gioanha
12-12-2008, 05:38 AM
HÀNH HƯƠNG ROMA
Là khách hành hương chúng ta sẻ không có đủ thời giờ và tài chánh để xem tất cả các thánh tích ở Rôma vì nhiều vô kễ. Tốt hơn nên tìm tài liệu xem trước những nơi quan trọng theo sở nguyện để khỏi phí thời giờ. Với kinh nghiệm, xin gởi đến bạn, người hùng đang chuẩn bị về thành thánh, tài liệu chúng tôi có được trong dịp hành hương vào tháng 8 năm 2008.
Chương I
ROMA- THÀNH PHỐ VĨNH CỬU
http://www.giaophanvinhlong.net/Hanhhuong/vatican-picture-by%20night_AJM515.jpg
I. Nguồn gốc thành phố Roma
Roma thu hút rất nhiều du khách đến thăm viếng hoặc hành hương vì nó là chiếc nôi của Kitô giáo cũng như của văn hóa văn minh Kitô. Lịch sử của thành phố Roma bắt nguồn từ một nhóm dân cư sống về chăn nuôi và trồng cấy trên đồi Palatino. Họ thuộc các sắc dân Latium, Sabin và Etrus. Có nhiều truyền tụng về tên của thành phố Roma. Roma có thể là tên của một người Etrus vị vọng. Theo tục truyền, thành phố Roma do hai anh em Romunus và Remus, thành lập năm 753 trước Tây Lịch. Cha của họ là thần chiến tranh Marx và mẹ là thần Vênus. Hai anh em bị cha mẹ đem bỏ trôi trên dòng sông Tiber. Khi nước sông rút xuống, chiếc nôi của hai đứa bé dạt vào chân đồi Pilatino. Hai đứa bé được một con chó sói cái cho bú sữa cho đến khi người tiều phu tìm thấy và mang về nhà nuôi. Do đó, biểu tượng của thành phố Roma là tượng con chó sói cái cho Romulus và Remus bú sữa. Khi thành lập thành phố Roma năm 753, Romulus cày một vòng ranh giới chung quanh. Ai muốn ra khỏi thành phố phải qua cổng chính chứ không được qua vòng đai chung quanh. Ai làm trái lệnh sẽ phải chết. Remus không tuân lệnh nên bị sử tử hình. Vì thế thành phố có tên là Roma.
Roma còn mang nhiều dấu vết lịch sử từ xưa đến nay trong các kho tàng nghệ thuật và tôn giáo. Roma còn nổi bật vì luật lệ, kiến trúc, văn hóa, tôn giáo, chính trị ảnh hưởng đến cả trong và ngoài đế quốc Roma, xưa cũng như nay. Roma mãi mãi vẫn là Roma vì thành phố duy nhất trên thế giới đã chứng kiến nhiều biến cố lịch sử, chính trị và tôn giáo. Roma là thủ đô của thế giới cổ cũng như thủ đô của Kitô giáo. Do đó, Roma xứng đáng gọi là “thành phố vĩnh cửu” với những nét đặc biệt giữa cổ thời và tân thời, giữa thế tục và tôn giáo, giữa con người và xã hội.
II. Vài nét lịch sử về chính trị
Các vị vua Etrus và Sabin đã phát triển thành phố Roma giàu có về chăn nuôi và trồng cấy. Roma gồm có 7 ngọn đồi với những hàng cây thông xanh tươi quanh năm. Bảy ngọn đồi Palatino, Campidoglio, Quirinale, Viminale, Esquilino, Célio và Aventio do bảy vị vua cai trị cho đến khi chuyển sang thể chế cộng hòa vào năm 509 trước Tây Lịch. Những bức tường do Servius Tulius xây dựng lên trong thời gian kinh tế phát triển mạnh vào thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch. Dần dần, thành phố mở rộng từ đồi Campidoglio tới ngoại ô Pincio dọc theo bờ sông Tiber. Khoảng năm 270 trước Tây Lịch, Roma chế ngự toàn thể Italia nhưng sau đó Roma phải đối kháng với những tấn công của Carthage (146 trước Tây Lịch), Pháp và Anh (58-53 trước Tây Lịch). Dân cư tai Roma đông đảo hơn một triệu người. Thành phố tiếp tục phát triển mạnh mẽ nhờ hoàng đế Caesar trong thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch. Hoàng đế Augustus củng cố thêm sức mạnh thống trị của đế quốc với những xây cất trong thành phố. Sau hai lần hỏa hoạn do hoàng đế Nero gây ra vào năm 64 và 80, thành phố được trùng tu lại và đồ sộ hơn với những đấu trường, khải hoàn môn, dinh thự công cộng về hành chánh và giải trí… Đại đế Augustus khai sinh đế quốc Roma với những tổ chức quy mô về chính trị, kinh tế văn hóa và nghệ thuật. Từ năm 250 Roma bá chủ các vùng chung quanh Địa Trung Hải và Phi Châu. Để bảo vệ thủ đô của cố quốc, hoàng đế Aurelius cho xây dựng thêm những tường thành Roma mở rộng (270-275). Năm 286 đế quốc Roma bị chia thành hai Đông và Tây do hoàng đế Dictileano. Sau thời gian đó, những dinh thự bị hư hại sụp đổ nhưng không được tái thiết. Roma may mắn được thay đổi bộ mặt với sức mạnh của Kitô giáo do Costantine chính thức phê chuẩn cho hoạt động công khai vào năm 313. Năm 309 người Gô-loa xâm chiếm Roma nhưng chẳng bao lâu Roma chiến thắng và thống trị các nhóm dân Gô-loa, Etrus và Hylạp sống tại Italia. Đến năm 476, hoàng đế cuối cùng của đế quốc Roma là Romus Augustulus bị German Odoacer phế thải. Sau hơn 10 thế kỷ thống trị và bành trướng, đế quốc Roma chấm dứt.
Kể từ hậu thế kỷ 6, Roma trở thành thành phố của đế quốc Bizantin với thủ đô là Ravenna. Dần dần Roma lại chiếm địa vị là thủ đô của đế quốc. Sau đó, Roma thuộc lãnh thổ của các Đức Giáo Hoàng. Vào những thế kỷ tối tăm, các vua chúa Âu Châu, các gia đình quyền hành tranh giành chiếm cứ thành phố Roma nên gây nên những cuộc chiến tranh và dân cư rời bỏ thành phố. Dân cư của thành phố vào thế kỷ 12 chỉ còn lại 20 ngàn người thay vì cả gần triệu người trước đó. Vào năm 1308, ĐGH Clemente 5 bị lưu vong sang Avignon, Roma trở nên suy yếu trong suốt thời gian này (1308-1377). Đến thời ĐGH Martino trở lại, Roma được khôi phục và tiếp tục cho đến các triều đại Giáo Hoàng của Julio 2 và Leo 10. Đây là thời điểm Roma trở thành trung tâm của văn hóa và nghệ thuật của thời Phục Hưng của Châu Âu. Nạn cướp phá tàn bạo của các quân đội Đức và Tây Ban Nha vào năm 1527 nhưng thành phố được phục hồi trở lại nhờ phong trào chống Phục Hưng vào những thế kỷ 16 và 17 với những kiến trúc thánh đường, dinh thự, bồn nước, đường xá theo kiểu Baroc dưới sự điều khiển của nhà kiến trúc thiên tài Bernini. Vào thế kỷ 19, Garibaldi và Mazzini chủ trương phong trào Phục Hưng tại Ý đã thống nhất nước Ý dưới quyền lãnh đạo của gia đình Savoia, và giới hạn quyền hành của Đức Giáo Hoàng trong nội thành Vatican. Năm 1870, Roma được tuyên bố là thủ đô của quốc gia mới là Italia.
III. Vài nét lịch sử về tôn giáo
Sau khi chính thức công nhận Kitô giáo được quyền chính thức giảng đạo, Hoàng Đế Costantine cho xây dựng đền thờ làm nơi thờ phượng. Đền thờ thánh Gioan được xây dựng trong thời gian 312-315 trên mảnh đất của gia đình Laterano và trở thành ngai tòa đầu tiên của Giám Mục Roma cho đến khi rời về Vatican. Đền thờ thánh Phêrô xây dựng vào năm 320 chính tại nơi Phêrô tử đạo, bên cạnh đấu trường Nero. Sau đó, đền thờ thánh Phaolô được xây năm 324 và đền thờ Đức Bà vào năm 356. Những cuộc tấn công của đám mọi rợ vào thế kỷ thứ 5 và chiến tranh Gôtích vào những năm 535- 553 làm cho Roma trở nên xuống dốc. Tuy nhiên nhiều nhà thờ được xây dựng trong thời gian này như các nhà thờ thánh Clêmentê trong vùng Latêranô; thánh Pudenziana trên đồi Esquilino; thánh Stêfanô Rotondo và hai thánh Gioan- Phaolô trên đồi Cêlio; thánh Sabina, thánh Prisca và Balbina trên đồi Aventinô; thánh Cristômô, thánh Cêcilia và Đức Mẹ Trastevere dọc theo bờ sông Tiber; thánh Anê, thánh Costanza trên đường Nomentana; các thánh Nereo và Achileo trên đường Appia.
Vào thế kỷ thứ 7, nhiều đền thờ ngoại giáo được biến thành những thánh đường Kitô giáo. Ngoài ra, những đền thờ như Pantheon, Fortuna Virilis, Vesta được trang hoàng với những đá quý và những bức tranh vẽ trên tường. Nghệ thuật kiểu Byzantin xuất hiện tại các nhà thờ kính các thánh Cosma Đamianô, thánh Anê, Đức Mẹ Cổ dần dần ảnh hưởng và tồn tại qua thời Trung Cổ cho đến thời đại Carôlingiô. Roma vẫn thuộc quyền cai trị của Giáo Hoàng. Hoàng đế Carlô được tấn phong và đội vương miện tại chính trong đền thờ thánh Phêrô vào năm 800.
Vào thế kỷ thứ 9, những đền thờ được xây dựng như thánh Prasede, Đức Mẹ Đomnica, thánh Cêcilia, thánh Marco với những hình ghép bằng những miếng đá vụn (mosaic). Thời gian này nhóm Sarác cũng đã tấn công và cướp phá hai đền thờ thánh Phêrô và Phaolô. Để bảo vệ thành phố khỏi những giặc cướp, ĐGH Lêo 4 đã nối dài tường thành ra đến Lâu Đài Thiên Thần nên phần bên được gọi là thành phố Lêo. Hai thế kỷ sau đó, thành phố bị tranh chấp giữa hoàng gia và giới quý tộc cho đến năm 1084, nhóm Norman nổi lửa và chiếm thành phố bằng gươm giáo.
Thế kỷ 12 phát triển chậm nhưng vững chắc về dân sự và chính trị. Nhiều nhà thờ cũ được tu sửa lại. Nhiều công trính kiến trúc của Cosma dùng đá cẩm thạch hoặc những vật liệu có chạm trổ dùng trong nền nhà, cột nhà, ngai giám mục, tòa giảng, mộ phần. Thế kỷ 13, gia đình Vassaletto trang trí khuôn viên bên trong nhà thờ Laterano và thánh Phaolô ngoài thành. Những bức tranh vẽ trên tường và những bức tranh khảm đá màu (hình ghép bằng những miếng đá vụn) cũng tiến triển mạnh mẻ và thoát khỏi nghệ thuật Byzantine. Jacopo Torriti là tác giả của những bức khảm đá màu tại đền thờ Đức Bà và thánh Gioan Laterano.
Sau giai đoạn tối tăm của Giáo Hoàng bị lưu đày tại Avignon kéo dài từ 1308- 1377 là thời kỳ phát triển về nghệ thuật. Nghệ thuật kiểu Roma Gothic phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ 14 và 15. Tiêu biểu là nhà thờ Đức Bà trên Minerva và những chạm trổ trên đền thờ thánh Phaolô ngoại thành cũng như nhà thờ thánh Cecilia. ĐGH Eugenio 4 trở lại Roma vào năm 1443 sau thời gian lưu đày lâu dài tại Florence. Ngài mời Masolino da Panicale và Filarete họa những bức tranh mầu thật đẹp tại nhà thờ thánh Clemente và chạm trổ cửa đông của đền thờ thánh Phêrô. Botticelli, Ghilandaio, Luca Signorelli và Perugino được ĐGH Sixto 4 trao nhiệm vụ trang trí nhà nguyện Sistine. ĐGH Julio 2 trở lại đồ án của ĐGH Nicolas thứ 5 nên đã ủy thác cho Bramante cấu trúc lại đền thờ thánh Phêrô. Những thiên tài hội họa của thế kỷ 16 đã đóng góp vào những công trình vĩ đại được muôn đời ghi nhớ như: Bramente trách nhiệm về các dinh thự và công viên Vatican, Raffaelo về những phòng quan trọng trong nội cung, Michelangelo vẽ nhà nguyện Sisstine cũng như lo việc tu bổ kiến trúc đền thờ thánh Phêrô. Vào thế kỷ 17, nghệ thuật kiểu Baroc trở nên thịnh hành với Những Bậc Thang Tây Ban Nha của de Sanctis và bồn phun nước Trevi. Trong thế kỷ 19 và 20, Roma chú ý đến hệ thống giao thông và những công viên.
IV. Những di tích lịch sử quan trọng
Bốn Đại Vương Cung Thánh Đường: Đến Roma hành hương nhân dịp Năm Thánh hoặc bất cứ dịp hành hương nào, các tín hữu thường kính viếng ít nhất là 4 đại Vương Cung Thánh Đường tại đây. Nguồn gốc, ý nghĩa tôn giáo và lịch sử, cũng như chính phụng vụ về mỗi đền thờ này mang lại cho tín hữu các kinh nghiệm đặc biệt, mời gọi họ cảm tạ Chúa vì sự Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài.
1. Đền thờ thánh Gioan tại Laterano
Mẹ của tất cả các nhà thờ và là nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma, nhắc nhở cho các tín hữu “Hồng ân bí tích Rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này, đồng thời mời gọi các tín hữu cảm tạ bằng chính cuộc sống như con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
2. Đền thờ thánh Phêrô tại Vatican
Nơi hành hương chính của các tín hữu Kitô: tại đây thánh Phêrô tông đồ đã lấy máu đào làm chứng cho đức tin nơi Ngôi Lời Thiên Chúa làm người để cứu độ chúng ta. Đền thờ này nhắc nhớ cho các tín hữu về chứng tá Kitô giáo, giá trị và hồng ân vô giá của đức tin được sống đích thực, được rao giảng và được làm chứng.
3. Đền thờ Đức Bà Cả trên đồi Esquilino
Dâng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Thánh đường này nhắc nhớ các tín hữu “sự hiện diện của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ” thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ tất cả chúng ta. Tình mẫu tử của Mẹ Maria, đối với chúng ta, không chỉ giới hạn nơi sự bảo bọc và chuyển cầu, nhưng đồng thời cũng là lời liên tục mời gọi chúng ta hãy làm tất cả những gì Chúa Con chỉ dạy; liên tục nhắc nhớ chúng ta về sự cao cả Chúa đã làm cho chúng ta.
4. Đền thờ thánh Phaolô ngoài thành
Nơi tử đạo của thánh Tông Đồ Dân Ngoại, và ngày nay nổi bật về các cuộc gặp gở đại kết Kitô. Thánh đường này nhắc nhớ các tín hữu hành hương về bổn phận phải dấn thân truyền giáo, sống hiệp nhất với tất cả những người cùng tin nơi Chúa Kitô. Dưới đây là những nét nổi bật trong lịch sử, ý nghĩa và đặc tính của đền thờ thánh Phaolô.
Ba tiểu Vương Cung Thánh Đường: Ngoài 4 đại Vương Cung Thánh Đường, thánh Philip Nêri còn đề nghị các khách hành hương đi thăm viếng 3 tiểu Vương Cung Thánh Đường là: Đền thờ Thánh Giá Giêrusalem, Đền thờ thánh Lorenso ngoài thành, đền thờ thánh Sebastiano.
