View Full Version : Giải "Viết văn đường trường" 2016 - Bản tin số 10
  
dvtung
11-06-2016, 08:51 AM
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2016
 BẢN TIN 10
  
 Thưa quý Tác giả và Bạn đọc,
  
 1. Cuối ngày 02-6 chúng tôi đã tổng kết bảng điểm chấm vòng sơ khảo của  4 vị giám khảo, và đã chọn ra 55 bài đạt điểm cao (trong số 98 bài đã  qua vòng sơ loại) để gởi đến các vị chấm vòng chung khảo. Một tín hiệu  đáng mừng là bài có số điểm thấp nhất trong 98 bài sơ khảo đạt số điểm  47/80 và bài liền trên đó là 48.75/80. Tất cả đều đạt điểm trên trung  bình khá cao, chứng tỏ bài dự thi năm nay khá đồng đều về phẩm chất và  bút lực.
  
 2. Xin được giói thiệu đến quí vị facebook của Giải Viết Văn Đường Trường
 https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/ (https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/)
 
 FB sẽ gửi đến quí vị và các bạn các thông tin của cuộc thi, rồi sẽ lần  lượt đăng giới thiệu từng truyện dự thi đã qua vòng sơ loại với cách  trình bày bắt mắt và dễ đọc hơn. Mong quí vị và các bạn giúp giới thiệu  và kết nối trang facebook này với các thân hữu, để những đóng góp văn  thơ Công giáo sớm đến với mọi người ở khắp nơi.
 Ngoài ra qua trang  facebook này, ban tổ chức quyết định có thêm bốn giải thưởng qua việc  bình chọn, nhằm mục đích tạo nên sự tương tác trực tiếp hữu ích giữa các  tác giả và độc giả. Xin mời xem chi tiết trong bản thể lệ dưới đây.
 Bạn đọc nào quan tâm, xin mời ghé thăm FB để tìm hiểu thêm.
 Chúng tôi xin giới thiệu đến mọi người 8 truyện dự thi tiếp theo đã  được chọn qua vòng sơ loại. Chúng tôi sẽ cập nhật thêm thông tin về cuộc  thi trên FB và trên các bản tin sau.
 Xin chân thành cám ơn các  trang truyền thông Công giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình  này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang  quan tâm theo dõi cuộc thi, đọc và bình chọn các truyện dự thi. Nguyện  xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.
  
 Qui Nhơn, ngày 04-06-2016
  
 TM Ban Tổ chức
 Lm Trăng Thập Tự
dvtung
11-06-2016, 08:51 AM
Mã số: 16-107
CỬA ĐỢI
 Tin chị Sen gia nhập một tổ chức chính trị  chẳng khác nào mồi lửa quét  qua làng Thượng vốn đã hừng hừng như một cánh đồng khô hanh. Ông Luân  vừa lên tỉnh dự lễ nhận bằng khen phong trào xây dựng nông thôn mới, kể  lại rành rọt rằng thấy chị tôi phát biểu hùng hồn lắm. Với cái vùng Công  giáo toàn tòng rộng chừng hơn một cây số vuông này thì chỉ cần bấy  nhiêu chất liệu ấy thôi cũng đủ tạo nên thứ gia vị không thể thiếu trong  các bữa ăn chiều.
 Người báo cho mẹ cái tin động trời ấy là cậu tôi.  Dựng vội chiếc Dream Tàu đã rách tươm một bên ướm, cậu cất giọng oang  oang từ ngoài sân vào tận buồng trong. Mẹ tôi nằm một chỗ đã hai tháng  nay gần như lập tức bật dậy khỏi giường, hai tay siết lấy cổ áo cậu rít  lên từng tiếng: “Không bao giờ có chuyện đó, hiểu chưa?”. Tôi chạy bổ  theo cái dáng xiêu xiêu ấy trong ánh mắt thất thần của cậu.
 Bên  ngoài, nắng vẫn còn gắt. Mẹ sáp vào một nhóm đang đứng bàn chuyện, điên  dại giật tóc người này, kéo áo người kia. Trong cơn bấn loạn, bà còn hất  tung mấy dãy ghế của một quán nước gần đấy.
 Tôi bắt kịp mẹ ở gần  cổng làng. Tay xăm xăm chiếc chổi tre, dường như mẹ đang dốc hết sức  bình sinh mà quét, mà quật. Tiếng chổi va vào nền đường xi măng nghe rờn  rợn. Mặt mẹ trắng bạch, đôi tay hằn rõ những đường gân yếu ớt. Duy đôi  mắt là long lên, chằng chịt những lằn mảnh, đỏ ngầu. Đám người lần lượt  tản ra, trước lúc rời đi không quên ném lại những cái nhìn khinh miệt.  Tôi lặng lẽ ôm mẹ từ phía sau, tiếng chổi dừng lại.
 - Sao mẹ đánh người?
 Mẹ lại rít lên:
 - Tao không đánh người. Tao chỉ đánh lũ rắn mang bộ mặt người!
 Mẹ về đến cổng khi trời đã nhá nhem tối. Cả thân hình tiều tuỵ đổ ập  xuống như cây chuối bị người ta dùng dao phạt ngang. Tôi dìu mẹ vào  buồng trong, mắt bà ướt đẫm. Đây là lần thứ hai mẹ chẳng còn là mẹ.
  Lần thứ nhất cách đây đã hơn chục năm. Bố bỏ mẹ và hai chị em tôi trong  một chuyến đi tìm trầm ở Huy Khiêm rồi từ đấy biền biệt không về. Ít năm  sau, vài người trong nhóm phu trầm rỉ rả rằng bố sống chung với một  người đàn bà trong đó, hai người đã có ba mặt con. Mẹ gục xuống khi hay  những dòng tin đầu tiên.
 Đận ấy, người làng Thượng xúm vào hả hê.  Đàn ông đàn bà xứ này chưa từng có thói quen buông tha cho một trường  hợp nào tương tự. Mẹ gượng dậy rất nhanh. Khuôn mặt ráo hoảnh, tay xăm  xăm chổi, cứ thế mẹ đi từ đầu đến cuối làng, trút cả nỗi muộn phiền  xuống mặt đường mà quét.
 Hết bố đi rồi đến Sen. Chị tôi đẹp nhất  làng Thượng. Học xong đại học, chị ở lại thành phố tìm việc. Sắc vóc và  học thức là thứ báu vật mà những người con gái độ tuổi chị ở quê tôi  không có được. Hai mươi ba tuổi chị cưới chồng là phó giám đốc một công  ty sản xuất vật tư nông nghiệp. Hai mươi tám, chị đã chễm chệ ở ghế kế  toán trưởng, có nhà mặt phố.
 Cứ chắc mẩm một khi nắm trong tay hai  thứ báu vật kia thì sẽ có được thiên hạ, chị tôi hồn nhiên trải đời mà  không hề biết nơi mắt bão thường lặng gió. Chồng chị bỏ trốn với cô phó  phòng kinh doanh xinh đẹp sau khi đã đánh cắp một khoản tiền lớn của  công ty. Căn nhà mặt phố kia anh cũng lén chị bán nốt. Tỉnh lập đoàn  thanh tra, chị bị kiểm điểm lên xuống mấy lần, sau nhờ cặp với một tay  quan chức đáng tuổi bố nên vụ việc cuối cùng mới được ém nhẹm. Tôi giấu  mẹ nhảy xe đò lên thăm, chị cười gằn: “Từ nay tao nhổ vào mặt bọn đàn  ông”.
 Phải rất lâu sau cái đợt xì xào chuyện vào đảng, chị mới về  làng. Đó là một đêm mùa xuân, trời còn phả những đợt sương lạnh. Tôi  choàng tỉnh giấc bởi một tiếng hát vọng lại từ phía sau nhà.
 Chỗ mỏm  Ước nhờ nhợ bóng hai người đàn bà tựa đầu vào nhau. Tiếng hát lúc nãy  nhỏ dần rồi im bặt. Mẹ hát ru chị, chị hát ru mẹ hay họ đang hát ru  nhau. Thế giới của các thiếu phụ chằng chịt những vết xước, vời vợi nỉ  non như bầu trời đêm làng Thượng, bảng lảng nhạt nhoà như những vạt sáng  của mảnh trăng khuyết tháng Ba. Đến sáng thì chị đi.
 Mỏm Ước là tên  chị em tôi đặt cho cồn cát nhỏ phía đằng sau nhà. Lúc Sen còn học  trường làng, tối nào chị em tôi cũng lén mẹ kéo nhau ra cái mỏm ấy. Phải  tầm chín giờ, có bữa muộn hơn, chiếc máy bay mới thủng thẳng ngang qua  chỗ làng tôi, thân nó chớp loè thứ ánh sáng mê hoặc. Một lần, Sen nhìn  theo cho đến khi vệt sáng cuối cùng khuất hẳn, xuýt xoa bảo sau này nhất  định tao sẽ cưỡi con chim đen kia lên tận thành phố. Bất giác, chị quay  sang:
 - Lúc con chim đen bay qua, mày ước gì đấy Thịnh?
 - Nó  bay tít trên trời thế kia, chắc gần chỗ Thiên Đàng thôi. Em ước được nó  chở lên xem chỗ đấy, chắc là đẹp và giàu lắm chứ không nghèo và tối như  làng Thượng mình đâu chị nhỉ?
 - Hứ, dĩ nhiên rồi, Thiên Đàng mà. Mày ngốc quá!
 Thiên Đàng là thứ mà lũ trẻ làng tôi mê tơi. Ông nội bảo chỉ cần mấy  đứa tôi sống tử tế thì sau này lên đó tha hồ mà sung sướng. Cha xứ thì  khác, lễ sáng Chúa nhật nào cũng nói, muốn được lên Thiên Đàng thì nhất  định phải có lòng thương giúp đỡ người khác. Có lần tôi hỏi mẹ:
 - Phải chết thì mới được lên trên đó hả mẹ? Thế thì chán chết!
 - Yên tâm, Thiên Đàng ở gần đây thôi, con sẽ thấy nó trước khi chết.
 Nghe mẹ nói thì biết thế, chứ chị Sen với tôi cứ đinh ninh Thiên Đàng phải ở rất xa cái làng Thượng này lắm.
 Làng tôi nghèo và tối như cái hủ nút. Mẹ tôi là giáo viên dạy Văn cấp  ba trường làng mà đến bữa dọn ra vẫn chỉ là cơm trộn sắn. Cả vùng chỉ  mỗi nhà thờ là có nhiều bóng điện, sáng trưng. Với lũ trẻ bọn tôi thì  nhà thờ lúc đó là Thiên Đàng chứ không phải như sau này nhà ai cũng bài  trí đủ loại bóng điện đắt tiền.
 Bây giờ dân làng Thượng ít đến nhà  thờ hơn. Hễ tối đến là trẻ con bị dí vào cái bàn học nhỏ xíu. Người lớn  thì quây quanh ấm nước chè đặc, buôn đủ thứ chuyện phiếm.
 Cả làng  nơm nớp sống nhờ ngoại tệ. Nhà nào cũng cho con học hết phổ thông rồi cố  chạy vạy thêm vài trăm triệu làm thủ tục giấy tờ, miễn sao đẩy chúng  sang được xứ người. Chẳng ai buồn bận tâm xem chúng làm gì, định cư bên  ấy có hợp pháp hay không. Chỉ cần có tiền gửi về, càng nhiều càng tốt.
 Ông Hữu xóm tôi có hai thằng con bán rượu lậu bên Qatar, đến tháng ở  nhà đều đặn nhận vài ngàn đô nhưng hễ cứ có điện thoại đổ chuông là lại  giật mình thon thót. Không giật mình mới lạ vì cứ dăm bữa nửa tháng là  cả làng Thượng lại rầm rầm kháo nhau con ông nọ bị cảnh sát bắt vì trồng  cần sa, con bà kia bị trục xuất vì đánh nhau hoặc ăn cắp vặt. Mới tháng  trước thôi, thằng Kiên con bà Phượng ở đầu làng bị một nhóm cướp bắn  chết vì không có tiền, phải trầy trật mãi mới đem được xác từ Angola về.
 Cơn lốc kim tiền quét qua, dấm dẳng để lại những khoảng trống toang  hoác. Làng Thượng như một đứa trẻ vụt lớn, vồn vã tìm cách trưởng thành,  hì hục xây nên những Thiên Đường cho riêng mình để rồi lại tiếc hùi hụi  khi nhớ về một Thiên Đường xưa cũ...
 Bệnh tình mẹ xấu đi nhiều. Tôi  nghỉ việc, mang bà đi khắp Hà Nội vẫn chỉ nhận được đúng một kết quả:  ung thư gan giai đoạn cuối. Trước cổng bệnh viện K, thằng con trai hai  mươi bốn tuổi sực khóc như một đứa trẻ. Mẹ bảo nhất định không để chị  biết.
 Sen về thăm khi mẹ lên cơn sốt cao, da chuyển vàng nhợt nhạt. Chị kéo tôi ra một góc, thở dài thườn thượt:
 - Mẹ nặng thế này sao không báo chị biết?
 - Mẹ không muốn chị lo lắng.
 - Tiền chị gửi về còn không?
 - Cậu đưa một ít, còn lại em vay thêm.
 Ngần ngừ một lúc, chị lại quay sang:
 - Nghe cậu bảo mày vào gặp cả cha xứ?
 - Tại lúc đấy em quẩn quá!
 - Có được đồng nào không? Ông ấy giảng mùi thế cơ mà!
 - Cha chúc đi bình an.
 - Bình an ấy à? Có mua nổi một viên thuốc không?
 Vài tháng sau, mẹ lên cơn đau vật vã rồi mất. Tôi gọi cho Sen mãi nhưng  không được. Liên hệ với chỗ làm mới biết chị đang tham gia đoàn đại  biểu của tỉnh đi công tác ở Hà Lan. Đám được mấy ngày thì chị về. Tay  xách vali, chị nói vừa từ sân bay về thẳng đây, mấy hôm trước nhận được  tin cơ quan báo sang nhưng không thể đặt được vé về. Chị thay đồ, choàng  tấm khăn trắng lên đầu, lặng lẽ đến ngồi ở nghĩa trang cho tới khi trời  tốt mịt.
 Buổi sáng chị ra mỏm Ước, vẽ hình mẹ lên cát rồi nằm  xuống. Cả tấm thân ôm lấy những nét vẽ nguệch ngoạc. Bàn tay chị mơn  trớn lên mái tóc, khuôn mặt rồi chực choàng người che lấy như sợ khối  hình kia sẽ phút chốc tan biến. Cát và nước nhoè đi trong mắt. Mỏm Ước  đón đợt nắng sớm, run rẩy cựa mình như sợ chỉ một chuyển động nhỏ thôi  cũng đủ làm chiếc sợi mỏng manh đang giăng mắc trong lòng của người đàn  bà ba mươi đứt ra thành trăm ngàn mảnh...
 Bữa cơm chiều lặng lẽ. Sen bỏ bát ra ngồi ở bậc thềm.
 - Chị phải làm gì bây giờ?
 - Một cuộc hành hương.
 Chị em tôi theo chân một nhóm thiện nguyện trong xứ đạo hành hương nhà  thờ chính toà. Con đường dài ngót bảy chục cây số hun hút những dải phi  lao trên triền cát trắng hoang hoải. Chị ngồi bên tôi, miên man dõi mắt  qua ô cửa nhỏ, chốc chốc lại trở mình. Những tiếng thở khẽ khàng...
  Ngôi nhà thờ ba mươi chín tuổi trầm mặc như một pho tượng cổ mà rêu  phong đã ít nhiều ăn mòn những chứng tích của một thời lửa đạn. Đoàn  người lần lượt bước qua cửa Năm Thánh, khuôn mặt ánh lên sự viên mãn,  tựa như thứ viên mãn của những lữ khách mới được gột rửa bụi bặm sau  những ngày dài rong ruổi trong sa mạc khô cháy. Giữa đám lữ khách kia,  tuồng như chỉ có chị và tôi là lầm lũi trong những hình hài chưa được  thanh tẩy. Bỗng Sen tụt lại ở cửa. Chị chậm rãi cởi quai giày rồi bó gối  ngồi thu lu một góc mặc cho ánh mắt dò xét của những kẻ hiếu kỳ. Đoàn  người sau một thoáng chững lại vẫn tiếp tục bước. Tôi sốt ruột:
 - Đã đến đây rồi sao lại không vào?
 - Một công chức đi xin ơn toàn xá, kẻ phản bội cầu mong được chúc lành, thế vẫn chưa đủ trơ trẽn à?
 - Công chức thì không cần được thương xót sao? Rốt cuộc thì kẻ phản bội nào mà chẳng cần một chốn để về.
 Bên trong nhà thờ đang rộn lên tiếng cầu kinh. Sen nhìn sâu vào mắt tôi:
 - Nhưng chị chẳng có lý do gì để quay về lúc này cả?
 - Có đấy! - Nói xong, tôi sục tay vào túi áo, rút ra một mảnh giấy đưa cho chị.
 “Sen,
 Mấy hôm nay mẹ thấy trong người khó ở nên nhờ em Thịnh viết cho con mấy dòng đặng khi không kịp.
 Toàn bộ số tiền con gửi về phẫu thuật, mẹ đã nhờ Thịnh chuyển cho cơ sở  nuôi dạy trẻ mồ côi của các nữ tu tại giáo xứ mình. Con đừng buồn. Mẹ  già rồi, bệnh tình lại nặng. Mẹ nghĩ tương lai của các cháu ở đấy cần  hơn.
 Có lẽ mẹ đi mà chẳng có gì để lại cho hai chị em con. Gia tài  của mẹ chỉ là một chữ Thương - thứ của nả mà mẹ đã chắt chiu gom góp từ  hồi còn con gái.
 Đẹp nhất của chữ Thương là Tha thứ. Nhưng với một người phụ nữ, tận cùng của chữ Thương là Đợi.
 Bố con đã bỏ đi khi mẹ cần một chỗ dựa nhất. Rồi đến khi mẹ chỉ sống bằng chút hi vọng nhỏ nhoi thì con lại ra đi.
 Mẹ tưởng đã chết đi. Nhưng mẹ đợi, kiên trì đợi, rằng một ngày nào đó những người thân yêu nhất của mẹ sẽ về.
 Ngày con chạy theo những hư vinh cuộc đời, mẹ biết con của mẹ đã lạc  lối. Mẹ buồn và suy sụp. Nhưng mẹ tôn trọng quyết định của con. Không  một lời oán thán. Phần con, nếu là một cán bộ thì con hãy là một cán bộ  tử tế. Những bát cơm trắng hấp khoai mới làm nên máu thịt của con bây  giờ. Con đã lớn khôn từ những hạt gạo trắng nhất, sạch nhất, tinh ròng  nhất của mẹ. Không có lý gì để con có thể làm vấy bẩn hình hài vô giá ấy  bằng những đồng tiền nhơ nhớp, những toan tính bon chen của thói đời.
 Nhưng từ sâu thẳm trong lòng, mẹ muốn con về, về với mái nhà Giáo Hội,  rủ bỏ những danh hiệu phù vân. Hãy coi đây là di nguyện của mẹ.
 Mẹ  sẽ còn đợi, mỏi mòn đợi cho đến những giây cuối cùng. Nhưng nếu một ngày  phải rời bỏ cuộc đời này, mẹ sẽ gửi gắm con lại cho Chúa. Người đã rong  ruổi tìm con. Và từ nay, Người sẽ lại thay mẹ đợi con, như đã từng đằng  đẵng đợi những đứa con lạc lối trở về.
 Hãy đi hành hương Năm Thánh. Nơi cánh cửa Lòng Thương Xót, Chúa và mẹ đợi con...”
 Chị oà khóc. Đôi vai rung lên bần bật. Đoàn hành hương đã rời khỏi nhà  thờ. Đang lúc tưởng chừng như chị em tôi bị bỏ lại thì một nhóm người  tiến đến. Nom cách ăn vận, tôi đoán họ không phải người vùng này. Họ  dừng lại chỗ chị em tôi hồi lâu trong khi Sen vẫn ôm mặt.
 Một tiếng  hát cất lên. Rồi hai, ba và sau cùng là cả nhóm người đều hát. Giai điệu  bài Lời kinh chiều có phần lỡ nhịp. Cả một khoảng không như vỡ oà. Chị  tôi quỳ gối, nước mắt giàn giụa:
 - Mẹ ơi... con bước qua... cánh cửa  này làm sao được... với nỗi ám ảnh... phản bội?... Con trở về... thế  nào đây... khi... lòng con... chưa sẵn sàng... tha thứ?
 Người phụ nữ trong nhóm có khuôn mặt phúc hậu lặng lẽ đến ngồi, bàn tay khô ráp của bà đặt lên vai chị:
 - Này em, nghe tôi! Vì đã từng có dịp tham dự nhiều cuộc hành hương nên  tôi không lạ gì với những trường hợp như em. Thường thì người ta cho  rằng hành hương là trở về thượng nguồn, về nơi cao nhất để hứng lấy ân  sủng. Cảm giác đó khiến người ta hoặc là sợ hãi, hoặc là tự mãn. Tôi lại  nghĩ khác. Hành hương thực ra là về với biển, hoà mình vào muôn ngàn  con nước. Như thế là đi về chỗ trũng của tội lỗi, chỗ thấp của khiêm hạ  để được gột rửa, để hi vọng được mưa về nguồn. Chúng ta có là ai thì đều  phải bước qua cánh cửa này mới có sức mà mở ra những cánh cửa khác  được. Em hiểu ý tôi chứ?
 Không có câu trả lời. Chị cúi gằm mặt.  Người phụ nữ vẫn nhẫn nại vỗ bàn tay lên vai chị. Không khí trở nên cô  đặc. Bỗng Sen ngừng khóc, lấy vạt áo lau vội dòng nước chực trào ra, gật  đầu. Người phụ nữ mỉm cười, dìu chị đứng và sau một thoáng bất động, họ  bắt đầu bước. Chị dựa mình vào người phụ nữ, bàn chân trần run rẩy đặt  lên những viên gạch màu ghi.
 Giai điệu bài hát Lời kinh chiều lại  vang lên. Tôi đứng tựa cửa, nhìn hai con người bé nhỏ đang chầm chậm  bước giữa lòng nhà thờ, những giọt nước ứa ra từ mắt, không sao ngăn  được.
dvtung
11-06-2016, 08:51 AM
Mã số: 16-108
   
