại sợ mẹ thế sao? Bà cười:
 - Con hãy nói với chú Tám lo cho mẹ theo đạo đi, hổng lẽ con theo đạo Chúa, còn mẹ theo ai đây?
 Long cấu chặt vào đùi mình.
 - Ui đau! Chúa ơi, con tỉnh hay mê đây…- Và anh tin chắc mình đang tỉnh. Ghì chặt mẹ, anh thổn thức.
 - Cám ơn mẹ, cám ơn Chúa nhiều lắm.
 Gánh nặng ngàn cân đã trút khỏi phải vai anh.
dvtung
16-02-2016, 01:11 PM
Mã số: 16-042
MÀU ÁO LAM
 Ngày Quốc tế Lao động 1 tháng Năm, công nhân viên chức các công ty, xí  nghiệp đều được nghỉ lễ. Nhiều người rủ nhau đi chơi chỗ này tham quan  chỗ kia một bữa để thư giãn đầu óc, tay chân. Mấy ngày trước, trong xóm  trọ của Tí cũng có những tiếng bàn bạc rất xôm tụ từ anh chị em công  nhân rủ nhau đi đây đi đó, hay ít ra tắt bếp một bữa, dắt nhau ra quán  để mừng “Ngày đại lễ của giới Công nhân”.
 Thế nhưng, không hiểu sao  khi ngày giờ đã tới mà những người trong xóm trọ vẫn “án binh bất động”  trước các đề xuất hoành tráng của mấy hôm rồi.
 Sáng nay, Long, cậu bạn cùng phòng cũng hỏi Tí:
 - Mày không đi đâu à?
 Tí trả lời trong trạng thái uể oải:
 - Tối qua tăng ca trễ quá, hôm nay đừ rồi!
 Để có được ngày nghỉ hôm nay, các công nhân công ty của Tí tối qua phải  tăng ca tới tận mười giờ đêm. Tuy nhiên, dẫu có lý do chính đáng để Tí  có thể biện hộ cho việc mình ở nhà, nhưng Long và người bạn cùng phòng  cũng như những người trong xóm nhập cư hiểu rõ, đó chỉ là lý do phụ so  với điều không được nói ra chính là vì mức ương bèo bọt của giới công  nhân. Và việc chọn “ăn lễ” bằng cách “đóng quân” tại phòng trọ được xem  là kế sách tốt nhất cho những công nhân xa quê.
 Tí ra vẻ rộng lượng như để che giấu đi nỗi buồn của mình:
 - Mày và thằng Vũ sao không rủ mấy đứa kế bên đi đi, để tao coi nhà cho.
 Lúc này Vũ mới lên tiếng:
 - Tao thì có cái võng với góc bạch đàn ngoài sân làm bạn là được rồi, đi đi lại lại mỏi chân lắm, mai còn đi làm nữa!
 Long cũng đồng cảm:
 - Ông bà ta đã dạy rồi: “Liệu cơm gắp mắm”. Thời buổi kinh tế khó khăn mà! “Vung tay quá trán” có ngày ra đường mà nằm!
 Căn phòng rộng chỉ vài mét vuông nhưng hiếm khi nào chứa tới ba chàng  trai “vai năm tấc rộng thân mười thước cao” như hôm nay. Tuy ba người ở  ghép chung trong căn phòng trọ, nhưng vì làm khác ca nhau, nên thường  khi đồng nghiệp vừa tan sở thì Tí cũng bắt đầu vào ca. Với chiếc áo đồng  phục màu xanh lam quen thuộc, được tô điểm bằng tấm thẻ đeo trước ngực  áo bay lất phất mỗi khi có cơn gió nhẹ bất chợt thoảng qua, nơi những  con người công nhân tỉnh lẻ này toát lên vẻ gì đó vừa gần gũi, vừa thân  thiện, lại vừa chất phác nữa.