5. Đền thờ Thánh Giá Giêrusalem
Vào thế kỷ thứ 4, hoàng thái hậu Helena lúc đó đã 80 tuổi muốn đi hành hương ở Giêrusalem cũng như những nơi khác trong Đất Thánh. Khi trở về Roma năm 329, bà mang theo một mảnh gỗ Thánh Giá thật mà Chúa đã chịu đóng đanh về đặt trong dinh thự của bà. Bà còn mang theo đất thánh của đồi Canvê, những đinh và gai nhọn. Bà qua đời cùng năm 329. Tương truyền rằng khi khai quật, họ tìm được tấm bảng mà quan Philatô ra lệnh viết và gắn vào thập giá Chúa Giêsu: Giêsu Nazareth, Vua người Do Thái. Hoàng đế Costantine theo lời yêu cầu của mẹ mình cho xây nhà nguyện bảo tồn các Thánh Tích của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu mang về từ Giêrusalem. Đền thờ này nhắc nhớ các tín hữu về cuộc khổ nạn nhục nhã của Chúa Giêsu. Ngài chịu nhục hình vì tội lỗi con người và đã đỗ máu mình ra mà chuộc tội con người. Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Thánh giá nhắc nhớ tín hữu về biến cố khổ nạn, chịu chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Thánh giá trở nên biểu tượng cho tín hữu Kitô nên họ mang thánh giá với họ như những người thuộc về Chúa Kitô, họ chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
6. Đền thờ thánh Lorezo ngoài thành
Đền thờ gồm hai nhà thờ sửa lại thành một. Nhà thờ thứ nhất tôn kính thánh Lorenzo do hoàng đế Costantino xây năm 330 và ĐGH xây lại năm 578. Nhà thờ thứ hai tôn kính Đức Mẹ do ĐGH Sisto 3 xây vào thế kỷ 5 sát liền với nhà thờ thánh Lorenzo. Năm 1216, ĐGH Honorio lấy cung thánh nhà thờ thánh Lorezo và bỏ cung thánh nhà thờ kính Đức Mẹ để nối liền hai nhà thờ lại thành một. Ngài cũng cho xây tháp chuông kiểu Roma. Nhà thờ được tu sửa vào thế kỷ 15 và 16. Nhà thờ sửa mặt tiền với bức hình đá màu và cũng như bên trong nhà thờ từ 1864- 1870. Hành lang nhà thờ có 6 hàng cột kiểu Ionien chạm trổ rất đẹp và bên trong có 22 cột nham thạch kiểu Ionien chia làm ba gian dọc với các bức khảm đá màu rực rở. Trong đó bức khảm màu về Chúa Giêsu và các thánh làm theo nghệ thuật Byzantine thuộc thế kỷ thứ 5 rất độc đáo. Đây là những phần còn lại do hoàng đế Costantine xây và được ĐGH Pilagio 3 tu sửa lại gồm 12 cột kiểu Corinto rất đẹp chia thành 3 gian. Trong gian bên cạnh có giữ hài cốt thánh Lorenzo, Sebastiano và Giustino. Trên cung thánh có bàn thờ của Augusto và Sansone thuộc thế kỷ 12. Nhà thờ bị hư hại hồi thế chiến 2 với những mảnh bom nhưng được tu sửa lại. Du khách có thể thăm viếng hang toại đạo thánh Lorenzo, nơi chôn cất thánh nhân sau khi ngài tử đạo.
7. Đền thờ thánh Sebastiano
Đền thờ này được xây lên trước thế kỷ thứ 5 để tôn kính hai thánh Phêrô và Phaolô vì xác các ngài được an táng tại đây. Sebastiano là một sĩ quan Roma tử đạo dưới thời hoàng đế Diocleziano và được an táng tại nghĩa tang gần đó. Đền thờ được dành để tôn kính thánh Sebastiano vào thế kỷ thứ 9. Năm 1614, ĐHY Scipione Borghese sửa sang lại với mặt tiền 6 cây cột nham thạch. Du khách có thể nhìn thấy hòn đá ghi dấu chân Chúa Giêsu ở nhà nguyện 1 bên phải và tượng thánh Sebastiano bằng nham thạch rất đẹp ở nhà nguyện 2 bên trái. Từ mặt tiền đền thờ, du khách có thể thăm viếng viện bảo tàng trưng bày các di tích khảo cổ như bia mộ, các bình gốm cổ hoặc quan tài. Dưới hầm, các du khách có thể thăm viếng một phòng dùng để dọn bữa ăn nhân dịp an táng người chết. Xác hai thánh Phêrô và Phaolô đã tạm thời an táng tại nơi đây.
8. Công trường Venezia
Công trường này là điểm hội tụ các đại lộ chính cũng như là trung tâm của thành phố. Nhìn về phía trái, du khách sẽ thấy Dinh Venezia xây vào năm 1455 của sứ quán nước cộng hòa Venezia trước đây. Mặt tiền đơn sơ với các kiến trúc cổ điển thời Phục Hưng. Dinh Venezia là một trong những dinh thự nổi tiếng của thế kỷ 15. Trong thời gian 1564- 1797, dinh này thuộc về tài sản của cộng hòa Venezia được Mussoline dùng làm dinh thự riêng. Ông đã đọc nhiều diễn văn tại ban công của dinh thự này.
Hiện nay, dinh Venezia là viện bảo tàng trưng bày vải vóc, khí giới, tranh ảnh, đồ gốm, tác phẩm nghệ thuật, dụng cụ bằng đồng và những bức khảm từ thế kỷ 11 đến 17. Phía bên phải là tòa nhà bảo hiểm xây năm 1911.
9. Đài kỷ niệm vua Vittorio Emanuele 2- Đài chiến sĩ vô danh hoặc Bàn thờ Tổ Quốc
Đài vua Vittoria Emanuele 2 khởi công xây từ năm 1858 đến 1911, theo nghệ thuật hòa hợp giữa tân cổ Hy Lạp và Ý. Đài tưởng niệm này dài 135 thước dài và 70 thước cao nhìn thẳng ra công trường Venezia để kỷ niệm vua Vittorio Emanuele 2 là vua Italia thống nhất (1878). Hai bồn phun nước tượng trưng cho hai vùng biển Tireno (phải) và Adriatico (trái). Bốn nhóm tượng trên hai hồ nước tượng trưng cho Quyền Lợi, Hy Sinh, Hòa Hợp và Sức Mạnh. Trên những bậc thang là Bàn Thờ Tổ Quốc và Mộ Chiến Sĩ Vô Danh. Bức tượng đồng của vua Vittorio Emanuele 2 cao 12 thước. Chính giữa là tượng nổi tượng trưng của thành phố Roma và chung quanh là các tượng nổi tượng trưng cho các thành phố lớn của Italia. Hai cầu thang nhỏ dẫn lên tầng trên của đài tưởng niệm để ngắm cảnh thành phố Roma. Bên trong đài kỷ niệm là bảo tàng viện về quân đội Italia với những quân phục, khí giới, lịch sử những trận chiến…
10. Công trường Campidogho
Dọc theo bên phải đài kỷ niệm vua Vittorio Emanuele 2, du khách thấy một căn nhà Roma của thế kỷ 2 và nhà thờ thánh Bagio del Mercato thời Trung Cổ với hình vẽ Đức Mẹ Sầu Bi trên tường của thế kỷ 15.
Công trường Campidoglio tọa lạc trên thủ đô được coi là địa điểm của thần linh và quyền lực. Tuy là ngọn đồi thấp nhất và nhỏ nhất trong 7 ngọn đồi của Roma, nhưng từ thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch đã có một đền thờ của Jupiter Optimus Maximus Capitolinus là đền thờ quan trọng nhất của Roma thời cổ. Gần nhà thờ Đức Mẹ Cửa Trời là đền thờ của Juno Moneta. Vào năm 390 trước Tây Lịch, những người Gôloa do vua Brennus chỉ huy xâm nhập thành đồi Capitoline nhưng những con ngỗng thần của Juno giữ họ ở đó và bắt đầu quạt quạt. Nghe tiếng quạt quạt của những con ngỗng, quân lính tỉnh thức và chống lại những người Gôloa xâm chiếm thành phố.
Kiểu kiến trúc của các tòa nhà quanh công trường Campidoglio do chính Michelangelo vẽ (thế kỹ 15). Trên đầu cầu thang là hai bức tượng khổng lồ của thần Dioscuri (tìm thấy vào thế kỷ 15), các chiến lợi phẩm của Marius (thời hoàng đế Flavio) và hai bức tượng của hoàng đế Costantine và Costante. Tượng đồng của hoàng đế Marco Aurelio bằng đồng mạ vàng đứng trên bệ cao ở giữa công trường. Trước năm 1853, tượng này được đặt trong dinh Laterano. Đây là bức tượng hoàng đế cưỡi ngựa duy nhất còn sót lại từ thời Roma xa xưa. Tượng này không bị phá hủy trong thời Trung Cổ vì người ta cho rằng đây là tượng của hoàng đế Costantine.
11. Nhà thờ Đức Mẹ Cửa Trời
Nhà thờ này tọa lạc phía sau Dinh Mới. Theo tục truyền, một bà bói tướng đã báo cho hoàng đế Augusto biết rằng Chúa Cứu Thế sắp giáng sinh, do đó hoàng đế Augusto cho xây một bàn thờ tại đây. Trên cửa có bức khảm đá màu Đức Mẹ với Chúa Hài Đồng và hai thiên thần. Nhà thờ đầu tiên được xây vào thế kỷ thứ 6 và trao cho nhiều dòng tu trông coi. Năm 1250, các cha dòng Phanxico xây lại theo kiểu Roman Gotích. Mặt tiền còn làm dở dang nhưng không hoàn tất. Cầu thang cao hơn 124 bậc dẫn du khách lên nhà thờ dân Roma xây năm 1348 do lời thúc giục của ông Nicola di Rienzo muốn tạ ơn Chúa đã cho dân Roma thoát khỏi trận dịch hạch lớn thời đó. Trần nhà thờ bằng gỗ mạ vàng khởi công năm 1571 để kỷ niệm chiến thắng Lepanto và hoàn thành năm 1575. Hai mươi hàng cột thuộc nhiều kiểu khác nhau chia nhà thờ thành 3 gian dọc. Nền nhà thờ trang trí theo kiểu Cosma của thế kỷ 13 với nhiều bia mộ và bức khảm đá màu. Trên bàn thờ chính có bức tranh Đức Mẹ thuộc trường phái Byzantine. Gian trái là nhà nguyện thánh Helena với 8 cột tuyệt đẹp. Nhà nguyện này xây trên bàn thờ xưa của hoàng đế Augusto. Nhà nguyện Chúa Hài Đồng với tượng Chúa Hài đồng bằng gỗ ôliu được tương bày cho dân chúng Roma đến hôn kính vào dịp lễ Giáng Sinh.
12. Dinh Mới
Rainaldi xây Dinh Mới này năm 1655 dưới thời ĐGH Innocente 10. Từ năm 1734 dưới thời ĐGH Clemente 12, dinh này trở thành viện bảo tàng Campidoglio giữ những tác phẩm điêu khắc cổ. Du khách có thể nhìn thấy bức tượng khổng lồ Marforio của thế kỷ 1 tượng trưng cho thần Sông.
13.Dinh Cũ
ĐGH Nicola 5 xây năm 1450 dành cho các thẩm phán cùng cai quản với các thượng nghị sĩ. Sau này, dinh được G. della Porta sửa lại theo đồ họa của Michelangelo (năm 1568). Dinh này là bảo tàng viện trưng bày các tác phẩm và tranh ảnh đương thời. Bên cạnh là Dinh Caffarelli chứa những di tích khảo cổ, vật dụng hàng ngày và các bức khảm đá mầu.
14. Dinh Thượng Viện
Dinh Thượng Viện của đế quốc Roma xây năm 78 trước Tây Lịch là tòa Thị Sảnh của thành phố Roma hiện nay. Thượng viện có tháp canh ở 4 góc. ĐGH Bonifacio 9 biến thành tòa thị sảnh thành phố Roma. Cầu thang dẫn vào dinh do chính Michaelangelo xây năm 1550. Bồn nước ở giữa có tượng nữ thần Minverva, sau trở thành nữ thần Roma. Hai tượng Jupiter và Apollo nằm hai bên bồn nước tượng trưng cho hai sông Tiber và Nil. ĐGH Sisto 5 dọa sẽ đập bể các tượng thần Minerva, Jupiter và Apollo nếu không dời đi chỗ khác nhưng đồng ý biến thần Minerva thành nữ thần Roma. Do đó, thần Minerva cầm thánh giá thay vì cầm đao. Tháp chuông có đồng hồ do kiến trúc sư M. Longhi xây năm 1587.
15. Khu vực Roma cổ
Góc dinh thượng viện, du khách nhìn thấy một cây cột đá có tượng chó sói cái và hai đứa trẻ Romulus và Remus đang bú sữa. Từ đây, du khách có thể nhìn thấy toàn cảnh của Foro Romano là trung tâm sinh hoạt chính trị, văn hóa, kinh tế và tôn giáo của Roma thời cổ xưa. Du khách cố thể nhìn thấy di tích 9 cây cột còn lại của đền thờ dâng kính 12 vị thần ngoại giáo (xây 367 năm trước Tây Lịch). Bên cạnh là đền thờ kính hoàng đế Vespasiano do hoàng đế Domiziano xây năm 367 trước Tây Lịch để kỷ niệm hòa ước giữa hai nhóm Patrizi và Plebei, sau này được hoàng đế Tiberio xây lại trong những năm 7-10. Đền thờ kính thần Saturno và Khải Hoàn Môn Settimo Severo. Khu vực Roma này là trung tâm sinh hoạt của Roma cổ xưa từ đồi Palatino đến đấu trường Colosseo.
16. Khải Hoàn Môn Settemio Severo
Thượng viện và dân chúng Roma xây Khải Hoàn Môn này vào năm 203 để dâng kính hoàng đế Settimio Severo và hai hoàng tử Géta và Caracalla. Khải hoàn môn này cân đối với chiều cao 23 thước và chiều rộng 25 thước. Du khách có thể nhìn thấy bốn cảnh chạm nổi diễn tả cảnh hoàng đế Settimio chiến thắng quân Parthe, Ảrập, và Adiabene. Những bức chạm nhỏ diễn tả cảnh các dân tộc Đông phương đến bái yết hoàng đế và cảnh nô lệ bị bắt làm tù binh. Năm 211 Caracalla giết anh mình là Géta nên tên của Géta bị đục bỏ. Bây giờ chỉ còn những lời chúc tụng hoàng đế Settimio Severo và hoàng tử Caracalla.
17. Nhà tù Mamertino
Nhà thờ bên trái đường Consolazione là nhà thờ của thánh Giuse của giới thợ mộc do G. della Porta xây năm 1538. Dưới hầm là nhà tù gồm hai phòng chồng lên nhau. Phòng trên rộng hơn được làm nhà tù của Roma. Ở trên bàn thờ có tượng bán thân của hai thánh tông đồ Phêrô cầm sách và thánh Phaolô cầm gươm. Tên của các tù nhân được khắc ghi trên hai tấm bia cẩm thạch (bây giờ được thay thế bằng hai tấm bảng gỗ). Phòng dưới ẩm thấp được xây vào năm 387 trước Tây Lịch trong thời kỳ người Gôloa xâm lăng Roma. Các tù nhân và tội nhân bị giam giữ ở đây trước khi bị hành quyết. Vua của Numidia và Vercingetorix của Gôloa bị Cesare bắt năm 49 cũng bị giam giữ tại đây. Theo truyền thuyết, hai thánh Phêrô và Phaolô cũng bị giam giữ tại đây trong vòng 9 tháng nên người ta cũng gọi đây là nhà tù thánh Phêrô. Trong phòng dưới có một mạch nước do thánh Phêrô đã cho vọt lên để rửa tội cho hai người canh ngục trở lại Kitô giáo. Mạch nước vọt lên ngay chân cột nơi mà các tù nhân bị trói với xiềng xích và đánh đòn dữ dội trước khi bị đem ra hành quyết. Đối diện với nhà tù thánh Phêrô là nhà thờ hai thánh Luca và Martina. Nhà thờ này được xây trước thế kỷ thứ 7 và được P. de Cortona xây lại vào năm 1640 gồm hai nhà thờ thánh Luca ở tầng trên và thánh Martina ở tầng dưới.
18. Khu vực Foro Traiano
Khu vự Foro Traiano là khu vực cuối cùng của hoàng đế Roma, xây cất vào những năm 111- 114. Khu này gồm đền thờ Traiano, 2 thư viện, cột Traiano, đền thờ Ulpia và khu chợ Traiano. Cột Traiano do thượng Viện và dân chúng Roma xây để dâng kính hoàng đế Traiano đã chiến thắng quân Daces. Thân cột chạm trổ cảnh chiến tranh với quân Daces trong những năm 101- 103 với 2.500 người cao từ 60 đến 1 thước và chiều dài của tất cả các cột là 200 thước. Cột cao 29 thước. Cả khối gồm đế, cột và tượng trên đỉnh cao 42 thước 30. Cầu thang gồm 185 bậc thang từ dưới lên tới đỉnh. Bên trong có một hòm vàng đựng tro của hoàng đế hỏa thiêu năm 117 tại Cillicia. Tòa án Ulppia rộng gần bằng đền thờ thánh Phaolô ngoài thành gồm 4 hàng cột chia tòa án ra làm năm gian dọc, hai cửa hướng về phía cột Traiano và 3 cửa khác hướng về phía đại lộ. Chợ Traiano có hình bán nguyệt nối dài với hai cánh ở hai bên. Ý định ban đầu là ngăn chặn đất trên đồi Quirinale khỏi đổ xuống cũng như sử dụng làm hàng quán.
19. Khu vực Angusto
Hoàng đế Augusto xây năm 42 trước Tây Lịch để kỷ niệm cuộc chiến thắng Filippi trả thù cho hoàng đế Cesare. Chính giữa là đền thờ dâng kính thần Marte Ultore. Hai bên là hai tòa án. Tòa án bên phải có bức tượng khổng lồ nên được gọi là phòng của Người Khổng Lồ (du khách có thể nhìn thấy ngón tay và bàn chân của người khổng lồ trên đồi Campidoglio).
20. Khu vực Vespasiano
Hoàng đế Vespasiano xây trong những năm 69- 75 với các chiến lợi phẩm mang về từ Palestine. Hiện nay chỉ còn lại một cây cột rất lớn.
