Ðăng Nhập

View Full Version : Lẽ sống mỗi ngày



Pages : 1 [2]

Cỏ Lau
07-08-2009, 09:45 AM
08 tháng 08

Vị thánh của kinh Mân côi

Đaminh, vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời năm 1170 bên Tây Ban Nha trong một gia đình quý tộc, nhưng ngay từ nhỏ, Đaminh đã tập quen sống hãm mình. Ngoài ra, Đaminh có tính khẳng khái, thích làm việc có hệ thống và chú ý đến việc trau dồi kiến thức.

Khi làm linh mục, rồi kinh sĩ, Đaminh nổi bật về lòng ngay thẳng, hăng hái và tinh thần hy sinh. Ngài cảm thấy như được Chúa gọi đi để loan báo Tin Mừng cho các bộ lạc bên nước Nga, nhưng Đức Innocentê thứ 3 lại cử Ngài đến hoạt động tại Toulouse bên Pháp, nơi những làn sóng lạc giáo đang làm lung lay niềm tin của nhiều người.

Đaminh xác tín rằng: Lời giảng dạy phải đi đôi với cuộc sống. Vì thế, Ngài đã lập một hội dòng, quy tụ các tu sĩ sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm để có thể rao giảng, không chỉ bằng lời nói mà cả bằng cuộc sống của mình. Chính Đaminh đã là người đầu tiên làm gương về nếp sống ấy bằng cách đi chân không, ngủ dưới đất, ăn chay và sống bằng của bố thí.

Vào năm 1216, Đức Hônôriô thứ 3 đã phê chuẩn dòng do cha Đaminh sáng lập mang tên “Dòng anh em giảng thuyết” theo quy luật của thánh Augustinô, tức là dòng Đaminh ngày nay. Thiên Chúa chỉ dành cho cha Đaminh 5 năm vắn vỏi để chu toàn sứ mệnh của người gieo giống. Suốt thời gian này ngài đã rảo qua các nước Pháp, Italia và Tây Ban Nha để rao giảng và đã đưa nhiều người ly giáo trở vể với Giáo hội.

Trong suốt cuộc sống, Đaminh đã nêu cao gương hy sinh và cầu nguyện. Ngoài ra, Ngài còn truyền bá lòng sùng kính Đức Maria và kinh Mân côi, vì thế, Ngài đã thành lập một dòng nữ để giúp chị em sống theo tinh thần này.

Cha Đaminh qua đời tại Bologna bên Italia ngày 6/8/1221 và chỉ 13 năm sau, vào năm 1234, Đức Gregoriô thứ 9 tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.

Có một câu chuyện thuật lại giấc mơ của thánh Đaminh: Ngài thấy thế gian sắp bị án công thẳng của Thiên Chúa luận phạt, nhưng được cứu thoát nhờ lời cầu bầu của Đức Maria. Đức Mẹ chỉ cho Chúa Giêsu hai hình ảnh: một hình ảnh là chính Đaminh và hình ảnh kia là một người ăn mày quần áo rách tả tơi.

Ngày hôm sau, trong lúc cầu nguyện trong nhà thờ, Đaminh thấy người ăn mày trong mộng xuất hiện, tiến đến gần, ôm chầm Đaminh và nói: “Anh là người đồng hành với tôi. Nếu chúng ta cùng sánh vai tiến bước, thì không quyền lực nào có thể thắng chúng ta”. Nhìn kỹ, Đaminh nhận ra người ăn mày đó chính là Phanxicô thành Assisi.

Cuộc gặp gỡ này của hai vị sáng lập dòng vẫn được các tu sĩ Đaminh và Phanxicô mừng mỗi năm. Vào ngày lễ kính hai thánh nhân, họ cùng nhau dâng Thánh lễ và sau đó ngồi vào bàn để chia sẻ với nhau những tấm bánh và những lý tưởng đã làm cho Giáo hội trở nên phong phú trong việc sống theo tinh thần Phúc Âm trải qua 7 thế kỷ nay.

Lý tưởng mà dòng Đaminh cũng như của các dòng khác không phải chỉ để chúng ta kính phục, nhưng cũng là để chúng ta noi gương. Các tu sĩ là những người tự nguyện sống trọn những lời khuyên của Phúc Âm qua 3 lời khấn: khó nghèo, thanh tịnh, vâng lời. Đó cũng là 3 nhân đức mà mỗi người Kitô cũng phải thực hành tùy sức, tùy hoàn cảnh và địa vị của mình.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
08-08-2009, 10:10 AM
09 tháng 08

Xin hãy dùng con như khí cụ bình an!