 Ngoài kia, ông mặt trời đã lên cao,  những tia nắng óng vàng như một lớp thảm đang được trải rộng bắt đầu từ  góc sân. Trên ngọn cây bạch đàn rũ lá, tiếng ve râm ran réo gọi hè mau  mau trở về. Lâu lắm mới có ngày được nghỉ, Tí định “nằm nướng” thoả  thích, không phải tất bật dậy sớm nào là nấu nước, nào là vừa thay quần  áo vừa cho nước vào tô mì tôm, rồi và vội vội vàng vàng thêm chén cơm  nguội còn dư lại của tối hôm trước mới đủ sức trụ được tới trưa, xong  còn tranh thủ đạp xe cho kịp giờ làm như mọi hôm. Hôm nay, có thời gian  để “xả hơi” sau bao ngày lao động vất vả cũng là một phần thưởng mà  nhiều người với số lương công nhân còm cõi như Tí hằng mơ ước. Tuy  nhiên, ước mơ nhỏ nhoi của “chú gấu” muốn vùi ngủ đông giữa những ngày  hè mau chóng vụt tắt. Tí lại làu bàu với chính mình: “Kỳ lạ thiệt, ngày  Quốc tế Lao động mà ông mặt trời dường như làm việc còn siêng năng hơn,  chẳng bù với mấy đám mây lười biếng hôm nay vắng bóng hẳn, nghỉ lễ Lao  động chắc! Mấy đám mây đúng là vô tâm, cả đám lớn lẫn đám nhỏ… Sao chẳng  có đám mây nào chịu đoái hoài tới ông mặt trời đang làm việc nhễ nhại  mồ hôi? Cũng chẳng có đám mây nào vô tình trôi trên nền trời xanh để ông  mặt trời được nghỉ ngơi đôi chút!”…
 Ánh nắng chẳng mấy chốc phủ đầy  mái tôn cũ kỹ hấp nhiệt, lại được sự cộng hưởng của cái nóng như thiêu  như đốt của tháng Tư, như muốn bốc hơi mau chóng những tảng băng mà “chú  gấu” đang mơ tưởng, để có một lý do ẩn mình trong “cái bao diêm” chật  hẹp và oi bức. Lúc này, Long và Vũ đã rời “bao diêm” từ lâu, rủ nhau ra  “tám” với những đứa bạn chung dãy phòng trọ bên gốc bạch đàn cho quên đi  cái đói ban sáng sau một đêm bao tử cật lực làm việc.
 Trong khi ấy,  Tí ra vẻ anh hùng, vẫn cố sức lim dim mắt. Lúc rỗi rảnh thế này, tâm  trí của Tí gọi về sự kiện trước đây vài ngày, giá xăng dầu lại leo  thang. Lẽ ra, nó cũng chẳng liên can gì với một người đang sở hữu chiếc  “xế điếc” như Tí cũng như “các cua-rơ” chung dãy nhà trọ ngày ngày vẫn  oằn mình cho xe quay đều quay đều tới xí nghiệp. Thấy vậy mà không phải  vậy! Khi tăng giá, xăng “chẳng đi một mình” mà còn “kéo lê ì ạch cả đàn  em đông đúc” các mặt hàng từ lương thực đến các nhu yếu phẩm… cũng đều  tăng đồng loạt. Dường như có một quy luật bất thành văn nào đó! Rồi đây,  tới lượt “những người khách không mời mà tới” nào giá điện, nước, phòng  trọ cũng đỏng đảnh đòi ăn theo. Nghĩ tới đây, Tí chợt rùng mình trong  căn phòng trọ đang nóng dần như bếp lò. Và rồi, Tí không sao chợp mắt  tiếp được dù vẫn muốn chiều chuộng thân xác để “nướng” thêm một đỗi nữa  cho tới khi mặt trời đứng bóng, hầu tiết kiệm được gói mì tôm nào nữa  chăng!
