PDA

View Full Version : GIÚP BẠN DẠY GIÁO LÝ



littlewave
02-12-2008, 09:12 PM
GIÚP BẠN DẠY GIÁO LÝ

Học Kinh Thánh trong năm nầy hầu như xuất hiện tại các Nhà thờ khắp đất nước ta nhất là tại cac Nhà thờ ở thành phố. Nhu cầu phải có bản dịch Kinh Thánh của Hội đồng Giám mục Việt nam được nhắc tới như một đòi hỏi của mọi thành phần Dân Chúa người Việt. Kẻ hèn nầy chỉ dám nói tới như vậy. Để trả lời một số câu hỏi của quý bạn dạy Giáo lý và có thể giúp ích cho người khác, tôi xin gửi bài trả lời một số thắc mắc của độc giả qua trang của VietCatholic sau đây:

I - KINH THÁNH LÀ GÌ?

1. Từ ngữ:

Lần đầu tiên trong văn chương tôn giáo Israen, sách Macabê quyển một (thế kỷ hai trước Công nguyên) dùng từ ngữ “Kinh Thánh” để chỉ tất cả các sách Cựu Ước (Mac 12, 9)

Trước đó, Sách Thánh được gọi bằng các từ ngữ cụ thể: sách Luật của Môisen (để chỉ năm quyển đầu tiên: Khởi nguyên, Xuất hành, Lêvi, Dân số, Thứ luật), sách của Đavid (để chỉ sách Thánh vịnh), sách của Salomon (để chỉ sách Khôn ngoan). Câu nói “Lề luật, Các Tiên tri và các Sách khác" trở nên thành ngữ để chỉ toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước (xem sách Huấn ca, bài tựa).

Sang tiếng Hylạp, người ta dùng chữ “Ta Biblia”, để chỉ tất cả bộ Kinh Thánh. Ta Biblia có nghĩa là “những tấm da viết chữ cuộn tròn lại”.

Ta nên biết thời xưa chưa có giấy viết như chúng ta. Người ta viết chữ trên lá cây kè, trên vỏ cây, trên tấm gỗ có trét lớp sáp, lớp kim loại chì, trên những miếng đất sét rồi nung chín, trên những tấm da. Vì dùng nhiều vật liệu viết khác nhau, sách vỡ mang nhiều tên cụ thể khác nhau:

- Thanh sử (sử xanh) vì người Trung Hoa viết sử trên những thẻ tre có cật xanh.

- Papyrus - là loại cây chỉ thảo, mọc rất nhiều ở châu thổ sông Nil nước Aicập, thân cây cấu tạo bởi sợi và gỗ mềm, người ta cắt thành dải dài, ép chặt và phơi khô thành những “tờ giấy” rộng không quá 15cm, nhưng chiều dài có thể tới 50 mét. Tờ giấy cuốn tròn lại, vì thế mới gọi là “volumen” (do động từ volvere, cuộn tròn). Aicập sản xuất và xuất khẩu papyrus. Tất nhiên, thời đó, người ta dùng giấy papyrus để sao chép Kinh Thánh. Ngày nay, còn giữ lại được một số bản sao:

Papyrus Nash bằng tiếng Do thái (Hébreu), sao chép khoảng thế kỷ hai sau Công nguyên, gồm có bản Hiệu đính Mười giới răn trong sách Xuất hành (Xh 20, 2-17) và ít khoản của Thứ luật (Tl 6, 4...).

Papyrus Rylands sao chép khoảng năm 150, gồm có một số câu Phúc Âm theo Thánh Gioan, chương 18 (Jn 18, 31-33, 37, 38).

Papyrus Bodmer II sao chép khoảng năm 200, gồm các chương I đến chương 14 Phúc âm theo thánh Gioan trừ 6, 11-35.

Papyrus Chester Beatty gồm có một số sách Cựu Ước (Khởi nguyên Isaia, Ezékiel, Daniel, Esther) sao chép khoảng thế kỷ hai sau Công nguyên, và gần trọn bộ Tân Ước trừ các thư mục vụ của Thánh Phaolô (1, 2 Timôthê và Titô) viết vào thế kỷ 3.

Parchemin - là những miếng da cừu hoặc dê cạo sạch, làm giấy viết, sáng chế tại Pergame, thủ đô Mysie, vì thế mới gọi là “parchemin” (perhamena charta = papyrus của xứ pergame).

Codex - da được cắt thành từng miếng và khâu dây thành sách gọi là codex. Có nhiều codex nổi tiếng:

Codex Vaticanus (gọi như vậy vì Thủ bản này thuộc thư viện Vatican), gồm Cựu Ước và Tân Ước trừ sách Macabê, sao chép khoảng thế kỷ 2, bằng Hy lạp ngữ.

Codex Sinaiticus (gọi như vậy vì tìm thấy ở tu viện thánh Cathérine, núi Sinai) viết bằng tiếng Hy lạp, gồm Cựu Ước và Tân Ước với cả thư Barnabê và sách Pasteur d'Hermas không thuộc Kinh Thánh, sao chép khoảng thế kỷ IV

Codex Alexandrius, viết bằng chữ Hy lạp khoảng thế kỷ 5, gồm có Cựu Ước trừ đôi đoạn sách Khởi nguyên, I Samuen, mất Thánh vịnh, Tân Ước thiếu phần lớn Phúc âm theo thánh Mathêu, thiếu hai chương Phúc âm theo Thánh Gioan, và chương 7 thư 2 Corinto ngoài ra còn có thư của thánh Clêmentê Roma không thuộc Kinh Thánh (Codex này thuộc tài sản tòa thượng phụ Alexandrie).

Codex Ephraemi sao chép bằng tiếng Hy lạp, thuộc thế kỷ 5, mang danh thánh Ephrem, gồm có Cựu Ước thiếu một phần sách Khôn ngoan) và Tân ước (thiếu 2 Thess và 2 Jn).

Codex Bexae sao chép bằng tiếng Hy lạp khoảng thế kỷ 5-6 gồm có Tân Ước.