 CHIỀU XUỐNG ÊM ĐỀM
  Từ bữa qua dạm ngõ bên nhà bạn gái thằng Sang tới nay, không khí gia  đình ông Năm trở nên nặng nề, u ám. Ông vẫn chưa thôi cơn sốc mà thằng  con trai duy nhất mang đến. Sốc, rồi ông buồn giận, lo lắng. Không sốc,  không buồn giận sao được, khi ông đã vun vén hết sức cho hai đứa. Nhưng  ông có hay biết gì đâu, bọn nó âm thầm giấu ông, bưng bít chuyện nhà bên  ấy có đạo, tận đến phút cuối cùng trước lúc tính chuyện cưới hỏi cho  chúng nó. 
 Vừa bước chân vào nhà gái, chưa kịp chào hỏi, đập vào mắt  ông bàn thờ Chúa trên cao giữa gian phòng khách. Ông sửng sốt, quay  phắt nhìn Sang. Như đoán được suy nghĩ của ba, Sang sợ sệt cúi gằm mặt.  Cả hai cha con đứng yên, không để ý gì đến sự tiếp đón niềm nở của nhà  Hạnh, để bà Năm tự xoay xở. Mãi lúc sau, ông mới lúng túng gật đầu đáp  lễ, nhưng nỗi tức tối đã dâng đầy, ứ nghẹn trong lồng ngực. Đến nỗi, ông  không nói được lời nào sau đó.
 Chỉ đến khi bà Hạnh từ tốn xin phép  vợ chồng ông cho Sang bắt đầu học giáo lý vào đạo, ông mới hít thở một  hơi dài lấy chút bình tâm:
 - Thú thật trước khi qua đây, vợ chồng  tôi không biết bên nhà mình đạo Công giáo. Chúng tôi không có ý xấu gì  cả, chỉ vì cả dòng họ có mỗi thằng Sang là con trai, sau này phải lo  việc thờ cúng ông bà…
 Nhấp một ngụm trà lấy giọng, ông ngập ngừng:
 - Nên chuyện này… xin phép anh chị cho vợ chồng tôi suy nghĩ thêm một thời gian…
 Bà Hạnh mỉm cười:
 - Vâng, làm sao để cả hai nhà vui vẻ là được. Anh chị cứ thong thả.
 Im lặng một chút, bà Hạnh tiếp lời:
 - Chỉ xin phép giải thích thêm cho anh chị. Người Công giáo chúng tôi  cũng rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, có thể hình thức khác, nhưng  chắc chắn không thua kém đạo nào.
 Ông Năm nghe vậy, ngờ ngợ nhìn về  phía bàn thờ gia tiên của nhà Hạnh, trên nóc tủ gỗ thấp dưới bàn thờ  Chúa, đơn sơ nhưng trang nghiêm, kính cẩn. Những hình người đã khuất  cười hiền hậu, bát nhang sạch sẽ gọn gàng, bình hoa lay-ơn trắng muốt,  và mâm trái cây cũng vừa được sửa soạn. Tất cả như đang bày biện trong  ông một mối thiện cảm, yên lòng. Nhưng rồi chỉ có vậy. Ông chợt nghĩ về  những bữa cơm cúng tiên thường, giỗ chạp. Ông băn khoăn về tiếng kinh  tiếng mõ cầu siêu, hóa vàng giấy tiền giấy bạc. Nỗi ưu tư buồn giận lại  ùa về, ứ nghẹn.
 Mãi một lúc, ông mới cất tiếng:
 - Vâng, tôi hiểu…
 Bà Hạnh chạm nhẹ vào mâm trầu cau trước mặt:
 - Trong thời gian chờ đợi anh chị suy nghĩ, cho phép gia đình tôi chưa dâng món lễ vật dạm ngõ này lên bàn thờ tổ tiên.
 Ông Năm buồn rầu nhìn mọi người, như thấu hiểu và đành chấp nhận tình  cảnh khó xử cho cả hai nhà. Chỉ có Sang chết lặng, không ngước nổi lên  để thấy tất cả đã đổ vỡ trong chốc lát. Phía sau tấm rèm cửa ngăn với  gian phòng khách, Hạnh cũng bụm miệng nén cơn bật khóc trực trào.
 
***
  Sang và Hạnh yêu nhau đã mấy năm nay, trong sự thương mến tán thành của  hai bên gia đình. Công việc ổn định, tuổi đời chín chắn, ngoan ngoãn  hiền lành, quá đầy đủ để chuyện kết hôn tưởng không còn gì trở ngại.  Nhưng tôn giáo khác biệt, khiến nỗi lo âu của hai người từ ngày đầu quen  nhau luôn thường trực. Sang chia sẻ, ba anh vất vả cả đời dạy học, dành  dụm xây được ngôi nhà thờ họ, sửa sang mồ mả ông bà trong khu đất vườn  nhà, cho tổ tiên vui lòng. Lo toan đau đáu đến thế, làm sao ba anh có  thể cho phép anh, đứa con trai duy nhất của cả dòng họ, từ bỏ một niềm  tin đã bao đời ăn sâu ngõ ngách trong từng lời ăn tiếng nói, từng nét  sinh hoạt hằng ngày, như đạo lý không thể đổi dời. Từ bỏ niềm tin của cả  gia đình, dòng tộc, để khoác lấy một đức tin mới, mà với ba anh, hết  sức xa lạ và khác biệt đến mức không thể dung hoà.
 Nhưng Sang yêu  thương Hạnh, không còn gì có ý nghĩa hơn. Lần đầu tiên nhìn thấy Hạnh,  với Sang như một chấn động sâu thẳm của tâm hồn. Buổi sáng ấy, trên  đường đi công tác, anh dừng chân uống ly café điểm tâm đầu ngày trong  một quán cóc ven quốc lộ, đối diện ngôi nhà thờ nhỏ. Và khi tia nắng ban  mai bắt đầu trải vàng trên những ngọn cây lá xanh non, tràn xuống mặt  đường nhựa còn chút lãng đãng mù sương sớm, bóng Hạnh hiện ra từ bên  kia, áo dài thướt tha từng bước khoan thai đến trường dạy học. Sang lơ  đễnh nhìn theo, như nhìn một cô gái nào đó bất chợt ngang qua phố xá  ngược xuôi, rồi biến mất, không chút sủi tăm. Bỗng nhiên, Hạnh dừng  chân, quay mặt ngước nhìn ngọn thánh giá trên nóc cao nhà thờ, khoanh  tay, cung kính cúi đầu chào như hướng về, như phó thác, trọn vẹn. Hình  ảnh vừa khiêm cung vừa thánh thiện đó bỗng khơi gợi, bừng sáng trong  Sang một niềm tinh khiết, an lành, thanh thản. Hình ảnh đó đã theo suốt  Sang trong chuyến công tác, tận những ngày sau khi đã về thành phố, thôi  thúc anh quay trở lại ngôi thánh đường, hỏi thăm, gặp gỡ, làm quen và  ngỏ lời yêu với Hạnh. 
 Cảm giác an lành tinh khiết đó trong Sang  càng rõ ràng, nảy nở hơn vào những dịp cùng Hạnh đi dự thánh lễ. Dù chưa  hiểu hết mọi nghi thức, nhưng qua những điều răn ngắn gọn mà đầy đủ,  qua các dụ ngôn giản dị mà sâu sắc, qua lời giảng giải chia sẻ chân tình  của cha xứ, Sang cảm thấy như đang được cởi mở tâm hồn vốn bị giam kín  bấy lâu nay. Rồi như một thói quen, những khi mệt mỏi nặng nề trong công  việc, trong đời sống, Sang lại theo Hạnh bước vào cùng nhan thánh Chúa,  thinh lặng, mở lòng và nghe một nỗi bình an thanh thản tràn về.
 Ông  bà Năm xem Hạnh như cô con gái trong nhà, không chút e dè khoảng cách.  Những dịp Hạnh về thăm, tuổi xế chiều của ông bà được sưởi ấm bởi sự  chăm sóc chân thành của Hạnh từ chuyện nhỏ nhặt, đến ân cần quan tâm  đúng mực đối với những việc lớn lao hệ trọng của gia đình. Ông cảm thấy  yên lòng về đời sống tương lai của Sang, và hơn hết là trách nhiệm hương  khói cho ngôi nhà thờ họ sau này. Có lần, ông Năm bộc bạch suy nghĩ đó  với Sang và Hạnh, giọng nói và nụ cười mãn nguyện vô cùng.
 Lúc ấy,  hai đứa đã nơm nớp lo âu. Hạnh không muốn tình trạng này kéo dài mãi,  nên vẫn bàn bạc thưa mọi chuyện cho ba má biết, có gì tính tiếp. Nhưng  Sang hiểu ba mình, hiểu định kiến và tập tục gia đình bao đời nay, làm  sao ông có thể chấp nhận cho con trai theo đạo Công giáo, và lập bàn thờ  Chúa trong nhà. Chắc chắn khi đó chuyện dạm ngõ cưới xin của Sang và  Hạnh sẽ không thể có được. 
 Nên suy đi nghĩ lại mãi, Hạnh cũng đành  liều nghe lời Sang. Hạnh chỉ còn biết cầu nguyện và cầu nguyện, phó thác  mọi sự cho Mẹ Maria.
 
***
  Nặng nề căng thẳng đến hết mấy ngày sau, ông Năm mới hỏi chuyện con trai:
 - Sao chuyện tày trời này mày lại gạt tao?
 Sang cúi đầu ấp úng:
 - Dạ con đâu dám…
 - Không dám mà mày giấu tao suốt cả năm nay, đưa tao vào chuyện đã rồi. Chuyện người lớn mà mày không nghĩ tao ê mặt sao?
 - Con xin lỗi ba… Con không cho ba hay trước, sợ ba không ưng con cưới Hạnh…
 - Vậy giờ tao hay rồi tao ưng nó cho mày chắc?
 - Con định khi ba qua thăm nhà Hạnh, thấy bên đó cũng ăn ở thờ cúng ông bà đàng hoàng, ba sẽ coi lại…
 Ông Năm trầm ngâm, nghĩ Sang cũng vì bất đắc dĩ mà làm vậy, chuyện lại chưa đến nỗi nào.
 - Tao đồng ý con Hạnh là đứa ngoan ngoãn, thời buổi giờ không dễ gặp  đứa con gái như nó. Nhưng cả họ có mình mày, chuyện cúng kiếng sau này  mày tính sao?
 Sang nghe ba hỏi như mở đường, liền hớn hở:
 - Dạ bên đó có khác gì mình đâu ba. Họ cũng trọng chuyện lo cho ông bà lắm ba…
 - Sao lại không khác? Họ có cúng cơm không? Có gõ mõ tụng kinh cầu siêu  cho tổ tiên không? Thờ phụng kiểu gì mà lạnh tanh vậy sao ông bà nào  chứng?
 - Dạ…
 Ông Năm quay sang bà Năm:
 - Ý bà tính sao?
  Bữa bể chuyện bà Năm hốt hoảng vô cùng, vậy là thôi rồi, chết rồi, làm  sao chúng nó cưới nhau được. Nhưng khi bình tĩnh lại, thương con trai,  thương con dâu tương lai hiền lành nết na, bà cũng ráng nghĩ cho ra cách  nào tốt nhất. Giờ nghe chồng hỏi, bà nói ngay:
 - Tui thấy hai đứa  nó quen nhau nghiêm túc đàng hoàng. Nhà bên đó ngoài chuyện đạo nghĩa  khác mình, còn lại cũng không có gì chê trách. Tui tính vầy, cho tụi nó  cưới nhau, nhưng đạo ai nấy giữ.
 Ông Năm không trả lời vợ ngay, im  lặng suy nghĩ. Nhưng Sang nghe má nói mà rầu thúi ruột. Ý đó Sang đã  từng hỏi Hạnh nhiều lần, lần nào Hạnh cũng buồn bã lắc đầu. Đã là vợ  chồng với nhau, sao lại có thể có đức tin và niềm trông cậy khác nhau  được. Chưa kể chuyện này không dễ gì ba má Hạnh chấp nhận.
 - Má mày có ý vậy, mày nghĩ sao Sang?
 Sang lấy hết can đảm thưa:
 - Dạ… Con thấy vợ chồng mà đạo ai nấy giữ không nên, ba à. Với lại nhà  mình cũng đâu có theo đạo nào, chỉ thờ cúng hương khói cho ông bà thôi.  Mà việc đó luôn là trách nhiệm và tình cảm của con, nên ba yên tâm…
 Ông Năm cau mặt, nỗi tức tối lại ùa về, khiến ông lớn tiếng:
 - Mày nói sao? Mày muốn theo đạo à?
 - Dạ…
 - Mày từ bỏ ông bà? Bỏ cha bỏ mẹ à?
 Sang hoảng hốt:
 - Không phải vậy đâu ba. Đạo Chúa đâu có dạy làm chuyện tầm bậy vậy ba.  Con theo đạo, vì con muốn có một niềm tin, một chỗ dựa, chứ không chỉ  để cưới vợ. Theo đạo, con càng kính nhớ ông bà nhiều hơn, càng hiếu thảo  hơn, chứ không đời nào tệ hơn đâu ba…
 Ông Năm ngắt lời, đứng phắt dậy, quát:
 - Mày biết cái gì mà nói. Tao cho thời gian để mày suy nghĩ. Mày đồng ý  đạo ai nấy giữ thì tao qua nhà bên đó nói chuyện với người ta. Còn  không thì dẹp, mày muốn làm gì thì làm.
 