21. Mộ của Romulus và Remus
Bên dưới chỗ có mái tôn che là mộ của Romulus và Remus nằm sâu dưới dết được đánh dấu bằng một tấm cẩm thạch đen. Hai con sư tử đứng hai bên giống như những mộ của dân Etrus. Ngoài ra còn có tấm bia đá với hơn góc khắc chữ Latinh cổ thuộc thế kỷ 16 trước Tây Lịch.
22. Con đường thánh
Con đường thánh này kéo dài đến khải hoàn môn Titô ở gần đấu trường Colosseo trong khu vực Roma cổ. Gọi là thánh vì hai bên đường có nhiều nhà thờ và được dùng cho các cuộc rước kiệu tôn giáo. Sau khi chiến thắng trở về, các hoàng đế, sĩ quan và binh lính Roma diễn hành trên con đường này dẫn theo các tù binh và các chiến lợi phẩm.
23. Đền thờ Cesare
Đền thờ được xây năm 29 trước Tây Lịch ngay tại chỗ xác hoàng đế Cesare được hỏa thiêu năm 44 trước Tây Lịch.
24. Đền thờ thần Vesta
Sau đền thờ Cesare là đền thờ kính thần Vesta có hình tròn gồm 20 cột cẩm thạch kiểu Corintô nhưng hiện nay chỉ còn lại nền nhà. Đối diện với đền thờ là nhà các trinh nữ có nhiệm vụ trông coi ngọn lửa thiêng của đền thờ. Ngôi nhà dài 69 thước dài và 24 thước ngang với các phòng quay vào sân trong. Sân này được trang hoàng bằng tượng của các trinh nữ nổi tiếng sống trong những năm 201 và 304 trước Tây Lịch.
25. Đền thờ Antinio và Faustina
Thượng Viện và dân chúng Roma xây năm 141 dâng kính hoàng hậu Faustina, vợ của hoàng đế Antonio Pio, được dân chúng tôn làm thần. Sau khi hoàng đế Antonio qua đời năm 161, đền thờ được dâng kính hai người với hai hàng chữ khắc bên trên tiền đường. Bên cạnh xưa là nghĩa địa của dân cư sống trên triền đồi Palatino giữa các thế kỷ thứ 9- 7 trước Tây Lịch.
26. Đền thờ kính hai thánh Cosma và Damiano
Đền thờ này được xây vào thế kỷ thứ 6 và được tu sửa lại năm 1632. đền thờ có bức khảm đá màu rất đẹp của thế kỷ thứ 6. Trên khải hoàn môn: Chiên Con ngự trên ngai với sách Phúc Âm, chung quanh có 7 chân đèn, 4 thiên thần và biểu hiện 4 sách Phúc Âm, hai cánh tay các bô lão nâng các triều thiên. Bức khảm đá màu ở cung thánh: Chúa Kitô, hai thánh Cosma và Damiano được hai thánh Phêrô và Phaolô giới thiệu. Bên phải là thánh Teodoro, bên trái là thánh Felice 4 dựng mô hình của nhà thờ, cành lá vạn tuế và chim phượng hoàng biểu tượng cho sự sống lại. Phía dưới, Chiên Con đứng trên núi, từ đó vọt ra 4 sông và 12 con chiên tượng trưng cho 12 Tông Đồ đang từ Belem và Giêrusalem đi ra. Năm 307 hoàng đế Massenzio xây cho con trai chết khi còn nhỏ. Đền thờ Romulus được hoàng đế Costantine hoàn thành. Sau này, đền thờ Romulus biến thành đền thờ kính hai thánh Cosma và Damiano.
27. Đấu trường Colosseo:
Đấu trường là công trình kiến trúc vĩ đại nhất của thành phố Roma cổ trong thời các hoàng đế nổi tiếng. Nó biểu tượng cho vinh dự và oai hùng của đế quốc Roma cũng như của thành phố Roma là thủ đô của đế quốc. Đấu trường này được hoàng đế Vespasiano khởi công năm 72 trên các hồ thuộc vườn thượng uyển của hoàng đế Nero và hoàn tất năm 80 do hoàng đế Tito. Nơi đây diễn ra các trò chơi giải trí như đấu gươm săn bắn giả thú, thủy chiến giả… Đấu trường hình bầu dục bằng đá vôi bên ngoài và gạch nung cùng với đá ong ở bên trong. Chu vi rộng 527 thước, dài 188 thước cao 52 thước, gồm 4 tầng. Ba tầng dưới có các cửa vòng cung trang hoàn với các cột kiểu Corinto, Ionieno và Dorico. Các tượng được trưng bày giữa hai tầng 2 và 3. Hoàng đế, khanh tướng, hoàng gia vào cửa đặc biệt dẫn thẳng vào phòng tiếp tân. Dân chúng đi vào qua 80 cửa vòng cung có đánh số thứ tự. Ghế ngồi chia làm 3 hạng: kỵ binh, trung lưu và dân chúng. Ở trên cao dành cho những người đứng coi với giá rẻ hơn. Đấu trường có thể ngồi được trên 50 ngàn người. Đấu trường có mái che bằng vải dùng khi trời mưa. Ở dưới bãi đấu (76 x 46) còn có các hành lang, các phòng nhốt thú dữ, các cột dùng để kéo mọi dụng cụ cho các trò chơi giải trí. Đấu trường mang tên Colosseo, nghĩa là Khổng Lồ do kiến trúc vĩ đại của nó cũng như bên cạnh có bức tượng khổng lồ cao 30 thước của hoàng đế Nero. Đấu trường bị hư hại do hai lần động đất vào những năm 1231 và 1255. Hoàng đế Enrico 7 trao lại cho Thượng Viện và dân chúng Roma. Vào thế kỷ 15, đấu trường trở thành mỏ đá để xây cất các dinh thự trong thành phố như Dinh Venezia, Famese, Barberini và đền thờ thánh Phêrô. Theo truyền thuyết Kitô, nhiều tín hữu chịu tử đạo tại đấu trường nên vào thế kỷ 18 ĐGH Beneđicto 14 cho tu sửa lại và dâng đấu trường để tôn kính các vị thánh tử đạo. Các ĐGH Pio 7, Leo 12, Gregorio 16 và Pio 9 cũng tu sửa nhiều lần. Năm 1957 người ta dựng lên một cây thánh giá. Từ thời ĐGH Phaolô 6, Đức Thánh Cha chủ tọa những Chặng Đàng Thánh Giá vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh với sự tham dự của hàng ngàn tín hữu cũng như du khách hành hương.
28. Khải Hoàn Môn Costantine:
Thượng Viện và dân chúng Roma xây năm 315 dâng kính hoàng đế Costantine để kỷ niệm chiến thắng Massenzia tại cầu Milvio. Các bức Chạm trổ của Khải Hoàn Môn lấy từ dài kỷ niệm Traiano. Hai bức bên trên hai cạnh tả lại cảnh chiến thắng quân Daces. Tám chiếc nề đai trang hoàng hai mặt của Khải Hoàn Môn diễn tả cảnh săn bắn và tế lễ cũng được lấy từ đài kỷ niệm Traiano. Còn 8 bức chạm trổ khác tả cảnh tế lễ, huấn dụ dân chúng và binh lính, khải hoàn vào Roma được lấy từ một đài kỷ niệm Aurelio.
29. Khải Hoàn Môn Tito:
Hoàng đế Domiziano xây khải hoàn môn năm 81 để kỷ niệm hoàng đế Vespaziano và còn là Tito thắng trận bên Palestine năm 70. Hai bức chạm nổi diễn tả cảnh Roma đang lái chiến mã bên trên có Tito và nữ thần chiến tranh đang đứng, quân lính Roma khải hoàn trở về mang theo những chiến lợi phẩm từ đền thờ Giêrusalem: bàn dâng bánh, kèn đồng, đèn vàng 7 ngọn.
30. Đồi Palatino:
Đồi Palatino là một ngọn đồi cổ kính nhất của Roma đã có dân cư sinh sống và trồng cấy từ thế kỷ 9 trước Tây Lịch. Romulus và Mulus thành lập thành phố Roma tại đây. Trước đây chỉ có dinh thự của những người giàu có. Sau đó, các hoàng đế bắt đầu xây dựng các đền thờ và dinh thự ở đây.
31. Dinh Nero:
Sau trận hỏa hoạn năm 64, hoàng đế Nero cho xây dựng một lâu đài nguy nga trên đồi Oppio với vườn ngự uyển chung quanh. Bên trong trang hoàng những hình vẽ của họa sĩ Fabullus (thế kỷ 1). Nhiều nghệ sĩ hội họa trong thời Phục Hưng đã lấy nguồn cảm hứng tại đây. Một phòng có vòm cong mạ vàng, do đó biệt thự mới có thể là nhà vàng.
32. Sân đua ngựa Massimo:
Đây là sân đua ngựa lớn nhất của Roma có thể chứa được trên 100 ngàn người. Ngoài những cuộc đấu ngựa, những trò chơi giải trí cũng được tổ chức tại đây. Du khách có thể nhớ lại khung cảnh của bộ phim Bel Hur được đóng phim. Một sĩ quan Roma đã cho Chúa Giêsu uống một gáo nước lạnh bị ngã xuống đang khi bị vác thánh giá lên Golgotha. Gia đình của ông đã theo đạo Kitô và mẹ ông đã khỏi bệnh cùi.
33. Vương Cung Thánh Đường thánh Sabina:
Đền thờ này được xây trong thời gian 423- 432. Năm 1222, ĐGH Honorio 3 trao cho thánh Đaminh Vương Cung Thánh Đường và dinh thự sát bên để sử dụng sau khi phê chuẩn hiến pháp Dòng Anh EmThuyết Giáo. Cửa chính bằng gỗ được chạm trổ các hình lấy từ Cựu Ước và Tân Ước thuộc thế kỷ thứ 5. Đền thờ gồm 3 gian với 24 hàng cột kiểu Corito tuyệt đẹp lấy từ một đền thờ ngoại giáo. Trên cửa ra vào còn một bức khảm đá mầu rất đẹp thuộc thế kỷ thứ 5 với những hàng chữ vàng trên nền đá xanh, tên của vị linh mục kiến trúc đền thờ này, hai bên là các biểu tượng của Giáo Hội phát sinh từ Do Thái giáo và Giáo Hội phát sinh từ dân ngoại. Gian cung thánh được trang hoàn bằng cẩm thạch rất nhiều màu của thế kỷ thứ 5. Các ghế ngồi của ca đoàn và tòa giảng thuộc thế kỷ thứ 9. Nền nhà có mộ bia của nhiều vị Giám Mục, Hồng Y, trong đó có cha Bề Trên Tổng Quyền Mudos de Zamora (năm 1300). Tu viện thánh Sabina bên cạnh xây rất đẹp với khuôn viên gồm 103 cây cột xây giữa các năm 1216- 1225. Hai phòng riêng của thánh Daminh và thánh giáo hoàng Pio 5 được dùng làm nhà nguyện. ĐGH mỗi năm đến Vương Cung Thánh Đường này để chủ tọa lễ Tro và công bố sứ điệp Mùa Chay.
34. Nhà thờ Đức Bà Trang Sức
Nhà thờ Đức Bà Trang Sức tọa lạc tại công trường Miệng Sự Thật (Bocca deua Verita). Phía bên trái của tiền đường nhà thờ có một tảng đá cẩm thạch tròn lớn có tạc hình mặt nạ đựơc dùng làm nắp giếng trước đây được dân chúng gọi là Miệng Sự Thật. Ai muốn chứng minh rằng mình nói sự thật thì đến đây thề bằng việc đặt tay vào miệng. Ai nói dối thì không thể rút tay ra được nữa. Nhà thờ được xây trước thế kỷ thứ 4 trên đền thờ Hercule. Vào thế kỷ thứ 8, nhà thờ được sửa lại rộng rãi hơn và ĐGH Adriano 1 trao cho cộng đoàn công giáo Hy Lạp. Nhà áo có bức khảm màu: Ba vua đến thờ lạy Chúa Hài Đồng (năm 706). Tháp chuông kiểu Roma được xây thêm vào thế kỷ 12. Năm 1294, con thứ 4 của gia đình Cosma làm thêm nền khảm đá mầu, ghế ca đoàn, ngai Giám Mục, tàn che bàn thờ và 18 cột chia nhà thờ thành 3 gian dọc.
35. Nhà thờ Đức Bà ở Tratevere:
ĐGH xây nhà thờ này đầu thế kỷ thứ 3 nên là nhà thờ đầu tiên mở cửa cho việc phụng tự, đồng thời là nhà thờ dâng kính Đức Mẹ cổ kính nhất Roma. Năm 1140 ĐGH Innocente 2 cho xây lại với tháp chuông kiểu Roma. Mặt tiền là bức khảm đá mầu: “Đức Mẹ và Chúa Giêsu Hài Đồng” thuộc thế kỷ 12- 13. Chung quanh có hình 8 trinh nữ cầm đèn sáng và hai trinh nữ cầm đèn tắt. Nhà thờ được chia thành 3 gian với 22 cột được mang về từ các đền thờ ngoại giáo. Trên nền cung thánh có bức khảm đá màu rất đẹp làm năm 1140, diễn tả Chúa Giêsu Kitô với Đức Mẹ ngồi trên ngai, bên phải có các thánh Phêrô, Cornellio, Giulio và Calepodio, bên trái có các thánh Callisto, Lorenzo và ĐGH Innocente 2 cầm mô hình nhà thờ trong tay. Bên trên là tay Thiên Chúa Cha cầm triều thiên và hoa tự của hoàng đế Costantine. Thấp hơn là 6 bức khảm đá mầu khác diễn tả cuộc đời của Đức Mẹ.
36. Đảo Tiberina:
Đảo Tiberina có lịch sử rất quan trọng liên quan đến việc việc khai sinh và phát triển Roma. Trước tiên, đảo nối kết vùng bên ngoài bờ sông với những dinh thự trong thành phố. Đảo Tiberina được nối liền với hai bờ sông bởi hai cây cầu Fabricio do tổng lãnh sự Fabricio xây năm 62 trước Tây Lịch và cầu Cestio do Cestio xây năm 46 trước Tây Lịch. Chiếc cầu Fabricio là chiếc cầu cổ kính nhất của Roma còn nguyên vẹn. Theo truyền thuyết, một chiếc tàu đắm giữa sông và dần dần bị cát phủ lấp lên. Xưa kia xung quanh đảo có một lớp đá vôi nhô ra như hình con tàu. Trên thực tế, đảo này nằm trên một tảng đá nham thạch có hình thù giống như một chiếc thuyền. Hiện nay du khách có thể trông thấy một phần phía Nam hình một con rắn và tượng thần y khoa Aesculapius vì đảo này có đền kính thần này. Vào thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch, dân chúng Roma đi tầu đến Epidarus bên Hy Lạp để học hỏi từ thần Aesculapius làm thế nào để tránh nạn dịch. Nhưng khi nước đưa con thuyền xuống thì rắn thần chạy mất ngay và cho đến bây giờ ý nghĩa rằng đảo này phải được dâng kính cho thần Aescupalius. Vào thế kỷ thứ 10, ĐGH cho xây nhà thờ thánh Bartolomeo trên dấu vết đổ nát của đền thờ thần Aescupalius. Trên đảo Tiberia có nhà thương thánh Gioan Thiên Chúa do các thầy dòng Thánh Gioan Thiên Chúa trông coi.
37. Rạp hát Marcello:
Hoàng đế Cesara khởi công xây rạp hát này để tặng cho cháu là Marcello năm 13 trước Tây Lịch gồm hai tầng với các vòm cửa kiểu Dorico và Ionieno. Dòng họ Pierieno dùng làm pháo đài trong thời Trung Cổ. Đến thế kỷ 16, dòng họ Savelli xây lâu đài ở trên và nhượng lại cho dòng họ Savelli.
38. Vương Cung Thánh Đường Thánh Marco:
ĐGH Marco xây năm 336, ĐGH Gregorio 4 sửa lại năm 833 và ĐGH Phaolo 2 năm 1455- 1471. Năm 1744 được xây lại lần nữa. Bên trên cửa chính là thánh Marco. Bên trong hai hàng cột bằng vân thạch Sicilia chia đền thờ thành 3 gian dọc trang trí theo kiểu Baroc. Trên cung thánh có bức khảm đá màu thuộc thế kỷ thứ 9: Chúa Giêsu, các thánh và ĐGH Greorio 4 dâng mẫu đền thờ. Nền đá hoa Cosma thuộc thế kỷ 12. Trần nhà bằng gỗ mạ vàng rất đẹp thiết kế năm 1471.