Những từ ngữ Papyrus, Parchemin, Codex bây giờ ta hãy để cho các nhà chuyên môn dùng. Còn chúng ta, ngoài thành ngữ chỉ toàn bộ Cựu Ước (Lề Luật, các Tiên tri và các Sách khác), chúng ta nhớ tới tiếng “Biblia” chỉ toàn bộ Kinh Thánh lẫn Cựu và Tân Ước. Ngoài ra cũng nên nhớ tới kiểu nói “Có Lời đã chép, đã viết” (Il est écrit, xem Mt 4, 4-7) để chỉ Kinh Thánh Cựu Ước. Đáng lẽ nói “Thiên Chúa Giavê đã phán”, người ta nói "Có Lời đã chép, đã nói” tức là dùng thụ động cách để tránh kêu đến thánh danh Giavê, có mục đích vừa nhấn mạnh tới sự thánh thiện vô phương đạt tới của Thiên Chúa vừa chỉ sự trung tín, không bao giờ suy chuyển của lời Chúa phán.

Nếu so sánh các kiểu nói của Do thái và Hy lạp, kiểu nói Do thái dài nhưng ý nghĩa rất phong phú. Đó là tâm lý của người Đông phương. Tên đặt thường mang một ý nghĩa. Dân Việt ta cũng vậy. Đặt cho người này là Hiền, là Dũng là mong muốn cho người đó có đức tính hiền lành, hoặc cam đảm). Dân tây phương không có thói quen đó. Từ ngữ “Ta Biblia” (tấm da viết chữ cuộn tròn) dùng để chỉ Lời Chúa được chép lại, quả thực nội dung từ ngữ đó không nói lên ý nghĩa như vậy, vì nó chỉ có nghĩa là sách, tập sách. Vì thế, người ta thêm tĩnh từ “thánh” vào, gọi là Sách Thánh (la sainte bible) làm cho nó có nội dung phong phú. Tiếng Việt gọi là Kinh Thánh (theo cách nói tiếng Nôm) hoặc Thánh Kinh (theo cách nói tiếng Hán) càng có ý nghĩa hơn:

- Kinh là sách chép lời thánh hiền.

- Thánh chỉ sự thiêng liêng, quyền phép (thí dụ: thuốc thánh, hay như thuốc thánh) hoặc chỉ trí tuệ, đạo đức cao vời (thí dụ: thánh hiền, thánh sư, gioœi như ông thánh, đạo đức như thánh). Nhưng từ ngữ “thánh” trong Kinh Thánh còn vượt lên trên các ý nghĩa trên, vì nhấn mạnh tới hoạt động “thánh” của Chúa Thánh Thần, tới ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần tác động nơi các văn sĩ viết Kinh Thánh (Thánh ký). Vì thế, mọi lời viết ra trong Kinh Thánh thực là thánh như thánh Phêrô khẳng định: “Không bao giờ một lời Tiên tri lại do người phàm tự ý viết ra, trái lại chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có người đã viết ra nhân danh Thiên Chúa” (2 Phêrô 1, 21). Và thánh nhân đã chỉ cho biết giá trị của những lời thánh Phaolô viết ra: “chiếu theo sự khôn ngoan của Chúa mà anh Phaolô đã viết ra cho tín hữu” (2 Phêrô 3, 15), và Ngài gọi đó là Kinh Thánh (xem 2 Phêrô 3, 16). Cùng lập trường với Thánh Phêrô, thánh Phaolô viết: “Tất cả Kinh Thánh đã được Thiên Chúa linh hứng, có ích cho việc giảng dạy, biện bác, tu chỉnh và đào tạo trong đường công chính” (2 Timôthê 3, 16).

Như vậy, tạ tạm định nghĩa: KINH THÁNH là sách do Chúa Thánh Thần linh hứng cho Thánh ký viết ra.

2. Một quyển sách hai tác giả

Thánh Thần linh hứng / Thánh ký viết ra. Một quyển sách có hai tác giả (keœ làm ra). Ta phải hiểu Thiên Chúa và Thánh ký làm việc như thế nào? viết như thế nào?

- Phải chăng Thiên Chúa phán và Thánh ký lắng tai nghe rồi chép ra? (thầy đọc cho học trò chép, viết chính tả).

- Phải chăng Thiên Chúa mạc khải cho Thánh ký những chân lý, những đề mục rao giảng rồi để cho Thánh ký dùng ngôn ngữ của mình viết ra thành bản văn hẳn hoi?

Cách thứ nhất, Thánh ký chỉ là viên thư ký, không thể gọi là tác giả được. Chính “bản thân” Kinh Thánh phi bác giả thuyết này, vì nếu do một ông thầy đọc cho thì các học trò viết “y chang”, đàng này, mấy Thánh ký cùng viết về một đề tài mà văn khác nhau, thậm chí có những Lời Chúa khác nhau. Thí dụ: viết về Chúa Giêsu lên trời, thánh Matthêu nói Chúa lên trời ở Galilê, thánh Luca nói ở Giuđa (Giêrusalem)?

Cách thứ hai, Thiên Chúa là tác giả nội dung mạc khải, còn Thánh ký là tác giả văn chương. Cách này thường gặp trong các bài diễn văn của các nhà lãnh đạo. Thí dụ: bài diễn văn của quốc trưởng, của Đức Giáo Hoàng, luôn luôn do một ban nhân viên soạn thảo theo những tư tưởng của Người thành bài văn rồi đệ trình Người xem lại. Khi đọc, Người diễn tả quan điểm của mình cho phái đoàn v.v... Ai cũng bảo bài diễn văn này của Người. Đúng như vậy vì tư tưởng bài văn của Người và Người chấp nhận văn chương của ban chuyên môn diễn tả tư tưởng của Người, dĩ nhiên cũng phải chấp nhận tài viết văn, tài liên tả tư tưởng trong sáng, lưu loát của ban chuyên viên. Họ không phải là những viên thư ký ghi chép, “sao y bản chính”, nhưng họ đã góp phần sáng tạo làm nên bài diễn văn.