 Trời càng lúc càng tăng nhiệt, nhiều người trong dãy nhà trọ  không ai bảo ai, lần lượt kéo nhau ra ngồi nấp bóng dưới những tán lá  bạch đàn để trốn cái nóng hừng hực, vừa đỡ tốn tiền điện, lại có dịp để  tán gẫu: nào là chuyện thất thường của thời tiết, chuyện thời sự trong  khu xóm nhập cư, không thiếu chuyện về tình hình quê nhà đang trong cảnh  “thắt lưng buộc bụng”. Chưa hết, họ còn kể cho nhau nghe về chuyện gia  đình hay những ký ức thời thơ ấu vui đùa nghịch ngợm với mấy đứa trẻ  trâu cùng trang lứa. Nhờ vậy mà người miệt đồng bằng có thể biết chút ít  về văn hóa vùng thượng lưu, kẻ sống trong Nam biết được chuyện tận  ngoài Bắc. Chỉ bấy nhiêu thôi mà lần nào cũng đem ra “xào nấu” như tin  nóng hổi vừa mới ra lò. Ngẫu hứng, ai đó trong nhóm bất chợt xen vào vài  câu vọng cổ hay chuyện khôi hài, góp tiếng cười rôm rả cho vơi nỗi nhớ  nhà. Mỗi khi một người trong nhóm bắt đầu kể chuyện thì những người còn  lại đoán được mình sắp được nghe chuyện gì, thậm chí còn nhắc tuồng hay  “vuốt đuôi”. Dẫu vậy, tất cả đều trân trọng nhau và lắng nghe há hốc  miệng, vì họ biết rằng rồi sẽ tới lượt mình cũng đóng vai người kể  chuyện. Thỉnh thoảng, họ cũng có những tin mới để chia sẻ cho nhau,  nhưng thường thì đó là những tin mà cả người kể lẫn khán thính giả ước  chi chẳng có để mà kể mà nghe: đó là chuyện “ông bà già” ở quê đau bệnh;  chuyện căn nhà vừa bị tốc mái do trận bão vừa rồi; hay chuyện bầy vịt  mà đứa em mới gầy được mấy tháng trước gặp phải trận dịch cúm chết tiệt  làm mắc gió gần như cả đàn, đúng là “đã nghèo còn gặp cái eo”!
 Cùng  lúc ấy, Tí vẫn cố thủ trong bốn bức tường ngột ngạt. Mười lăm, ba mươi  phút… rồi một tiếng đồng hồ… cũng vèo trôi qua. Bỗng có tiếng cốc… cốc…  trên thành cửa thiếc. Tí vờ nằm im.
 Lần này, tiếng gõ cửa kèm theo giọng gọi thật to: “Tí ơi”.
 Thì ra thằng cu Tèo đồng hương đây mà. Mặc xác nó, Tí nói vọng ra, giọng nhừa nhựa:
 - Ngày đại lễ của giới công nhân, cho tao ngủ thêm chút đi.
 Nhưng giọng Tèo ra vẻ dứt khoát:
 - Tao có chuyện vui cho mày đây, không mở cửa, tiếc ráng chịu.
  “Chú gấu lười” từ từ nhổm dậy, nét mặt ra vẻ đầy tò mò. Nhưng Tèo chẳng buồn bước vào “dinh thự” của Tí mà chỉ nói vọng vô:
 - Nhanh lên, tao rủ mày đi chơi một ngày, đừng có nằm nướng nữa, sắp thành ổ bánh mì cháy khét rồi đó.
 Tí lưỡng lự:
 - Tao đang cháy túi. Còn mười ngày nữa mới lãnh lương.
 Tèo ra vẻ đắc thắng:
 - Mày khỏi lo, để tao!
 Tí giật mình vì một thằng bị tụi bạn chọc là “quê ở mỏ than” như Tèo mà nay sao hào phóng sảng:
 - Thôi đi ông tướng, bộ mới trúng số à? Hôm nay chứ không phải ngày Cá tháng Tư đâu mà định lừa tao.
 Giọng cười thành tiếng của Tèo ra vẻ bí mật:
 - Tao nói thiệt. Rủ thằng Long, Vũ và mấy anh chị em ngoài kia đi nữa.
 Chẳng điều đình được với Tèo, “gấu lười” đành từ bỏ “giấc ngủ đông”. Đợi Tí rửa mặt xong, Tèo bảo:
 - Tao nghe nói nhân dịp ngày Quốc tế Công nhân, cha xứ tổ chức “Ngày  hội cho người xa quê”, mau thay quần áo rồi tao đèo mày lên tham gia. Để  tao ra rủ mấy anh chị em “hội gốc bạch đàn” đi nữa cho vui.