39. Đền thờ Pantheon:
Đây là một trong những kiến trúc Roma cổ được giữ lại gần như nguyên vẹn. Hoàng đế Adriano trong những năm 120- 125 cho xây ngay trên chỗ của một đền thờ cũ đã được xây năm 27 tước Tây Lịch do Lãnh Sự Marcua Agrippa và dâng kính 7 thần tinh tú. Hoàng đế giữ lại tấm bia nguyên thủy “M. AGRIPPA L.F. COSTERTIUM FECIT” (Marcud Agrippa, con của Lucius, Lãnh Sự lần thứ 3, đã xây đền thờ này). Tiền đường rất hùng vĩ với 16 cột đá nham thạch đỏ cao 12 thước 50. Bảy nhà nguyện đục sâu trong tường hình chữ nhật và hình bán nguyệt xen kẽ nhau hai bên có trang hoàng 2 cột kiểu cao gần 9 thước. Trong 7 nhà nguyện có tượng 7 thần tinh tú. Đền thờ có mái cao bằng với đường kính là 43 thước 30, lớn hơn mái đền thờ thánh Phêrô. Tần trang hoàng 5 hàng hình các hộp và càng lên cao càng nhỏ lại. Ánh sáng từ bên ngoài lọt vào qua lỗ hổng trên trần có đường kính 9 thước. Nền nhà được lát bằng nhiều thứ đá cẩm thạch màu mè sặc sỡ. Vào thế kỷ thứ 6, hoàng đế Byzantine Phoca dâng đền Pantheon cho Đức Giáo Hoàng Bonifacio 4. Năm 609, ĐGH Bonifacio 4 thánh hiến và dâng kính Đức Mẹ và các Thánh Tử Đạo. Hài cốt các Thánh Tử Đạo từ hang toại đạo được mang về đây cất giữ dưới bàn thờ. Trong dịp long trọng thánh hiến đền thờ, khi ca đoàn hát Groria, dân chúng Roma được chứng kiến những ma quỷ vùng dậy và bay ra khỏi đền thờ qua lỗ trống ở trên mái có chu vi 9 thước. Trong thời gian các ĐGH bị tấn công, đền thờ này được sử dụng làm pháo đài. Trong thời Trung cổ, các đền thờ trở thành biểu tượng của thành phố Roma.
Tranh “Thiên Thần truyền tin” ở bàn thờ bên phải. Mộ của Vittoria Emanuelle 2, vua đầu tiên của Italia qua đời năm 1878 và mộ của hoàng hậu Margherina. Đối diện với mộ vua Emanuelle là mộ của Umberto 1 bị ám sát năm 1900. Bên phải mộ của Umberto 1 là mộ của Raffaello. Bên trên có tượng Đức Mẹ do Lorenzetto tạc theo lời di chúc của Raffaello.
Công trường Patheon do G. delle Porta xây năm 1578 trang hoàng với một bút tháp Ai Cập đứng giữa bồn nước.
40. Nhà thờ Đức Mẹ trên đền thờ Minerva:
Chính giữa công trường Minerva có con voi độc trên lưng một bút tháp Ai Cập nhỏ do Bernini xây năm 1667. Bút tháp này lấy từ đền Isis. Các chữ trên bút tháp nói về vua Uahabra sống trong thời kỳ thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch. Vua đã liên kết với Sedecia, vua Giuda để chống lại vua Nabuchodosor.
Nhà thờ Đức Mẹ này được xây vào thế kỷ thứ 7 trên dấu tích của đền thờ dâng kính nữ thần Minerva. Năm 1280 nhà thờ được xây lại. Đây là nhà thờ kiểu Gotic duy nhất tại Roma với mặt tiền kiểu Phục Hưng. Dưới bàn thờ chính là xác thánh nữ Catarina Siena. Bên trái là mộ chân phước Angelico. Bên cạnh nhà thờ là tu viện các tu sĩ dòng Đaminh. Hành lang tu viện có rất nhiều tranh vẽ trên tường. Galileo đã bị xử trong một phòng của tu viện này.
41. Nhà thờ thánh Ignazio
Nhà thờ này do ĐHY Ludovisi cho xây để mừng lễ phong thánh cho vị sáng lập dòng Tên. Thời gian xây cất do kiến trúc sư Orazio Grassi thực hiện trong thời gian 1626- 1685. Nhà thờ rộng rãi trang hoàng rất lộng lẫy với bức tranh “Thánh Ignazio vào thiên đàng” của Andrea Pozzi. Nhà nguyện bên phải có bức chạm nổi “Ving quang của thánh Ignazio và thánh Louis de Gonzalez” của Legros. Bình bằng ngọc lưu ly đựng xác thánh Ignazio. Nhà nguyện bên cạnh có bức chạm nổi “Truyền tin”.
42. Vương Cung Thánh Đường các Thánh Tông Đồ
Đền thờ này được ĐGH Pelagia 1 cho xây dựng để kỷ niệm biến cố đánh quân Goths ra khỏi thành phố Roma. Đền thờ được nới rộng ra và xây lại hoàn toàn năm 1702. Bên trong nhà thờ trang hoàn kiểu Baroc chia làm 3 gian dọc. Mái vòm tròn với bức tranh “ Các thiên thần nổi loạn” của g. Odazzi. Trần nhà với bức tranh “Dòng Phanxico chiến thắng”. Các thánh sử L. Fontana. Nhà nguyện cuối cùng của nhà thờ xưa thuộc thế kỷ thứ 4. Tại bàn thờ chính có bức tranh “Thánh Philipphê và thánh Giacôbê tử đạo” lớn nhất Roma. Từ đây, du khách có thể thăm viếng đại học Gregoriana của các cha dòng Tên và Viện Thánh Kinh.
43. Bồn nước Trevi
Bồn nước này đẹp và nổi tiếng nhất tại Roma. Nước của bồn này còn gọi là nước “Trinh Nữ” do hoàng đế Agrippa cho dẫn về Roma vào năm 19 trước Tây Lịch cho các hồ tắm của hoàng gia. Gọi là “nước trinh nữ” vì xưa có một cô gái chỉ mạch nước này cho quân lính Roma. Cầu dẫn nước kéo dài 20 cây số ngang thung lũng Gilia. ĐGH Urbano 6 mở rộng ra và ĐGH Clemente 12 sai kiến trúc sư Salvi xây bồn nước này năm 1762. Tượng thần Nettuno, thần biển oai hùng đang đứng trên cỗ xe song mã đi lên từ lòng biển, hai bên có hai tượng ốc len khổng lồ. Hai lỗ ở hai bên tượng trưng cho Lành Mạnh (bên phải) và Phong Phú (bên trái). Hình chạm nổi bên trên diễn tả cảnh cô gái chỉ mạch nước cho quân lính Roma và hoàng đế Agrippa chấp nhận dự án dẫn nước về Roma. Bốn tượng ở trên diễn tả cảnh phong phú của bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông. Theo thói quen, du khách muốn ước mơ điều gì thì họ cầm đồng tiền quay lưng ném ngược vào hồ nước. Họ có thể được điều họ xin hoặc họ chắc chắn sẽ trở lại Roma khấn cầu lần nữa.
44. Công trường Tây Ban Nha
Công trường Tây Ban Nha được du khách thích thăm viếng vì là nơi gặp gỡ của những người trẻ, đặc biệt là những người đang yêu nhau. Ở giữa là Bồn Nước Thuyền do Bernini tạc để kỷ niệm biến cố nước sông Tiber dâng lên làm lụt thành phố. Khi nước rút xuống, có một chiếc thuyền nhỏ ở đây. Bên phải là Dinh Đại Sứ Tây Ban Nha ngoại giao với Tòa Thánh. Tên của công trường phát xuất từ Dinh Tây Ban Nha xây năm 1647.
Tước mặt công trường là 137 bậc thang kiểu Rococo rất đẹp dẫn lên nhà thờ Chúa Ba Ngôi. Cầu thang này được xây vào giữa các năm 1721- 1725. Giới trẻ thích tụ họp ngồi trên các bậc thang để ngắm nhìn cảnh Roma. ĐGH Pio 6 cho dựng bút tháp Ai Cập lên trước mặt tiền nhà thờ năm 1789.
Nhà thờ Chúa Ba Ngôi do vua Carlo 4 xây cho tín hữu Pháp năm 1495. Mặt tiền kiểu Baróc có hai tháp chuông lợp mái tròn. Trong thời gian Napoleon xâm chiếm Roma nhà thờ bị cướp phá. Năm 1816 vua Luis 18 sửa sang lại.
Gần đó là cột Đức Mẹ Vô Nhiễm được dựng nên để kỷ niệm ngày tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 8 tháng 12 năm 1856. Dịp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm mỗi năm, ĐGH đến cầu nguyện và dâng hoa cho Đức Mẹ trước khi dâng thánh lễ trọng thể tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà ở Roma. Đàng sau là Bộ Truyền Giáo của Tòa Thánh do Bernini xây.
45. Công trường Nhân Dân
Công trường này có hình bầu dục được trang hoàng với đầu người mình sư tử, bốn tượng diễn tả 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông. Bút tháp Ai Cập cao 24 thước trên đế cao 12 thước 30 ở giữa công trường, chung quanh có bốn bồn nước. Các chữ khắc trên bút tháp ca tụng Phrao Ramses 2 sống vào thế kỷ 12- 13 trước Tây Lịch. Hoàng đế Augusto đã đem bút tháp này từ Hierapoli về Roma dâng kính thần mặt trời và cho dựng tại Sân Đua Ngựa Massimo. ĐGH Sesto 5 cho dời về đây năm 1589.
46. Tháp Dân Vệ
Thuộc thế kỷ thứ 13 có hình vuông chỉ còn lại hai phần ba chiều cao. Dinh ngân hàng quốc gia Italia xây năm 1886- 1892. Bên cạnh là Tòa Giám Mục Quân Đội Italia và Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquinas do các cha dòng Đaminh điều khiển. Đại học này trước đây là Đan Viện do ĐGH Pio 5, dòng Đaminh đã thiết lập cho các đan sĩ Đaminh chiêm niệm vào thế kỷ 16. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tốt nghiệp tiến sĩ thần học tại đây năm 1948.
47. Công trường Quirinale
Công trường này là một trong những công trường đẹp nhất của thành phố Roma. Công trường được gọi là Quirinale vì có đền thờ dâng kính thần Quirinus xây trên đồi này. Công trường này nằm trên đồi Quirinale cao 61 thước là đồi cao nhất trong bảy ngọn đồi của thành phố. Chính giữa là tượng các thần Dioscuri, Castore và Polluce cao 5 thước 60 đang ghì hai con ngựa chứng. ĐGH Pio 6 cho dựng những tượng này tại đây sau khi tìm được trong hồ tắm của hoàng đế Costantine. Sau này, ĐGH Pio 6 cho đặt thêm bút tháp Ai Cập ở giữa và ĐGH Pio 7 xây thêm bồn nước bằng nham thạch. Bút tháp Ai Cập cao 14 thước 45 không kể đế được mang về từ lăng tẩm của hoàng đế Augusto.
Trước mặt công trường là Dinh Quirinale khởi công xây cất năm 1574 dưới thời ĐGH Gregorio 13 để làm dinh nghĩ hè cho Giáo Triều Bernini, Fontana, Mademo hoàn thành dưới thời Giáo Hoàng Clemente 12. ĐGH Sisto qua đời tại đây. Cửa vào có tượng hai thánh Phêro và Phaolô. Từ năm 1870- 1946, Dinh Quirinale trở thành hoàng cung của các vua Italia và bây giờ là Dinh Tổng Thống.
48. Lâu Đài Thiên Thần
Nguyên thủy đền này là lăng tẩm của hoàng đế Adriano xây năm 135 cho chính ông và những người kế vị. Nó là một cái tháp tròn rộng lớn bằng đá ong và đá vôi bọc cẩm thạch dài 64 thước nằm trên đế hình vuông cạnh 84 m cao 50 m, trên cao có tượng hoàng đế. Nhiều hoàng đế được chôn cất tại đây cho đến năm 211. Những thế kỷ sau đó, lăng tẩm trở thành pháo đài. Theo truyền thuyết, năm 590 ĐGH Gregorio Cả chủ sự một buổi rước kiệu cầu cho thành phố Roma qua khỏi trận dịch hạch, khi đi qua cầu ĐGH nhìn thấy một thiên thần đang tra thanh gươm vào vỏ. Nạn dịch hạch ngưng sau đó. Từ đó lăng tẩm được gọi là Lâu Đài Thiên Thần. Trong thời Trung Cổ, lâu đài trở thành pháo đài và nơi trú ngụ cho các Giáo Hoàng và các hoàng đế. ĐGH Urbano 8 cho đặc các lò chế tạo súng đại bác và trại lính bên trong. Năm 1752 bức tượng thiên thần Micae bằng cẩm thạch của G. della Porta được đặt trên nóc lâu đài, sau đó được thay thế bằng tượng đồng do Vershaffelt điêu khắc.
49. Công trường Navona
Công trường này biểu lộ công trình kiến trúc của thành phố. Kích thước nguyên thủy của công trình kiểu Banzac dài 240 thước rộng 65 thước, thực sự giống như sân vận động Domitiano xây năm 86 trước Tây Lịch cho những cuộc thi đua thể thao. Phần còn lại của sân vận động nằm sâu dưới mặt đường khoảng 5- 6 thước, có thể được nhìn thấy nơi công trường Tor Sanguigna hoặc tại nhà thờ thánh Anê tại sân vận động. Nhà thờ thánh Anê tọa lạc ngay chỗ mà vị thánh 12 tuổi chết vì đạo trong thời gian hoàng đế Diocletiona khởi xướng bách hại người Kitô dữ dội. Vào cuối thế kỷ 13, vị thánh bị phơi thân trần truồng cho người ngoại giáo nhạo cười nhưng thân xác trần truồng của ngài được che đậy bằng mái tóc mọc ra cách lạ lùng. Nhà thờ được khởi công xây trong thời gian 1652- 1657. Mặt tiền có hai tháp chuông do Barromini xây. Trong nhà nguyện dưới hầm có bức chạm nổi hình thánh nữ Anê được ngọn tóc che thân.
Công trường được trang hoàng với ba bồn phun nước tuyệt đẹp: Bồn Moro trước Dinh Pamphili với tượng các ốc len đeo mặt nạ. Chính giữa là một người Ethiopia vật nhau với con cá heo, tạc theo mẫu của Bernini. Bồn phun nước Những Con Sông do Bernini tạc năm 1615 nằm ở chính giữa công trường. Khối cẩm thạch ở giữa trông giống như một hang động với 4 góc của khối cẩm thạch có 4 tượng khổng lồ tượng trưng cho 4 con sông thuộc bốn lục địa trên thế giới do học trò của Bernini tạc: Sông Danuble (Âu châu) tay cầm huy hiệu của ĐGH Innocenzo 10, sông Gange (Á châu) tay cầm mái chèo, sông Nil (Phi châu) có sư tử và lá dừa vây quanh và sông Plata (Mỹ châu) với một con quái vật đứng bên cạnh. Bồn phun nước thứ 3 xây vào thế kỷ 15 là Nettuno, thần biển đang đánh nhau với một con bạch tuộc, chung quanh có tượng nữ hải thần và hải mã. Những tượng này được tạc vào năm 1878. Một trong những trò chơi nổi bật tại công trường Navona trong những tháng hè nóng bức là những bồn phun nước lên cao giống như những sóng biển gây ra lụt lội nên bị chấm dứt vào thế kỷ 18 vì lý do sức khỏe. Dân chúng vẫn tụ tập tại đây vào những ngày lễ truyền thống như Sinh Nhật, Ba Vua và Phục Sinh.
50. Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Theo truyền thống, một người đi buôn đã lấy trộm bức ảnh lạ lùng từ một nhà thờ đảo Crete. Ông ta giấu trong những món đồ và đi về hướng tây. Nhờ Chúa quan phòng, ông ta vượt qua cơn sóng gió nguy hiểm và đáp vào bờ bằng an. Khoảng một năm sau, ông ta đến Roma với bức ảnh đã lấy trộm. Trong giờ lâm tử, ông ta mong có bạn bè săn sóc. Trước khi chết ông ta nói bí mật về bức ảnh và xin bạn ông trả lại nhà thờ. Người bạn ông muốn thực hiện lời hứa nhưng vợ ông không muốn mất đi kho tàng quý báo này nên ông chết đi mà không thực hiện được điều đã hứa. Sau cùng, Đức mẹ hiện ra với một em bé gái 6 tuổi thuộc gia đình Roma và bảo nó nói với mẹ và bà nó rằng bức ảnh Đức Mẹ hằng Cứu Giúp phải để ở nhà thờ thánh Matthuê Tông Đồ, tọa lạc ở giữa hai Vương Cung Thánh Đường Đức Bà và thánh Gioan Laterano. Kể từ ngày 27 tháng 4 năm 1499 bức ảnh Đức Mẹ được tôn kính tại nhà thờ đó trong vòng 300 năm. Sau đó, lòng sùng kính Đức Mẹ lan rộng khắp Roma, cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Chúa Cứu Thế thỉnh nguyện Đức Thánh Cha Pio 9 ban cho bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để trưng bày tại nhà thờ Chúa Cứu Thế và thnáh Alphonso mới được xây (11.12.1965). ĐGH Pio 9 nói với Cha Bề Trên Tổng Quyền rằng “ Hãy làm cho thế giới biết đến Mẹ”. Tháng giêng năm 1866, hai cha Michael Marchi và Ernest Bresciani đến nhà thờ Đức Mẹ ở Posterula để đón nhận bức ảnh Đức Mẹ từ các Cha Dòng Augustiano. Sau mấy tháng chuẩn bị, ngày 26.4.1866 bức ảnh được trưng bày để mọi người đến tôn kính. Bên cạnh nhà thờ là Trụ Sở trung ương và học viện thánh Alphonso của Dòng.