Tuy nhiên, cách thứ hai nầy cũng không thể dùng để cắt nghĩa Thiên Chúa và Thánh ký là tác giả Kinh Thánh được vì Thiên Chúa chẳng những là tác giả nội dung Kinh Thánh mà còn là tác giả văn chương của Kinh Thánh nữa, còn Thánh ký chẳng những là tác giả văn chương mà còn sử dụng quyền tự do trong phần thu thập, trình bày nội dung cho độc giả mình nữa.

Thí dụ: đọc chương 1 và 2 sách Sáng Thế ký, ta không nghĩ rằng ngày nào đó Thiên Chúa “chiếu phim” cho thánh ký biết công việc và thứ tự Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, muôn loài, muôn vật rồi Thánh ký tường thuật lại y nguyên. Trái lại, ta phải nghĩ rằng Thánh ký là một thần học gia được Thiên Chúa trực tiếp mạc khải hoặc qua trung gian các truyền thông, rồi suy nghĩ, sống với các chân lý đó, sau cùng, Thánh ký mới viết ra bằng ngôn ngữ, văn chương của mình trong môi trường văn hóa, trình độ văn minh của dân tộc mình, của một miền chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Thí dụ: thánh Luca cho biết khi viết Phúc âm, Ngài đã “truy tầm gốc ngọn mọi sự” về Chúa Kitô mới viết ra. Viết để phục vụ Giáo đoàn Hy lạp, Ngài boœ ra những gì cá biệt Do thái và những điều có thể gây mếch lòng tân tòng.

3. Ơn linh hứng và mạc khải

a. Ơn linh hứng (inspiration):

Là đoàn sủng dành riêng cho các Thánh ký, giúp thu thập, tìm hiểu, phán đoán và diễn tả Ý Chúa, tư tưởng của Chúa không sai lầm để viết ra thành sách.

Thí dụ: thánh Luca cho biết “bởi chưng đã có nhiều người tra tay diễn tả lại trình tự các biến cố đã thực hiện giữa chúng tôi theo như các keœ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ cho Lời đã truyền lại cho chúng tôi, thì chúng tôi nhất thiết là sau khi đã truy tầm gốc ngọn về mọi sự một cách tường tận, cũng nên cứ tuần tự mà viết ra, thưa Ngài Thiophê, ngõ hầu Ngài được am tường rằng giáo huấn Ngài đã lãnh hội là chắc chắn” (Luca 1, 1-4).

Như vậy, viết Kinh Thánh, thánh Luca đã phải thâu tập, chọn lọc những tài liệu có trước rồi mới viết ra thành tác phẩm. Công việc không khác chi một người viết truyện, một người viết sử hiểu theo nghĩa rộng, nhưng việc làm của Thánh ký khác hẳn nhà viết truyện, viết sử vì tác động của ơn linh hứng khiến cho tác phẩm thánh vừa là của Chúa vừa là của Thánh ký.

b. Mạc khải (révélation):

Mạc là tấm màn che, khải là mở ra, mở tấm màn che cho thấy những gì dấu ẩn trong đó. Thiên Chúa mạc khải là Thiên Chúa toœ ra cho người ta biết Ngài, biết Thánh Ý Ngài, biết tư tưởng của Ngài.

Hoạt động mạc khải gồm ba khía cạnh chính: toœ mình, kêu gọi và thông ban:

- Chúa toœ mình bằng lời nói, cưœ chỉ, việc làm. Thí dụ: Chúa phán dạy Môisen (trực tiếp). Chúa Giêsu tới giảng dạy (trực tiếp) Chúa dùng các Tiên tri đi rao giảng lệnh Chúa (trung gian: gián tiếp). Chúa toœ mình qua sự hiện hữu của vũ trụ (gián tiếp).

- Chúa mạc khải để người ta chạy đến với Chúa và Chúa trao nhiệm vụ (mạc khải luôn luôn có tính thiên triệu). Thí dụ: Chúa mạc khải Thánh danh Ngài (Giavê) cho thánh Môisen và trao cho thánh nhân sứ mệnh giải thoát Israen khoœi Ai cập.

- Chúa mạc khải để thông ban sự sống của Ngài cho ta, thông ban sự thật (chân lý) cho nhân loại để nhân loại được giải thoát khoœi lầm lạc, sống trong chân lý, kết hiệp với Chúa.

4. Hai con đường mạc khải

Chúa mạc khải cho nhân loại biết Ngài bằng hai con đường: TỰ NHIÊN và SIÊU NHIÊN.

a. Mạc khải tự nhiên:

Chúa toœ mình ra trong công trình sáng tạo của Ngài. Điều này suy luận một tí là biết ngay. Nhìn vào tác phẩm dĩ nhiên ta biết có người đã làm ra nó, và có thể biết được tài cán của tác giả. Nhìn vào vũ trụ, dùng lý trí suy luận theo nguyên lý nhân quả, ta biết có Đấng đã tạo nên, tức là biết có Chúa hiện hữu, sáng tạo vũ trụ. Sách Khôn ngoan chương 13, thư Roma 1, 20 làm chứng có mạc khải tự nhiên. Vì thế, ta không lạ gì khi mọi bộ lạc, dân tộc đều tin thờ Chúa có thể dưới nhiều hình thức khác nhau - có khi sai lầm, những danh xưng khác nhau (Thượng đế, Ông Trời, Thần Trời, Ông Xanh v.v...) nhưng người ta phải công nhận rằng chúng đều biểu lộ tâm tình tôn thờ Đấng tạo dựng vũ trụ, muôn loài, muôn vật, cầm quyền vạn vật và ngự trị trên trời cao huy hoàng. Họ tôn thờ Đấng Tạo Hóa có thể dưới hình thức sai lầm như thờ mặt trăng, mặt trời, tinh tú, con thú v.v... vì giải thích sai lầm các hiện tượng thiên nhiên, nhưng tự căn bản họ hướng tới vị Thần linh lớn nhất là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng mọi sự.