 Từ  trước tới giờ, Tí rất nhút nhát, chẳng tham gia đoàn hội gì cả, lần này  thử chí nam nhi xem sao… Mấy người ở dãy phòng trọ cũng nhiệt tình hưởng  ứng. Chẳng mấy chốc, những chiếc “xế điếc” lần lượt nối đuôi nhau tới  nhà thờ gần đó theo sự chỉ đường của Tèo.
 Tèo đạp xe đèo Tí từ từ  tiến vào cửa nhà thờ. Xa xa, những nam thanh nữ tú trong các trang phục  đủ sắc màu, khác hẳn bộ đồng phục công nhân với màu áo lam thường ngày,  đang tập hợp nói cười râm ran. Tèo làm hướng dẫn viên giới thiệu nhóm  của Tí với cha xứ và các tham dự viên. Sau giây phút làm quen, Tí và anh  chị em cùng dãy nhà trọ mau chóng hòa nhập vào đám đông ấy.
 Chương  trình thật sinh động và dày đặc được cha xứ, quý thầy, quý dì cùng ban  Hội đồng giáo xứ và các hội đoàn lên kế hoạch thực hiện thật chu đáo cho  một “Ngày hội ngộ”: nào là sinh hoạt, vui chơi, thi đua giáo lý, ca  hát, chia sẻ những vấn đề gặp phải trong cuộc sống, một bữa cơm nối kết  tình thân giữa kẻ ở sông Hồng với người ở Cửu Long giang. Nhờ vậy mà  những người công nhân thấy mình được quan tâm, và dần dần họ trở nên  năng động hơn, tham gia nhiệt tình, nói cười tíu tít, quen thêm nhiều  bạn mới cũng như gặp lại đồng hương. Các bạn ở dãy phòng trọ của Tí  trước nay vốn xa lạ với nơi nhà thờ nhà thánh, thậm chí dịp Noel rộn  ràng nhưng thường thì họ phải tăng ca, chỉ có một đôi lần tan ca về sớm  nhưng cũng chỉ dám đứng xa xa xem diễn nguyện Mừng Chúa Giáng Sinh, nay  có dịp đặt chân tới nhà thờ, họ thấy nơi đây như một “ngôi nhà chung”  rộng cửa chào đón mọi người tới tìm gặp sự an bình.
 Cuối ngày Hội  ngộ, cha xứ dâng Thánh lễ kính Thánh Giuse Thợ, bổn mạng của người lao  động, để cầu nguyện cho các công nhân-viên chức, không phân biệt lương  giáo. Với “Nghi thức Sai đi” ở cuối chương trình, cha xứ mời gọi mọi  người tiếp tục về lại nơi mình sống và làm việc thường ngày để loan báo  Tin Mừng Chúa Phục Sinh bằng chính đời sống yêu thương và chân thật của  mình nơi công sở, nơi xí nghiệp và trong khu xóm. Các tham dự viên tạm  biệt nhau trong sự quyến luyến như muốn thời gian ngừng trôi để ngày họp  mặt được kéo dài thêm, thêm nữa…
 Về lại phòng trọ, điện cũng bị cúp  như thỉnh thoảng vẫn thường xảy ra và bầu không khí cũng còn oi bức, và  cũng những con người quen thuộc ấy lại tụ tập với nhau dưới tán cây  bạch đàn khi có dịp. Nhưng chiều nay, trong lòng mỗi người cảm thấy  dường như cây bạch đàn nhả khí ôxy nhiều hơn, cây vẫn rũ lá nhưng dường  như lại có cơn gió bất chợt thổi quanh gốc bạch đàn, và câu chuyện đã có  phần khởi sắc hơn. Lúc này đây, ai cũng muốn mình là người được kể  chuyện: người thì kể chuyện quen được bạn mới; người khác thuật lại trò  chơi ban trưa cười muốn lộn ruột; người khác nữa chân thành: “Hôm nay  không biết sao tui ăn cơm tới ba chén, thường ngày sức ăn đâu dữ vậy!”;  và anh nọ cũng chia sẻ: “Nghe nói ông cha thì sợ nhưng nay có dịp tiếp  xúc thấy ông cha dễ thương”; cô kia thì khen: “Mấy người đi tu sao vui  tính chứ không âu sầu như mình tưởng”; cô khác chen vào: “Người Công  giáo tích cực trong việc bác ái hén”… Và còn biết bao câu chuyện, cảm  nghiệm hiện rõ nét vui tươi hớn hở trên khuôn mặt mỗi người. Có một điều  trước nay vẫn vậy, đó là họ cũng vẫn trân trọng nhau, nhường nhau và  lắng nghe khi có người kể chuyện. Lúc này đây, dù là người ngồi nghe,  nhưng chính mỗi người trong họ cảm nghiệm điều bạn mình chia sẻ cũng  thay cho lời mình muốn nói. Đâu đó, Tí còn tự hào khi nghe được người  bạn lương dân kế bên căn phòng trọ của Tí chia sẻ: “Giờ mới biết những  công nhân như mình cũng có ông thánh Giuse phù hộ, nên bữa cháo bữa rau  mà mình vẫn sống nỗi”, và “Hài Nhi Giêsu mà hôm bữa đứa nào kể sinh ra  trong hang bò lừa nghèo nàn thì ra chính là Chúa Phục Sinh”.