Là khách hành hương chúng ta sẻ không có đủ thời giờ và tài chánh để xem tất cả các thánh tích ở Rôma vì nhiều vô kễ. Tốt hơn nên tìm tài liệu xem trước những nơi quan trọng theo sở nguyện để khỏi phí thời giờ. Với kinh nghiệm, xin gởi đến bạn, người hùng đang chuẩn bị về thành thánh, tài liệu chúng tôi có được trong dịp hành hương vào tháng 8 năm 2008.
Chương I
ROMA- THÀNH PHỐ VĨNH CỬU
http://www.giaophanvinhlong.net/Hanhhuong/vatican-picture-by%20night_AJM515.jpg
I. Nguồn gốc thành phố Roma
Roma thu hút rất nhiều du khách đến thăm viếng hoặc hành hương vì nó là chiếc nôi của Kitô giáo cũng như của văn hóa văn minh Kitô. Lịch sử của thành phố Roma bắt nguồn từ một nhóm dân cư sống về chăn nuôi và trồng cấy trên đồi Palatino. Họ thuộc các sắc dân Latium, Sabin và Etrus. Có nhiều truyền tụng về tên của thành phố Roma. Roma có thể là tên của một người Etrus vị vọng. Theo tục truyền, thành phố Roma do hai anh em Romunus và Remus, thành lập năm 753 trước Tây Lịch. Cha của họ là thần chiến tranh Marx và mẹ là thần Vênus. Hai anh em bị cha mẹ đem bỏ trôi trên dòng sông Tiber. Khi nước sông rút xuống, chiếc nôi của hai đứa bé dạt vào chân đồi Pilatino. Hai đứa bé được một con chó sói cái cho bú sữa cho đến khi người tiều phu tìm thấy và mang về nhà nuôi. Do đó, biểu tượng của thành phố Roma là tượng con chó sói cái cho Romulus và Remus bú sữa. Khi thành lập thành phố Roma năm 753, Romulus cày một vòng ranh giới chung quanh. Ai muốn ra khỏi thành phố phải qua cổng chính chứ không được qua vòng đai chung quanh. Ai làm trái lệnh sẽ phải chết. Remus không tuân lệnh nên bị sử tử hình. Vì thế thành phố có tên là Roma.
Roma còn mang nhiều dấu vết lịch sử từ xưa đến nay trong các kho tàng nghệ thuật và tôn giáo. Roma còn nổi bật vì luật lệ, kiến trúc, văn hóa, tôn giáo, chính trị ảnh hưởng đến cả trong và ngoài đế quốc Roma, xưa cũng như nay. Roma mãi mãi vẫn là Roma vì thành phố duy nhất trên thế giới đã chứng kiến nhiều biến cố lịch sử, chính trị và tôn giáo. Roma là thủ đô của thế giới cổ cũng như thủ đô của Kitô giáo. Do đó, Roma xứng đáng gọi là “thành phố vĩnh cửu” với những nét đặc biệt giữa cổ thời và tân thời, giữa thế tục và tôn giáo, giữa con người và xã hội.
II. Vài nét lịch sử về chính trị
Các vị vua Etrus và Sabin đã phát triển thành phố Roma giàu có về chăn nuôi và trồng cấy. Roma gồm có 7 ngọn đồi với những hàng cây thông xanh tươi quanh năm. Bảy ngọn đồi Palatino, Campidoglio, Quirinale, Viminale, Esquilino, Célio và Aventio do bảy vị vua cai trị cho đến khi chuyển sang thể chế cộng hòa vào năm 509 trước Tây Lịch. Những bức tường do Servius Tulius xây dựng lên trong thời gian kinh tế phát triển mạnh vào thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch. Dần dần, thành phố mở rộng từ đồi Campidoglio tới ngoại ô Pincio dọc theo bờ sông Tiber. Khoảng năm 270 trước Tây Lịch, Roma chế ngự toàn thể Italia nhưng sau đó Roma phải đối kháng với những tấn công của Carthage (146 trước Tây Lịch), Pháp và Anh (58-53 trước Tây Lịch). Dân cư tai Roma đông đảo hơn một triệu người. Thành phố tiếp tục phát triển mạnh mẽ nhờ hoàng đế Caesar trong thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch. Hoàng đế Augustus củng cố thêm sức mạnh thống trị của đế quốc với những xây cất trong thành phố. Sau hai lần hỏa hoạn do hoàng đế Nero gây ra vào năm 64 và 80, thành phố được trùng tu lại và đồ sộ hơn với những đấu trường, khải hoàn môn, dinh thự công cộng về hành chánh và giải trí… Đại đế Augustus khai sinh đế quốc Roma với những tổ chức quy mô về chính trị, kinh tế văn hóa và nghệ thuật. Từ năm 250 Roma bá chủ các vùng chung quanh Địa Trung Hải và Phi Châu. Để bảo vệ thủ đô của cố quốc, hoàng đế Aurelius cho xây dựng thêm những tường thành Roma mở rộng (270-275). Năm 286 đế quốc Roma bị chia thành hai Đông và Tây do hoàng đế Dictileano. Sau thời gian đó, những dinh thự bị hư hại sụp đổ nhưng không được tái thiết. Roma may mắn được thay đổi bộ mặt với sức mạnh của Kitô giáo do Costantine chính thức phê chuẩn cho hoạt động công khai vào năm 313. Năm 309 người Gô-loa xâm chiếm Roma nhưng chẳng bao lâu Roma chiến thắng và thống trị các nhóm dân Gô-loa, Etrus và Hylạp sống tại Italia. Đến năm 476, hoàng đế cuối cùng của đế quốc Roma là Romus Augustulus bị German Odoacer phế thải. Sau hơn 10 thế kỷ thống trị và bành trướng, đế quốc Roma chấm dứt.
Kể từ hậu thế kỷ 6, Roma trở thành thành phố của đế quốc Bizantin với thủ đô là Ravenna. Dần dần Roma lại chiếm địa vị là thủ đô của đế quốc. Sau đó, Roma thuộc lãnh thổ của các Đức Giáo Hoàng. Vào những thế kỷ tối tăm, các vua chúa Âu Châu, các gia đình quyền hành tranh giành chiếm cứ thành phố Roma nên gây nên những cuộc chiến tranh và dân cư rời bỏ thành phố. Dân cư của thành phố vào thế kỷ 12 chỉ còn lại 20 ngàn người thay vì cả gần triệu người trước đó. Vào năm 1308, ĐGH Clemente 5 bị lưu vong sang Avignon, Roma trở nên suy yếu trong suốt thời gian này (1308-1377). Đến thời ĐGH Martino trở lại, Roma được khôi phục và tiếp tục cho đến các triều đại Giáo Hoàng của Julio 2 và Leo 10. Đây là thời điểm Roma trở thành trung tâm của văn hóa và nghệ thuật của thời Phục Hưng của Châu Âu. Nạn cướp phá tàn bạo của các quân đội Đức và Tây Ban Nha vào năm 1527 nhưng thành phố được phục hồi trở lại nhờ phong trào chống Phục Hưng vào những thế kỷ 16 và 17 với những kiến trúc thánh đường, dinh thự, bồn nước, đường xá theo kiểu Baroc dưới sự điều khiển của nhà kiến trúc thiên tài Bernini. Vào thế kỷ 19, Garibaldi và Mazzini chủ trương phong trào Phục Hưng tại Ý đã thống nhất nước Ý dưới quyền lãnh đạo của gia đình Savoia, và giới hạn quyền hành của Đức Giáo Hoàng trong nội thành Vatican. Năm 1870, Roma được tuyên bố là thủ đô của quốc gia mới là Italia.
III. Vài nét lịch sử về tôn giáo
Sau khi chính thức công nhận Kitô giáo được quyền chính thức giảng đạo, Hoàng Đế Costantine cho xây dựng đền thờ làm nơi thờ phượng. Đền thờ thánh Gioan được xây dựng trong thời gian 312-315 trên mảnh đất của gia đình Laterano và trở thành ngai tòa đầu tiên của Giám Mục Roma cho đến khi rời về Vatican. Đền thờ thánh Phêrô xây dựng vào năm 320 chính tại nơi Phêrô tử đạo, bên cạnh đấu trường Nero. Sau đó, đền thờ thánh Phaolô được xây năm 324 và đền thờ Đức Bà vào năm 356. Những cuộc tấn công của đám mọi rợ vào thế kỷ thứ 5 và chiến tranh Gôtích vào những năm 535- 553 làm cho Roma trở nên xuống dốc. Tuy nhiên nhiều nhà thờ được xây dựng trong thời gian này như các nhà thờ thánh Clêmentê trong vùng Latêranô; thánh Pudenziana trên đồi Esquilino; thánh Stêfanô Rotondo và hai thánh Gioan- Phaolô trên đồi Cêlio; thánh Sabina, thánh Prisca và Balbina trên đồi Aventinô; thánh Cristômô, thánh Cêcilia và Đức Mẹ Trastevere dọc theo bờ sông Tiber; thánh Anê, thánh Costanza trên đường Nomentana; các thánh Nereo và Achileo trên đường Appia.
Vào thế kỷ thứ 7, nhiều đền thờ ngoại giáo được biến thành những thánh đường Kitô giáo. Ngoài ra, những đền thờ như Pantheon, Fortuna Virilis, Vesta được trang hoàng với những đá quý và những bức tranh vẽ trên tường. Nghệ thuật kiểu Byzantin xuất hiện tại các nhà thờ kính các thánh Cosma Đamianô, thánh Anê, Đức Mẹ Cổ dần dần ảnh hưởng và tồn tại qua thời Trung Cổ cho đến thời đại Carôlingiô. Roma vẫn thuộc quyền cai trị của Giáo Hoàng. Hoàng đế Carlô được tấn phong và đội vương miện tại chính trong đền thờ thánh Phêrô vào năm 800.
Vào thế kỷ thứ 9, những đền thờ được xây dựng như thánh Prasede, Đức Mẹ Đomnica, thánh Cêcilia, thánh Marco với những hình ghép bằng những miếng đá vụn (mosaic). Thời gian này nhóm Sarác cũng đã tấn công và cướp phá hai đền thờ thánh Phêrô và Phaolô. Để bảo vệ thành phố khỏi những giặc cướp, ĐGH Lêo 4 đã nối dài tường thành ra đến Lâu Đài Thiên Thần nên phần bên được gọi là thành phố Lêo. Hai thế kỷ sau đó, thành phố bị tranh chấp giữa hoàng gia và giới quý tộc cho đến năm 1084, nhóm Norman nổi lửa và chiếm thành phố bằng gươm giáo.
Thế kỷ 12 phát triển chậm nhưng vững chắc về dân sự và chính trị. Nhiều nhà thờ cũ được tu sửa lại. Nhiều công trính kiến trúc của Cosma dùng đá cẩm thạch hoặc những vật liệu có chạm trổ dùng trong nền nhà, cột nhà, ngai giám mục, tòa giảng, mộ phần. Thế kỷ 13, gia đình Vassaletto trang trí khuôn viên bên trong nhà thờ Laterano và thánh Phaolô ngoài thành. Những bức tranh vẽ trên tường và những bức tranh khảm đá màu (hình ghép bằng những miếng đá vụn) cũng tiến triển mạnh mẻ và thoát khỏi nghệ thuật Byzantine. Jacopo Torriti là tác giả của những bức khảm đá màu tại đền thờ Đức Bà và thánh Gioan Laterano.
Sau giai đoạn tối tăm của Giáo Hoàng bị lưu đày tại Avignon kéo dài từ 1308- 1377 là thời kỳ phát triển về nghệ thuật. Nghệ thuật kiểu Roma Gothic phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ 14 và 15. Tiêu biểu là nhà thờ Đức Bà trên Minerva và những chạm trổ trên đền thờ thánh Phaolô ngoại thành cũng như nhà thờ thánh Cecilia. ĐGH Eugenio 4 trở lại Roma vào năm 1443 sau thời gian lưu đày lâu dài tại Florence. Ngài mời Masolino da Panicale và Filarete họa những bức tranh mầu thật đẹp tại nhà thờ thánh Clemente và chạm trổ cửa đông của đền thờ thánh Phêrô. Botticelli, Ghilandaio, Luca Signorelli và Perugino được ĐGH Sixto 4 trao nhiệm vụ trang trí nhà nguyện Sistine. ĐGH Julio 2 trở lại đồ án của ĐGH Nicolas thứ 5 nên đã ủy thác cho Bramante cấu trúc lại đền thờ thánh Phêrô. Những thiên tài hội họa của thế kỷ 16 đã đóng góp vào những công trình vĩ đại được muôn đời ghi nhớ như: Bramente trách nhiệm về các dinh thự và công viên Vatican, Raffaelo về những phòng quan trọng trong nội cung, Michelangelo vẽ nhà nguyện Sisstine cũng như lo việc tu bổ kiến trúc đền thờ thánh Phêrô. Vào thế kỷ 17, nghệ thuật kiểu Baroc trở nên thịnh hành với Những Bậc Thang Tây Ban Nha của de Sanctis và bồn phun nước Trevi. Trong thế kỷ 19 và 20, Roma chú ý đến hệ thống giao thông và những công viên.
IV. Những di tích lịch sử quan trọng
Bốn Đại Vương Cung Thánh Đường: Đến Roma hành hương nhân dịp Năm Thánh hoặc bất cứ dịp hành hương nào, các tín hữu thường kính viếng ít nhất là 4 đại Vương Cung Thánh Đường tại đây. Nguồn gốc, ý nghĩa tôn giáo và lịch sử, cũng như chính phụng vụ về mỗi đền thờ này mang lại cho tín hữu các kinh nghiệm đặc biệt, mời gọi họ cảm tạ Chúa vì sự Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài.
1. Đền thờ thánh Gioan tại Laterano
Mẹ của tất cả các nhà thờ và là nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma, nhắc nhở cho các tín hữu “Hồng ân bí tích Rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này, đồng thời mời gọi các tín hữu cảm tạ bằng chính cuộc sống như con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
2. Đền thờ thánh Phêrô tại Vatican
Nơi hành hương chính của các tín hữu Kitô: tại đây thánh Phêrô tông đồ đã lấy máu đào làm chứng cho đức tin nơi Ngôi Lời Thiên Chúa làm người để cứu độ chúng ta. Đền thờ này nhắc nhớ cho các tín hữu về chứng tá Kitô giáo, giá trị và hồng ân vô giá của đức tin được sống đích thực, được rao giảng và được làm chứng.
3. Đền thờ Đức Bà Cả trên đồi Esquilino
Dâng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Thánh đường này nhắc nhớ các tín hữu “sự hiện diện của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ” thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ tất cả chúng ta. Tình mẫu tử của Mẹ Maria, đối với chúng ta, không chỉ giới hạn nơi sự bảo bọc và chuyển cầu, nhưng đồng thời cũng là lời liên tục mời gọi chúng ta hãy làm tất cả những gì Chúa Con chỉ dạy; liên tục nhắc nhớ chúng ta về sự cao cả Chúa đã làm cho chúng ta.
4. Đền thờ thánh Phaolô ngoài thành
Nơi tử đạo của thánh Tông Đồ Dân Ngoại, và ngày nay nổi bật về các cuộc gặp gở đại kết Kitô. Thánh đường này nhắc nhớ các tín hữu hành hương về bổn phận phải dấn thân truyền giáo, sống hiệp nhất với tất cả những người cùng tin nơi Chúa Kitô. Dưới đây là những nét nổi bật trong lịch sử, ý nghĩa và đặc tính của đền thờ thánh Phaolô.
Ba tiểu Vương Cung Thánh Đường: Ngoài 4 đại Vương Cung Thánh Đường, thánh Philip Nêri còn đề nghị các khách hành hương đi thăm viếng 3 tiểu Vương Cung Thánh Đường là: Đền thờ Thánh Giá Giêrusalem, Đền thờ thánh Lorenso ngoài thành, đền thờ thánh Sebastiano.