***
  Mấy ngày sau, cơn  nóng giận tức tối cũng nguôi ngoai phần nào, ông Năm cảm thấy hình như  đã áp đặt con quá mà chưa nghe cho hết ngọn ngành. Là nhà giáo, ông dạy  con nghiêm khắc nhưng cũng luôn tôn trọng suy nghĩ của con. Từ khi khôn  lớn, Sang cũng chưa làm ông bà phiền lòng điều gì. Nghĩ vậy, ông đâm ra  áy náy.
 Nhưng dứt khoát ông không thể chiều ý Sang được. Từ nhỏ,  nghe ông nội và cha mình kể chuyện, ông Năm đã ghim chặt trong đầu một  suy nghĩ, người Công giáo không được thờ cúng ông bà. Không lập bàn thờ.  Thắp nhang vái lạy tổ tiên cũng không. Ông không cho họ xấu, nhưng luôn  ác cảm. Ở đời, đạo hiếu chẳng có thì còn theo đạo nào được nữa.
 Sực  nhớ bữa qua nhà Hạnh, ông thấy bàn thờ gia tiên trang nghiêm, nề nếp,  chẳng khác gì ở nhà mình. Ông ngạc nhiên, chẳng lẽ từ xưa tới giờ ông đã  hiểu sai.
 “Người Công giáo chúng tôi cũng rất coi trọng việc thờ  cúng tổ tiên, có thể hình thức khác, nhưng chắc chắn không thua kém đạo  nào”. Lời giải thích của ba Hạnh hôm dạm ngõ giờ mới khiến ông lưu tâm.  Ông thấy tiếc vì lúc đó do quá sốc, nên đã không bình tĩnh hỏi rõ bên ấy  thờ cúng ông bà ra sao, những lời đồn đại xưa nay về đạo Chúa có như  ông từng nghe.
 Hay tối nay ông hỏi thằng Sang xem sao? Ông nhủ thầm.
 Nhưng không được, thằng Sang sẽ hiểu ông đang nhường nó, nó sẽ không nghe theo ông nữa.
 Ông đứng dậy, bước ra vườn, tới phần mộ của cha ông. Ông muốn làm gì đó để cố gạt hết những cắn rứt khó chịu trong lòng.
 Vừa cặm cụi nhổ mấy cọng cỏ đang lún phún mọc qua kẽ nứt ven chân mộ,  ông vừa lẩm bẩm, kiểu gì thì kiểu, thằng Sang cũng không được theo đạo!
 
***
  Gần tới ngày giỗ cha, ông Năm ốm nặng, phải vào bệnh viện.
 Suốt một tuần lễ, Sang và Hạnh chạy đôn chạy đáo, vừa lo công việc cơ quan, coi ngó nhà cửa, vừa chăm sóc ông.
 Bà Năm chặc lưỡi:
 - Con Hạnh lo cho ông mà thấy thương. Cơm bưng nước rót. Thức đêm thức hôm. Tất bật suốt.
 Ông Năm thở dài:
 - Chỉ khổ cái vụ đạo nghĩa…
 - Hay đợt này ông khoẻ rồi mình coi kỹ lại xem, biết đâu không như xưa nay mình nghĩ.
 Ông lặng im, nửa như đồng tình, nửa còn ngần ngại, rồi lảng qua chuyện khác:
 - Mấy hôm nữa giỗ ba rồi. Mai tui xin về. Nằm đây sốt ruột quá.
 Bà Năm cau mày:
 - Con nó nói ông cứ yên tâm dưỡng bệnh đi, chuyện ông bà để tụi nó lo.
 Nhưng sao ông yên tâm được. Chiều hôm sau ông về, chẳng ai cản nổi.
 Vừa bước vào nhà, ông thấy ngay bàn thờ gia tiên đã được bài trí đầy  đủ. Mâm trái cây tươi tắn, bình hoa trắng ngát thơm. Ông nhìn Hạnh đang  lui cui thu xếp đồ đạc với ánh mắt ngạc nhiên xen lẫn hài lòng.
 Nghỉ  ngơi một lát, ông ra vườn thăm mộ. Mấy hàng mộ chí ông bà đã được dọn  dẹp sạch sẽ, tinh tươm. Ông giật mình thấy trên mỗi ngôi mộ đều có hai  ngọn nến ly đang cháy lung linh trong bầu trời chiều. Ngày mốt mới tới  giỗ ông nội thằng Sang, sao hôm nay trang hoàng thế này. Mà không chỉ  riêng mộ ba ông, tất cả các ngôi mộ đều vậy.
 Ông quay lại nhìn hai đứa, như hỏi lý do. Hạnh khẽ giải thích:
    - Dạ… ngày giỗ ông trùng với tháng linh hồn, nên tụi con dọn dẹp để kính nhớ tổ tiên luôn…
    Ông Năm nhíu mày:
    - Tháng linh hồn? Là sao?
    - Dạ… Bên đạo con, tháng mười một là tháng linh hồn, cầu nguyện cho tổ tiên ông bà đã mất…
 Sang tiếp lời:
 - Hôm nay bên Hạnh đi lễ đọc kinh ngoài nghĩa trang đó ba. Tụi con thấy  ông bà mình nằm đây lạnh lẽo, nên tụi con thắp nến cho ông bà vui.
 Ông Năm thắc mắc hơn:
 - Vậy còn ngày giỗ chạp cuối năm thì sao?
 - Dạ, bên con cũng như mọi người Việt mình thôi bác. Con cháu về thăm  viếng tảo mộ ông bà, cùng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà được hưởng phúc  trên nước Trời.
 - Thế còn mấy ngày Tết?
 - Mấy ngày Tết bày biện  bàn thờ kính nhớ ông bà. Đặc biệt mùng hai dành để cầu nguyện cho tổ  tiên, cả giáo xứ ra nghĩa trang làm lễ đó bác.
 Ông Năm hiểu ra. Bao  lời đồn đại xưa nay khiến ông hiểu sai. Giờ ông mới thông suốt sáng tỏ  mọi chuyện, như vừa được mở tấm khăn đen bịt mắt suốt hàng chục năm nay,  như thoát khỏi màn sương mù mụ mị trong suy nghĩ. Từ sau buổi dạm ngõ  đổ vỡ bên nhà Hạnh, nay ông mới tìm lại được cảm giác yên lòng về tương  lai của hai con, và hơn hết là trách nhiệm hương khói tổ tiên, cho ngôi  nhà thờ họ sau này. Yên lòng thực sự.
 Ông thinh lặng ngắm nhìn những  hàng nến thắp lung linh đang dìu dặt toả ánh sáng vàng ấm áp một lúc  lâu nữa, mỉm cười mãn nguyện, rồi nhẹ chân bước vào nhà.
 Sau lưng ông, bóng chiều đang dần xuống, êm đềm…
dvtung
11-06-2016, 08:51 AM
Mã số: 16-109
LINH MỤC VÀ TÊN CƯỚP
  