Do những sai lầm trong việc tôn thờ, ta hiểu rằng mạc khải tự nhiên không rõ ràng vì cái hữu hình che lấp cái vô hình. Mạc khải này chỉ cho biết một Đấng linh thiêng tạo dựng vũ trụ hoặc chỉ đưa ra câu hoœi: Ai làm ra vũ trụ? Ai cho các muôn vật hiện hữu? v.v... Mặc dầu bài toán vũ trụ đã giúp bác học Newton trả lời: Tôi thấy Thiên Chúa trước viễn vọng kính của tôi, nhưng có lẽ ông trả lời rõ ràng dứt khoát như thế là do ảnh hưởng của mạc khải siêu nhiên.

b. Mạc khải siêu nhiên:

Là sự Thiên Chúa toœ mình ra cho loài người biết bằng hành động nói, làm và nhất là việc Nhập thể và Cứu chuộc của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.

Mạc khải này mang tính cách một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người, ăn sâu vào lịch sử nhân loại, hướng dẫn lịch sử nhân loại theo chương trình của Chúa.

Tác giả thư gưœi người Do thái đã viết: “Đã lắm phen cùng nhiều cách, xưa kia Thiên Chúa dùng các Tiên tri mà nói với cha ông. Nhưng đến thời sau hết, tức là ngày nay, Ngài đã nói với ta nơi một con người, mà Ngài đã đặt làm thừa tự của vạn vật" (Dt 1, 1-2).

Trước hết, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho những vị Ngài tuyển chọn (các Tiên tri rồi chính Con Một của Ngài): đây là mạc khải bằng lời có tính cách cá nhân và lịch sử:

- Cá nhân vì Thiên Chúa dành quyền tuyển chọn từng người một, Ngài ban ơn cho người đó có khả năng nhận lãnh các điều siêu nhiên.

- Lịch sử vì sự đáp ứng của vị được Chúa mạc khải: biến đổi bản thân mình thích hợp với ơn Chúa ban, thích hợp với sứ mệnh Chúa trao phó. Đáp ứng đó là một quá trình lâu dài, một cuộc sống mới. Thí dụ: Abraham đáp ứng lời Chúa kêu gọi boœ quê cha, đất tổ đi về miền Canaan sinh sống ông đã ra đi như một cuộc mạo hiểm theo tiếng Chúa. Thí dụ thánh Môisen sau khi được Chúa mạc khải Thánh Danh và trao cho thánh nhân sứ mệnh giải thoát Israen, thánh nhân đã từ boœ đời cũ, sống trọn cuộc đời theo Chúa.

Tiếp đến, những vị được mạc khải công bố, rao truyền chân lý mạc khải thấm nhập vào cộng đoàn, vào tập thể, vào đất nước. Kết quả là lịch sử của tập thể, của đất nước, của nhân loại mở ra những trang sử mới.

Xét về tự nhiên, ta có thể hiểu được điều trên vì những trang sử nhân loại không phải do mọi người trên thế giới tạo ra, nhưng là do những vị nhân, những nhân vật lịch sử tạo ra. Thí dụ: Thuyết của Copernic “hành tinh quay chung quanh mình và chung quanh mặt trời” (thuyết nhật tâm) làm đảo lộn quan niệm từ xưa tới nay cho rằng “mặt trời xoay chung quanh quả đất, quả đất là trung tâm vũ trụ” tạo nên cuộc cách mạng khoa học (Cách mạng Copernic). Thí dụ: Pasteur dùng các thí nghiệm khoa học chống lại thuyết tự nhiên sinh, trở thành cha đeœ khoa vi trùng học, ngành sát trùng, phương pháp điều chế Vaccin, giúp cho y khoa tiến bộ vượt bực. Thí dụ: Permi thành công trong việc cheœ nguyên tưœ ra làm đôi, tính được năng lượng chúng phóng thích, mở đầu thời đại nguyên tưœ.

Cũng thế, chính những vị được mạc khải đi công bố, rao truyền sứ điệp mạc khải đã làm “đảo lộn” đời sống cộng đoàn, tạo ra nơi cộng đoàn một ảnh hưởng lớn lao, phát sinh một đời sống mới ảnh hưởng tới cả nhân loại. Thí dụ: các Tiên tri loan truyền mạc khải “chỉ có một Thiên Chúa, ngoài Thiên Chúa ra không còn thần minh nào cả, các thần tượng do tay người phàm tạo ra chỉ là vật tầm thường” đã giúp dân Israen thoát khoœi nạn đa thần, mê tín dị đoan, gây một ảnh hưởng lớn lao kéo dài cho tới ngày nay.

Xét về mặt siêu nhiên, ta để ý tới sự can thiệp của Thiên Chúa, hành động của Thiên Chúa hướng dẫn sứ điệp của Ngài do vị Tiên tri loan báo. Mạc khải của Ngài luôn luôn tạo nên những giai đoạn mới cho nhân loại. Chúng ta ghi nhận mấy giai đoạn chính:

4.1 Mạc khải cho Ađam-Eva trước khi sa ngã:

Con người tự nhiên có giá trị tầm thường (là bụi đất, có họ hàng với sinh vật khác vì cùng từ bụi đất), nhưng được Thiên Chúa tạo dựng cách đặc biệt (do hơi thở của Thiên Chúa phú ban sự sống) thành “tác phẩm giống hình ảnh Thiên Chúa”. Vì thế loài người được ưu đãi:

- Sống trong vườn Địa đàng (không nên hiểu là cái vườn, nên hiểu là tình trạng sống hạnh phúc, thánh thiện).

- Sống kết hiệp thân mật với Chúa (Kinh Thánh diễn tả bằng hình ảnh rất thơ mộng: chiều đến, Chúa đi dạo vườn, truyện trò với hai ông bà).