 Riêng  với Tí, điều để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng cậu là phần chia sẻ về  những cơ cực trong đời sống người công nhân xa quê, sự tương thân tương  ái, và cách chia sẻ Lời Chúa mà người công nhân có thể thực hiện được  trong xóm trọ. Nhờ lời Thánh Vịnh 118, “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con  bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”, Tí và Tèo cũng như anh chị em công  nhân Công giáo từ nay tranh thủ dành ra một buổi trong tuần tập trung  dưới tán cây bạch đàn ấy chia sẻ Lời Chúa, để tập sống Lời Chúa của Chúa  nhật trong suốt một tuần, và giúp họ có cơ hội khám phá Tin Mừng mà  Chúa Kitô phục sinh đã trao lại: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,  rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Sau ngày đó, Tí  trở nên năng động hơn, nhiệt thành hơn; và nhất là, Tí đã trở nên chứng  nhân cho Chúa Kitô bằng việc giúp đỡ đồng nghiệp và những người trong  lối xóm mà trong lòng Tí cũng như người tham dự hãy còn vang vọng lời  mời gọi của cha xứ, trích từ lời chia sẻ của vị Chân phước Giáo hoàng  Phaolô đệ VI: “Ngày nay, người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy”.
 “Màu áo lam” nay đã phát huy được ý nghĩa màu sắc của nó: một màu áo  của tinh thần trẻ, đầy sức sống và lòng hăng say của người môn đệ Chúa  Kitô. Một điều đặc biệt không kém, hiện nay, Tí đã trở thành một ca viên  trong ca đoàn giáo xứ, điều mà trước đây Tí chỉ dám tự hát cho chính  mình nghe sau khi tiếng xe đạp cót két của người bạn cùng phòng ra tới  cuối ngõ để vào ca.
dvtung
16-02-2016, 01:11 PM
Mã số: 16-043
NGƯỜI HÀNH KHẤT
 Cứ tầm lễ sáng xong, khuôn viên nhà thờ trở lại yên ắng, người ta lại  thấy một gã đàn ông, mặc bộ đồ gụ bạc thếch, yên lặng đứng ở thềm đá,  trước tiền sảnh nhà thờ. Dưới chân gã chiếc nón lá đã bật vành úp lên  cái bao tai, để thò ra ngoài cây gậy tre nhẵn bóng. Bất luận trời mưa  hay nắng, mùa đông hay mùa hè, cứ giờ ấy, tầm ấy là y như lại có mặt gã.  Ban sáng người đi chợ, người đi làm đồng qua, tất cả như vô tâm! Người  làng đạo quen đến nỗi chả ai để ý xem cái lão (hâm) ấy đang làm gì, họa  hoằn có mấy đứa trẻ ranh nhà ở gần, chờ lúc lão chắp tay, mất hồn vào  tượng Chúa, chúng mới khom người đụng vào cây gậy của lão rồi reo lên:
 -A ông ăn xin!
 Và cùng lúc từ miệng ông thốt ra lời kinh nhật tụng:
 - Xin Chúa cho con lương thực hàng ngày!
 Bây giờ thì ông không còn nữa. Ông chết cũng được đến mấy năm.