 Hắn tên Tý,  biệt danh Tý lỳ, tên cướp khét tiếng từng gây biết bao tội  ác kinh hoàng cho người dân xóm đạo đã bỏ xứ ra đi một thời gian nay  bỗng  xuất hiện trở lại. Tin này làm bà con giáo dân xứ Martino không  khỏi hoang mang sợ hãi.
 Tý lỳ đứng trước ngôi Nhà thờ cổ Thánh  Martino lúc 1 giờ trưa, trời nắng gắt, dưới gốc cây sấu già tỏa bóng râm  che phủ thân hình hắn cao to vạm vỡ như khỉ Kinh Kông, hai tay khuỳnh  ra trông  hung tợn! Hắn đứng đó, bầu không khí quanh Nhà thờ đang trong  veo  bỗng trở nên đặc quánh, một nỗi sợ hãi bao trùm . Hắn đứng suốt một  giờ đồng hồ không nhúc nhích, mắt nhìn trừng trừng lên lên cây Thập  Giá  trên nóc cao Nhà thờ với gương mặt nặng sầu u uất.   
 Vị linh  mục lững thững bước ra khỏi khuôn viên nhà xứ, ông đứng nhìn bâng quơ  lên bầu trời xanh xám nhạt nắng, mặt trời bị che khuất bởi nhiều cụm mây  đen vần vũ đi qua. Một lát, ánh sáng bỗng quang đãng trở lại. Linh mục  vừa trông thấy Tý lỳ đứng lù lù trước cổng  , nhưng ông vẫn bình thản   điềm nhiên bước tới. “Hắn đến rồi” … Linh mục lẩm bẩm.
 Tý lỳ, con bà  Sáu Xẩm trong xóm đạo Martino hiền hòa nhỏ bé, xưa nay chỉ mình hắn  giao du với bọn giang hồ, lừng danh một dạo với những vụ cướp bóc tàn  bạo, những vụ hãm hiếp dã man, từng vào tù ra khám không biết bao nhiêu  lần. Chỉ mới đây thôi, bà con giáo dân tưởng hắn đã  lãnh án từ hình sau  một vụ giết người cướp của man rợ…Vậy mà không hiểu sao giờ hắn lại  xuất hiện ở đây! “ Hay hắn vượt ngục!”, linh mục thắc mắc. “ Phải rồi,  hắn nổi tiếng có tài vượt ngục đến công an còn phải ngán hắn nữa là …!”.  Vị linh mục bất giác thở dài ngao ngán.
 Bây giờ, tên giang hồ máu  lạnh đang đứng nhìn vị Linh mục với cặp mắt sắc lạnh, như thể hắn muốn  ăn tươi nuốt sống ông cha đạo trông yếu đuối hiền lành như con cừu non  đứng trước nanh vuốt con hùm xám. Tên cướp có thể lấy mạng linh mục dễ  như lấy đồ trong túi . Song, dường như ông linh mục chẳng chút sợ hãi.  Ông mạnh dạn tiến đến đứng đối mặt với hắn .
 - Anh hẹn tôi ra đây có chuyện gì không?
 Tý lỳ gầm gừ:
 - Lẽ ra tôi đã giết ông ngay từ lúc tôi vừa trông thấy ông! Tại sao ông dám bán đứng tôi cho công an?
 Linh mục tỏ ra bình tĩnh:
 - Tôi không bán đứng anh cho ai hết. Tôi đến gặp anh theo yêu cầu của   mẹ anh, bà Sáu Xẩm, người đã khóc hết nước mắt vì anh, bà muốn anh quay  về với gia đình, và tôi  chỉ muốn khuyên anh hãy ăn năn sám hối …
 Tý lỳ gằn giọng:
 - Hừ …lại ăn năn sám hối! Ông bảo tôi sám hối là sám hối  cái gì hả ông  cha đạo? Ông không nhớ gí sao? Hôm đó, ông vừa đến gặp tôi thì công an  ập vào bắt tôi ngay …Rõ ràng ông bán đứng tôi còn gì! Lại còn già mồm   bảo tôi sám hối là sám hối cái gì! Tôi và bà Sáu chẳng còn tình nghĩa mẹ  con gì nữa ! Bây giờ, tôi phải lấy mạng ông …
 Nói dứt lời hắn lập  tức móc ra con dao sáng quắc, ánh sáng ngời lưỡi dao phản chiếu ánh sáng  mặt trời lấp lánh làm chóa mắt ông linh mục, nhưng ông vẫn bình thản  nhìn hắn. Không chút chần chừ Tý lỳ lao vào vị linh mục như con hổ đói   khiến ông không khỏi giật mình, ông chỉ kịp nhìn thấy ánh dao lóe lên  như tia chớp, bằng phản xạ tự nhiên ông nghiêng mình qua bên trái tránh  né … Cùng lúc ấy, có tiếng người lao xao phía trước, tất cả như làm Tý  lỳ phân tâm khựng lại, lưỡi dao của hắn đi chệch hướng đâm sượt qua vai  vị linh mục làm ông té khụy.
 - Thằng Tý lỳ giết cha bà con ơi! Bắt lấy nó!
 Đám đông từ đâu bất ngờ xuất hiện đông đảo, trong tay họ gậy gộc, cuốc  xẻng, dao mác... Tý lỳ hốt hoảng nhanh như sóc lao mình qua bờ rào thoát  thân . Một số người cầm gậy gộc đuổi theo,nhưng Tý lỳ đả cao bay xa  chạy. Mọi người xúm đến đỡ vị linh mục. Ông khoát tay:
 - Tôi …tôi không sao! Hắn…hắn đâu rồi?
 - Hắn bỏ chạy rồi, thưa cha!
 Linh mục cố rướn người nhìn qua sau bờ rào, nơi tên cướp vừa trốn thoát  như nuồi tiếc điều gì đó. Ông nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Mọi người  đỡ ông đứng dậy. May cho ông chỉ bị vết thương nhỏ nơi cánh tay trái .  Mấy người  vội xúm vào cầm máu băng bó vết thương cho ông. Sau đó, cha  quay sang nói với mọi người: 
 - Chỉ là hiểu lầm giữa tôi và Tý lỳ,  mong bà con đừng nghĩ gì . Cám ông các ông các bà đến kịp lúc. Thôi các  ông các bà mau về đi, đừng gây ồn ào làm gì. Tôi cám ơn Chúa vì mình  không sao.
 - Thằng Tý lỳ rất manh động, xin  cha cẩn thận!
 - Được, tôi sẽ cẩn thận hơn. Cám ơn các ông!Thôi chúng ta giải tán nhé!
 - Xin cha bảo trọng, chúng con về!
 Mọi người ai nấy chào cha rồi kéo nhau ra về. Linh mục bước ra đóng  cổng lại. Ông chậm rãi bước vào gian nhà nguyện quỳ gối gục đầu chắp tay  ngước mắt cầu nguyện trước tượng Lòng Thương Xót Chúa.
 Ba tháng  sau, mọi việc nhanh chóng rơi vào quên lãng. Linh mục như thường lệ  chuẩn bị cho buồi Thánh lễ vào lúc 5 giờ chiều. Mới hơn ba giờ  trời  bỗng đổ mưa như trút. Linh mục đang loay hoay trong phòng lễ thì thấy  ông trùm xứ đội áo mưa vào tìm cha vẻ gấp gáp, gương mặt ông trùm tái  xanh tái xám: 
 - Thưa cha …xin cha đề phòng, Thằng Tý lỳ lại xuất  hiện , nó đang lẩn quẩn quanh giáo xứ đấy cha ạ! Chúng con đã bố trí  người bảo vệ cha. Xin cha cẩn thận! Có thể hắn lại đến tìm giết cha một  lần nữa!
 - Tôi cũng đang muốn gặp hắn đây!
 Linh mục đột nhiên nói khiến ông trùm há hốc mồm nhìn cha.
 - Cha …cha vừa nói gì? Cha không nhớ  lần trước hắn suýt nữa giết cha đó sao?
 - Tôi nhớ ! Nhưng tôi tin hắn không dám hại tôi một lần nữa.
 - Nhưng …chúng con rất lo cho tính mạng cha.
 - Mấy ông cứ yên tâm, Chúa luôn ở bên tôi, quỷ dữ không làm hại được tôi đâu.
 - Nhưng…chúng con chi lo lắng cho cha.
 - Ừ, cám ơn các ông. Nếu gặp lại Tý lỳ tôi biết tôi phải làm gì để khuất phục hắn.
 Linh mục nói một cách dứt khoát , thế nên ông trùm không biết làm sao  đành phải ra về. Đúng như sự lo lắng của ông trùm. Mấy ngày sau Tý lỳ âm  thầm đột nhập vào nhà xứ, lúc linh mục đang đi dạo quanh khuôn viên  Thánh đường. Vừa thấy Tý lỳ, linh mục điềm nhiên nhìn hắn:
 - Hôm qua mẹ anh lại đến Nhà thờ cầu nguyện cho anh suốt buổi sáng.
 - Mặc kệ bà ấy, tôi không quan tâm! Tôi đến đây là muốn ông giúp chúng tôi một việc!
 Nghe hắn nói linh mục thoáng mừng.
 - Việc gì vậy?
 - Chúng tôi cần một nơi trú ẩn an toàn. Công an đang  truy nã chúng  tôi. Tôi nghe nói cha luôn giúp đỡ mọi người.  Nhà thờ chính là nơi an  toàn nhất vì công an chẳng dám đụng đến Nhà thờ… Nếu ông từ chối, lần  này tôi nhất định không tha mạng cho ông nữa!
 - Đây là nhà Chúa, không phải hang trộm cướp!
 - Ông không biết là tôi có thể giết ông ngay bây giờ sao? Nhưng thôi  được rồi, không có chỗ trú ẩn thì cha nên biết điều mau đưa tiền cho bọn  tôi …Nhanh lên !
 - Tiền gì? Nhà thờ không có tiền đâu, đừng nói nhiều vô ích!
 Tên cướp như bị choáng bởi sự cứng cỏi của linh mục, hắn như muốn nổi  điên lên, song hắn biết, hắn không thê giận dữ, bởi hắn đang muốn nhờ vả  linh mục, hắn nghĩ, không thể giết chết ông linh mục vào lúc này được.  Nhưng hắn chợt hiểu, ông cha đạo này không phải vừa, ông ta không dễ bắt  nạt , rõ ràng ông chẳng hề sợ hắn một chút nào. Hắn đang lâm vào đường  cùng. Băng cướp của hắn đang thất thế lâm nguy, có thể bị công an tóm cổ  bất cứ lúc nào, giờ chỉ có ông cha mới có thể che chở cho băng cướp của  hắn, thế nên, hắn chỉ muốn hù dọa ông thôi.Nhưng xem ra, trò hù dọa của  hắn chẳng ăn thua gì, ông ấy vẫn cứ vững như bàn thạch . Cuối cùng hắn  bỗng liếc mắt vào gian phòng sau lưng cha, thấy có chiếc xe máy dựng ở  đó. Hắn gằn giọng:
  - Tôi cho ông 3 ngày suy nghĩ, khi tôi quay lại, nếu ông còn cứng đầu đừng trách tôi độc ác!
 Tý lỳ nói xong lao nhanh vào phòng lấy chiếc xe máy của cha dắt ra ngoài. Hắn quát:
 -  Mau đưa chìa khóa đây!
 Linh mục không nói lời nào, ông lặng lẽ đưa tay vào túi quần lấy chìa  khóa xe quăng cho tên cướp. Hắn lạnh lùng rồ máy phóng nhanh ra ngoài  mất dạng.
 Tên cướp vừa đi khỏi, công an lúc ấy mới xuất hiện. Họ tỏ ra tức tối vì không bắt được Tý lỳ. Họ hỏi cha:
 - Chúng tôi đến muộn, Tý lỳ lại thoát khỏi tay chúng tôi một lần nữa. Hắn đã làm gì cha?
 - Hắn cướp của tôi chiếc xe máy và đi rồi.
 Mấy anh công an lại thở dài tấm tức . Suốt một giờ liền họ thẩm vấn  linh mục, ông khai không thiếu một chi tiết nào về Tý lỳ kể từ lúc ông  đối mặt với hắn. Lúc công an ra về, linh mục lại quay vào giáo đường quỳ  gối trước tượng Lòng Thương Xót Chúa cầu nguyện.  
 Bẵng đi một thời  gian không thấy Tý lỳ xuất hiện trong vùng nữa. Có người nói hắn đã  chết mất xác sau một vụ cướp táo tợn ở Sài Gòn, người khác lại bảo hắn  bị một băng ma cô ngoài Bắc thanh toán giết chết ở cầu băngky vì hận  thù.  
 Nhưng dù Tý lỳ có như thế nào, sống hay chết , mẹ hắn, bà Sáu  Xẩm ngày nào cũng  đến nhà thờ ngóng chờ thằng con  trai và cầu nguyện  cho hắn. Người ta trông thấy dáng bà cụ gầy mòn quắt queo xanh xao ấy  quỳ cầu nguyện có khi cả buổi trước tượng  Lòng Thương Xót Chúa. Hình  ảnh người mẹ già nua, gương mặt hốc hác tiều tụy vì mòn mỏi đợi chờ đứa  con  đã làm  mọi người không khỏi xót xa cho bà.
 Hôm ấy là sáng Chủ  Nhật, Thánh lễ vừa xong lúc 7 giờ 30, đông đảo giáo dân đang lũ lượt kéo  nhau ra về sau buổi lễ  như đi trẩy hội. Người ta bỗng thấy một gã ăn  xin bị cụt mất một chân, ăn mặc rách rưới bẩn thỉu, tóc tai rối bù dài  chấm cổ, gương mặt đen xạm đầy râu ria rậm rạp, hắn không đi được chỉ  nằm dài ra đường lết đi từng chút một, tay cầm cái nón chia ra xin tiền  giúp đỡ của mọi người. Hắn cố lết người đi như vậy cho đến khi dừng lại  trước cổng Nhà thờ . Nhưng người ta không hiểu hắn lết người đến trước  Nhà thờ làm gì! Có người đến đuổi hắn đi hắn nhất định không đi. Có vẻ  như hắn đang bệnh rất nặng, thân hình hắn để lộ ra những vết thương lở  loét khắp cơ thể, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Hắn cố thều thào:
 - Làm …làm ơn …cho …cho tôi ….gặp cha …
 Thấy hắn có vẻ tội nghiệp có người vội chạy vào báo cho linh mục biết.  Ông linh mục vội vàng chạy ra, trông thấy gã ăn xin rách rưới người đầy  vết lở khiến ông không khỏi xót xa. Ông liền chạy đến bên hắn. Khi hắn  ngước mặt lên nhìn linh mục, ông suýt kêu lên và nhận ra anh ta chính là  Tý lỳ.
 - Tý lỳ! Anh là Tý lỳ đúng không?
 Tý lỳ lại nhướng mắt nhìn linh mục lần nữa , hắn cố cất giọng:  
 - Vâng …tôi …tôi là Tý …Tý lỳ.
 Linh mục đau lòng nhìn hắn:
 - Vì đâu anh ra nông nỗi này, Tý lỳ?
 - Tôi …tôi đáng bị thế này…Tôi sắp chết …Tôi về tìm mẹ tôi nhưng không  gặp. Mẹ tôi đã bán nhà đi đâu rồi, xin cha làm ơn chỉ cho tôi.
 Linh mục lặng người xúc động trước ánh mắt cầu khẩn của Tý lỳ.
 - Mẹ anh chết rồi! Chờ mãi không thấy anh quay về bà ấy lâm bệnh nặng  rồi phải bán nhà đi chữa bệnh. Nhưng bà ấy đã qua đời cách nay 2 tháng  rồi.
 Linh mục thấy gương mặt Tý lỳ trắng bệch ra, hắn trợn trừng mắt  nhìn vào khỏang không, toàn thân run rẩy rồi gục đầu xuống khóc nức  nở. 
 - Anh không thể sống thế này được, hãy theo tôi, tôi sẽ giúp anh.
 - Không …Mẹ tôi chết rồi! …Cũng tại thằng con trời đánh này mẹ tôi đã  phải chịu nhiều đau khổ vì nó! Tôi cũng sắp chết … tôi bị bệnh Sida…Tôi  xin linh mục cầu nguyện cho mẹ tôi…Còn tôi  , tôi đáng xuống hỏa ngục!
 - Không, Chúa đầy Lòng Thương Xót, nếu anh thực lòng ăn năn sám hối Chúa tha thứ cho anh.
 Linh mục vừa nói dứt lời Tý lỳ bỗng ngước đầu lên, rồi hắn lại gục đầu xuống, cả thân hình hắn run rấy.
 - Tôi …tôi không xứng đáng!
 Linh mục không ngần ngại bất ngờ ôm chằm lấy hắn, khiến hăn rất đỗi  kinh ngạc. Linh mục lấy ra trong túi áo cỗ Tràng hạt rồi nhét vào tay Tý  Lỳ. Nhưng hắn bỗng xua tay sợ hãi .
 - Không  …tôi không dám động đến Tràng hạt của cha bằng đôi tay vấy máu của tôi. Xin cha hãy đeo Tràng hạt vào cổ cho tôi. 
 Linh mục xúc động làm theo lời hắn. Khi cha vừa đeo Tràng hạt vào cổ  cho Tý lỳ, nhìn vào mắt hắn linh lục thấy rõ một niềm vui khôn tả,  ông  lại ôm xiết lấy hắn một lần nữa . Và thêm lần nữa ông tỏ ý muốn giúp  hắn, song hắn một mực  từ chối.
 Đêm đó, người ta phát hiện Tý lỳ  chết trong tư thế đang ngồi cung kính chắp tay trước ngực, hai mắt mở to  ngước nhìn lên tượng  Đức Mẹ Maria trong khuôn viên Nhà thờ, trên cổ  hắn đeo Tràng hạt và cây Thánh Giá nằm giữa ngực.
dvtung
11-06-2016, 08:51 AM
Mã số: 16-110
  
 MƯA TRÁI MÙA - Mấy giờ rồi con?
 - Trời còn sớm, má ngủ thêm chút nữa nghe, dạo này buổi sáng lạnh, má dậy sớm lại ho.
 - Thằng Tân dậy chưa con? Mai giỗ ông nội, con nói nó ở nhà một bữa nghen con. Nó chê má già cả, má nói nó không nghe.
 - Dạ ảnh còn ngủ! Không phải đâu má, chắc tại dạo này công việc nhiều quá nên…! Để con nói anh. Má ngủ đi, trời còn lạnh lắm.
 Chị kéo chăn đắp cho mẹ rồi nhẹ nhàng bước ra. Trời còn sớm, mảnh trăng  khuyết còn lưu luyến vòm trời. Tiếng xe cộ, tiếng mấy bà đi chợ sớm,  vài tiếng gà, tiếng chim hòa lẫn vào nhau tạo thành một khúc hòa âm ngày  mới. Chị thích nghe những thanh âm đó của cuộc sống. Sáng nào, chị cũng  dậy thật sớm để thưởng thức nó cho tâm hồn lắng lại, bình an giữa xô bồ  bon chen của dòng đời.
 Anh lê thân hình uể oải, đầu tóc bù xù vào bếp thông báo:
 - Sáng nay anh có hẹn, không ăn sáng ở nhà.
 - Vâng! À anh, có chuyện này….
 - Chuyện gì?
 - Chiều nay bên nhà thờ chính tòa, có lễ giỗ 31 năm đức cha Phaolo, anh tranh thủ về sớm đi nghen.
 - Vẽ chuyện! Chiều nay anh có hẹn rồi. Mà mình có quen đức cha Phaolo đâu. Em thích cứ đi.
 - Mà anh nè! Mai giỗ ông cố cu Bin, anh sắp xếp ở nhà nghe. Hôm giỗ bà, anh đã không có nhà rồi, thấy má buồn lắm.
 - Ừ! Để anh tính, mà không chắc đâu.
 Chị thở dài, giọng buồn buồn giận dỗi:
 - Vậy thôi, anh cứ việc của anh, mẹ con, bà cháu em tự lo được rồi. Từ  ngày lên chức trưởng phòng đến giờ, có mấy khi ngày cúng giỗ mà anh ở  nhà đâu, má đau anh cũng giao hết cho em, như thể anh không phải con má  vậy.
 - Ơ, em nói hay nhỉ! Anh không con của má thì con ai? Nhưng anh  phải kiếm tiền lo cho gia đình chứ không lẽ cứ ở nhà chăm má sao. Sáng  nay em lạ vậy!!
 - Tại em thấy chồng dạo này bỏ bê nhà thờ, cúng giỗ  cũng chẳng quan tâm, má chỉ cần anh về sớm ăn cơm với má, mà ngày nào  anh cũng về muộn.
 - Anh hiểu, anh hiểu! Không bàn tới chuyện này  nữa. Em yên tâm, anh vẫn giữ trọn đạo hiếu, anh là dân đạo gốc à nghen!  Thôi, không đôi co với em, anh đi làm.
 Chị thấy ấm ức, nghèn nghẹn  nơi cổ họng. Ngày xưa, khi chưa làm trưởng phòng, anh có vậy đâu. Anh là  con nhà đạo gốc, đạo dòng, chị nào dám qua mặt! Chị chỉ là người đạo  theo thôi mà, nào đâu rành rỏi như anh! Chuyện thảo kính ông bà, anh  biết rõ luật đạo, còn chị, chị chỉ làm theo trái tim mách bảo. Càng  nghĩ, chị càng thấy buồn. Khóe mắt chị đỏ hoe.
 Có tiếng trở mình,  hình như bà nội cu Bin dậy. Chị lau giọt nước mắt còn đọng lại trên mi,  cố tươi tỉnh như không có gì xảy ra. Chị mong bà cụ không nghe cuộc trò  chuyện giữa hai vợ chồng chị. Nghe được, chắc bà cụ buồn lắm! Tuổi già  hay tủi thân.
 - Con nói thằng Tân chưa con?
 - Dạ, con nói rồi má! Ảnh bảo do dạo này công ty nhiều việc quá, để ảnh sắp xếp.
 - Nó thì có khi nào mà không sắp xếp. Thôi mai, má con mình làm mâm  cơm, xin cái lễ cho ông cũng được rồi. – Bà Năm nói giọng buồn buồn.
 - Dạ, chiều nay con đi lễ, rồi con xin lễ luôn. Để con vô lay cu Bin dậy, rồi mình ăn sáng nghen má. Con hầm cháo xong rồi!
 - Ừ, mà hôm nào hai vợ chồng bây về thăm ông ngoại cu Bin đi, má thấy  lâu rồi mà tụi bây không về thăm ổng. Nói chứ, con trai nó hay vô tâm  lắm, con gái chu đáo hơn.
 - Dạ! Con tính cuối tháng này, má!
 …..
 Chiều, cái nắng hừng hực cuối tháng hai đổ xuống con đường nhựa bỏng  rát. Không một làn gió, không một tiếng sẻ kêu. Dường như những chú chim  cũng đi trốn cái nắng nóng đầu hè của dải Cao Nguyên này. Chưa có năm  nào nắng nóng như năm nay. Bầu trời quang đãng không một bóng mây. Chị  men theo vỉa hè, đi về hướng nhà thờ. Cu Bin vừa đi vừa nhảy chân sáo.  Cu cậu mới năm tuổi, cái tuổi vô lo, tuổi thiên thần. Vừa đi cu cậu vừa  nhai kẹo, tới gần nhà thờ rồi mà cu cậu còn lột vỏ thêm một viên kẹo  nữa. Tiện tay, cu cậu vứt vỏ luôn xuống đường, làm chị phải nghiêm  giọng:
 - Bin, nhặt vỏ kẹo lên!
 - Có một cái vỏ bé tí hà mẹ, gió sẽ thổi bay thôi mà.
 - Không được cãi mẹ, quay lại nhặt lên.
 Cu cậu phụng phịu quay người, cúi xuống nhặt chiếc vỏ kẹo mà cậu vừa  vứt xuống đường. Cái bộ thấp chũn của cu Bin trông vừa đáng yêu vừa buồn  cười. Nhưng chị cố nén nụ cười lại và giảng giải cho cậu bé năm tuổi.
 - Bin có biết là con vứt vỏ kẹo xuống đất là không ngoan không?
 - Dạ, nhưng chỉ có cái vỏ kẹo bé xíu hà!
 - Đúng rồi, cái vỏ kẹo bé xíu, nhưng mà Bin vứt xuống đường như vậy rồi  nhiều người cũng bắt chước Bin, mọi người cũng vứt đầy đường thì sao!?
 - Bin hông biết!
 - Nhiều người không ý thức như Bin thì sẽ có nhiều rác nè, các cô lao  công vất vả hơn, và nhiều rác sẽ làm không khí không được sạch, Bin hít  vào Bin sẽ đau mũi, sẽ phải đi bác sĩ, chích kim thật đau.
 - Dạ, vậy Bin hổng xả rác nữa, xíu tới nhà thờ, Bin bỏ vào thùng rác.
 - Đúng rồi! Bin của mẹ giỏi lắm!
 Thánh lễ ba giờ chiều. Độ nóng trong thánh đường làm chị nhễ nhại mồ  hôi dù chỉ ngồi nghe giảng. Cu Bin chốc chốc lại lấy tờ giấy quạt phành  phạch. Hôm nay, Ông chủ tế, vị giám mục già khả kính mà chị từng biết.  Tiếng ông khàn khàn, trầm ấm nhắc con cháu biết ơn đến đức cố giám mục  Phaolo. Người đã để lại cho giáo phận biết bao công trình, sự yêu thương  và là một tấm gương sáng về đức tin. Ông cũng nhắc mỗi người thảo kính  cha mẹ ông bà, bởi đó là điều răn quan trọng trong Mười Điều Răn Đức  Chúa Trời. Giọng Ông lúc âm vang, khi trầm ấm gieo vào lòng mỗi người có  mặt trong ngôi thánh đường cổ kính. Chị nghe mà lòng thấy xấu hổ, xấu  hổ cho cả ba cu Bin. Chị thấy mình còn thiếu sót nhiều lắm trong đạo làm  con.
 Lễ xong. Cái nóng cũng dịu bớt. Hai mẹ con chị ra về. Thằng cu  con cứ líu lo đủ chuyện trên trời dưới đất. Còn chị, chị suy nghĩ nhiều  về bài giảng thánh lễ hôm nay. Chị miên man nhớ về ngày xưa, khi anh và  chị chưa thành vợ nên chồng.
 