- Với sứ mệnh: Sinh sản và giáo dục con cái trong thể chế hôn nhân (Stk 1, 28) làm chủ chim trời cá biển (chủ thiên nhiên Stk 1, 28). Sống lao động hạnh phúc (canh tác và giữ vườn Stk 2, 15). Sống theo thể chế hôn nhân tự nhiên (đơn hôn, bất khả ly dị Stk 2, 24). Kết hiệp với Thiên Chúa bằng cách giữ luật Luân lý được diễn tả bằng ngôn từ “Không được ăn trái cây biết lành biết dư" ( Stk 2, 17).

4.2 Mạc khải sau khi Ađam-Eva phạm tội:

“Ta sẽ đặt mối thù ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống người đàn bà. Dòng giống bà sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi thì rình cắn gót chân” (3, 15). Lời Chúa phán ở đây là “Tin mầng nguyên thủy” tức là một tin vui đầu tin cho loài người bị chết trong tội lỗi rằng Thiên Chúa sẽ cứu độ loài người (tức là loài người khoœi án tưœ), sự thiện sẽ thắng sự ác qua một trung gian “dòng giống bà”. Tin Mầng này khởi sự công cuộc cứu chuộc nhân loại.

4.3 Mạc khải cho tổ phụ Abraham:

Tuyển chọn và thành lập một dân riêng của Chúa.

4.4 Mạc khải cho Môisen:

Đưa dân ra khoœi Ai cập, tổ chức dân Chúa thành một dân tộc thánh, ký kết Giao ước để từ đó dân sống dưới luật pháp của Chúa.

4.5 Mạc khải nơi Đức Kitô:

Vì là Thiên Chúa làm người, Chúa Kitô trực tiếp mạc khải các chân lý tôn giáo và Ngài mạc khải trọn vẹn hoàn toàn ý định của Thiên Chúa, kế hoạch cứu chuộc nhân loại trong mầu nhiệm Vượt qua (chết và sống lại, lên trời vinh hiển). Từ mầu nhiệm Vượt qua, kỷ nguyên của Nước Trời đã bắt đầu ở trần gian và hoàn toàn bộc lộ trong ngày Chúa quang lâm (ngày tận thế).

5. Cách thức Thiên Chúa mạc khải trong Kinh Thánh:

a. Mạc khải việc và lời

Để cho người ta hiểu rõ ràng công việc Thiên Chúa cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã dùng mạc khải lời (révélation-parole) và mạc khải việc (révélation-événement). Hai thành phần cốt yếu này tạo nên mạc khải duy nhất do chính Thiên Chúa thực hiện. Thí dụ: trong những biến cố giải thoát Israen luôn luôn có Lời của Thiên Chúa phán trước hoặc trong hoặc sau qua trung gian của Tiên tri, nhờ thế người dân hiểu được sự hiện diện và nội dung cứu độ của Thiên Chúa (dân Israen thoát khoœi Ai cập dưới con mắt người đời có lẽ chỉ là một biến cố của người trần thôi: vùng lên trốn chạy khoœi nơi nguy hiểm, nhưng nhờ Lời Chúa phán với thủ lãnh Môisen, ta biết được chính biến cố này là hành động cứu độ của Thiên Chúa).

b. Mạc khải tiệm tiến

Mục đích của mạc khải là cho dân biết Chúa, biết Thánh Ý Chúa. Nhưng vì con người ta không thể một lúc nhận biết được tất cả mạc khải, Thiên Chúa đã sử dụng phương pháp giáo dục tiệm tiến (tiệm là dần dần, từ từ; tiến là đi lên) để mạc khải. Và như vậy, đọc Kinh Thánh ta nhận ra được một sự tiến bộ trong mạc khải. Đọc toàn bộ Kinh Thánh ta mới nhận được toàn bộ mạc khải. Chỉ đọc một vài quyển, hoặc ngừng lại ở một vài đoạn, không thể có một cái nhìn viên mãn về mạc khải, không thể nhận ra được chân lý toàn vẹn.

Thí dụ: Từ quan niệm độc tôn - đến độc thần - đến Một Chúa Ba Ngôi.

Đầu tiên, Thiên Chúa được mạc khải là Thần Linh tối cao trên các Thần Linh khác: “Ngươi sẽ không thờ thần nào khác trước Thánh Nhan Ta” (Xh 20, 3; Thứ luật 5, 7). Như vậy, các thần khác có thể hiện hữu, tức là chưa phủ nhận sự hiện hữu của các thần khác, Luật chỉ dạy phải thờ một Thiên Chúa mà thôi (đây là quan niệm độc tôn).

Dần dần, tới mạc khải độc thần: Chỉ có một Thiên Chúa hiện hữu mà thôi, các thần khác không có hoặc chỉ là tượng đất, đá v.v... do người ta làm ra (Thứ Luật 4, 32-35; Tv 113).

Và sau cùng, tới mạc khải Một Chúa Ba Ngôi (Mt 28, 19).

Thí dụ: Từ quan niệm diệt thù (hêrem) - “mắt đền mắt răng đền răng” - tới thương yêu keœ thù.

- Luật hêrem: phải diệt sạch mọi keœ thù và tài sản (1 Sm 15, 3).

- Tiến đến “mắt đền mắt răng đền răng” (Xh 21, 24) tức là chỉ trừng phạt tương xứng với sự thiệt hại mà thôi (anh đánh tôi gãy một cái răng, tôi có quyền đánh anh gãy một răng thôi) không được phạt quá mức độ họ gây cho mình.

Thí dụ: Quan niệm về đời sau: Cựu Ước cho biết mọi người chết (lành hoặc dữ) đều xuống shéol (âm phủ), nơi bị lãng quên. Tân Ước mạc khải rõ ràng, cho biết có thưởng / phạt phân minh: keœ lành lên thiên đàng, keœ dữ phải sa hoœa ngục.

Thí dụ: Ban đầu, quy mọi sự về Thiên Chúa - sau phân biệt rõ ràng.