 Ngày còn học cấp hai, một trưa đi về, mẹ từ dưới bếp lên bảo tôi:
 - Ông Phan sắp chết rồi con à.
 Tôi lạnh cả người. Quái lạ! Hồi sáng đi học, tôi đạp xe qua nhà thờ,  vẫn nhìn thấy ông chắp tay trước tượng Chúa, chỗ thềm đá nơi ông thường  đứng, vẫn cái nón ấp lên bao tải và một chiếc gậy. Sao lại nhanh vậy ta?  Tôi chưa kịp trả lời mẹ lại tiếp:
 - Hồi nãy ông quản Hòa qua đây  tìm con, rước cha kẻ liệt, ông bảo sáng có người đi chợ phiên, đã thấy  ông nằm bất động nơi ngã Ba Cung. Người ta thuê xe đưa ông về nhà, không  biết chừ có đỡ hơn không, thật rõ tội nghiệp!
  Nhà ông cạnh nhà  thờ, khi tôi đến, đã thấy người ra vào nhốn nháo, ai cũng muốn làm một  việc gì đó cho người sắp ra đi, nhưng rồi ai cũng không có việc để làm,  người này nhìn người kia tự hỏi.
 Người nhà quê nhiệt tình trong mọi  công việc, nhưng phải có người gánh vác, cầm càng. Đằng này ông độc  thân, anh em xa gần không có. Nghe mẹ tôi kể lại, miếng vườn, ngôi nhà  mà ông đang ở, là của một người đàn bà không chồng, tên là Ân. Bà xin  ông trong một lần đi chợ, ở tít mạn Hoàng Mai, Nghệ An. Hai mẹ con sống  với nhau bằng gánh hàng vặt của bà. Rồi ông nhập đạo. Khi tôi học cấp  một, ông cũng ở tuổi bốn mươi. Đa phần người trong làng gọi ông là ông  Phan. Người đàn bà tên Ân cũng không còn. Bẵng đi một dạo không thấy ông  về làng, người làng đồn ông về quê, người ta hỏi ông có thật không. Ông  trả lời: “Quê không có đạo chả về!”. Rồi ông cười. Mấy chiếc răng còn  sót lại cũng cười theo.
  Buổi đầu ông sống nhờ vào sự bố thí của bà  con xóm đạo. Lân la nhà này nhà nọ, rồi ông trở thành người ăn xin. Mà  ông lại là người đoảng tính, nói cà lăm, nên người làng có câu : "Lắp  bắp như gặp ông Phan".
 Căn nhà lợp tranh, tuềnh toàng trống hoác,  nền đất ẩm mốc, nhiều chỗ trũng ổ gà, là nơi đi về của ông. Một cái phản  gỗ, vừa là nơi ngủ, nơi để ăn. Chỗ trang trọng nhất trong nhà ông là  bàn thờ. Nơi có tượng Chúa đóng đinh. Dưới chân còn nguyên một cành hoa  dong đỏ ối, chắc sáng nay trước khi đi ông mới bẻ từ mấy bụi dong trong  vườn dâng Ngài.
 Công việc trong  ngày của ông, hôm nào cũng vậy, cứ  kinh sáng ở nhà thờ xong, dân làng đạo ai về nhà nấy, là y như lại thấy  ông chắp tay đứng dưới tượng Chúa, bất kể trời nắng hay mưa, đọc thật to  câu kinh mà khởi đầu cho ngày làm việc ông vẫn đọc: “Xin Chúa cho con  hôm nay lương thực hàng ngày!”, rồi ông ra đi. Người vô tâm gọi ông là  Phan “hâm”, ông cười… Không hâm mà đến nước phải đi xin ăn còn đem cho  người khác! Ông bảo: Họ khổ mà. Ông cười, mấy cái răng còn lại cũng  cười. Mặt ông dãn ra, hân hoan như người bắt được của ...
 Bây giờ  thì ông nằm đó, nơi tấm phản gỗ ông vẫn nằm, sau một ngày mệt nhọc hết  làng này đến làng khác, có hôm về đến nhà, trong bao tải chỉ còn vài bắp  ngô sống. Những thứ đáng giá trong lúc “hâm” ông đã đem cho nhừng người  "họ khổ mà".