***
 Ngày đó, rào cản lớn nhất để  chị đến với anh là tôn giáo. Gia đình chị thờ ông bà, còn gia đình anh,  Công giáo toàn tòng. Chị cự nự “theo đạo rồi em bỏ ông bỏ bà sao?” khi  anh muốn chị học đạo Công giáo. Chị giận dỗi bỏ về, để mặc anh đứng dưới  mưa trong công viên. Cũng một ngày mưa, sau ba tháng im lặng, anh đến,  đứng trước mặt chị, nói: “Mình cưới nhau đi em. Đạo ai nấy giữ”. Lúc đó  chị vỡ òa niềm vui. Nhưng Thiên Chúa lại không muốn điều đó, Ngài muốn  chị mãi mãi thuộc về anh, mãi mãi thuộc về giáo hội Công giáo để tình  yêu của chị và anh trở nên trọn hảo hơn.
 Ngày anh chị đến Ông xin  giấy chuẩn hôn nhân khác đạo là ngày Ông đã làm chị thay đổi suy nghĩ về  đạo Công giáo. Ông trò chuyện với chị, thật nhiều.
 - Tại sao con lại xin chuẩn khác tôn giáo? Nghĩa là làm sao?
 - Dạ, thưa Ông, đạo ai người nấy giữ ạ!
 - Vậy có nghĩa là chồng con giữ đạo Công giáo, con con sinh ra cũng  được rửa tội và giữ đạo Công giáo, còn con thì không phải không?
 - Dạ!
 - Tại sao?
 - Dạ, con còn phải thảo cha kính mẹ, thờ cúng ông bà tổ tiên.
 - Con suy nghĩ chưa?
 - Dạ rồi Ông!
 - Chắc không! Đạo ai nấy giữ?
 - Dạ chắc.
 - Con đúng là khùng khùng mát mát!
 - Ơ, sao ông nói con vậy! (Chị giận lên, lần đầu tiên, một người gọi  chị khùng khùng mát mát, chị không thể kiềm chế được bản thân, chị giãy  nãy)
 - Ông hỏi con tới ba lần, mà con vẫn giữ nguyên quan điểm. Bây  giờ ông nói con khùng khùng mát mát mà con nổi giận thì con siêu khùng  siêu mát.
 Chị im lặng, chị suy nghĩ nhiều về câu hỏi của Ông, phải  có nguyên do nào đó Ông mới nói chị như vậy. Căn phòng trở nên im lặng  đến ngạt thở. Yên ắng đến mức một con ruồi bay qua cũng có thể nghe  tiếng nó đập cánh. Ông mở lời:
 - Con nghĩ kỹ coi, ai lại đi rước một  thằng về làm chồng, chấp nhận cho một thằng chồng bất hiếu với cha mẹ  đẻ của mình, tổ tiên mình. Ai lại chấp nhận đẻ ra đứa con, để nó bất  hiếu với ông bà ngoại, dì cậu, họ hàng bên ngoại của nó! Khùng mát chứ  còn gì nữa?
 Chị dịu lại. Chị thấy Ông nói quá đúng! Ai lại có thể  lấy một người, để rồi người đó bất hiếu với cha mẹ của mình. Nhưng chị  vẫn còn cái nút thắt trong lòng chữa gỡ được. Người ta vẫn nói, đạo Công  giáo bỏ ông bỏ bà là sao? Đạo Công giáo không thờ cúng ông bà là sao?  Và chữ hiếu của người Công giáo phải thể hiện cách nào? Bao nhiêu câu  hỏi cứ bám lấy chị. Chị nhìn ông, đôi mắt chị như muốn nài Ông cho chị  một lời giải đáp. Ông tiếp lời:
 - Thôi bây giờ con nói đi, con thảo cha kính mẹ bằng cách nào?
 - Dạ…dạ…mẹ con mất sớm, còn mỗi mình ba con. Con lo sau này ba con qua đời, không ai lo hương khói cho ba con.
 - Vậy con đợi ba con chết mới thờ cha kính mẹ sao con? Người Công giáo  là thờ cha kính mẹ mọi lúc mọi nơi dưới mọi hình thức. Thôi được rồi,  đợi ba con chết, con hãy thờ cha kính mẹ. Thế bây giờ, Ông hỏi con, con  nghĩ như thế nào là thờ cha kính mẹ?
 - Dạ con không biết!
 - Để  ông nói nhé, có phải khi cha mẹ còn sống, con chăm lo phụng dưỡng, khi  cha mẹ ông bà qua đời, tụi con lo ma chay tống táng, nếu có tiền thì  hằng ngày thắp nhang, mua trái cây về trưng trên bàn thờ, khi cúng giỗ  thì làm mâm cơm, lạy mấy cái phải không?
 - Dạ!
 - Còn gì nữa không?
 - Dạ hết rồi!
 - Trời đất! Tụi con thờ cha kính mẹ có bấy nhiêu đó thôi sao? Sao tụi  con nghèo quá đi, thờ cha kính mẹ như vậy là nghèo hết sức. Người Công  giáo thờ cha kính mẹ tuyệt vời vô cùng con ạ. Không chỉ có ông, không  chỉ có con. Bây giờ, ba mẹ tổ tiên con, ông cũng không biết, nhưng ngày  nào ông cũng dâng lễ cầu cho ông bà tổ tiên con. Mà không chỉ có ông  đâu, trên cả thế giới, người Công giáo trên cả một tỷ người, không chỉ  một lúc hay hai lúc mà mỗi giây mỗi phút, thánh lễ liên tục, cầu cho các  tín hữu đã qua đời, trong đó có mẹ con, tổ tiên con. Mọi cái, áo quan,  bánh trái ngày cúng chỉ đẹp mặt người sống thôi, người sống ăn còn không  nổi, người chết ăn được cái gì. Người Công giáo không chỉ dâng của lễ  là cơm bánh, là lời cầu nguyện, là ý lễ đâu con, mà còn là Mình Máu Chúa  KiTô, là lời cầu bầu của Đức Mẹ và các thánh trên trời. Người Công giáo  tuyệt vời vậy đó con!
 
***
 Vừa đi vừa nghĩ, chị về nhà lúc nào không hay biết. Bà nội cu Bin lui cui trong bếp. Thấy chị, bà cười:
 - Bây về rồi đó hả? Má thấy bây về muộn, má cắm nồi cơm rồi đó.
 - Dạ, má để đó cho con, má nghỉ ngơi đi. Má thiệt tình, cứ lui cui hoài à!
 - Má quen rồi, không làm không chịu được. Thôi má lên nhà.
 - Dạ!
 Với chị, khái niệm mẹ chồng nàng dâu không còn nữa, bà thật sự như mẹ  ruột của chị vậy. Bà chăm chút thương yêu chị từ ngày chị mới về đến bây  giờ. Có lẽ bà bù đắp tình cảm mà chị đã mất từ lâu. Chị yêu thương bà  và bà cũng vậy. Không những thế, bà còn dặn dò chị và anh phải hiếu thảo  với cha của chị, năng thăm nom ông. Còn anh, anh luôn hiếu kính với cha  mẹ hai bên, đơn sơ, chân thành nhưng dạt dào tình nghĩa, như ngày xưa  Ông đã nói với chị. Nhưng từ ngày lên chức trưởng phòng, anh đổi khác,  anh lao vào công việc, những cuộc hẹn và tiền. Với anh, chỉ cần làm ra  nhiều tiền, chu cấp cho vợ con, mẹ già là hiếu thảo, anh quên rằng, có  những thứ, tiền không thể mua được và chữ hiếu không thể dùng tiền để  đánh đổi. Càng nghĩ chị càng thấy buồn! Ước chi anh cứ là anh của ngày  xưa! Giá như có một phép màu để anh thay đổi! Chị cầu nguyện!
 
***
  Sáng, chị thức dậy sớm như mọi ngày. Chị nhìn ra cửa, cơn mưa cứ ồ ạt  trút nước. Chị thở dài! Một cơn mưa trái mùa. Một vòng tay ấm ôm lấy chị  từ phía sau. Một giọng ngái ngủ thủ thỉ bên tai chị: “Vợ ơi! Hôm nay  chồng sẽ ở nhà, đèo vợ đi chợ, vào bếp làm cơm với vợ để giỗ nội. Vợ  đồng ý nhé!”. Chị nắm lấy tay anh, vờ giận dỗi: “Anh không đi làm sao?  Với anh công việc lúc nào cũng trên hết!”. Anh siết tay, ôm chị thật  chặt, im lặng hồi lâu rồi thì thầm như hối lỗi với vợ hay đúng hơn là  nói với lòng mình: “Hôm qua, anh dự lễ mở tay của một cha bạn. Trong bài  giảng, cha kể về người mẹ và sự vô tâm, tinh nghịch của ngài lúc trẻ đã  làm cho bà bị mù đôi mắt, làm anh suy nghĩ rất nhiều. Vợ ơi, xin lỗi mẹ  con em, anh thật vô tâm! Anh cứ nghĩ, cứ chu cấp đầy đủ tiền bạc cho  gia đình là tròn bổn phận, nhưng không, anh đã sai lầm! Nếu một ngày nào  đó, mẹ không còn, em không còn, tiền nhiều cũng chẳng giúp được anh có  lại em và mẹ. Và anh…anh đã xin cơn mưa này đấy, để anh ở nhà. Như một  phép lạ phải không em, phép lạ để anh có chút thời gian nghĩ lại mình…”.  Chị quay lại, hôn lên trán anh nhẹ nhàng! Bất giác, chị nhìn lên ảnh  Chúa Thương Xót, thì thầm “Cám ơn cho con cơn mưa dịu ngọt. Mưa hồng ân,  để những giọt nước mát ấy làm tan đi cái oi bức đầu hè, để tưới mát tâm  hồn khô cằn của chồng con, để mẹ con lại thắp lên tiếng cười trong tuổi  già bóng xế”.
dvtung
11-06-2016, 08:51 AM
Mã số: 16-111
   
 LỜI CHUÔNG CHIỀU Cuộc chạy đua không phân thắng bại giữa thời gian và mặt trời, khiến  cho khuôn mặt của những vòm mây biến sắc:  từ trong xanh hy vọng sang  hồng tím của sự giận dữ và cuối cùng là xám xịt tức tối. Những cơn giông  ùn ùn kéo đến báo hiệu cho cơn thịnh nộ sắp xảy ra. Phía cánh đồng xa  xa có mấy người nông dân lấm lem bùn đất sợ hãi nhanh chóng vác bừa, kéo  cày về nhà. Lác đác vài hạt mưa tròn trịa rơi vãi tung tóe, rồi nặng  hạt dần. Cơn mưa đầu xuân mang không khí lạnh mỗi lúc một buốt hơn, len  lỏi khắp cùng làng ngõ xóm. Văng vẳng đâu đó là tiếng chó con giành bú  kêu ăng ẳng hòa lẫn với tiếng heo con mới đẻ éc éc không ngủ được vì  lạnh, tiếng rắn rết như còi xe hết bình,…tất cả tạo nên dàn đồng thanh  đặc sắc của vùng quê nghèo.
 Mưa tạnh. Trời đã mấp mé canh hai mươi  giờ, cái lạnh mỗi lúc một buốt hơn. Bầu trời loang lổ, rải rác vài ngôi  sao bỗng xuất hiện lập lòe, heo hắt như những chú đom đóm con, để lại  trên không trung một nỗi buồn sâu thẳm. Bà năm một mình ngồi trên sạp  tre trước hiên đờ đẫn ngắm nửa vầng trăng bị những giọt mưa cắn nham nhở  biến dạng và sinh khí như bị ai hút hết. Bà ngồi gập hai chân vào đùi,  cái lưng còng veo như con tôm luộc. Một tay chống cằm, một tay cầm tràng  chuỗi,  miệng lẩm bẩm, mắt hướng về chốn xa xăm, hồn như lạc vào cõi  vĩnh hằng để lại cái xác trơ trọi.
 Ai cũng hiểu sự tình nhà bà, chỉ  có bà là không hiểu. Bởi lẽ nó đã ăn sâu vào tận xương tủy đến nỗi bà  quên bẵng đi cái hiện tại phũ phàng, mà ai nấy cũng chắp lưỡi: “Vậy sẽ  tốt hơn cho bà ấy”.
 Một đời đạo đức thánh thiện, bà được gả cho ông  biện Bảy (cái tên thân mật mà mọi người gọi ông). Một gia đình gia giáo,  đạo đức, ông bà có năm người con: bốn người con gái, chỉ duy nhất một  cậu út (đứa con cầu khẩn) và cũng là đứa cháu đích tôn độc nhất. Nhờ  Chúa nuôi, cả năm đều lớn lên khỏe mạnh và ăn học đến nơi đến chốn, đứa  nào đứa nấy đều trở nên bài ca của cả xóm, cả xứ đạo.
 
***
 Nói  đến đây ai nấy đều nghẹn lòng. Không khí xuân ảm đạm đến lạ thường, mấy  con quạ mù bay lộn chỗ đậu trước nhà bà kêu la inh ỏi. Bà lấy đá ném  nhưng né rồi lại đậu, chúng nghịch như những đứa trẻ lên ba hiếu động.
 Càng lúc càng ồn ào, náo nhiệt , tiếng quạ lẫn tiếng la hét, khóc thét  của mấy người đàn bà và tiếng chắp răng, chắp lưỡi não nề của mấy người  đàn ông làm cho không khí càng trở nên nặng nề. Một lúc sau, người ta  nghe từng phát một tiếng chiêng nhà thờ. Cả xóm nhốn nháo như bầy gà mất  mẹ.
 - Ai chết vậy cà?
 - Bữa giờ có nghe ai đau ốm gì đâu?
 - Trời ơi??? Ông biện Bảy chết rồi.
 - Gì??? Ông biện Bảy chết hả?
 - Chúa ơi? Mà sao ổng chết? Có đau ốm gì đâu?
 - Mau mau qua xem tình hình thế nào?
 Miền quê là thế, thông tin nhanh hơn cả vận tốc gió.
 Vài giờ sau, sân nhà ông đã chật người viếng thăm. Phần vì thương tiếc,  phần vì tò mò về cái chết bất ngờ của ông. Đến nơi, mọi người ai nấy  đều giật ngửa người, không còn dám tin vào mắt mình nữa khi thấy ông   biện Bảy nằm sãi nghiêng trên giường, chung quanh bê bết máu đã sánh  đặc. Vết thương trên bụng làm bằng chứng cho nhát đâm chí mạng. Ông nằm  dạt sát giường, màu da xanh như tàu lá chuối, hệt cái xác cá khô. Hai  tay ôm chặt tượng Chúa Giêsu bằng đồng đen. Cái tượng từ thời xa xưa ông  bà để lại, nó rất quý vì bấy giờ đồng đen rất hiếm. Nghe đâu nhiều lần  có mấy người làm ở bảo tàng tỉnh đến hỏi mua với giá cả trăm triệu, thế  nhưng ông nhất quyết không bán. Ai cũng cho là ông bị điên vì quá sùng  đạo, số tiền lớn như thế mà không bán. Có số tiền đó gia đình ông sẽ  được đổi đời, “bán tượng ấy đi để mua hàng trăm tượng nữa mà về thờ  không tốt hơn sao?”.
  Có ai hiểu được tình yêu Chúa trong ông, ngoại  trừ bản thân ông. Ông từng nói: “Không một giá trị nào có thể sánh bằng  Chúa của tôi kể cả mạng sống tôi”. Và có lẽ sự thật giờ đây đã rành  rành trước mắt, ngay giờ phút này ông đã chứng minh cho mọi người lời  ông từng nói. Chuyện như không thể xảy ra nhưng đã xảy ra. Một người đạo  đức suốt đời tận tụy phục vụ nhà Chúa không nề hà, than van như ông mà  hôm nay lại gặp phải oan cảnh này, thật đau lòng. “Đúng là trời cao  không có mắt” (lời nói trống không bâng quơ của ai đó giữa đám đông)  càng kiến cho lòng người thêm trĩu nặng.
 - Trộm ư? Sao nó chẳng lấy của???
 - Chẳng lẽ ông Bảy kết thù kết oán với ai? Từ hồi nào tới giờ ông có thù với ai đâu?
 - Hay là…(một sự nghi ngờ bâng khuâng hữu ý hay vô tình của đám bà tám xì xào rồi im bặt hẳn ).
 Hàng trăm câu hỏi không lời giải đáp như thế cứ dồn dập huyên thuyên,  xầm xì rồi to dần, to dần. Bên ngoài trời đã tối mịt, hiu hắt vài bóng  đèn được thắp lên lu mờ như khung cảnh tang thương nhà ông Bảy. Người  viếng thăm cũng thưa dần, chỉ còn lời ra tiếng vào bàn tán của mấy người  đàn bà nhiều chuyện tụ năm tụ bảy chỉ biết nhìn đời bằng mắt thường và  sống bằng môi miệng. Mấy bô lão lưng đã còng, mắt đã sụp vì không ngủ  được, tay run lẩy bẩy ghì chặt chén trà thả từng ngụm đắng nghét, ngồi  bàn chuyện lễ tang. Họ nhắc tới ông Bảy như một vị quan liêm chính, khôn  ngoan một đời mà dại một phút vì quá tin con để rồi phải lãnh nhận cái  chết tức tưởi, tàn nhẫn như hôm nay.
 Giờ đây mọi chuyện mới vỡ lẽ,  cái lạnh của không khí nào sánh bì với cái lạnh trong tâm hồn lạc lối.  Quỳ trong nhà lao trống vắng đến rùng rợn, thằng út ôm tượng Chúa kể lại  cái chết của cha mình như một bộ phim hành động.
 