Ban đầu, bất cứ việc gì tốt hay xấu xảy ra, người ta đều nghĩ rằng Thiên Chúa là nguyên nhân (Thiên Chúa làm ra cả). Thí dụ: Sách Samuen viết: “Nộ khí Giavê bốc cháy trên dân Israen: Ngài xui Đavid gây họa cho họ, bằng cách ra lệnh: “Hãy đi làm sổ Israen và Giuđa” (2 Sm 24, 1).

Dần dần người ta phân biệt rõ: điều tốt do Thiên Chúa làm ra, điều xấu do Satan, vì thế sách Ký sử viết: Satan đứng lên phá hại Israen và nó xui Đavid làm sổ dân Israen (1 Ks 21, 1).

Tân Ước nói cho biết rõ: tội lỗi, điều xấu do lòng con người là nguyên nhân hoặc do ma quỉ cám dỗ, nhưng cũng do người quyết định chứ không phải do ma quỉ cưỡng ép (Mt 15, 19-20).

c. Chúa Kitô làm viên mãn mạc khải:

Nơi Chúa Kitô, mạc khải cứu độ đạt tới mức độ tột đỉnh về lời và việc. Thánh Ý Chúa Cha hoàn toàn được mạc khải trong mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô (chết và sống lại). Không qua Chúa Kitô, người ta sẽ không hiểu được mạc khải chứa trong Cựu Ước.

Và vì nơi Chúa Kitô, mạc khải cứu độ đưa tới mức hoàn toàn viên mãn, nên mạc khải công (révélation publique) đã kết thúc; nhưng vì các thánh Tông đồ nhận trực tiếp mạc khải và đi rao giảng nên thực tế mạc khải công chỉ chấm dứt với vị Tông đồ cuối cùng qua đời (thánh Gioan Tông đồ). Những mạc khải sau này (thí dụ: Chúa hiện ra với bà thánh Magarita Maria hứa ban ơn chết lành cho keœ chịu lễ chín lần thứ sáu đầu tháng liên tiếp, Đức Mẹ hiện ra với ba treœ ở Fatima v.v...) đều thuộc mạc khải tư, có giá trị nhưng Hội Thánh không bao giờ dùng để tuyên bố tín điều.

Phần lớn mạc khải công đã được chép trong Kinh Thánh (tức là Kinh Thánh chứa đựng mạc khải công gồm mạc khải Lời và Việc), nhưng ta nên để ý để tránh lầm lẫn mạc khải với linh hứng.

6. Phân biệt mạc khải và linh hứng:

- Vị nhận mạc khải và công bố ra theo lệnh Chúa dạy, ta gọi là Tiên tri (hoặc Sứ ngôn: sứ là người đại diện; ngôn là lời nói).

- Vị viết Kinh Thánh có ơn linh hứng, ta gọi là Thánh ký.

Thiên Chúa mạc khải là Thiên Chúa toœ cho Tiên tri biết những chân lý siêu nhiên mà chắc chắn Ngài không thể biết được, hiểu được do sức riêng của mình. Vị tiên tri chỉ có việc nói lại, loan truyền lại mà thôi. Hoạt động mạc khải như vậy là hoạt động phú bẩm, in vào tâm trí những tư tưởng của Chúa, đồng thời Thiên Chúa ra lệnh cho Đấng đó loan truyền cho dân chúng biết dầu sứ điệp đó bất lợi cho chính bản thân mình. Thí dụ: Tiên tri Giêrêmia nói: "Giavê phán thế này: Ai ở trong thành sẽ chết chém, chết đói, chết dịch, ai ra đầu hàng quân Kanđu sẽ sống, và của sót lại ít ra là mạng của mình. Giavê phán như thế này: thế nào thành cũng bị nộp trong tay quân Babel và nó sẽ hạ thành” (Giêr 38, 2-3).

Còn ơn linh hứng không có tính cách “cưỡng ép” như mạc khải, trái lại, tác giả được tự do tìm kiếm, thu thập tài liệu đã mạc khải, đã rao giảng do các Tiên tri hoặc truyền thống để lại, rồi tìm cách diễn tả, viết ra trong trình độ văn hóa của tác giả (rất hiếm người được mạc khải, đi rao giảng rồi viết ra). Ơn linh hứng không làm cho văn chương hay hơn, nhưng quả thật nó ăn sâu vào mọi khả năng của tác giả, bảo đảm viết đúng ý Chúa, Lời Chúa.

Nói như vậy ta dễ dàng nghĩ rằng Kinh Thánh có hai phần: phần tư tưởng, chân lý và phần ngôn ngữ, văn chương và cũng dễ dàng gán cho tư tưởng, chân lý thuộc thần linh (do ơn linh hứng), ngôn ngữ, văn chương thuộc nhân loại (do tác giả viết ra). Thật ra, thần linh về mặt tư tưởng, chân lý đã đành, còn thần linh trong phần ngôn ngữ, văn chương nữa, do ở điểm: thánh thiện, chân thật hiệu lực mà ơn linh hứng tác động. Nhưng vì “siêu nhiên không phá hủy tự nhiên”, ơn linh hứng không làm mất tự do của tác giả, nên hoạt động của linh hứng duy trì tính “nhân loại” trong Kinh Thánh qua những giới hạn của ngôn ngữ, những sự bất toàn của tác giả. Như thế, cả những bất toàn, khiếm khuyết của tác giả nằm trong Kinh Thánh đều hưởng ơn linh hứng. Từ đó, một hệ luận rút ra, ta rất nên biết: linh hứng không loại trừ sai lầm khoa học do tác giả không biết đã viết vào Kinh Thánh.

Khi xét về mạc khải và linh hứng, hai lĩnh vực khác nhau, nhưng dầu sao vẫn có một sự qua lại, hòa hợp, thống nhất vì mạc khải là tư liệu viết Kinh Thánh, tất cả đều do Thánh Thần tác động trong các phạm vi này:

- Hình thái mạc khải Tiên tri: do tác động mạc khải, vị Tiên tri nhận lãnh các chân lý siêu nhiên vượt khoœi khả năng tự nhiên của mình và đi loan truyền. Mạc khải hoàn toàn do phú bẩm từ trên đưa xuống, cùng lắm là Tiên tri dùng ngôn ngữ mình để diễn tả.