 Hai tay giữ chặt lấy tượng Chúa, mắt nhắm nghiền, trên môi vẫn giật nhẹ như ông đang mơ…
 Trăng đầu tháng cũng đã lên cao, dòng sữa bạc chảy tràn xuống căn nhà  xiêu vẹo. Một khóm hoa dong đang mùa trổ hoa. Mảnh sân nhỏ, chật kín  người ra vào.
 Ở quê tôi, những năm trước đây thiếu linh mục, tiếng  là giáo xứ, nhưng cả tháng không có lễ. Công việc nhà đạo một mình cha  già Khuất coi, mà ngài lại ở tận giáo xứ Ba Làng, cách nơi tôi chừng hai  chục cây số. Ngày nào cha cũng phải đi. Ba giáo hạt, mười hai giáo xứ,  bao nhiêu là họ lẻ, với một linh mục đã già. Không có ơn Chúa, sức người  làm làm sao kham được!
 Con đường hàng ngày cha đi, cũng là con  đường ông Phan đi hàng ngày. Nên với ông, cha vừa là cha,vừa là bạn. Ông  biếu cha ngô, khoai, những thứ ông xin được, cha cho ông nắm cơm mà mỗi  sáng chị nấu bếp đã gói sẵn trong lá chuối với ít muối vừng, để đến nơi  làm việc ngài ăn trưa. Gặp hôm trời mưa, hai cha con cùng đi bộ, cha  dắt xe đạp, ông bị gậy theo sau. Thật tội nghiệp, nên nghe tin có cha là  y như ở đó đông kịt người, chỗ này lạy cha, chỗ kia lạy cha, cả trăm  con người như bị thôi miên vào một người đang cúi sát xuống ông Phan.  Tay đặt nhẹ lên tay ông. Ánh trăng soi rõ từng cử chỉ yêu thương của  ngài, tự nhiên tim tôi thắt lại, có ai đó không nén được đã òa lên, xung  quanh bao nhiêu người ràn rụa nước mắt. Trời ơi,… cha! Tiếng kêu như  một kẻ chịu ơn mà không có gì để trả.
 Mặt ông Phan như dãn ra, môi  ông giật nhẹ. Chắc ông muốn nói gì đó nhưng không nói được. Bóng người  hành khất vẫn trùm lên ông. Người bạn đường đang cúi sát xuống: Con có  nghe được cha nói không?
 Trăng vẫn vô tư chảy những dòng sữa trắng, soi rõ từng khuôn mặt đẫm lệ…
dvtung
16-02-2016, 01:11 PM
Mã số: 16-045
12 GIỜ!
 Keng! Keng! Keng...! Chỉ chờ anh đồng hồ điểm đúng 12 giờ trưa là chị  chuông vội vàng cất lên những tiếng lanh lảnh: Koong kính koong! Kính  koong! Kính koong…! Thật nhịp nhàng làm sao! Dường như anh đồng hồ và  chị chuông đã thỏa hiệp với nhau cứ đúng giờ ngọ là họ “hẹn hò” với nhau  vậy. Rồi đến anh bình nước phép cũng không giấu nổi niềm vui làm chị  ghế gần bên cũng phải ganh tị.
 - Cậu có gì vui mà cứ đến giờ này lại cuống quýt lên vậy?- Chị ghế gằn giọng hỏi.
 Anh bình đáp:
 - Ôi! Chị không biết à, em đang sửa soạn chỉnh chu lại quần áo để đón các em thiếu nhi đến viếng Thánh Thể đó!
 Chị ghế tỏ vẻ buồn rầu đáp lại:
 - Thế à! Từ lâu lắm rồi tôi chẳng buồn chuẩn bị quần áo đẹp để đón bà  con giáo dân đến tham dự Thánh lễ nữa rồi! Nhớ lại ngày nào sao mà vui  đến vậy cơ chứ! Họ cứ nườm nượp đi thờ đi Lễ, dù mình cứ phải thường  xuyên quần áo chỉnh tề đón họ, tuy mệt nhưng vẫn thấy vui anh bình ạ!