***
 Sáng hôm  ấy, cái hôm mà trời đất u ám, không khí lạnh bao trùm. Mặt trời tái nhợt  núp sau những tảng mây đen khổng lồ, gió cứ ào ạt từ đâu kéo đến tạt  vào da thịt tê rần. Bà bảy vảy gánh rau ra chợ xỏm (công việc thường  ngày của bà). Trời lạnh, chợ ế, rau cũng ế ẩm nên bà về sớm. Vừa về đến  cổng bà nghe có tiếng cãi vã to trong nhà.
 - Mầy làm gì vậy thằng  con bất hiếu kia? Tao nuôi mầy ăn học hết tiền hết bạc, tao tự hào với  cả xứ vì nuôi cho mầy ước mơ đi tu, mà giờ mầy xử với tao thế à? Mầy  thành quỷ dữ rồi con ơi là con…(Giọng nói đứt hơi trong tiếng khóc tức  tưởi, tủi nhục của người cha hy sinh cả đời vì con).
 - Tui chỉ lấy  cái tượng đồng này bán đi thôi. Ông làm gì ghê vậy. Tui bán rồi tui mua  chục cái khác đẹp hơn cho ông. Tui hết tiền mua thuốc rồi. (Lời nói ồm  ồm với cha lạnh như tờ của thằng út).
 - Cả Chúa mà mầy cũng bán ư?
 - Bán tất. Cứ có tiền là bán?
 - Tao đã nói là mầy không được lấy. Trời ơi, phạm thượng đó con ơi!  Dừng lại đi con! Con đã từng hứa với ba là cho tiền con học ở thành phố  rồi ra trường con đi tu cơ mà? Cớ sao lại ra nông nổi này hả con? (Giọng  nói già nua trong nước mắt cầu con trở về của ông Bảy).
 - Hết lần này nữa thôi. Tôi đau đớn, khó chịu lắm ông biết không?
 - Tao đã nói là không được. Thà mầy giết tao đi còn hơn để tao nhục nhã với bà con lối xóm.
 Tiếng xô đẩy, giành giật mỗi lúc một gay cấn …và rồi tiếng gọi “Chúa ơi” đứt quãng trong không trung bao la.
 Bà bảy vứt gánh rau chạy vào và thét lên…. Ngôi nhà như vỡ tan tác để  lộ vòm trời đen ngòm, gió rít vào khung cửa sắt bốc mùi lạnh tanh. Thằng  út tay cầm con dao máu nhỏ giọt chảy vào tim bà đau đến vô cảm. Thằng  út bất thần bỏ chạy như bay và mất dần theo tiềm thức của bà. Chỉ còn  lại tiếng chuông chiều vang vọng lơ lửng.
 
***
 Thằng út chạy mãi,  chạy mãi về phía tiếng chuông. Bất chợt nó dừng lại trước cửa nhà thờ,  đôi chân rã rời, từng khúc xương rời ra, dòng máu chảy chậm dần rồi  ngưng hẳn. Nó quỵ gối xuống, thân thể như tan chảy thành nước, trái tim  vỡ tan tành để lại nỗi đau tột cùng. Con dao đầy máu đang dần dần xuyên  qua lớp da rồi đến từng thớ thịt đâm vào tim nó. Nỗi đau ấy dằn xé hơn  cả cơn nghiện mà nó vừa trải qua. Nó lạnh nhạt nhìn Chúa, hai hàng nước  mắt nặng trĩu kéo con tim quay về đúng vị trí. Một luồng gió mang theo  sự can đảm lan tỏa khắp cơ thể nó. Giữa không gian cô tịch vang vọng bên  tai nó tiếng chuông liên hồi: “Hãy trở về, trở về cùng Ta”. Nó vụt dậy  rồi lặng lẽ lê từng bước chân nặng trịch quay về nhà và thú nhận mọi tội  lỗi như lời sám hối cuối cùng với cha nó và rồi nó ôm tượng Chúa vào  nhà lao để thức tỉnh mỗi ngày, bỏ lại đằng sau người mẹ già cô liêu. Thế  nhưng ai đã mang lương tâm thằng út trở về, phải chăng là sức mạnh của  tiếng chuông hay là sức mạnh của tiếng ai đó đang gọi nó. Một phút lầm  lỡ, đua đòi theo chúng bạn cùng lứa ở cái thành phố hào nhoáng, đầy dẫy  cạm bẫy đã biến nó từ một thư sinh chất phát, hiền lành học giỏi thành  một tên nô lệ cho ma túy để rồi cơn nghiện đã khiến nó trở thành đứa con  sát nhân giết cha. Chẳng còn tội lỗi và nỗi đau nào lớn hơn thế nữa.  Tưởng chừng như mọi thứ đã chấm dứt, nhưng không, cuộc sống vẫn còn mãi ở  đời này và đời sau. Và có lẽ ông Bảy đang mỉm cười mà về với Chúa vì sự  hy sinh của ông đã đánh đổi linh hồn con trai ông quay về với Chúa.
dvtung
11-06-2016, 08:51 AM
Mã số: 16-114  
 
BÀI CA CỦA TRÁI TIM Vào chiều muộn một ngày đầu đông năm ấy, trên con đường đất đỏ ngoằn  ngoèo uốn khúc, có người phụ nữ khó nhọc đi bộ một mình từ cánh đồng về  nhà. Cơn gió mùa Đông Bắc chợt ùa về chạm vào đôi quang gánh đầy khoai  mì cùng với cái bụng bầu của bà mẹ luống tuổi. Hơi lạnh hanh hao làm đứa  con trở mình. Cứ đi được vài bước bà lại dừng chân ôm bụng thì thào:  “Con ơi, cố chút nữa gần về tới nhà rồi…”. Nhưng không kịp. Bên con sông  mùa nước cạn, ngay sườn đê, đám cỏ may khô cháy không từ chối đón lấy  một sinh linh bé bỏng vào đời. Đó là một bé gái có cặp mắt đen, nước da  ngăm đen bánh mật với khuôn miệng nhỏ và một má lúm đồng tiền sâu thật  sâu. Nhưng éo le thay cô bé có một bàn tay khác người. Bà mẹ ôm con vào  lòng, những giọt nước mắt âm ỉ chảy ngược vào trong không thành lời.  Tiếng khóc yếu ớt của đứa trẻ tan loãng giữa khoảng không tranh sáng  tranh tối đang lịm dần quạnh vắng mênh mông. Sự vất vả, cảnh thiếu thốn  ấy không đánh gục được sự dẻo dai của người phụ nữ xứ Bắc đã bao lần nếm  trải những tủi nhục của phận người.
 Người phụ nữ ấy là bà chủ của  nó, bé gái ấy là cô chủ của nó. Nó không tên, không tuổi, không tài. Nó  là ngón tay thứ sáu trên bàn tay tật nguyền của cô chủ nhỏ. Người ta nói  : “Với kỹ thuật hiện đại trong các bệnh viện thời nay những trường hợp  như của con bé thì lo gì, có tiền thì chỉ việc phẫu thuật, cắt bỏ là  xong…”. Có kẻ thì buông lời có vẻ xót thương : “Con bé có khuôn mặt sáng  sủa, thông minh vậy mà Ông Trời cứ thích đùa giỡn kiểu ấy. Ai đã có thì  được cho thêm, còn ai không có thì ngay cả cái bình thường nhất cũng bị  lấy đi, thật là bất công vô lý…”
 Mấy bà sồn sồn thì bĩu môi: “Con  rơi con vãi, được như vậy là phúc lắm rồi…”. Trong cái xóm nửa đạo nửa  đời này, với hoàn cảnh của bà chủ và sự ra đời của cô chủ có gì mà người  ta không thêm bớt được. Bên tai, cửa miệng thiên hạ trăm lời trăm ý, bà  lặng thinh. Bà chủ âm thầm dặm hỏi về những ca phẫu thuật dị tật nhưng  rồi cũng chỉ biết lùi lũi trở về. Làm sao bà có thể chi trả một số tiền  quá lớn so với gia tài còm cõi của mẹ con bà? Nhìn bàn tay của con gái,  bà tự vấn an: “Cái khó rồi sẽ ló cái khôn thôi, ít ra con mình vẫn còn  bàn tay trái lành lặn, một trái tim khỏe mạnh, một trí khôn đủ để nó  biết gọi mẹ, yêu mẹ. Chỉ mong sao con bé ngoan ngoãn và biết vươn lên…”.  Bà bằng lòng với số phận và gật đầu phó thác.
 “ Phúc cho anh em là  những kẻ nghèo khó”, nó nghe được bà chủ đã từng đọc như thế. Hóa ra cái  nghèo không mong đợi ấy lại trở nên mối phúc cho số phận nó. Bà chủ  nghèo, cô chủ con nhà nghèo và nó cũng nghèo. Nhờ nghèo mà nó không bị  phế bỏ, từ đó nó tập bắt chước cám ơn Chúa của bà chủ, của cô chủ. Ngay  cả những khi khốn khó nhất nó vẫn thấy họ tạ ơn Ngài.
 Từng lời ru  ngọt ngào theo tháng năm dài, cùng sự chắt chiu của bà chủ, với từng đọt  mồng tơi, với canh tím rau dền, với mắm muối dưa cà… nó lớn theo cô chủ  nhỏ. Nhưng có cố gắng mấy chị em nhà nó cũng không thể linh hoạt thân  mình để giúp cho cô chủ có thể cầm nắm được, dù chỉ là một cây bút chì  nhỏ cũng thật khó khăn. Nó bỗng thấy mình phiền phức và vô duyên trên  thân thể cô. Và điều gì đến cũng phải đến. Cô chủ nhỏ của nó bắt đầu  phải đối diện với những cái nhìn thọc mạch, trêu ghẹo từ lũ bạn. Chúng  gọi cô là con bé không cha, con bé sáu ngón, thọt tay…Những ngày đến  trường cô chủ thường giấu anh em nó trong vạt áo, trong ngăn bàn, đằng  sau lưng… miễn sao để khuất mắt lũ bạn ác khẩu của cô. Nó soi thấy mình  trong đôi mắt sắc đầy nghị lực ấy. Nó thương cô chủ nhưng đành nín lặng  vì bất lực. Suốt những năm ở trường tiểu học, cô chủ đã nhiều lần thử  sức với nó nhưng bộ xương co quắp khiến nó không thể duỗi thẳng và cử  động được, năm anh chị nó cũng vậy. Việc duy nhất anh em nó có thể giúp  cô chủ là đung đưa để cô có lực thăng bằng bước đi.
 Cứu cánh duy  nhất của cô là anh chị bên bàn tay trái. Từ ngày phát hiện ra sự bất lực  của nó, bà chủ đã tập cho cô cầm bút tay trái. Dẫu những nét chữ còn  méo mó, vẹo vọ nhưng có hy vọng. Nó mừng lắm! Những cuốn tập trắng bỗng  trở thành lem nhem bởi cô chủ phải tập viết từ trái qua phải. Các anh  chị tay trái không thể tránh day vào những con chữ khi mực chưa kịp khô.  Nó như một con bù nhìn chỉ biết ngồi nhìn tất cả những khó khăn ấy của  cô. Nó thoáng buồn.
 Sự kiên nhẫn, sức chịu đựng và nghị lực của  người mẹ nghèo khổ đã được cô chủ thừa kế từ những ngày tấm bé. Năm  tháng thời gian cứ thế qua đi, cô cũng quen dần với sự hiện diện bất đắc  dĩ của nó. Cô mặc cho thiên hạ để ý, dòm ngó, bàn luận về bàn tay dị  tật và hoàn cảnh của mình. Rồi họ cũng thôi nói, thôi nhìn…nó chợt  nghiệm ra rằng : Ở đời này con người ta thật dễ gán ghép, dễ lên án  người khác chỉ vì một quá khứ không mong đợi. Người ta khó tin được rằng  chỉ với một ánh nhìn bao dung hoặc chỉ qua một đêm, người lầm lỗi có  thể hoán cải, biến đổi, khác đi và tốt hơn. Phải chăng nó đã thấu cảm  được tất cả những điều ấy từ nơi mẹ con bà chủ. Còn nó, nó biết ơn cô  chủ vì đã không ghét bỏ nó.
 Rồi một ngày cô chủ thành thiếu nữ, có  nhiều người bạn khâm phục sự vượt khó của cô. Nhưng một chốc yếu đuối  nào đó, nỗi tự ti ẩn tàng vô thức lại trỗi dậy trong cô. Nhìn mình   trong gương, cô giơ tay ôm mặt bật khóc. Nó chạm vào những giọt nước mắt  long lanh đang đuổi nhau trên đôi má hồng.
 Lần đầu tiên nó hiểu  được mặc cảm và nỗi tủi của một cô gái tuổi mới lớn. Cô chủ không vui  bao nhiêu thì nó buồn bấy nhiêu. Cô tự ti về khuyết tật nơi nó chừng nào  thì nó cũng tủi thân chừng đó.
 Nó bắt đầu biết so sánh và soi mình  nơi kẻ khác. Nó còi cọc và xấu xí, nó cũng muốn được nên hữu ích như các  bạn tay trái. Anh chị ấy mỗi người một tài năng. Ai cũng được khoác lên  mình những đường vân tay tròn trịa, cô chủ gọi đó là hoa tay. Còn nó  không hoa. Nó ngưỡng mộ chị ngón trỏ vì lúc nào cũng được đi đó đây, chị  có mặt trong thứ giấy tờ quan trọng nhất của cô chủ, chị mang lại an ủi  cho cô. Các anh chị khác cũng có thể giúp cô cầm bút nắn nót. Em út nhỏ  nhất thi thoảng cũng có thể nhảy múa trên những phím đàn organ. Anh em  nó chỉ biết ngưỡng mộ. Nó thu mình lại với hàng ngàn lý do kiểu như thế.  Nó cũng không hiểu tại sao nó lại trở nên như vậy. Vỏ ốc nó chui vào  chặt cứng những nỗi mặc cảm vô ích. Nó đánh rớt sự lạc quan, tin tưởng  mà lúc nhỏ nó học được nơi bà và cô chủ nó. Nó cũng muốn vượt lên số  phận nhưng có thứ ma lực vô hình nào đó cứ cản chân nó.
 Vào một đên sáng trăng, khi cô chủ say giấc ngủ. Chị ngón trỏ đến bên nó nhỏ to:
 - Út à! Dạo này em có chuyện gì mà chị thấy mắt em buồn và đôi môi em khép kín không mỉm cười và ca hát nữa?
 Đưa ánh mắt buồn nhìn chị, nó trả lời với một thắc mắc như chẳng liên quan gì đến điều chị hỏi:
 - Chị ơi! Cô chủ vẫn hay gọi Thiên Chúa là Cha nhân lành, nếu Chúa nhân  lành thật, sao Ngài lại để em sinh ra trên thân thể của cô? Em thấy  mình giống như một món nợ vô dụng…
 Chị ngón trỏ như hiểu ra vấn đề. Im lặng trong giây lát, chị ôn tồn:
 - Út ngốc quá! Thiên Chúa của cô chủ cũng là Thiên Chúa của chị em  mình. Cô chủ yêu mến Ngài hẳn vì Ngài yêu thương cô trước. Sự nghi ngờ  ngớ ngẩn của em như vết nhơ đang quệt lên mặt Ngài kìa! Chị nghĩ Chúa  muốn cô chủ “kết bạn” với “cái nợ” thì sao?
 - Nợ thì là gánh nặng,  người ta muốn trút đi chẳng được chứ ai đời muốn mang lấy hả chị? Mang  trên vai một “người bạn” mà họ không hề thích, chẳng hề quý sẽ rất khổ  cho cả hai.
 - Nhưng lâu nay cô chủ của chúng ta vẫn sống yêu đời và  hạnh phúc đấy thôi! Em thử nghĩ coi, giả như cô ấy có “quẳng gánh nặng  đi để vui sống” thì cô ấy liệu có thực vui và thực sự hết được gánh  nặng? Em muốn cô chủ là một kẻ trốn “nợ” và hắt hủi em sao? Nếu vậy,  thánh giá, nghị lực, ý chí, trách nhiệm trong cuộc đời này còn ý nghĩa  gì đây?
 Nó im lặng hồi lâu. Chị trỏ chuyển giọng:
 - Em thấy mình là “của nợ” ư ? Vậy lo mà trả, đừng giống như con dế ngồi ở đáy hang nữa, em sẽ ngộp thở cho mà coi…
 Nó gục đầu không nói, nước rỉ ra nơi khóe mắt. Chị hạ giọng:
 - Nếu em không thể giúp gì được cho cô chủ thì em vẫn có thể hát kia  mà, khi hát những đường vân tay nơi em sẽ hiện lên rõ hơn, hãy ngắm kỹ  chúng và em sẽ thấy sự sống của em trên thân thể cô chủ đã đủ là một quà  tặng của Chúa rồi.
 - Em muốn như thế lắm, nhưng đó chỉ là một khát mong, còn thực tế thì…
 - Điều mà em đang chạy trốn cũng như điều mà em đang khát mong đều có sẵn nơi chính em đấy thôi.
 - Vật em phải trả “nợ” sao đây chị?
 - Cuộc đời sẽ bớt nặng, sẽ tươi vui và ý nghĩa hơn khi em sống tâm tình “nợ là một quà tặng”.,
 - Là sao hả chị?
 - Đơn giản là trả nợ bằng một ánh mắt biết ơn, một nụ cười hiền hòa,  một cái bắt tay ấm áp hay chỉ là một ý nghĩ cảm thông… Em và cả chị nữa  đều nợ bà chủ, cô chủ, cha mẹ, bạn bè, người thân trong những lúc họ  nâng đỡ, sẻ chia vui buồn với chúng ta.
 - Còn Thiên Chúa thì sao hả chị?
 - Chúng ta nợ Ngài cả cuộc đời hữu hạn này…Từ ngày cô chủ thích những  con chữ và những cuốn sách cô hay tâm niệm “học đạo, học văn và học cách  làm người” cô ấy đã học và đã làm được. Nhờ cô mà chúng ta biết Chúa và  nhờ Chúa mà chị em mình được sống, mà nói đúng hơn là Đức tin của bà  chủ đã cho chúng ta sống. Cô chủ nói: Chúa là Đấng công bằng và giàu  Lòng Thương Xót, có kẻ Chúa ban cho rồi Chúa lại lấy đi nhưng có người  Chúa lấy đi rồi Chúa lại đong, lại lắc, lại dằn mà đổ đầy tràn những ơn  lành khác trên họ. Có điều chúng ta có đủ tin để xin, để tìm và gõ cửa  nơi Chúa hay không mà thôi em ạ !
 Với tất cả ngôn từ của lý trí và  tình cảm chân thành, dường như chị muốn giúp nó vượt qua chính mình,  vượt qua cái khiếm khuyết về thể lý bằng niềm tin và nghị lực mà chị đã  học được nơi bà và cô chủ.
 Đêm càng về khuya, trăng càng sáng, trong  thinh lặng nó miên man đuổi theo những suy nghĩ chạy dọc trong lòng.  Sau cơn rối trí thấy nét mặt nó định tâm hơn, chị trỏ trầm ngâm rồi kể  tiếp:
 - Hôm qua cô chủ cầm tờ nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, em có biết chị thấy gì không?
 - Thấy gì hả chị?
 - Là hình những thai nhi lấm lem máu tươi…
 Nó ớn lạnh, chị lại hỏi:
 - Em có biết vì sao không?
 - Do người ta mang thai ngoài ý muốn phải không chị?
 - Đó chỉ là một trong hai nguyên nhân mà bài báo viết mà thôi. Là do  người lớn họ nghĩ con mình bị dị tật, nghĩ con mình là quái thai, mà với  họ quái thai, dị tật thì chỉ là gánh nặng, là của nợ và họ loại bỏ…bây  giờ thì em thấy Chúa thương em chưa?
 - Nhưng còn các em bé vô tội kia thì sao chị?
 - Tất nhiên là Chúa cũng thương các em bé đó rồi nhưng theo cách của  Chúa em ạ! Ngài cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như kẻ dữ, người già  cũng như em bé thơ, người tàn tật cũng như kẻ lành lặn…Có điều người ta  đã lạm dụng tự do Chúa ban mà tự cho mình có quyền trên sự sống của con  mình, sự ích kỷ đã làm họ mù quáng. Có lẽ họ tin vào những chiếc máy  siêu âm đa chiều hơn là tin vào quyền năng của Chúa?
 Nói đến đó, chị  cúi xuống ghi vào lòng bàn tay dị dạng của nó mấy dòng chữ: “Có người  phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình  mang nặng đẻ đau. Cho dù người mẹ có quên con đi nữa thì Ta, Ta cũng  chẳng quên con bao giờ” (Is 49,15).
 Đọc xong mấy dòng ấy, nó hướng  mắt vào bức hình Chúa Giêsu bồng em bé và ngẫm nghĩ gì đó thật lâu. Buột  miệng nó nói : Chị ơi, em hiểu rồi, cám ơn chị, chị ở lại cầu nguyện  cùng em nhé!
 Bóng hai bàn tay, một lành, một tật ịn lên bức tường  màu vàng nhạt chiếu xuống bởi ánh đèn ngủ. Đó là lần đầu tiên nó muốn  cầu nguyện cho kẻ khác, lần đầu tiên nó bước ra khỏi chính mình. Bỗng  trong thâm tâm nó cứ lặp đi lặp lại một điệp khúc: “Con là kết quả Tình  Yêu của Ta. Con độc đáo. Con duy nhất. Con không thể là ai khác cho dù  con bắt chước.Ta cần con”.
 Phải chăng đó là bài ca đầu tiên của trái tim ? Bống nó muốn hát…
 …
 Giữa khuya, một giọng ca nho nhỏ quyện vào tiếng con trùng gọi nhau  trong đêm, thì ra giọng hát của Ân tự làm cô giật mình thức giấc. Cuốn  sách của Helen Keller vẫn úp ngược trên ngực, một ngón trỏ kẹp ở trang  số 288… Ân ngồi dậy làm dấu Thánh Giá rồi với tay bất chiếc đèn bàn cũ  kỹ. Cô hì hục viết, viết về giấc mơ có thật của mình. Có tiếng gà gáy xa  xa, Ân đặt một dấu chấm cho câu chuyện như cổ tích của mình. Cô buông  bút, nhìn bàn tay trái mỏi nhừ trên tập A4 chi chít chữ, vài dấu mực còn  dính trên bàn tay nhỏ. Cô tự cười mình.
 Vẫn bức hình Chúa bồng bé  thơ bên góc bàn, Ân nhìn cung kính rồi âu yếm áp tấm hình vào lòng. Cô  thì thầm đọc ba kinh Kính mừng cầu nguyện cho bẩy thai nhi mà vừa chiều  qua cô cùng nhóm bạn với vị cha xứ già vừa chôn cất trong nghĩa trang  Thiên thần. Chợt cuốn lịch bàn có note đỏ ngày 27/03 va vào tầm mắt cô,  Ân sực nhớ cô chưa tập đáp ca cho Thánh Lễ Vọng Phục Sinh ngày mai.
 Bên ô cửa sổ nhỏ, sau một đêm ngủ vùi, dường như chỉ có mấy bông dã quỳ vàng da diết đón đợi mặt trời.
 (Tặng K’Sa, Mai Lan và các em                                                                                 
 trong trung tâm khiếm thị Nhật Hồng)
dvtung
11-06-2016, 08:51 AM
Mã số: 16-117  
 