Ngày 9/8 hàng năm, hàng ngàn người Nhật Bản và nhiều du khách tập trung về Đài Hòa Bình tại Nagasaki để tưởng niệm quả bom nguyên tử đầu tiên được ném xuống Nhật Bản.

Đúng 11 giờ 3 phút, giờ định mệnh của thành phố Nagasaki, từng đám đông dừng lại trong thinh lặng, trong khi đó từ các tháp chuông trên khắp nước, từng hồi chuông ngân vang để tưởng niệm giây phút đau thương của Nagasaki.

Ngày 9/8/45, quả bom nguyên tử đầu tiên đã giết hại khoảng 70 ngàn người và tiêu hủy gần như trọn vẹn thành phố Nagasaki. Ba ngày sau đó, quả bom thứ hai cũng được trút xuống trên Hiroshima nâng tổng số những người thiệt mạng lên đến 140.000 người. Và gần đây, hơn hai ngàn người còn sống sót từ dạo đó cũng vừa qua đời vì ảnh hưởng của phóng xạ.

Lên tiếng trong một buổi lễ tưởng niệm, ông Motoshima, thị trưởng Nagasaki đã phát biểu như sau: “Qua kinh nghiệm đau thương này, những người công dân của thành phố Nagasaki đều nhận thấy rằng: bom nguyên tử có thể hủy diệt toàn thể nhân loại. Do đó, chúng tôi đã không ngừng kêu gọi hủy bỏ các vũ khí hạt nhân”. Bài diễn văn trên đây của ông thị trưởng Nagasaki đã được sao gởi đến các vị nguyên thủ quốc gia trên thế giới. Cũng trong bài diễn văn này, ông Motoshima đã tha thiết kêu gọi Liên Xô và Hoa Kỳ hãy ngồi vào bàn hội nghị với nhau và hãy quyết tâm cam kết thực hiện sự chung sống hòa bình giữa Đông và Tây cũng như làm mọi cố gắng để giải trừ vũ khí hạt nhân…

Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Có một lần trải qua đau thương như người Nhật Bản, cách riêng những người Nagasaki và Hiroshima, con người mới thấy được thế nào là sự tàn phá của bom nguyên tử và sự khao khát hòa bình.

Lời kêu gọi trên đây của ông thị trưởng thành phố Nagasaki có lẽ không chỉ được ngỏ với các vị nguyên thủ quốc gia, hoặc hai cường quốc Hoa Kỳ và Liên Xô. Lời kêu gọi đó cũng phải được truyền đến tận tai của từng người. Bởi vì hòa bình không chỉ là vấn đề của một số người, hoặc của một số quốc gia. Hòa bình là vấn đề của từng người. Nó là cố gắng xây dựng từng ngày và của từng người.

Nhưng hòa bình không chỉ là thành quả của những cố gắng. Nó còn là một ân ban mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể trao tặng cho con người… Ngày 27/10/1986, cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình của các vị đại diện các tôn giáo trên thế giới đã nói lên được chiều kích đích thực của hòa bình: hòa bình phải xuất phát từ tâm hồn con người.

Con người cần phải cầu nguyện cho hòa bình. Chính trong cuộc gặp gỡ thâm sâu trong tâm hồn giữa con người và Thiên Chúa mà hòa bình đích thực mới phát sinh. Cho dù có hủy bỏ mọi vũ khí hạt nhân, cho dù có ký mọi hoà ước, nếu con người chưa dẹp bỏ mọi thứ vũ khí khác trong tâm hồn, mầm mống của chiến tranh vẫn còn đó…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
09-08-2009, 09:55 AM
10 tháng 08

Tài sản của Giáo hội

Hôm nay, Giáo hội kính nhớ một vị thánh được tôn kính rất nhiều trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo: đó là thánh Lôrenxô. Thật ra, người ta biết rất ít về vị thánh này…

Theo tương truyền, thì Lôrenxô là một vị phó tế người Roma phục vụ Giáo hội dưới thời Đức Giáo Hoàng Sixtô II, và có lẽ cũng đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách hại của hoàng đế Velerianô vào thế kỷ thứ 3.

Chuyện kể lại rằng, cũng như các phó tế trong giai đoạn tiên khởi của Giáo hội, Lôrenxô được giao phó trách nhiệm quản lý của cải của Giáo hội và trợ giúp người nghèo. Ngày nay chúng ta gọi là hoạt động xã hội của Giáo hội.