5. Đền thờ Thánh Giá Giêrusalem
Vào thế kỷ thứ 4, hoàng thái hậu Helena lúc đó đã 80 tuổi muốn đi hành hương ở Giêrusalem cũng như những nơi khác trong Đất Thánh. Khi trở về Roma năm 329, bà mang theo một mảnh gỗ Thánh Giá thật mà Chúa đã chịu đóng đanh về đặt trong dinh thự của bà. Bà còn mang theo đất thánh của đồi Canvê, những đinh và gai nhọn. Bà qua đời cùng năm 329. Tương truyền rằng khi khai quật, họ tìm được tấm bảng mà quan Philatô ra lệnh viết và gắn vào thập giá Chúa Giêsu: Giêsu Nazareth, Vua người Do Thái. Hoàng đế Costantine theo lời yêu cầu của mẹ mình cho xây nhà nguyện bảo tồn các Thánh Tích của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu mang về từ Giêrusalem. Đền thờ này nhắc nhớ các tín hữu về cuộc khổ nạn nhục nhã của Chúa Giêsu. Ngài chịu nhục hình vì tội lỗi con người và đã đỗ máu mình ra mà chuộc tội con người. Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Thánh giá nhắc nhớ tín hữu về biến cố khổ nạn, chịu chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Thánh giá trở nên biểu tượng cho tín hữu Kitô nên họ mang thánh giá với họ như những người thuộc về Chúa Kitô, họ chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
6. Đền thờ thánh Lorezo ngoài thành
Đền thờ gồm hai nhà thờ sửa lại thành một. Nhà thờ thứ nhất tôn kính thánh Lorenzo do hoàng đế Costantino xây năm 330 và ĐGH xây lại năm 578. Nhà thờ thứ hai tôn kính Đức Mẹ do ĐGH Sisto 3 xây vào thế kỷ 5 sát liền với nhà thờ thánh Lorenzo. Năm 1216, ĐGH Honorio lấy cung thánh nhà thờ thánh Lorezo và bỏ cung thánh nhà thờ kính Đức Mẹ để nối liền hai nhà thờ lại thành một. Ngài cũng cho xây tháp chuông kiểu Roma. Nhà thờ được tu sửa vào thế kỷ 15 và 16. Nhà thờ sửa mặt tiền với bức hình đá màu và cũng như bên trong nhà thờ từ 1864- 1870. Hành lang nhà thờ có 6 hàng cột kiểu Ionien chạm trổ rất đẹp và bên trong có 22 cột nham thạch kiểu Ionien chia làm ba gian dọc với các bức khảm đá màu rực rở. Trong đó bức khảm màu về Chúa Giêsu và các thánh làm theo nghệ thuật Byzantine thuộc thế kỷ thứ 5 rất độc đáo. Đây là những phần còn lại do hoàng đế Costantine xây và được ĐGH Pilagio 3 tu sửa lại gồm 12 cột kiểu Corinto rất đẹp chia thành 3 gian. Trong gian bên cạnh có giữ hài cốt thánh Lorenzo, Sebastiano và Giustino. Trên cung thánh có bàn thờ của Augusto và Sansone thuộc thế kỷ 12. Nhà thờ bị hư hại hồi thế chiến 2 với những mảnh bom nhưng được tu sửa lại. Du khách có thể thăm viếng hang toại đạo thánh Lorenzo, nơi chôn cất thánh nhân sau khi ngài tử đạo.
7. Đền thờ thánh Sebastiano
Đền thờ này được xây lên trước thế kỷ thứ 5 để tôn kính hai thánh Phêrô và Phaolô vì xác các ngài được an táng tại đây. Sebastiano là một sĩ quan Roma tử đạo dưới thời hoàng đế Diocleziano và được an táng tại nghĩa tang gần đó. Đền thờ được dành để tôn kính thánh Sebastiano vào thế kỷ thứ 9. Năm 1614, ĐHY Scipione Borghese sửa sang lại với mặt tiền 6 cây cột nham thạch. Du khách có thể nhìn thấy hòn đá ghi dấu chân Chúa Giêsu ở nhà nguyện 1 bên phải và tượng thánh Sebastiano bằng nham thạch rất đẹp ở nhà nguyện 2 bên trái. Từ mặt tiền đền thờ, du khách có thể thăm viếng viện bảo tàng trưng bày các di tích khảo cổ như bia mộ, các bình gốm cổ hoặc quan tài. Dưới hầm, các du khách có thể thăm viếng một phòng dùng để dọn bữa ăn nhân dịp an táng người chết. Xác hai thánh Phêrô và Phaolô đã tạm thời an táng tại nơi đây.
8. Công trường Venezia
Công trường này là điểm hội tụ các đại lộ chính cũng như là trung tâm của thành phố. Nhìn về phía trái, du khách sẽ thấy Dinh Venezia xây vào năm 1455 của sứ quán nước cộng hòa Venezia trước đây. Mặt tiền đơn sơ với các kiến trúc cổ điển thời Phục Hưng. Dinh Venezia là một trong những dinh thự nổi tiếng của thế kỷ 15. Trong thời gian 1564- 1797, dinh này thuộc về tài sản của cộng hòa Venezia được Mussoline dùng làm dinh thự riêng. Ông đã đọc nhiều diễn văn tại ban công của dinh thự này.
Hiện nay, dinh Venezia là viện bảo tàng trưng bày vải vóc, khí giới, tranh ảnh, đồ gốm, tác phẩm nghệ thuật, dụng cụ bằng đồng và những bức khảm từ thế kỷ 11 đến 17. Phía bên phải là tòa nhà bảo hiểm xây năm 1911.
9. Đài kỷ niệm vua Vittorio Emanuele 2- Đài chiến sĩ vô danh hoặc Bàn thờ Tổ Quốc
Đài vua Vittoria Emanuele 2 khởi công xây từ năm 1858 đến 1911, theo nghệ thuật hòa hợp giữa tân cổ Hy Lạp và Ý. Đài tưởng niệm này dài 135 thước dài và 70 thước cao nhìn thẳng ra công trường Venezia để kỷ niệm vua Vittorio Emanuele 2 là vua Italia thống nhất (1878). Hai bồn phun nước tượng trưng cho hai vùng biển Tireno (phải) và Adriatico (trái). Bốn nhóm tượng trên hai hồ nước tượng trưng cho Quyền Lợi, Hy Sinh, Hòa Hợp và Sức Mạnh. Trên những bậc thang là Bàn Thờ Tổ Quốc và Mộ Chiến Sĩ Vô Danh. Bức tượng đồng của vua Vittorio Emanuele 2 cao 12 thước. Chính giữa là tượng nổi tượng trưng của thành phố Roma và chung quanh là các tượng nổi tượng trưng cho các thành phố lớn của Italia. Hai cầu thang nhỏ dẫn lên tầng trên của đài tưởng niệm để ngắm cảnh thành phố Roma. Bên trong đài kỷ niệm là bảo tàng viện về quân đội Italia với những quân phục, khí giới, lịch sử những trận chiến…
10. Công trường Campidogho
Dọc theo bên phải đài kỷ niệm vua Vittorio Emanuele 2, du khách thấy một căn nhà Roma của thế kỷ 2 và nhà thờ thánh Bagio del Mercato thời Trung Cổ với hình vẽ Đức Mẹ Sầu Bi trên tường của thế kỷ 15.
Công trường Campidoglio tọa lạc trên thủ đô được coi là địa điểm của thần linh và quyền lực. Tuy là ngọn đồi thấp nhất và nhỏ nhất trong 7 ngọn đồi của Roma, nhưng từ thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch đã có một đền thờ của Jupiter Optimus Maximus Capitolinus là đền thờ quan trọng nhất của Roma thời cổ. Gần nhà thờ Đức Mẹ Cửa Trời là đền thờ của Juno Moneta. Vào năm 390 trước Tây Lịch, những người Gôloa do vua Brennus chỉ huy xâm nhập thành đồi Capitoline nhưng những con ngỗng thần của Juno giữ họ ở đó và bắt đầu quạt quạt. Nghe tiếng quạt quạt của những con ngỗng, quân lính tỉnh thức và chống lại những người Gôloa xâm chiếm thành phố.
Kiểu kiến trúc của các tòa nhà quanh công trường Campidoglio do chính Michelangelo vẽ (thế kỹ 15). Trên đầu cầu thang là hai bức tượng khổng lồ của thần Dioscuri (tìm thấy vào thế kỷ 15), các chiến lợi phẩm của Marius (thời hoàng đế Flavio) và hai bức tượng của hoàng đế Costantine và Costante. Tượng đồng của hoàng đế Marco Aurelio bằng đồng mạ vàng đứng trên bệ cao ở giữa công trường. Trước năm 1853, tượng này được đặt trong dinh Laterano. Đây là bức tượng hoàng đế cưỡi ngựa duy nhất còn sót lại từ thời Roma xa xưa. Tượng này không bị phá hủy trong thời Trung Cổ vì người ta cho rằng đây là tượng của hoàng đế Costantine.
11. Nhà thờ Đức Mẹ Cửa Trời
Nhà thờ này tọa lạc phía sau Dinh Mới. Theo tục truyền, một bà bói tướng đã báo cho hoàng đế Augusto biết rằng Chúa Cứu Thế sắp giáng sinh, do đó hoàng đế Augusto cho xây một bàn thờ tại đây. Trên cửa có bức khảm đá màu Đức Mẹ với Chúa Hài Đồng và hai thiên thần. Nhà thờ đầu tiên được xây vào thế kỷ thứ 6 và trao cho nhiều dòng tu trông coi. Năm 1250, các cha dòng Phanxico xây lại theo kiểu Roman Gotích. Mặt tiền còn làm dở dang nhưng không hoàn tất. Cầu thang cao hơn 124 bậc dẫn du khách lên nhà thờ dân Roma xây năm 1348 do lời thúc giục của ông Nicola di Rienzo muốn tạ ơn Chúa đã cho dân Roma thoát khỏi trận dịch hạch lớn thời đó. Trần nhà thờ bằng gỗ mạ vàng khởi công năm 1571 để kỷ niệm chiến thắng Lepanto và hoàn thành năm 1575. Hai mươi hàng cột thuộc nhiều kiểu khác nhau chia nhà thờ thành 3 gian dọc. Nền nhà thờ trang trí theo kiểu Cosma của thế kỷ 13 với nhiều bia mộ và bức khảm đá màu. Trên bàn thờ chính có bức tranh Đức Mẹ thuộc trường phái Byzantine. Gian trái là nhà nguyện thánh Helena với 8 cột tuyệt đẹp. Nhà nguyện này xây trên bàn thờ xưa của hoàng đế Augusto. Nhà nguyện Chúa Hài Đồng với tượng Chúa Hài đồng bằng gỗ ôliu được tương bày cho dân chúng Roma đến hôn kính vào dịp lễ Giáng Sinh.
12. Dinh Mới
Rainaldi xây Dinh Mới này năm 1655 dưới thời ĐGH Innocente 10. Từ năm 1734 dưới thời ĐGH Clemente 12, dinh này trở thành viện bảo tàng Campidoglio giữ những tác phẩm điêu khắc cổ. Du khách có thể nhìn thấy bức tượng khổng lồ Marforio của thế kỷ 1 tượng trưng cho thần Sông.
13.Dinh Cũ
ĐGH Nicola 5 xây năm 1450 dành cho các thẩm phán cùng cai quản với các thượng nghị sĩ. Sau này, dinh được G. della Porta sửa lại theo đồ họa của Michelangelo (năm 1568). Dinh này là bảo tàng viện trưng bày các tác phẩm và tranh ảnh đương thời. Bên cạnh là Dinh Caffarelli chứa những di tích khảo cổ, vật dụng hàng ngày và các bức khảm đá mầu.
14. Dinh Thượng Viện
Dinh Thượng Viện của đế quốc Roma xây năm 78 trước Tây Lịch là tòa Thị Sảnh của thành phố Roma hiện nay. Thượng viện có tháp canh ở 4 góc. ĐGH Bonifacio 9 biến thành tòa thị sảnh thành phố Roma. Cầu thang dẫn vào dinh do chính Michaelangelo xây năm 1550. Bồn nước ở giữa có tượng nữ thần Minverva, sau trở thành nữ thần Roma. Hai tượng Jupiter và Apollo nằm hai bên bồn nước tượng trưng cho hai sông Tiber và Nil. ĐGH Sisto 5 dọa sẽ đập bể các tượng thần Minerva, Jupiter và Apollo nếu không dời đi chỗ khác nhưng đồng ý biến thần Minerva thành nữ thần Roma. Do đó, thần Minerva cầm thánh giá thay vì cầm đao. Tháp chuông có đồng hồ do kiến trúc sư M. Longhi xây năm 1587.
15. Khu vực Roma cổ
Góc dinh thượng viện, du khách nhìn thấy một cây cột đá có tượng chó sói cái và hai đứa trẻ Romulus và Remus đang bú sữa. Từ đây, du khách có thể nhìn thấy toàn cảnh của Foro Romano là trung tâm sinh hoạt chính trị, văn hóa, kinh tế và tôn giáo của Roma thời cổ xưa. Du khách cố thể nhìn thấy di tích 9 cây cột còn lại của đền thờ dâng kính 12 vị thần ngoại giáo (xây 367 năm trước Tây Lịch). Bên cạnh là đền thờ kính hoàng đế Vespasiano do hoàng đế Domiziano xây năm 367 trước Tây Lịch để kỷ niệm hòa ước giữa hai nhóm Patrizi và Plebei, sau này được hoàng đế Tiberio xây lại trong những năm 7-10. Đền thờ kính thần Saturno và Khải Hoàn Môn Settimo Severo. Khu vực Roma này là trung tâm sinh hoạt của Roma cổ xưa từ đồi Palatino đến đấu trường Colosseo.
16. Khải Hoàn Môn Settemio Severo
Thượng viện và dân chúng Roma xây Khải Hoàn Môn này vào năm 203 để dâng kính hoàng đế Settimio Severo và hai hoàng tử Géta và Caracalla. Khải hoàn môn này cân đối với chiều cao 23 thước và chiều rộng 25 thước. Du khách có thể nhìn thấy bốn cảnh chạm nổi diễn tả cảnh hoàng đế Settimio chiến thắng quân Parthe, Ảrập, và Adiabene. Những bức chạm nhỏ diễn tả cảnh các dân tộc Đông phương đến bái yết hoàng đế và cảnh nô lệ bị bắt làm tù binh. Năm 211 Caracalla giết anh mình là Géta nên tên của Géta bị đục bỏ. Bây giờ chỉ còn những lời chúc tụng hoàng đế Settimio Severo và hoàng tử Caracalla.
17. Nhà tù Mamertino
Nhà thờ bên trái đường Consolazione là nhà thờ của thánh Giuse của giới thợ mộc do G. della Porta xây năm 1538. Dưới hầm là nhà tù gồm hai phòng chồng lên nhau. Phòng trên rộng hơn được làm nhà tù của Roma. Ở trên bàn thờ có tượng bán thân của hai thánh tông đồ Phêrô cầm sách và thánh Phaolô cầm gươm. Tên của các tù nhân được khắc ghi trên hai tấm bia cẩm thạch (bây giờ được thay thế bằng hai tấm bảng gỗ). Phòng dưới ẩm thấp được xây vào năm 387 trước Tây Lịch trong thời kỳ người Gôloa xâm lăng Roma. Các tù nhân và tội nhân bị giam giữ ở đây trước khi bị hành quyết. Vua của Numidia và Vercingetorix của Gôloa bị Cesare bắt năm 49 cũng bị giam giữ tại đây. Theo truyền thuyết, hai thánh Phêrô và Phaolô cũng bị giam giữ tại đây trong vòng 9 tháng nên người ta cũng gọi đây là nhà tù thánh Phêrô. Trong phòng dưới có một mạch nước do thánh Phêrô đã cho vọt lên để rửa tội cho hai người canh ngục trở lại Kitô giáo. Mạch nước vọt lên ngay chân cột nơi mà các tù nhân bị trói với xiềng xích và đánh đòn dữ dội trước khi bị đem ra hành quyết. Đối diện với nhà tù thánh Phêrô là nhà thờ hai thánh Luca và Martina. Nhà thờ này được xây trước thế kỷ thứ 7 và được P. de Cortona xây lại vào năm 1640 gồm hai nhà thờ thánh Luca ở tầng trên và thánh Martina ở tầng dưới.
18. Khu vực Foro Traiano
Khu vự Foro Traiano là khu vực cuối cùng của hoàng đế Roma, xây cất vào những năm 111- 114. Khu này gồm đền thờ Traiano, 2 thư viện, cột Traiano, đền thờ Ulpia và khu chợ Traiano. Cột Traiano do thượng Viện và dân chúng Roma xây để dâng kính hoàng đế Traiano đã chiến thắng quân Daces. Thân cột chạm trổ cảnh chiến tranh với quân Daces trong những năm 101- 103 với 2.500 người cao từ 60 đến 1 thước và chiều dài của tất cả các cột là 200 thước. Cột cao 29 thước. Cả khối gồm đế, cột và tượng trên đỉnh cao 42 thước 30. Cầu thang gồm 185 bậc thang từ dưới lên tới đỉnh. Bên trong có một hòm vàng đựng tro của hoàng đế hỏa thiêu năm 117 tại Cillicia. Tòa án Ulppia rộng gần bằng đền thờ thánh Phaolô ngoài thành gồm 4 hàng cột chia tòa án ra làm năm gian dọc, hai cửa hướng về phía cột Traiano và 3 cửa khác hướng về phía đại lộ. Chợ Traiano có hình bán nguyệt nối dài với hai cánh ở hai bên. Ý định ban đầu là ngăn chặn đất trên đồi Quirinale khỏi đổ xuống cũng như sử dụng làm hàng quán.
19. Khu vực Angusto
Hoàng đế Augusto xây năm 42 trước Tây Lịch để kỷ niệm cuộc chiến thắng Filippi trả thù cho hoàng đế Cesare. Chính giữa là đền thờ dâng kính thần Marte Ultore. Hai bên là hai tòa án. Tòa án bên phải có bức tượng khổng lồ nên được gọi là phòng của Người Khổng Lồ (du khách có thể nhìn thấy ngón tay và bàn chân của người khổng lồ trên đồi Campidoglio).
20. Khu vực Vespasiano
Hoàng đế Vespasiano xây trong những năm 69- 75 với các chiến lợi phẩm mang về từ Palestine. Hiện nay chỉ còn lại một cây cột rất lớn.