DẤU CHÂN  Sắp bước vào mùa mưa, không khí và luồng gió thay đổi. Nỗi lo lại hiện  lên trên nét mặt gầy gò của anh. Rời bỏ quê hương, anh đưa vợ và ba đứa  con nhỏ vào miền nam lập nghiệp. Tiền thu được từ việc bán mảnh vườn nhỏ  ở quê chỉ đủ mua một thửa đất nhỏ nơi vùng đất mới. Anh cùng vợ ra sức  dựng một ngôi nhà tạm bợ, ngôi nhà được lợp bằng những tấm tranh do  chính tay hai anh chị cắt về và đan nên. Xung quanh ngôi nhà được thưng  bằng những tấm ván đã cũ kĩ. Nơi vùng đất mới này, cuộc sống tuy còn  nhiều khó khăn nhưng hầu hết mọi người đều có nhà vững chắc. Có lẽ họ di  cư vào đây cũng đã lâu. Mọi người đi qua nhà anh đều ngỏ vào với con  mắt hiểu kì, không biết họ đang cảm thông hay đang nghĩ cuộc sống của  anh sẽ như thế nào nơi vùng quê hẻo lánh bằng hai bàn tay trắng. Thêm  vào đó, anh cùng vợ phải ra sức kiếm tiền nuôi ba đứa con nhỏ.
  Thường thì anh đi làm cuối tuần mới về. Vào mùa mưa, công việc nhiều nên  anh làm thuê cho những người trong làng, buổi tối được sum họp với gia  đình. Hôm nay đi làm bị mắc mưa, anh cảm thấy hơi mệt, toàn thân rã rời,  ăn cơm xong anh vội lên phòng ngủ, bất chợt giữa đêm vợ gọi:
 - Chồng ơi?
 Dường như anh không nghe được tiếng vợ gọi. Người vợ lay nhẹ vào lưng chồng và gọi tiếp:
 - Chồng ơi?
 - Sao vậy vợ ?
 Vợ chưa kịp trả lời anh đã nhận biết điều gì đang xảy ra. Trời đang mưa  to, những giọt nước mưa thẩm qua lớp tranh đã mục nát chảy xuống giường  nơi vợ chồng anh và ba đứa con nằm ngủ. Anh vội di chuyển con và dùng  bao nylon chèn vào những lỗ hổng. Vợ ôm con ngủ tiếp. Anh không sao ngủ  lại được, anh lăn qua lăn lại. Dường như có một cái lạnh đang len lỏi  vào tâm hồn anh, không phải là cái lạnh của thiên nhiên, của mưa gió, đó  là cái lạnh của tâm hồn, cái lạnh xẻ sâu vào bên trong tâm hồn. Anh  thấy thương vợ và các con. Anh là người chèo chống con thuyền gia đình  giữa phong ba, những lại để cuộc sống người mình yêu thương phải trôi  dạt vào hoàn cảnh bi đát. Tâm trạng anh không sao diễn tả được. Anh tự  nhủ với lòng mình sẽ siêng năng làm việc, hy vọng mai này cuộc sống tốt  hơn. Anh vội ngồi dậy đọc kinh rồi xuống bếp nấu cơm. Anh không quên hấp  một ít khoai lang để dành phần đưa đi làm.
 Nơi ngôi làng của anh,  hầu hết là người Quãng Ngãi di cư vào, không một gia đình Công giáo. Anh  hỏi thăm mọi người xem gần đây có nhà thờ nào không nhưng không một  người nào biết. Sau này qua tìm hiểu anh mới biết là có nhà thờ nhưng xa  lắm. Lâu lắm rồi anh chị không đi lễ, không xưng tội. Anh nhớ cảm giác  Thánh Lễ sốt sắng nơi quê hương, nơi mọi người cùng nhau đi lễ, cùng  chuyện trò, cùng chung bao niềm vui nỗi buồn của đời thường. Nơi đây anh  không sao tìm được cảm giác linh thiêng đó.
 Hằng năm, vào dịp lễ  thánh Antôn, anh đưa vợ và con đi dự lễ. Bảo là đi lễ nhưng tới nơi thì  mọi người về hết rồi. Anh cùng gia đình vào đọc kinh, cầu nguyện rồi  cùng nhau đi bộ về nhà.
 Niềm hạnh phúc đối với anh là có một người  vợ chịu thương, chịu khó, biết động viên chồng những lúc khó khăn và  chăm con thật tốt. Mỗi lúc đi làm anh thấy yên tâm vì ở nhà đã có vợ  quản xuyến mọi việc. Vào mỗi buổi tối hoặc sáng, anh chị cùng các con  đều đọc kinh chung với nhau. Anh muốn giữ thói quen tốt đẹp được thừa  hưởng từ bố mẹ, đồng thời anh muốn nuôi dưỡng đời sống đức tin nơi vùng  hẻo lảnh này, đặc biệt anh mong qua các việc làm đó giúp mấy đứa con có  đời sống đạo đức và khôn lớn trong ơn nghĩa Chúa . Sáng nay gia đình  đang vội ăn sáng để chuẩn bị đi làm bỗng có tiếng gõ cửa và giọng nói  vang lên.
 - Mày mở cửa ra mau?
 Anh vừa mở cửa thì một nhóm người  xông vào đánh anh tới tấp. Anh chưa kịp định hình được chuyện gì thì  khuôn mặt đã bầm tím. Người vợ ngăn cản, vả lại tiếng mấy đứa nhỏ hốt  hoảng khóc người ta mới dừng không đánh anh nữa.
 - Sao mày dám ăn trộm gà của nhà tao?- Tiếng một người hét lên.
 - Ông nói gì tôi không hiểu.
 - Mày còn giả vờ không biết sao?
 Họ lại xông vào đánh anh.
 - Nhà mày nghèo, không phải mày ăn trộm thì ai vào đây nữa? Từ ngày mày chuyển vào đây là xảy ra những chuyện thế này.
 - Đạo của mày dạy mày vậy hả?
 Mặc sức hai vợ chồng thanh minh người ta vẫn không tin. Hôm nay được  một trận đòn nhừ tử, trên người đầy vết bầm tím, đau quá nên anh không  đi làm được. Anh ở nhà làm vườn cùng với vợ. Hai vợ chồng làm cỏ đậu và  trò chuyện vui vẻ bỗng anh hỏi vợ:
 - Vợ nè?
 - Sao vậy chồng?
 Anh thinh lặng một lúc rồi nói tiếp:
 - Mình chuyển về quê sống nhé?
 - Sao vậy chồng?
 - Ở đây người ta đối xử với gia đình mình tệ quá.
 - Đừng chồng à. Khó khăn lắm chúng ta mới vào được nơi này, nhà mình  mới mua được mảnh đất tốt nữa. Vợ chồng mình chịu khó làm ăn ít năm sẽ  đỡ khổ.
 - Ở đây lại không có nhà thờ nữa?- Anh nói tiếp.
 - Không có rồi sẽ có mà anh, Chúa thương Ngài sẽ ban cho.
 Lời vợ khuyên có vẻ hợp lý, anh đành bỏ ý định về quê. Hôm nay trong  làng lại xảy ra chuyện mất trộm, người ta bắt được kẻ cắp. Qua lời khai  của nó, mọi người mới biết là đánh nhầm anh. Anh không phải là người ăn  trộm những lần trước. Tối hôm đó, nhóm người kia lại kéo đến nhà. Thấy  nhóm người cũ, mấy đứa con của anh mặt biến sắc, chúng hoảng hốt chạy  vào trong phòng. Chúng đang mường tượng chuyện gì sắp xảy ra. May thay  lần này không xảy ra bất cứ cuộc xung đột nào, không phải để đánh đập  nhưng là xin lỗi. Từ ngày đó, mọi người quan tâm gia đình anh hơn. Những  đặc tính tốt lành nơi vợ chồng anh giờ này người ta mới nhận ra, cái  nhìn bị che khuất bởi màn tối nào đó làm người ta không thấy được sự  chân thành nơi anh chị. Nhưng giờ mọi chuyện đã khác, họ bắt đầu nể phục  vì nhân cách của anh chị. Bị đối xử bất công nhưng anh không bao giờ  hận thù, anh tâm niệm rằng chắc là Chúa đang rèn luyện bản thân mình.
 Sáng nay, vợ nấu được ấm chè xanh, anh gọi bé út qua mời mấy nhà hàng  xóm sang uống nước. Từ ấm trà, mọi tiếng vui cười vang lên. Hơi ẩm từ  bát chè xanh như ánh nắng sưởi ẩm tâm hồn người ta. Cuộc sống gia đình  anh ngày một khẩm khá, rẫy cà phê anh mua hồi nào giờ nay đã cho thu  hoạch. Năm nay thu hoạch được mùa, nguời vợ bèn bảo chồng:
 - Chồng! Mình vào đây cũng gần mười năm rồi, mình đưa các con về thăm nội ngoại nhé?
 Lời nói của vợ dường như trúng với ý định của anh. Thế là hai vợ chồng  cùng mấy đứa con bắt xe trở về thăm quê hương. Khi gần tới nhà, anh cứ  nhìn ra cửa sổ, cảnh vật dường như thay đổi nhiều, không còn giống thời  anh chuyến đi, mọi vật lạ lẫm với anh giống như anh chưa từng sống ở  đây. Có những đoạn đường anh không nhận ra được nữa. Chiếc xe lăn bánh,  khoảng cách nhà lại trở nên gần hơn, càng gần tới nhà lòng anh hồi hộp  không sao diễn tả được. Tim anh càng lúc càng đập mạnh. Anh quay sang ôm  vợ và con vào lòng, mọi người rưng rưng nước mắt vì sắp được gặp ông  bà. Khi thấy anh chị và mấy đứa cháu vừa bước vào cổng, bà nội vội chạy  ra ôm mấy đứa rồi khóc, lâu lắm rồi bà cháu mới gặp nhau, mọi người đều  khóc trong niềm hạnh phúc.
 - Mẹ khỏe chứ, bố đi đâu hả mẹ?- Anh vội hỏi.
 Mẹ anh rưng rưng nước mắt rồi nói:
 - Bố con mất hơn hai tháng nay rồi. Mẹ không có cách nào liên lạc với con được.
 Đôi chân anh sụp xuống, toàn thân rã rời. Anh khóc như một đứa trẻ. Tâm  hồn anh trống rỗng, một nỗi đau xẻ sâu vào tim anh, mọi thứ xung quanh  anh như đang quay cuồng. anh không thể đứng dậy được. Vậy là những lần  anh thức suốt đêm viết thư cho bố mẹ nhưng không đến nơi được. Anh thấy  thật có lỗi, thật bất hiếu với những công lao của bố mẹ, mọi thứ đang  dội vào đầu anh. Mẹ ôm anh vào lòng và an ủi.
 - Những ngày nằm trên  giường bệnh bố thường hỏi tình hình của các con và cháu, không biết tụi  nó có khỏe không, cuộc sống có tốt không? Mẹ nói với bố là các con và  cháu vẫn khỏe?
 - Sao lâu rồi mà gia đình nó không về thăm tôi với bà nhỉ?
 Người mẹ nói đến đó anh càng khóc to hơn.
 - Bố thấy có lỗi vì chưa giúp được gì cho các con. Bố không bao giờ  than trách các con. Tụi con đừng quá đau lòng, giờ này trên thiên đàng  chắc bố đang dõi theo các con. Bố chỉ mong các con luôn khỏe mạnh và  sống đẹp ý Chúa.
 Lòng anh phần nào được an ủi. Anh cùng gia đình ra  mộ thắp hương cho bố. Đứng trước mộ bố, gia đình anh không ai nói lên  lời, mọi người đọc kinh, anh không kìm được nước mắt, anh cầu nguyện  thật nhiều cho bố.
 