Sau khi Đức Sixtô II bị bắt giữ, phó tế Lôrenxô cũng đã nghĩ ngay đến số phận chờ đợi mình và những xáo trộn mà Giáo hội phải trải qua. Ngài tập trung lại tất cả những người nghèo, các bà góa và các em cô nhi tại Roma. Tất cả tài sản của Giáo hội, Ngài phân phát cho họ. Để cung cấp đủ cho số người túng thiếu quá đông, ngài đã cho bán cả các chén thánh dùng trong phụng tự…

Hoạt động bác ái quá rầm rộ này không mấy chốc đến tai viên thị trưởng Roma. Ông cho rằng: Giáo hội phải có rất nhiều kho tàng. Thế là Lôrenxô đã bị điều đến để cung khai về tất cả tài sản của Giáo hội. Vị phó tế khôn ngoan này bèn xin hoãn một thời gian để xếp đặt mọi sự và lập danh sách của cải của Giáo hội. Trong suốt ba ngày, ngài cho triệu tập những người tàn tật, đui mù, phong hủi, góa bụa, cô nhi… và cho họ đứng xếp hàng trước dinh viên thị trưởng. Rồi ngài dõng dạc tuyên bố: “Đây là tất cả tài sản của Giáo hội”.

Viên thị trưởng đã cho lời tuyên bố trên đây là một thách thức ngạo mạn. Ông truyền lệnh cho thiêu sống Lôrenxô trên một chiếc giường sắt được nung đỏ. Các lý hình thay phiên nhau để quay trở thân xác của thánh nhân như một con thú…

Câu chuyện trên đây có thể chỉ là sản phẩm của một lòng tôn kính cao độ mà các tín hữu thời sơ khai dành cho một vị thánh. Nhưng, dù không biết nhiều về vị thánh này, chúng ta vẫn có thể xác quyết một điều: Ngài đã chết vì Đức Kitô. Sự thánh thiện ở thời đại nào cũng được định nghĩa như một sự đáp trả hoàn toàn đối với lời mời gọi bước theo Đức Kitô.

Sống và chết cho Đức Kitô: đó là ơn gọi từng ngày của người Kitô. Có nhiều hình thức bắt đạo khác nhau: từ những sắc lệnh cấm đạo công khai cho đến những hạn chế tự do tín ngưỡng một cách tinh vi.

Có nhiều hình thức tử đạo khác nhau: từ cảnh đầu rơi, máu đổ cho đến những cái chết dần mòn trong nơi lao tù, cũng như những khước từ hy sinh từng ngày mà mỗi người Kitô đang phải trải qua.

Sống trọn vẹn ơn gọi của người Kitô cũng là một hình thức tử đạo từng ngày. Quyết chí trung thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm để không chạy theo những cám dỗ của quyền lực, của tiền bạc, của gian dối, của lường gạt: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.

Quyết chí trung thành với Giáo hội dù phải chịu những phân biệt đối xử, dù phải bị tước đoạt quyền lợi: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
10-08-2009, 09:02 AM
11 tháng 08

Cô bạn của thánh Phanxicô Assisi

Một trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của thánh Phanxicô thành Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đã thi vị hóa vai trò của Clara, vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay. Đạo diễn của cuốn phim đã giới thiệu Clara qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.

Trong thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều chi tiết có thể được sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối kết hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua những lời rao giảng có chiều sâu của Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một người bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.

Lúc lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ đơn sơ cử hành vào đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng đơn sơ và đã để cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.

Khi một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái của Clara, theo chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn dật, cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân không, ngủ trên nền nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Đó là những dấu hiệu bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó nghèo theo tinh thần Phúc âm như Đức Giêsu đã dạy.

Để sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền sở hữu của bất cứ của cải nào, kể cả với tính cách là của chung.

Nhu cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí. Khi Đức thánh cha khuyên họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã khẳng khái trả lời: “Thưa Đức Thánh Cha, chúng con cần cha tha tội, chứ chúng con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải giữ để trung tín dõi theo chân Chúa Giêsu”.

Trong bốn bức tường tu viện tại San Đamianô gần Assisi, Clara ân cần chăm sóc các bệnh nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực trở về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói mắt mọi người.

Trong 27 năm cuối đời, Clara vị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu hút được nhiều Giám mục, Hồng y, kể cả các giáo chủ, đến để tham khảo ý kiến của chị.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
11-08-2009, 07:43 PM
12 tháng 08

Món quà vô giá

Một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh. Trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà. Tuyệt nhiên, bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà từng giây từng phút. Quà tặng duy nhất mà bà tặng cho cô đó là một thánh giá được bọc thạch cao.

Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng cô đầy cay đắng buồn phiền. Cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì.

Không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt cay đắng, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném tung trên nền nhà. Cây thập giá vỡ tung và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh…

Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà… lắm khi Thiên Chúa cũng gởi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá. Sự sần sù và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa.

Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta. Tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến nguồn hạnh phúc cao cả hơn.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
12-08-2009, 08:13 AM
13 tháng 08

Bức tường ô nhục

Ngày 13 tháng 8 năm 1961, sau nhiều cuộc thương thảo vô ích giữa Washington và Mascơva nhằm giải quyết cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông và Tây, Knischev, chủ tịch nhà nước Liên Xô, đã ra lệnh cho xây cất một bức tường ngăn cách giữa Đông và Tây Bá Linh. Bức tường này được dựng lên không những để đánh dấu sự đoạn tuyệt giữa Đông và Tây, nhưng còn để ngăn chận làn sóng những người Đông Đức ồ ạt chạy sang tỵ nạn tại Tây Bá Linh. Khối Đông Âu thì giải thích rằng bức tường này được dựng lên là để ngăn chận những người Tây phương có thể đến Đông Đức để làm gián điệp. Còn phía Tây phương thì lại gọi đó là bức tường ô nhục… Nhưng dù được gọi dưới danh hiệu nào, dù được xây dựng dưới mục đích nào, bức tường ngăn cách giữa Đông và Tây Bá Linh vẫn mãi mãi là biểu trưng của những chia cách giữa con người mà chính con người đã tạo nên…

Có những bức tường ngăn cách về kinh tế, chính trị, chủng tộc, văn hoá do con người dựng lên… Nhưng cũng có những bức tường vô hình mà mỗi người chúng ta có thể xây lên để tự ngăn cách với người khác.

Bức tường vô hình đó trước tiên là bức tường của nghi kỵ. Người ta thường xây kín khu vực của mình ở bằng kín cửa cao tường là bởi vì người ta sợ con mắt dòm ngó của những người xung quanh. Sự nghi kỵ không những ngăn ngừa người khác đến với mình, nhưng còn giam hãm chính mình trong cô đơn…

Bức tường vô hình cũng là bức tường của ích kỷ. Người ích kỷ chỉ biết đến thế giới của mình và khép mắt, bịt tai trước những gì đang xảy ra cho người khác…

Bức tường đó cũng là bức tường của tham lam. Người ta xây tường để tích lũy cho riêng mình, mặc cho sự túng thiếu và đói khát của người khác…

Bức tường đó cũng có thể là bức tường của sự bất cảm thông. Kẻ xây tường để bao bọc mình sẽ không muốn nhìn thấy và thông cảm với những người xung quanh…

Nhưng bức tường nào cũng là một nấm mồ chôn kín mình trong sự cô đơn. Càng bảo vệ chính mình, con người càng mất mát trong sự hao mòn. Trái lại, càng cởi mở, càng đến với tha nhân con người càng triển nở trong nhân cách…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
13-08-2009, 11:36 AM
14 tháng 08

Còn tình nào cao quý hơn

Vào khoảng cuối tháng 7 năm 1971, một tù nhân đã trốn khỏi trại tập trung Auschwitz. Theo quy định của những người Đức quốc xã đang điều khiển trại, cứ một tù nhân đào thoát, thì 10 người khác phải thế mạng.

Duyệt qua khu biệt giam, viên chỉ huy Fritsch trỏ tay vào hàng rào các tù nhân và ông đếm từ 1 đến 10. Mười người bị tử thần chiếu cố đã lần lượt tiến đến trước mặt người đồ tể. Người thứ 10 đứng bên cạnh cha Maximiliano Koibe chợt la lên thảm thiết: “Vợ tôi, con tôi, trời ơi! Tôi sẽ không bao giờ được gặp lại vợ con tôi”. Cha Maximiliano Koibe đã kéo người tử tội số 10 đó lại và Ngài tiến ra đứng thế chỗ cho anh…

Sau này, Francis Gajowniceek, người đàn ông đã được cha Maximiliano chết thế đó kể lại: Tinh thần trong trại thay đổi hẳn. Sự kiện này đã tạo ra một ấn tượng cao đẹp và sâu xa… Vị linh mục dòng Phanxicô đó không những chỉ chia sẻ cho các bạn tù một mẩu bánh, vài muỗng xúp, nhưng là chính mạng sống của mình để chuộc mạng cho người khác…

Liên tiếp trong hai tuần, cha Maximiliano Koibe đã phải nhịn đói, nhịn khát để chờ chết. Cơn hấp hối kéo dài quá lâu khiến những người Đức quốc xã không thể chờ đợi được. Sau cùng viên lý hình đã kết thúc cuộc đời của cha bằng một mũi thuốc độc.