- Linh hứng Tiên tri: do hoạt động thần linh nâng khả năng nhận thức và phán đoán của Tiên tri khiến ngài hiểu được “siêu nhiên”. Thí dụ: thị kiến xe “Giavê” cho biết Giavê không boœ quên dân tại nơi lưu đày, ngược lại Ngài chiếu toœa vinh quang nơi đất dân ngoại.

- Linh hứng Thánh Kinh: là ơn trợ giúp vị Thánh ký, tác động vào ý chí và nhận thức không phải để suy nghĩ, tư tưởng cho bằng thâu thập những điều đã suy nghĩ, tư tưởng của các tài liệu hoặc truyền thống để lại.

Nhà văn Kinh Thánh hoạt động trong phạm vi nào? - Chắc chắn, các ngài hưởng hình thái linh hứng tiên tri để suy nghĩ, để trầm tư mặc tưởng các chân lý đã mạc khải, các truyền thống, nhu cầu cộng đoàn, kể cả các câu chuyện nhân loại phải chọn để diễn tả chân lý, và hưởng hình thái linh hứng Thánh Kinh để viết các tư tưởng, chân lý thần linh thành Kinh Thánh. Tuy nhiên, ta cũng không nên quên những trường hợp các Tiên tri được ơn mạc khải đồng thời cũng trở thành nhà văn Kinh Thánh, thí dụ: thánh Môisen, ít nhất ngài đã viết những điều cốt tủy làm nên bộ Ngũ Kinh. (xưa, người ta nghĩ ngài viết trọn Ngũ Kinh).

Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh
(còn tiếp)

littlewave
27-03-2009, 11:06 PM
II - HỘI THÁNH VỚI KINH THÁNH

1 - THÁNH TRUYỀN

Hội Thánh do Chúa Kitô thiết lập, qui tụ những người tin vào Thiên Chúa, tin nhận Chúa Kitô và sống theo Giáo lý của Ngài để kéo dài sự hiện diện hữu hình của Ngài ở trần gian này trong mục đích tiếp tục sứ mệnh cứu độ của Ngài cho tới tận thế.

Tân ước cho biết ban đầu Chúa gọi Nhóm Mười Hai huấn luyện họ thành Tông đồ, là kẻ được sai đi (Apostolos), rồi Chúa gọi Nhóm Bảy Mươi Hai, Nhóm các Bà tự nguyên giúp Chúa và khi Chúa chịu chết và sống lai, Chúa trao cho thánh Phêrô quyền làm đầu Hội Thánh. Hội Thánh nầy được gọi là Hội Thánh Chúa Kytô (Christi Ecclesia) tồn tại trong Hội Thánh Công giáo( Ecclesia catholica) (xem Hiến chế Lumen gentium số 8), do Đức Giáo hoàng kế vị Thánh Phêrô và các Đức Giám mục kế vị các thánh Tông đồ.

Vậy theo thời gian, Hội Thánh tiên khởi là Hội Thánh Chúa Kytô, là của thế hệ Tông đồ vì do các Tông đồ và các môn đệ của các Tông đồ trực tiếp điều khiển kéo dài tới vị Tông đồ sau cùng qua đời, rồi chuyển sang Hội Thánh Công giáo (gồm có Hội Thánh Giáo phụ, rồi Hội Thánh tông truyền). Chính Hội Thánh tiên khởi là mẫu mực tối cao (norma non normata) về đức tin cho mọi thế hệ tương lai, do:

- Hội thánh tiên khởi hoạt động do hành vi sáng tạo của Thiên Chúa hoạt động nơi các thánh Tông đồ và môn đệ. Quả vậy, ta thấy mọi hoạt động của các thánh Tông đồ và môn đệ, sức sống của các giáo đoàn tiên khởi điều biểu lộ rõ ràng sức sáng tạo của Chúa Thánh Thần. Thí dụ: thị kiến cho thánh Phêrô “ăn những loài bò sát”, đưa tới việc thánh nhân tiếp nhận gia đình Cornêlio, dân ngoại trở lại (CvTđ 10, 11-48). Chính vì thế ta biết được Thiên Chúa đã muốn cho Hội Thánh tiên khởi trở thành mẫu mực Đức tin của mọi thế hệ tương lai. Hội Thánh tiên khởi cũng đã ý thức điều đó nên đã diễn tả Đức tin của mình bằng văn tự để lưu truyền cho các thế hệ sau.

- Thời gian của Hội Thánh tiên khởi là thời gian mạc khải công cuối cùng và hoạt động linh hứng cuối cùng Chúa Thánh Thần cho các Thánh ký viết Kinh Thánh.

Vì thế, văn tự Tân Ước là lời tuyên xưng Đức Tin của Hội Thánh tiên khởi được khách thể hóa bằng Sách Thánh, và dĩ nhiên, đọc Tân Ước, ta biết được Đức tin của Hội Thánh, Đức tin Tông truyền, Hội Thánh chân chính. Tân Ước chính là 1ời Thiên Chúa được viết ra vì lẽ một là chính Thiên Chúa muốn các thánh ký (một số Tông đồ và môn đệ) viết ra, hai là viết ra những điều Thiên Chúa đã mạc khải trong Chúa Kitô, ba là chính Thiên Chúa ban ơn linh hứng để các vị ấy viết cho đúng.