 - Em cũng cùng cảnh như bác thôi mà! Chỉ mới đây các em thiếu nhi năng  đi khấn trưa thôi, chứ còn trước kia thì em cũng có buồn chăm chút sắc  đẹp gì đâu cơ chứ!- Anh bình trả lời chị ghế và tiếp: Chị thấy đấy, đời  sống đạo ngày nay xuống dốc nhanh đến chóng cả mặt, họ có cần đến nhà  thờ nữa đâu chứ, họ bỏ Chúa rồi chị ạ!
 Chị ghế thêm vào:
 - Họ  viện đủ cớ để bỏ Chúa, anh bình ạ! Ban ngày thì lo kiếm tiền nuôi con,  khi về đến nhà thì “lễ” ti-vi, nào là phim Tây phim ta thì còn đâu ra  thời giờ mà đến nhà thờ nữa!
 - Úi dào, đến con cái họ còn chẳng muốn  cho đến nhà thờ nhiều nữa là! Họ viện đủ lý do: Nào là ở nhà học bài  học vở để sau này kiếm cái nghề cái nghiệp mà sống, chứ cứ đến nhà thờ  thì lấy gì mà ăn?Và còn biết bao nhiêu lý do lý trấu nữa chứ! Ôi, thật  là...!- Anh bình tiếp lời.
 - Thật tội nghiệp bọn trẻ, chúng có muốn  sống đạo đức hơn cũng khó! Cứ thế này thì tương lai của trẻ sẽ thế nào  đây? Chắc nhà thờ nhà thánh rồi cũng chỉ dành cho mấy cụ già thôi…!- Chị  ghế thở dài và than phiền.
 Chị ghế nói tiếp:
 - Mùa Đông đã lạnh  mà bây giờ nhà thờ thường vắng tanh thế này thì còn lạnh hơn biết chừng  nào. Nhớ ngày nào nhà thờ cứ kín lấy là người, ôi sao mà ấm áp đến thế  cơ chứ! Mà tôi lại ngồi ngay cạnh cửa sổ trống huếch trống hoác thế này  thì sao mà chẳng co ro chứ!
 “12 giờ hồi chuông vang réo rắt, 12 giờ  hẹn em đi viếng Chúa, 12 giờ đạp xe mau lên nhé!...”. Đâu đó tiếng hát  lanh lảnh của trẻ đang tiến gần làm đứt quãng câu chuyện, chị ghế liền  hỏi:
 - Có chuyện gì thế anh bình?
 - Ôi, thôi chết! Mải nói  chuyện với chị mà quên chuẩn bị để đón các em thiếu nhi đến viếng Thánh  Thể. Các em đang trên đường tiến về nhà thờ đấy chị ạ!
 Anh bình lên tiếng trả lời và nói tiếp:
 - Chị biết không, vai trò của em quan trọng lắm đấy nhá! Mỗi lần các em  thiếu nhi đến viếng Chúa là em lại có cơ hội giúp các em tuyên xưng Đức  tin đấy nhá! Tuy nhỏ bé đứng khép nép bên cánh cửa, nhưng em mang nước  Thánh đấy chị ạ! Ai bước qua cửa cũng đều đến bên em đứng nghiêm trang  làm dấu Thánh giá: “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen”, rồi mới  vào hoặc ra khỏi nhà thờ đấy! Vậy là vai trò của em cũng quan trọng đấy  chứ, phải không chị?
 Chị ghế nói với giọng trả lời cho xong: “Ừ, tôi  biết vai trò của cậu là quan trọng rồi…!”. Và chị ghế thầm nghĩ: Ước gì  mình được là hàng ghế giữa nhỉ, nếu được vậy thì mình cũng sẽ được đón  các em, cũng vui sướng chẳng kém gì cái cậu bình loắt choắt này.
 “Chị đang nghĩ ngợi gì vậy?”- Anh bình liền hỏi.
 Chị ghế vội trả lời như vừa bị phát giác điều gì đó: “À không… Cậu chuẩn bị chỉnh tề chu đáo đi, các em thiếu nhi đến rồi đó!”.
 “Vậy thôi chị nhá! Lúc khác mình lại nói chuyện, em chuẩn bị đón các em vào nhà thờ viếng Chúa đây!”- Anh bình đáp lại.
 
Powered by vBulletin® Version 4.1.7 Copyright © 2025 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.