21. Mộ của Romulus và Remus
Bên dưới chỗ có mái tôn che là mộ của Romulus và Remus nằm sâu dưới dết được đánh dấu bằng một tấm cẩm thạch đen. Hai con sư tử đứng hai bên giống như những mộ của dân Etrus. Ngoài ra còn có tấm bia đá với hơn góc khắc chữ Latinh cổ thuộc thế kỷ 16 trước Tây Lịch.
22. Con đường thánh
Con đường thánh này kéo dài đến khải hoàn môn Titô ở gần đấu trường Colosseo trong khu vực Roma cổ. Gọi là thánh vì hai bên đường có nhiều nhà thờ và được dùng cho các cuộc rước kiệu tôn giáo. Sau khi chiến thắng trở về, các hoàng đế, sĩ quan và binh lính Roma diễn hành trên con đường này dẫn theo các tù binh và các chiến lợi phẩm.
23. Đền thờ Cesare
Đền thờ được xây năm 29 trước Tây Lịch ngay tại chỗ xác hoàng đế Cesare được hỏa thiêu năm 44 trước Tây Lịch.
24. Đền thờ thần Vesta
Sau đền thờ Cesare là đền thờ kính thần Vesta có hình tròn gồm 20 cột cẩm thạch kiểu Corintô nhưng hiện nay chỉ còn lại nền nhà. Đối diện với đền thờ là nhà các trinh nữ có nhiệm vụ trông coi ngọn lửa thiêng của đền thờ. Ngôi nhà dài 69 thước dài và 24 thước ngang với các phòng quay vào sân trong. Sân này được trang hoàng bằng tượng của các trinh nữ nổi tiếng sống trong những năm 201 và 304 trước Tây Lịch.
25. Đền thờ Antinio và Faustina
Thượng Viện và dân chúng Roma xây năm 141 dâng kính hoàng hậu Faustina, vợ của hoàng đế Antonio Pio, được dân chúng tôn làm thần. Sau khi hoàng đế Antonio qua đời năm 161, đền thờ được dâng kính hai người với hai hàng chữ khắc bên trên tiền đường. Bên cạnh xưa là nghĩa địa của dân cư sống trên triền đồi Palatino giữa các thế kỷ thứ 9- 7 trước Tây Lịch.
26. Đền thờ kính hai thánh Cosma và Damiano
Đền thờ này được xây vào thế kỷ thứ 6 và được tu sửa lại năm 1632. đền thờ có bức khảm đá màu rất đẹp của thế kỷ thứ 6. Trên khải hoàn môn: Chiên Con ngự trên ngai với sách Phúc Âm, chung quanh có 7 chân đèn, 4 thiên thần và biểu hiện 4 sách Phúc Âm, hai cánh tay các bô lão nâng các triều thiên. Bức khảm đá màu ở cung thánh: Chúa Kitô, hai thánh Cosma và Damiano được hai thánh Phêrô và Phaolô giới thiệu. Bên phải là thánh Teodoro, bên trái là thánh Felice 4 dựng mô hình của nhà thờ, cành lá vạn tuế và chim phượng hoàng biểu tượng cho sự sống lại. Phía dưới, Chiên Con đứng trên núi, từ đó vọt ra 4 sông và 12 con chiên tượng trưng cho 12 Tông Đồ đang từ Belem và Giêrusalem đi ra. Năm 307 hoàng đế Massenzio xây cho con trai chết khi còn nhỏ. Đền thờ Romulus được hoàng đế Costantine hoàn thành. Sau này, đền thờ Romulus biến thành đền thờ kính hai thánh Cosma và Damiano.
27. Đấu trường Colosseo:
Đấu trường là công trình kiến trúc vĩ đại nhất của thành phố Roma cổ trong thời các hoàng đế nổi tiếng. Nó biểu tượng cho vinh dự và oai hùng của đế quốc Roma cũng như của thành phố Roma là thủ đô của đế quốc. Đấu trường này được hoàng đế Vespasiano khởi công năm 72 trên các hồ thuộc vườn thượng uyển của hoàng đế Nero và hoàn tất năm 80 do hoàng đế Tito. Nơi đây diễn ra các trò chơi giải trí như đấu gươm săn bắn giả thú, thủy chiến giả… Đấu trường hình bầu dục bằng đá vôi bên ngoài và gạch nung cùng với đá ong ở bên trong. Chu vi rộng 527 thước, dài 188 thước cao 52 thước, gồm 4 tầng. Ba tầng dưới có các cửa vòng cung trang hoàn với các cột kiểu Corinto, Ionieno và Dorico. Các tượng được trưng bày giữa hai tầng 2 và 3. Hoàng đế, khanh tướng, hoàng gia vào cửa đặc biệt dẫn thẳng vào phòng tiếp tân. Dân chúng đi vào qua 80 cửa vòng cung có đánh số thứ tự. Ghế ngồi chia làm 3 hạng: kỵ binh, trung lưu và dân chúng. Ở trên cao dành cho những người đứng coi với giá rẻ hơn. Đấu trường có thể ngồi được trên 50 ngàn người. Đấu trường có mái che bằng vải dùng khi trời mưa. Ở dưới bãi đấu (76 x 46) còn có các hành lang, các phòng nhốt thú dữ, các cột dùng để kéo mọi dụng cụ cho các trò chơi giải trí. Đấu trường mang tên Colosseo, nghĩa là Khổng Lồ do kiến trúc vĩ đại của nó cũng như bên cạnh có bức tượng khổng lồ cao 30 thước của hoàng đế Nero. Đấu trường bị hư hại do hai lần động đất vào những năm 1231 và 1255. Hoàng đế Enrico 7 trao lại cho Thượng Viện và dân chúng Roma. Vào thế kỷ 15, đấu trường trở thành mỏ đá để xây cất các dinh thự trong thành phố như Dinh Venezia, Famese, Barberini và đền thờ thánh Phêrô. Theo truyền thuyết Kitô, nhiều tín hữu chịu tử đạo tại đấu trường nên vào thế kỷ 18 ĐGH Beneđicto 14 cho tu sửa lại và dâng đấu trường để tôn kính các vị thánh tử đạo. Các ĐGH Pio 7, Leo 12, Gregorio 16 và Pio 9 cũng tu sửa nhiều lần. Năm 1957 người ta dựng lên một cây thánh giá. Từ thời ĐGH Phaolô 6, Đức Thánh Cha chủ tọa những Chặng Đàng Thánh Giá vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh với sự tham dự của hàng ngàn tín hữu cũng như du khách hành hương.
28. Khải Hoàn Môn Costantine:
Thượng Viện và dân chúng Roma xây năm 315 dâng kính hoàng đế Costantine để kỷ niệm chiến thắng Massenzia tại cầu Milvio. Các bức Chạm trổ của Khải Hoàn Môn lấy từ dài kỷ niệm Traiano. Hai bức bên trên hai cạnh tả lại cảnh chiến thắng quân Daces. Tám chiếc nề đai trang hoàng hai mặt của Khải Hoàn Môn diễn tả cảnh săn bắn và tế lễ cũng được lấy từ đài kỷ niệm Traiano. Còn 8 bức chạm trổ khác tả cảnh tế lễ, huấn dụ dân chúng và binh lính, khải hoàn vào Roma được lấy từ một đài kỷ niệm Aurelio.
29. Khải Hoàn Môn Tito:
Hoàng đế Domiziano xây khải hoàn môn năm 81 để kỷ niệm hoàng đế Vespaziano và còn là Tito thắng trận bên Palestine năm 70. Hai bức chạm nổi diễn tả cảnh Roma đang lái chiến mã bên trên có Tito và nữ thần chiến tranh đang đứng, quân lính Roma khải hoàn trở về mang theo những chiến lợi phẩm từ đền thờ Giêrusalem: bàn dâng bánh, kèn đồng, đèn vàng 7 ngọn.
30. Đồi Palatino:
Đồi Palatino là một ngọn đồi cổ kính nhất của Roma đã có dân cư sinh sống và trồng cấy từ thế kỷ 9 trước Tây Lịch. Romulus và Mulus thành lập thành phố Roma tại đây. Trước đây chỉ có dinh thự của những người giàu có. Sau đó, các hoàng đế bắt đầu xây dựng các đền thờ và dinh thự ở đây.
31. Dinh Nero:
Sau trận hỏa hoạn năm 64, hoàng đế Nero cho xây dựng một lâu đài nguy nga trên đồi Oppio với vườn ngự uyển chung quanh. Bên trong trang hoàng những hình vẽ của họa sĩ Fabullus (thế kỷ 1). Nhiều nghệ sĩ hội họa trong thời Phục Hưng đã lấy nguồn cảm hứng tại đây. Một phòng có vòm cong mạ vàng, do đó biệt thự mới có thể là nhà vàng.
32. Sân đua ngựa Massimo:
Đây là sân đua ngựa lớn nhất của Roma có thể chứa được trên 100 ngàn người. Ngoài những cuộc đấu ngựa, những trò chơi giải trí cũng được tổ chức tại đây. Du khách có thể nhớ lại khung cảnh của bộ phim Bel Hur được đóng phim. Một sĩ quan Roma đã cho Chúa Giêsu uống một gáo nước lạnh bị ngã xuống đang khi bị vác thánh giá lên Golgotha. Gia đình của ông đã theo đạo Kitô và mẹ ông đã khỏi bệnh cùi.
33. Vương Cung Thánh Đường thánh Sabina:
Đền thờ này được xây trong thời gian 423- 432. Năm 1222, ĐGH Honorio 3 trao cho thánh Đaminh Vương Cung Thánh Đường và dinh thự sát bên để sử dụng sau khi phê chuẩn hiến pháp Dòng Anh EmThuyết Giáo. Cửa chính bằng gỗ được chạm trổ các hình lấy từ Cựu Ước và Tân Ước thuộc thế kỷ thứ 5. Đền thờ gồm 3 gian với 24 hàng cột kiểu Corito tuyệt đẹp lấy từ một đền thờ ngoại giáo. Trên cửa ra vào còn một bức khảm đá mầu rất đẹp thuộc thế kỷ thứ 5 với những hàng chữ vàng trên nền đá xanh, tên của vị linh mục kiến trúc đền thờ này, hai bên là các biểu tượng của Giáo Hội phát sinh từ Do Thái giáo và Giáo Hội phát sinh từ dân ngoại. Gian cung thánh được trang hoàn bằng cẩm thạch rất nhiều màu của thế kỷ thứ 5. Các ghế ngồi của ca đoàn và tòa giảng thuộc thế kỷ thứ 9. Nền nhà có mộ bia của nhiều vị Giám Mục, Hồng Y, trong đó có cha Bề Trên Tổng Quyền Mudos de Zamora (năm 1300). Tu viện thánh Sabina bên cạnh xây rất đẹp với khuôn viên gồm 103 cây cột xây giữa các năm 1216- 1225. Hai phòng riêng của thánh Daminh và thánh giáo hoàng Pio 5 được dùng làm nhà nguyện. ĐGH mỗi năm đến Vương Cung Thánh Đường này để chủ tọa lễ Tro và công bố sứ điệp Mùa Chay.
34. Nhà thờ Đức Bà Trang Sức
Nhà thờ Đức Bà Trang Sức tọa lạc tại công trường Miệng Sự Thật (Bocca deua Verita). Phía bên trái của tiền đường nhà thờ có một tảng đá cẩm thạch tròn lớn có tạc hình mặt nạ đựơc dùng làm nắp giếng trước đây được dân chúng gọi là Miệng Sự Thật. Ai muốn chứng minh rằng mình nói sự thật thì đến đây thề bằng việc đặt tay vào miệng. Ai nói dối thì không thể rút tay ra được nữa. Nhà thờ được xây trước thế kỷ thứ 4 trên đền thờ Hercule. Vào thế kỷ thứ 8, nhà thờ được sửa lại rộng rãi hơn và ĐGH Adriano 1 trao cho cộng đoàn công giáo Hy Lạp. Nhà áo có bức khảm màu: Ba vua đến thờ lạy Chúa Hài Đồng (năm 706). Tháp chuông kiểu Roma được xây thêm vào thế kỷ 12. Năm 1294, con thứ 4 của gia đình Cosma làm thêm nền khảm đá mầu, ghế ca đoàn, ngai Giám Mục, tàn che bàn thờ và 18 cột chia nhà thờ thành 3 gian dọc.
35. Nhà thờ Đức Bà ở Tratevere:
ĐGH xây nhà thờ này đầu thế kỷ thứ 3 nên là nhà thờ đầu tiên mở cửa cho việc phụng tự, đồng thời là nhà thờ dâng kính Đức Mẹ cổ kính nhất Roma. Năm 1140 ĐGH Innocente 2 cho xây lại với tháp chuông kiểu Roma. Mặt tiền là bức khảm đá mầu: “Đức Mẹ và Chúa Giêsu Hài Đồng” thuộc thế kỷ 12- 13. Chung quanh có hình 8 trinh nữ cầm đèn sáng và hai trinh nữ cầm đèn tắt. Nhà thờ được chia thành 3 gian với 22 cột được mang về từ các đền thờ ngoại giáo. Trên nền cung thánh có bức khảm đá màu rất đẹp làm năm 1140, diễn tả Chúa Giêsu Kitô với Đức Mẹ ngồi trên ngai, bên phải có các thánh Phêrô, Cornellio, Giulio và Calepodio, bên trái có các thánh Callisto, Lorenzo và ĐGH Innocente 2 cầm mô hình nhà thờ trong tay. Bên trên là tay Thiên Chúa Cha cầm triều thiên và hoa tự của hoàng đế Costantine. Thấp hơn là 6 bức khảm đá mầu khác diễn tả cuộc đời của Đức Mẹ.
36. Đảo Tiberina:
Đảo Tiberina có lịch sử rất quan trọng liên quan đến việc việc khai sinh và phát triển Roma. Trước tiên, đảo nối kết vùng bên ngoài bờ sông với những dinh thự trong thành phố. Đảo Tiberina được nối liền với hai bờ sông bởi hai cây cầu Fabricio do tổng lãnh sự Fabricio xây năm 62 trước Tây Lịch và cầu Cestio do Cestio xây năm 46 trước Tây Lịch. Chiếc cầu Fabricio là chiếc cầu cổ kính nhất của Roma còn nguyên vẹn. Theo truyền thuyết, một chiếc tàu đắm giữa sông và dần dần bị cát phủ lấp lên. Xưa kia xung quanh đảo có một lớp đá vôi nhô ra như hình con tàu. Trên thực tế, đảo này nằm trên một tảng đá nham thạch có hình thù giống như một chiếc thuyền. Hiện nay du khách có thể trông thấy một phần phía Nam hình một con rắn và tượng thần y khoa Aesculapius vì đảo này có đền kính thần này. Vào thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch, dân chúng Roma đi tầu đến Epidarus bên Hy Lạp để học hỏi từ thần Aesculapius làm thế nào để tránh nạn dịch. Nhưng khi nước đưa con thuyền xuống thì rắn thần chạy mất ngay và cho đến bây giờ ý nghĩa rằng đảo này phải được dâng kính cho thần Aescupalius. Vào thế kỷ thứ 10, ĐGH cho xây nhà thờ thánh Bartolomeo trên dấu vết đổ nát của đền thờ thần Aescupalius. Trên đảo Tiberia có nhà thương thánh Gioan Thiên Chúa do các thầy dòng Thánh Gioan Thiên Chúa trông coi.
37. Rạp hát Marcello:
Hoàng đế Cesara khởi công xây rạp hát này để tặng cho cháu là Marcello năm 13 trước Tây Lịch gồm hai tầng với các vòm cửa kiểu Dorico và Ionieno. Dòng họ Pierieno dùng làm pháo đài trong thời Trung Cổ. Đến thế kỷ 16, dòng họ Savelli xây lâu đài ở trên và nhượng lại cho dòng họ Savelli.
38. Vương Cung Thánh Đường Thánh Marco:
ĐGH Marco xây năm 336, ĐGH Gregorio 4 sửa lại năm 833 và ĐGH Phaolo 2 năm 1455- 1471. Năm 1744 được xây lại lần nữa. Bên trên cửa chính là thánh Marco. Bên trong hai hàng cột bằng vân thạch Sicilia chia đền thờ thành 3 gian dọc trang trí theo kiểu Baroc. Trên cung thánh có bức khảm đá màu thuộc thế kỷ thứ 9: Chúa Giêsu, các thánh và ĐGH Greorio 4 dâng mẫu đền thờ. Nền đá hoa Cosma thuộc thế kỷ 12. Trần nhà bằng gỗ mạ vàng rất đẹp thiết kế năm 1471.