٭٭٭
 Sắp bước vào  thời kì tưới nước cho cây cà phê nên anh và gia đình phải trở lại miền  nam. Anh muốn đưa mẹ đi để phụng dưỡng mẹ, vì với anh sự ra đi của bố  làm anh thấy chưa làm tròn trách nhiệm của người con. Mẹ anh muốn ở lại  để lo thắp hương cho bố, khi nào thuận tiện sẽ vào thăm vợ chồng anh.
 Anh trở về nhà mình trong nước mắt, tâm trạng anh bao nỗi niềm đan xen.  Anh vui vì có được thời gian ở bên mẹ và thắp được nén hương cho bố.  Nhưng anh vẫn cảm thấy buồn, nỗi buồn không diễn tả được. Có nhiều người  khác cũng theo anh vào nam lập nghiêp. Không khí ngôi làng giờ nhộn  nhịp hơn. Họ cùng chung nhau mua hai sào đất để dựng một ngôi nhà  nguyện. Gia đình anh là người đóng góp nhiều nhất. Ao ước của anh bao  năm giờ mới thực hiện được. Anh đã làm nhà cho mình, giờ mới làm được  một ngôi nhà nhỏ để phụng thờ Thiên Chúa. Từ ngày có người cùng quê,  thêm vào đó đời sống thánh thiện và hiền lành của anh chị cảm hóa được  nhiều người theo đạo, họ cũng muốn có một cuộc sống hạnh phúc như anh  chị. Họ xin phép Cha xứ thành lập giáo họ và nhận thánh Antôn làm quan  thầy bổn mạng.
 
٭٭٭
 Chỉ ít ngày nữa là  đến lễ bổn mạng của giáo họ, cái lễ đặc biệt trong đời. Mọi người, không  phân biệt lương giáo đều nghỉ làm để lo công việc cho Thánh Lễ. Họ chia  nhau phát quang cây cối hai bên đường, san lại những ổ gà, lau và quét  mạng nhện trong Nhà thờ. Nam nữ thanh niên xách những xô nước tới lên  mặt đường cho đỡ bụi, những đứa trẻ thấy thích thú nên chúng cũng ùa vào  làm chung. Mọi người từ già đến trẻ đều có công việc của mình. Thánh Lễ  diễn ra hết sức ẩm củng. Cả giáo họ không kể lương giáo có một bữa ăn  thịnh soạn. Thức giấc sau bữa tiệc, anh sực nghĩ về những điều đã qua,  để có được ngày hôm nay, anh phải trải qua bao khổ cực, nhưng anh biết  rằng ở đâu đó tình yêu Chúa luôn hướng dẫn anh.
 Sáng sớm, bầu trời  đầy sương đang bao phủ xóm làng, mặt trời đang dần nhô lên chiếu tỏa  những tia nắng xua tan đám sương dày đặc. Ánh mặt trời dường như cũng  xóa đi những đen tối nơi tâm hồn mỗi người. Hơi ẩm của nó như bếp lửa  hồng sưởi ẩm tâm hồn giá lạnh của con người nơi vùng quê hẻo lánh. Mở  đầu một ngày sống mới, hoạt động của mọi người lại nhộn nhịp, họ trở lại  với nhịp sống hằng ngày để bươn chải lo toan bao nhu cầu cuộc sống.  Nhưng phía trước họ đã không còn là bóng tối thủa ấy, phía cuối con  đường có một tia sáng đang dẫn bước chân họ. Với anh, trong ảnh mắt vẫn  còn điều gì đó, chắc là hình ảnh người bố hiện về trong tâm trí, cũng có  thể hình ảnh của người mẹ già đang phải vất vả với công việc đồng ảng.  Mọi việc rồi sẽ tốt đẹp nếu biết tin tưởng vào Chúa, anh tự nhủ như thế  rồi vội đứng dậy ra chạy xe công nông vào rẫy.
dvtung
11-06-2016, 08:51 AM
Mã số: 16-118  
 
KHÔNG BAO GIỜ MUỘN ĐỂ THA THỨ Đang yên giấc trong căn phòng ấm cúng, Hải bổng choàng tỉnh vì điện thoại có tin nhắn.
  “ Ba ơi, con nhớ Ba, con có thể gặp Ba được không?”
    Câu hỏi của bé An đã làm thức dậy nơi anh bao nỗi niềm vốn đã cố chôn vùi nhưng thật ra luôn canh cánh bên lòng.
 Một năm rồi, kể từ ngày vợ chồng anh chia tay, căn nhà phải bán đi để  Lan trả nợ. Lan dẫn hai con về bên ngoại, Hải vào sống trong chung cư  gần công ty. Từ đó anh không còn liên lạc gì với họ nữa.
    Thời  gian như một giấc mơ, cho tới lúc này anh cũng không thể tin mình lại  rơi vào hoàn cảnh như  hiện nay. Cách đây 20 năm, khi mới bước chân vào  đất Sài Gòn lập nghiệp, với đôi bàn tay trắng, anh đã phải vất vả rất  nhiều. Những lúc một mình bươn chãi với cuộc sống, nhớ mẹ, nhớ anh chị  em, Hải tự hứa với lòng mình là khi đã có sự nghiệp anh sẽ không sống  cảnh cô đơn một lần nào nữa, vậy mà…
 Từ một thanh niên nhà quê chỉ  với bằng trung học phổ thông, nhưng với một quyết tâm phải vươn lên, Hải  đã tự học trong khi vất vả mưu sinh. Anh đã gầy dựng sự nghiệp, có nhà  cửa và trở thành phó giám đốc công ty xuất nhập khẩu Thành Đạt. Rồi Hải  gặp Lan, một cô gái xinh đẹp, hiền thục và đang làm kế toán cho công ty  của bạn anh.
 Đám cưới của hai người là một lời chúc phúc. Cặp đôi  hoàn hảo trai trài gái sắc được sự ngưỡng mộ của bao bạn bè và đồng  nghiệp. Lan chỉ sống một mình với mẹ, cô đồng ý theo đạo. Sau khi kết  hôn, anh đưa mẹ và các anh chị em của mình vào thành phố. Các em của anh  tiếp tục học đại học và ra trường. Các anh chị có công việc ổn định và  cuộc sống hơn hẳn đời sống nơi miền quê ngày nào. Đối với bà con dòng  họ, anh còn giúp nhiều người tìm công ăn việc làm và họ biết ơn anh lắm.  Trong mắt mọi người, Hải là một anh hùng, là thần tượng, một người mẫu  mực, tài năng. Lời anh nói ra thường được mọi người nghe theo. Gia đình  của anh là niềm mơ ước cho nhiều người.
 Xuất thân là gia đình đạo  gốc nhưng đã lâu lắm rồi, sau khi lên thành phố làm việc, Hải đã không  còn nhớ đến Chúa. Vì là người Công giáo nên đám cưới của anh cũng được  tổ chức ở Nhà Thờ, con anh cũng rửa tội nhưng rồi sau đó thì hầu như anh  rất ít đi lễ. Anh bận lo tạo sự nghiệp. Nhất là từ khi lên chức, để  tiếp tục thăng tiến, Hải phải cố gắng hơn nữa, làm gì có thời gian dành  cho Chúa. Anh cũng không còn nhiều thời gian dành cho gia đình, vợ con.  Lan vì đạo theo nên cũng chẳng mặn mà gì chuyện kinh lễ. Dù bao lần mẹ  anh phàn nàn về đời sống đạo của gia đình, Hải chẳng mấy quan tâm…
  Cho đến một ngày, cuộc sống gia đình anh bổng rẻ sang một lối khác. Đó  là khi Lan quen với Tiến. Y đã có gia đình và là tay ăn chơi sành điệu.  Mọi người và bạn bè lên tiếng nhưng Hải không tin. Làm sao có chuyện đó  được. Lan trước giờ là một người vợ hiền thục. Với lại Lan tìm đâu ra  một người chồng gương mẫu, giỏi dang như anh…
 Mãi đến ngày kia, anh  tận mắt chứng kiến Lan cùng người tình đi vào khách sạn. Khi trở về, Lan  đã thú nhận tất cả. Hải còn biết thêm, cô đã vay nợ rất nhiều trong  thời gian qua để lo cho Tiến, gia đình của anh ta cũng như cung phụng  cho đám bạn bè của họ trong những cuộc ăn chơi.
 Trong cơn tức giận,  Hải quyết định ly hôn. Lan cũng đồng ý vì cô đang say sưa với tình yêu  mới. Thế nhưng chỉ một thời gian sau đó, khi phát hiện Lan đã hết giá  trị lợi dụng, Tiến đã bỏ Lan để trở về với mái ấm gia đình mình. Thì ra  anh ta chỉ là một tay xã hội đen, thấy Lan hiền lành, đơn sơ nên lừa cô  để lấy tiền. Lan hụt hẫng vì bị phản bội, cái giá phải trả cho kẻ dại  khờ. Cô vật vã, khóc lóc trước sự thật phủ phàng. Chỉ tội hai đứa bé  Nguyên và An còn nhỏ dại đã thiếu vắng tình cha giờ lại phải chịu đựng  nỗi đau của mẹ.
 Phần Hải từ khi chia tay vợ con, đã rơi vào chán  nãn, thất vọng, hận đời, hận người và giận luôn cả Chúa. Anh xấu hổ với  gia đình, bạn bè, người thân, cho dù mọi người không ai coi thường anh,  họ vẫn cầu nguyện cho anh, vẫn kính trọng anh nhưng anh không còn mặt  mũi nào nhìn họ được nữa.
 Khi không còn sống với nhau Hải mới phát  hiện mình còn yêu Lan. Hải nhận ra trong sự phản bội của Lan, anh cũng  có một phần trách nhiệm. Anh chỉ biết làm việc, đưa tiền về nhà cho vợ  con. Với bản tính gia trưởng, anh quyết định hết mọi việc lớn nhỏ trong  nhà, Lan không được có ý kiến và chỉ biết làm theo. Chỉ có Lan là quan  tâm và lo lắng cho chồng con thật đầy đủ còn cô thích gì, cần gì anh hầu  như không biết. Ngược lại, khi đi với Tiến, Lan được quan tâm, chăm  sóc, coi trọng, cưng chiều, được hưởng thụ qua những buổi tiệc, cuộc  chơi….
 Đang phân vân, không biết trả lời con thế nào thì bỗng chuông điện thoại reo và tiếng một cô gái:
 - A lô, chị Lan có phải là người nhà của anh không? Chị bị tai nạn đang cấp cứu trong bệnh viện Chợ Rẫy.
 Hải nhìn số gọi đến. Đúng là điện thoại của Lan. Chỉ kịp khoác chiếc áo và lấy mũ an toàn, Hải phóng xe đến bệnh viện.
 Gặp cô gái báo tin cho anh trước cửa phòng cấp cứu. Cô ta nói tình  trạng Lan rất nguy kịch nên đã làm thủ tục cho Lan vào cấp cứu rồi. Cô  ta chỉ là người đi đường nhưng thật là tốt bụng, Anh nhận hồ sơ và hết  lời cảm ơn cô.
 Hải gọi điện cho Bé An, bảo con báo cho bà ngoại và anh ngồi chờ.
 Nửa tiếng sau, bà Hoa mẹ vợ anh và hai con tới. Vừa thấy anh, An và Nguyên đã khóc nức nở.
 Ôm hai con vào lòng, anh xúc động không nói nên lời. Hải mong gặp lại các con nhưng không phải là trong hoàn cảnh này.
 Thời gian thật nặng nề, ba tiếng đồng hồ trôi qua.
 Cửa phòng cấp cứu xịch mở, bác sĩ bước ra. Hải đứng bật dậy.
 - Bệnh nhân sao rồi bác sĩ ?
 - Tình trạng bệnh nhân rất nguy kịch, đầu bị va đập mạnh nên bị chấn  thương não, chúng tôi đã cấp cứu nhưng tim cô ấy lại có vấn đề nên rất  khó tỉnh lại.
 Bé An nước mắt ràn rụa vừa khóc vừa nói: “Lạy Chúa,  xin cứu má con. Lạy Mẹ Maria, xin cho Má con được tỉnh lại…”. Nguyên  thấy chị khóc cũng khóc theo.
 Quay qua Hải, An nói: “Ba ơi, Ba cũng  cầu xin Chúa đi Ba. Soeur dạy Giáo lý của con nói hễ hai ba người họp  lại cầu xin điều gì thì Chúa cũng ban cho”.
 - Cầu nguyện hả… Ờ, con cầu nguyện đi…
 Đầu óc rối tung, Hải đổ nhào xuống ghế và bất động.
 Khóc một hồi lâu, hai đứa nhỏ mệt thiếp ngủ bên Bà ngoại.
 Bà Hoa nãy giờ cũng nước mắt tràn trề. Bà thương cho đứa con gái hiền  lành nhưng gặp nhiều đau thương. Với một giọng trầm buồn bà kể với Hải:  Từ khi bị Tiến bỏ rơi, Lan bị sốc nặng, lại mất việc ở công ty nên phải  xin làm công nhân ở một công ty khác. Cô vất vả lo cho hai con đi học.  An học lớp 5 và Nguyên lớp 1. Bà thì già rồi nên chỉ ở nhà đi chợ nấu  ăn. Nửa năm trở lại đây, Lan vì làm việc quá sức nên rất hay mệt. Nhưng  cô phải cố gắng vì gánh nặng của gia đình chỉ trông vào một mình cô. Rất  may, Lan có quen một người bạn Công giáo đã nâng đỡ Lan rất nhiều. Cô  ấy rủ Lan đi Nhà thờ, Lan đã cho hai con đi học giáo lý. Lan đã tìm được  sự an ủi và sức mạnh nơi Chúa để tiếp tục cuộc sống. Bà rất mừng vì con  gái mình trở nên mạnh mẽ hơn…
  Như một người thất thần Hải đứng dậy  bước đi. Anh nói với mẹ là đi ra ngoài một lát. Thật ra anh cũng không  biết đi đâu, nhưng nhìn thấy Lan nằm bất động trên giường bệnh anh vô  cùng sợ hãi và lo lắng. Hải chỉ muốn cho mình được bình tỉnh trở lại.  Với những bước chân nặng nề vô định anh không biết mình đã đi bao lâu.  Cho đến khi nhìn lên thấy một Nhà thờ, thoáng chút do dự, sau đó anh  bước vào bên trong.
 Lặng quỳ ở hàng ghế cuối cùng, Hải thưa với  Chúa: “Lạy Chúa, giờ con phải làm sao đây? Bây giờ con mới đến với Chúa,  Chúa có tha thứ cho con không? Con biết mình sai rồi vì đã từ bỏ Chúa.  Nhưng xin Chúa hãy xót thương cứu Lan qua cơn nguy biến này…”
 Không  gian thật trầm lắng. Chỉ có tiếng gió nhẹ và tiếng chim sẻ ríu rít trên  trần Nhà thờ. Ở đây, Hải cảm thấy thật dễ chịu và lòng mình nhẹ hơn đôi  chút.
 Trên Thập giá, ánh mắt Chúa Giêsu đang nhìn anh, và Hải nghe  như có tiếng nói trong tâm hồn.: “Cha đã tha cho con rồi. Con cũng hãy  tha thứ cho Lan và cho chính mình đi. Có như thế thì con mới được bình  an”.
 Ngước nhìn lên cung thánh với hàng chữ: Hãy đến với lòng thương  xót Chúa, Hải thầm thỉ: “Vâng, lạy Chúa, xin Chúa hãy ban sức mạnh cho  con. Con xin phó thác mọi sự trong tay Ngài”.
 Đứng lên, Hải quyết định trở lại bệnh viện thưa với mẹ vợ để anh được chăm sóc Lan và lo cho hai con.
 
Powered by vBulletin® Version 4.1.7 Copyright © 2025 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.