Vì Tân Ước khách thể hóa lời tuyên xưng Đức tin của Hội Thánh tiên khởi (hoặc là lời rao giảng Đức tin của Hội Thánh trong niềm tin không lay chuyển) nên Hội Thánh có quyền bảo vệ và giải thích Lời đó, không phải chỉ Hội Thánh tiên khởi mới có quyền mà thôi mà Hội Thánh của các thế hệ sau kéo dài tới tận thế cũng có quyền vì Hội Thánh của các thế hệ liên kết Đức tin của Hội Thánh lời rao giảng của Hội Thánh tiên khởi, nói cách khác Hội Thánh các thế hệ sau kế nhiệm Hội Thánh tiên khởi và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn như xưa và bảo trợ bằng ơn bất khả ngộ (không thể sai lầm) nên Đức tin luôn luôn được bảo đảm tinh ròng, “trước sau là một”., nói cách khác Hội Thánh Công giáo là Hội Thánh Chúa Kyto6

2- Thánh Truyền và Quyền Giáo huấn (huấn giáo)

Đến đây, ta đã thấy rõ Tân Ước là kinh Đức tin của Hội Thánh và Hội Thánh có quyền trên sách đó, nhưng một câu hỏi quan trọng đặt ra: Sách nào thuộc Tân Ước?

Trong Tân Ước, không có bản mục lục chính thức nào liệt kê sách nào thuộc Tân Ước.Lại nữa, bên cạnh những sách đáng tin thuộc Tân Ước còn có những sách khác viết về Đức tin của Hội Thánh như Phúc Âm thánh Tôma, Phúc Âm thánh Phêrô v.v..., vậy làm sao xác định được chắc chắn quyền nào thuộc Tân Ước?

Muốn biết, phải tìm tới những chứng cớ cựu trào nơi các giáo phụ, nơi các tác phẩm cựu trào có đề cập tới sách Tân Ước hoặc có trích dịch câu Kinh Thánh Tân Ước. Làm như vậy mặc nhiên công nhận “dấu chứng của các sách Tân Ước” chứa đựng trong những kiến thức ngoài Tân Ước(tức là Thánh Truyền) Nhờ suy tư lâu dài để gạn lọc, Hội Thánh qua tiếng nói của công đồng Triđentinô đã lập bộ Thư Quy Kinh Thánh, liệt kê những sách thuộc Kinh Thánh làm nền tảng cho Đức tin, ta thấy Tân Ước có 27 quyển như hiện nay.

Còn Cựu Ước?? - Nhận thức những quyển sách nào thuộc Kinh Thánh Cựu Ước xuất phát từ nhận thức của Chúa Kitô và các thánh Tông đồ với Hội Thánh tiên khởi nghĩa là căn cứ vào những trích dẫn để làm chứng, căn cứ vào sử dụng để xác định. Thí dụ: thánh Mathêu trích dẫn các câu trong các sách Cựu Ước (Như thế là ứng nghiệm lời Tiên tri Giêrêmia, Isaia v.v...) cho biết những sách đó thuộc Kinh Thánh, hoặc Chúa Kitô sử dụng Thánh vịnh cho ta biết Thánh vịnh thuộc Kinh Thánh v.v...

Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào một nguồn gốc nầy thôi, sự xác tín chưa thể thỏa mãn đầy đủ vì lẽ các lời trích dẫn đó không đầy đủ (có sách trích, có sách không) để giúp Giáo Hội tìm ra đâu là sách thuộc Cựu Ước. Ngoài ra, còn biết bao nhiêu là khó khăn do sự thiếu nhất trí của nhiều người dùng Cựu Ước: nhóm Sađốc chỉ nhận có bộ Ngũ thư, Do thái Palestin thế kỷ I nhận có 39 quyển bằng tiếng hébreux trong khi Do thái Diaspora ở Alexandria công nhận thêm 5 quyển: Tobia, Giuđich, Khôn ngoan, Huấn ca (Ecclesiasticus), Baruc, 1 và 2 Macabê (tức là có hai Thư quy: Thư quy hébreux gồm có 39 quyển, Thư quy Hy lạp gồm 45 quyển). Thánh Giêrôm rất mến chuộng bản văn Hébreux (Thư quy hébreux), nhưng Ngài cũng dịch sách Tobia (Trong Thư quy Hy lạp). Có lẽ như Cha Karl Ranner nói, phẩm chất quyển sách trong Cựu Ước nói lên tính linh hứng của chính quyển sách.

Giáo hội đã nhờ vào các nguồn chứng liệu trên để lập thành Thư quy Cựu Ước gồm 45 quyển.

- Thư quy là gì?

Thư quy, tiếng Hy lạp gọi là “kanon” có nghĩa luật lệ, mẫu mực. Kinh Thánh gọi là Thư quy vì là sách làm quy luật Đức tin của Giáo hội (règle de la Foi de l'Eglise).

Thư quy là “thuật ngữ luật pháp” trở thành “thành ngữ”, người ta thấy nó xuất hiện đầu tiên trong môi trường Kitô giáo, nơi bản văn của thánh Athanasio (298-373) khi ngài biện luận sách Pasteur d'hermas không thuộc “kanon”. Thế kỷ 4, thuật ngữ nầy được dùng khá phổ thông.

Công đồng Triđentinô, ngày 8 tháng Tư năm 1546, công bố các sách vừa là “thánh” vừa là “Thư quy”, và liệt kê đầy đủ Cựu Ước có 45 quyển, Tân Ước có 27 quyển như đã in trong bản dịch phổ thông (Vulgata).

Công đồng Vatican I ngày 24 tháng Tư năm 1870, công bố: “Nếu ai không chấp nhận các quyển sách và cả từng phần các quyển đó trong bộ Kinh Thánh là “thánh và thư quy” như công đồng Triđentinô đã liệt kê hoặc chối những sách này không có ơn linh hứng của Chúa thì bị vạ tuyệt thông".

Lưu ý:

Công đồng tuyên bố Cựu Ước có 45 quyển vì gộp sách Tiên tri Giêrêmia và Ai ca thành một quyển. Ngày nay, người ta tách Tiên tri Giêrêmia khỏi Ai ca, nên Cựu Ước có 46 quyển (Tự điển Dictionnaire biblique của Cha J. Dheilly ghi Cựu Ước 45 quyển, còn Dictionnaire de la foi chrétienne ghi 46 quyển, chắc không gây thắc mắc gì).