39. Đền thờ Pantheon:
Đây là một trong những kiến trúc Roma cổ được giữ lại gần như nguyên vẹn. Hoàng đế Adriano trong những năm 120- 125 cho xây ngay trên chỗ của một đền thờ cũ đã được xây năm 27 tước Tây Lịch do Lãnh Sự Marcua Agrippa và dâng kính 7 thần tinh tú. Hoàng đế giữ lại tấm bia nguyên thủy “M. AGRIPPA L.F. COSTERTIUM FECIT” (Marcud Agrippa, con của Lucius, Lãnh Sự lần thứ 3, đã xây đền thờ này). Tiền đường rất hùng vĩ với 16 cột đá nham thạch đỏ cao 12 thước 50. Bảy nhà nguyện đục sâu trong tường hình chữ nhật và hình bán nguyệt xen kẽ nhau hai bên có trang hoàng 2 cột kiểu cao gần 9 thước. Trong 7 nhà nguyện có tượng 7 thần tinh tú. Đền thờ có mái cao bằng với đường kính là 43 thước 30, lớn hơn mái đền thờ thánh Phêrô. Tần trang hoàng 5 hàng hình các hộp và càng lên cao càng nhỏ lại. Ánh sáng từ bên ngoài lọt vào qua lỗ hổng trên trần có đường kính 9 thước. Nền nhà được lát bằng nhiều thứ đá cẩm thạch màu mè sặc sỡ. Vào thế kỷ thứ 6, hoàng đế Byzantine Phoca dâng đền Pantheon cho Đức Giáo Hoàng Bonifacio 4. Năm 609, ĐGH Bonifacio 4 thánh hiến và dâng kính Đức Mẹ và các Thánh Tử Đạo. Hài cốt các Thánh Tử Đạo từ hang toại đạo được mang về đây cất giữ dưới bàn thờ. Trong dịp long trọng thánh hiến đền thờ, khi ca đoàn hát Groria, dân chúng Roma được chứng kiến những ma quỷ vùng dậy và bay ra khỏi đền thờ qua lỗ trống ở trên mái có chu vi 9 thước. Trong thời gian các ĐGH bị tấn công, đền thờ này được sử dụng làm pháo đài. Trong thời Trung cổ, các đền thờ trở thành biểu tượng của thành phố Roma.
Tranh “Thiên Thần truyền tin” ở bàn thờ bên phải. Mộ của Vittoria Emanuelle 2, vua đầu tiên của Italia qua đời năm 1878 và mộ của hoàng hậu Margherina. Đối diện với mộ vua Emanuelle là mộ của Umberto 1 bị ám sát năm 1900. Bên phải mộ của Umberto 1 là mộ của Raffaello. Bên trên có tượng Đức Mẹ do Lorenzetto tạc theo lời di chúc của Raffaello.
Công trường Patheon do G. delle Porta xây năm 1578 trang hoàng với một bút tháp Ai Cập đứng giữa bồn nước.
40. Nhà thờ Đức Mẹ trên đền thờ Minerva:
Chính giữa công trường Minerva có con voi độc trên lưng một bút tháp Ai Cập nhỏ do Bernini xây năm 1667. Bút tháp này lấy từ đền Isis. Các chữ trên bút tháp nói về vua Uahabra sống trong thời kỳ thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch. Vua đã liên kết với Sedecia, vua Giuda để chống lại vua Nabuchodosor.
Nhà thờ Đức Mẹ này được xây vào thế kỷ thứ 7 trên dấu tích của đền thờ dâng kính nữ thần Minerva. Năm 1280 nhà thờ được xây lại. Đây là nhà thờ kiểu Gotic duy nhất tại Roma với mặt tiền kiểu Phục Hưng. Dưới bàn thờ chính là xác thánh nữ Catarina Siena. Bên trái là mộ chân phước Angelico. Bên cạnh nhà thờ là tu viện các tu sĩ dòng Đaminh. Hành lang tu viện có rất nhiều tranh vẽ trên tường. Galileo đã bị xử trong một phòng của tu viện này.
41. Nhà thờ thánh Ignazio
Nhà thờ này do ĐHY Ludovisi cho xây để mừng lễ phong thánh cho vị sáng lập dòng Tên. Thời gian xây cất do kiến trúc sư Orazio Grassi thực hiện trong thời gian 1626- 1685. Nhà thờ rộng rãi trang hoàng rất lộng lẫy với bức tranh “Thánh Ignazio vào thiên đàng” của Andrea Pozzi. Nhà nguyện bên phải có bức chạm nổi “Ving quang của thánh Ignazio và thánh Louis de Gonzalez” của Legros. Bình bằng ngọc lưu ly đựng xác thánh Ignazio. Nhà nguyện bên cạnh có bức chạm nổi “Truyền tin”.
42. Vương Cung Thánh Đường các Thánh Tông Đồ
Đền thờ này được ĐGH Pelagia 1 cho xây dựng để kỷ niệm biến cố đánh quân Goths ra khỏi thành phố Roma. Đền thờ được nới rộng ra và xây lại hoàn toàn năm 1702. Bên trong nhà thờ trang hoàn kiểu Baroc chia làm 3 gian dọc. Mái vòm tròn với bức tranh “ Các thiên thần nổi loạn” của g. Odazzi. Trần nhà với bức tranh “Dòng Phanxico chiến thắng”. Các thánh sử L. Fontana. Nhà nguyện cuối cùng của nhà thờ xưa thuộc thế kỷ thứ 4. Tại bàn thờ chính có bức tranh “Thánh Philipphê và thánh Giacôbê tử đạo” lớn nhất Roma. Từ đây, du khách có thể thăm viếng đại học Gregoriana của các cha dòng Tên và Viện Thánh Kinh.
43. Bồn nước Trevi
Bồn nước này đẹp và nổi tiếng nhất tại Roma. Nước của bồn này còn gọi là nước “Trinh Nữ” do hoàng đế Agrippa cho dẫn về Roma vào năm 19 trước Tây Lịch cho các hồ tắm của hoàng gia. Gọi là “nước trinh nữ” vì xưa có một cô gái chỉ mạch nước này cho quân lính Roma. Cầu dẫn nước kéo dài 20 cây số ngang thung lũng Gilia. ĐGH Urbano 6 mở rộng ra và ĐGH Clemente 12 sai kiến trúc sư Salvi xây bồn nước này năm 1762. Tượng thần Nettuno, thần biển oai hùng đang đứng trên cỗ xe song mã đi lên từ lòng biển, hai bên có hai tượng ốc len khổng lồ. Hai lỗ ở hai bên tượng trưng cho Lành Mạnh (bên phải) và Phong Phú (bên trái). Hình chạm nổi bên trên diễn tả cảnh cô gái chỉ mạch nước cho quân lính Roma và hoàng đế Agrippa chấp nhận dự án dẫn nước về Roma. Bốn tượng ở trên diễn tả cảnh phong phú của bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông. Theo thói quen, du khách muốn ước mơ điều gì thì họ cầm đồng tiền quay lưng ném ngược vào hồ nước. Họ có thể được điều họ xin hoặc họ chắc chắn sẽ trở lại Roma khấn cầu lần nữa.
44. Công trường Tây Ban Nha
Công trường Tây Ban Nha được du khách thích thăm viếng vì là nơi gặp gỡ của những người trẻ, đặc biệt là những người đang yêu nhau. Ở giữa là Bồn Nước Thuyền do Bernini tạc để kỷ niệm biến cố nước sông Tiber dâng lên làm lụt thành phố. Khi nước rút xuống, có một chiếc thuyền nhỏ ở đây. Bên phải là Dinh Đại Sứ Tây Ban Nha ngoại giao với Tòa Thánh. Tên của công trường phát xuất từ Dinh Tây Ban Nha xây năm 1647.
Tước mặt công trường là 137 bậc thang kiểu Rococo rất đẹp dẫn lên nhà thờ Chúa Ba Ngôi. Cầu thang này được xây vào giữa các năm 1721- 1725. Giới trẻ thích tụ họp ngồi trên các bậc thang để ngắm nhìn cảnh Roma. ĐGH Pio 6 cho dựng bút tháp Ai Cập lên trước mặt tiền nhà thờ năm 1789.
Nhà thờ Chúa Ba Ngôi do vua Carlo 4 xây cho tín hữu Pháp năm 1495. Mặt tiền kiểu Baróc có hai tháp chuông lợp mái tròn. Trong thời gian Napoleon xâm chiếm Roma nhà thờ bị cướp phá. Năm 1816 vua Luis 18 sửa sang lại.
Gần đó là cột Đức Mẹ Vô Nhiễm được dựng nên để kỷ niệm ngày tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 8 tháng 12 năm 1856. Dịp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm mỗi năm, ĐGH đến cầu nguyện và dâng hoa cho Đức Mẹ trước khi dâng thánh lễ trọng thể tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà ở Roma. Đàng sau là Bộ Truyền Giáo của Tòa Thánh do Bernini xây.
45. Công trường Nhân Dân
Công trường này có hình bầu dục được trang hoàng với đầu người mình sư tử, bốn tượng diễn tả 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông. Bút tháp Ai Cập cao 24 thước trên đế cao 12 thước 30 ở giữa công trường, chung quanh có bốn bồn nước. Các chữ khắc trên bút tháp ca tụng Phrao Ramses 2 sống vào thế kỷ 12- 13 trước Tây Lịch. Hoàng đế Augusto đã đem bút tháp này từ Hierapoli về Roma dâng kính thần mặt trời và cho dựng tại Sân Đua Ngựa Massimo. ĐGH Sesto 5 cho dời về đây năm 1589.
46. Tháp Dân Vệ
Thuộc thế kỷ thứ 13 có hình vuông chỉ còn lại hai phần ba chiều cao. Dinh ngân hàng quốc gia Italia xây năm 1886- 1892. Bên cạnh là Tòa Giám Mục Quân Đội Italia và Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquinas do các cha dòng Đaminh điều khiển. Đại học này trước đây là Đan Viện do ĐGH Pio 5, dòng Đaminh đã thiết lập cho các đan sĩ Đaminh chiêm niệm vào thế kỷ 16. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tốt nghiệp tiến sĩ thần học tại đây năm 1948.
47. Công trường Quirinale
Công trường này là một trong những công trường đẹp nhất của thành phố Roma. Công trường được gọi là Quirinale vì có đền thờ dâng kính thần Quirinus xây trên đồi này. Công trường này nằm trên đồi Quirinale cao 61 thước là đồi cao nhất trong bảy ngọn đồi của thành phố. Chính giữa là tượng các thần Dioscuri, Castore và Polluce cao 5 thước 60 đang ghì hai con ngựa chứng. ĐGH Pio 6 cho dựng những tượng này tại đây sau khi tìm được trong hồ tắm của hoàng đế Costantine. Sau này, ĐGH Pio 6 cho đặt thêm bút tháp Ai Cập ở giữa và ĐGH Pio 7 xây thêm bồn nước bằng nham thạch. Bút tháp Ai Cập cao 14 thước 45 không kể đế được mang về từ lăng tẩm của hoàng đế Augusto.
Trước mặt công trường là Dinh Quirinale khởi công xây cất năm 1574 dưới thời ĐGH Gregorio 13 để làm dinh nghĩ hè cho Giáo Triều Bernini, Fontana, Mademo hoàn thành dưới thời Giáo Hoàng Clemente 12. ĐGH Sisto qua đời tại đây. Cửa vào có tượng hai thánh Phêro và Phaolô. Từ năm 1870- 1946, Dinh Quirinale trở thành hoàng cung của các vua Italia và bây giờ là Dinh Tổng Thống.
48. Lâu Đài Thiên Thần
Nguyên thủy đền này là lăng tẩm của hoàng đế Adriano xây năm 135 cho chính ông và những người kế vị. Nó là một cái tháp tròn rộng lớn bằng đá ong và đá vôi bọc cẩm thạch dài 64 thước nằm trên đế hình vuông cạnh 84 m cao 50 m, trên cao có tượng hoàng đế. Nhiều hoàng đế được chôn cất tại đây cho đến năm 211. Những thế kỷ sau đó, lăng tẩm trở thành pháo đài. Theo truyền thuyết, năm 590 ĐGH Gregorio Cả chủ sự một buổi rước kiệu cầu cho thành phố Roma qua khỏi trận dịch hạch, khi đi qua cầu ĐGH nhìn thấy một thiên thần đang tra thanh gươm vào vỏ. Nạn dịch hạch ngưng sau đó. Từ đó lăng tẩm được gọi là Lâu Đài Thiên Thần. Trong thời Trung Cổ, lâu đài trở thành pháo đài và nơi trú ngụ cho các Giáo Hoàng và các hoàng đế. ĐGH Urbano 8 cho đặc các lò chế tạo súng đại bác và trại lính bên trong. Năm 1752 bức tượng thiên thần Micae bằng cẩm thạch của G. della Porta được đặt trên nóc lâu đài, sau đó được thay thế bằng tượng đồng do Vershaffelt điêu khắc.
49. Công trường Navona
Công trường này biểu lộ công trình kiến trúc của thành phố. Kích thước nguyên thủy của công trình kiểu Banzac dài 240 thước rộng 65 thước, thực sự giống như sân vận động Domitiano xây năm 86 trước Tây Lịch cho những cuộc thi đua thể thao. Phần còn lại của sân vận động nằm sâu dưới mặt đường khoảng 5- 6 thước, có thể được nhìn thấy nơi công trường Tor Sanguigna hoặc tại nhà thờ thánh Anê tại sân vận động. Nhà thờ thánh Anê tọa lạc ngay chỗ mà vị thánh 12 tuổi chết vì đạo trong thời gian hoàng đế Diocletiona khởi xướng bách hại người Kitô dữ dội. Vào cuối thế kỷ 13, vị thánh bị phơi thân trần truồng cho người ngoại giáo nhạo cười nhưng thân xác trần truồng của ngài được che đậy bằng mái tóc mọc ra cách lạ lùng. Nhà thờ được khởi công xây trong thời gian 1652- 1657. Mặt tiền có hai tháp chuông do Barromini xây. Trong nhà nguyện dưới hầm có bức chạm nổi hình thánh nữ Anê được ngọn tóc che thân.
Công trường được trang hoàng với ba bồn phun nước tuyệt đẹp: Bồn Moro trước Dinh Pamphili với tượng các ốc len đeo mặt nạ. Chính giữa là một người Ethiopia vật nhau với con cá heo, tạc theo mẫu của Bernini. Bồn phun nước Những Con Sông do Bernini tạc năm 1615 nằm ở chính giữa công trường. Khối cẩm thạch ở giữa trông giống như một hang động với 4 góc của khối cẩm thạch có 4 tượng khổng lồ tượng trưng cho 4 con sông thuộc bốn lục địa trên thế giới do học trò của Bernini tạc: Sông Danuble (Âu châu) tay cầm huy hiệu của ĐGH Innocenzo 10, sông Gange (Á châu) tay cầm mái chèo, sông Nil (Phi châu) có sư tử và lá dừa vây quanh và sông Plata (Mỹ châu) với một con quái vật đứng bên cạnh. Bồn phun nước thứ 3 xây vào thế kỷ 15 là Nettuno, thần biển đang đánh nhau với một con bạch tuộc, chung quanh có tượng nữ hải thần và hải mã. Những tượng này được tạc vào năm 1878. Một trong những trò chơi nổi bật tại công trường Navona trong những tháng hè nóng bức là những bồn phun nước lên cao giống như những sóng biển gây ra lụt lội nên bị chấm dứt vào thế kỷ 18 vì lý do sức khỏe. Dân chúng vẫn tụ tập tại đây vào những ngày lễ truyền thống như Sinh Nhật, Ba Vua và Phục Sinh.
50. Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Theo truyền thống, một người đi buôn đã lấy trộm bức ảnh lạ lùng từ một nhà thờ đảo Crete. Ông ta giấu trong những món đồ và đi về hướng tây. Nhờ Chúa quan phòng, ông ta vượt qua cơn sóng gió nguy hiểm và đáp vào bờ bằng an. Khoảng một năm sau, ông ta đến Roma với bức ảnh đã lấy trộm. Trong giờ lâm tử, ông ta mong có bạn bè săn sóc. Trước khi chết ông ta nói bí mật về bức ảnh và xin bạn ông trả lại nhà thờ. Người bạn ông muốn thực hiện lời hứa nhưng vợ ông không muốn mất đi kho tàng quý báo này nên ông chết đi mà không thực hiện được điều đã hứa. Sau cùng, Đức mẹ hiện ra với một em bé gái 6 tuổi thuộc gia đình Roma và bảo nó nói với mẹ và bà nó rằng bức ảnh Đức Mẹ hằng Cứu Giúp phải để ở nhà thờ thánh Matthuê Tông Đồ, tọa lạc ở giữa hai Vương Cung Thánh Đường Đức Bà và thánh Gioan Laterano. Kể từ ngày 27 tháng 4 năm 1499 bức ảnh Đức Mẹ được tôn kính tại nhà thờ đó trong vòng 300 năm. Sau đó, lòng sùng kính Đức Mẹ lan rộng khắp Roma, cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Chúa Cứu Thế thỉnh nguyện Đức Thánh Cha Pio 9 ban cho bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để trưng bày tại nhà thờ Chúa Cứu Thế và thnáh Alphonso mới được xây (11.12.1965). ĐGH Pio 9 nói với Cha Bề Trên Tổng Quyền rằng “ Hãy làm cho thế giới biết đến Mẹ”. Tháng giêng năm 1866, hai cha Michael Marchi và Ernest Bresciani đến nhà thờ Đức Mẹ ở Posterula để đón nhận bức ảnh Đức Mẹ từ các Cha Dòng Augustiano. Sau mấy tháng chuẩn bị, ngày 26.4.1866 bức ảnh được trưng bày để mọi người đến tôn kính. Bên cạnh nhà thờ là Trụ Sở trung ương và học viện thánh Alphonso của Dòng.