Thân xác của cha đã được hỏa táng và tro tàn đã được rắc lên đồng lúa như phân bón. Nguyện ước lúc thiếu thời của cha đã được thành tựu: “Tôi ước ao được hóa thành tro bụi vì đức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội. Ước gì tro đó được gieo rắc khắp nơi trên thế giới để không còn một mảnh hình hài nào còn sót lại…”

Nhà tù nào cũng có thể là một hỏa ngục: hỏa ngục của hận thù, của ích kỷ, của phản bội. Có lẽ nhiều người Việt Nam đã và đang trải qua những hành hạ dã man gấp bội phần những gì đã diễn ra trong các trại tập trung thời Đức quốc xã…

Nhà tù có thể là hỏa ngục, nhưng cũng có thể là Thiên đàng: Thiên đàng của hy sinh, nhẫn nhục, yêu thương, tha thứ, quảng đại… Biết bao nhiêu hoa thơm đã chớm nở trong cảnh khốn cùng ấy. Khốn khổ càng nhiều, hy sinh càng cao.

“Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu”. Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là một thể hiện của sự độc ác dã man của con người, nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng…

Cái chết hy sinh vì người khác, Chúa Giêsu muốn luôn được tiếp tục qua cuộc sống của người Kitô. Đã có rất nhiều người đã lập lại cái chết đó qua suốt lịch sử của Giáo hội và hiện nay, còn biết bao nhiêu người vẫn còn tái diễn cái chết đó qua những hy sinh hằng ngày của mình…

Hôm nay, chúng ta kính nhớ thánh Maximiliano Maria Kolbe, người đã chết thay cho một người bạn tù. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho Ngài ngày 10/10/1982 và đặt Ngài làm quan thầy của thời đại khó khăn. Kinh nghiệm của Ngài chắc chắn đang tái diễn hằng ngày trong xã hội chúng ta, trong đó người Kitô không ngừng được mời gọi để quên mình và sống cho người khác…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
14-08-2009, 08:16 AM
15 tháng 08

Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô

“Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô”: đó là hàng chữ mà hiện nay hàng ngàn du khách đều lâm râm đọc mỗi khi đứng mặc niệm trước mộ của nữ minh tinh Marilyn Monroe tại nghĩa trang Wetswood, nằm ở phía Tây thành phố Los Angeles.

Hiện nay, từng giây từng phút, hàng ngàn cánh hoa được du khách mang đến phủ kín nơi an nghỉ của người nữ minh tinh xấu số này. Ngày 15/8/1962, người nữ minh tinh với mái tóc bạch kim óng ả đã lặng lẽ ra đi không một lời giã biệt. Cuộc quyên sinh của cô, cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Giữa lúc danh vọng đang lên, giữa lúc tiền bạc đang vào ngút ngàn, Marilyn đã chọn lấy cái chết…

Rundall Reive, tác giả viết lại cuộc đời của Marilyn Monroe, đã nhận định như sau: “Marilyn không còn là một con người nữa. Cô đã trở thành một huyền thoại. Cô không còn là một nhân vật của Hollywood nữa. Cô đã trở thành một yếu tố trong nền văn hóa của nước Mỹ”.

Marilyn đã trở thành lý tưởng của rất nhiều ca sĩ và minh tinh điện ảnh hiện nay. Nhưng mãi mãi, cô đã trở thành một câu hỏi lớn cho con người của thời đại: Con người bởi đâu mà ra? Con người sinh ra để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Tiền bạc, danh vọng có làm cho con người được hạnh phúc không?

Marilyn Monroe là hiện thân của những câu hỏi nghìn đời ấy…

“Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô”, bởi vì cô đã không ngừng bị dằn vặt bởi những khắc khoải quá lớn về cuộc sống. Chúng tôi thông cảm với cô, bởi vì thiếu một niềm tin vào cuộc sống, thì không còn chọn lựa nào khác hơn là cái chết…

Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ hồn xác lên trời…

Ngày 22/7/1973, thành phố Giêrusalem đột nhiên biến thành nhộn nhịp khác thường, từng đoàn người tuôn đến vườn Giêtsêmani… Có tin cho biết các nhà khảo cổ đã tìm thấy tảng đá trong mồ nơi đặt xác Đức Mẹ. Đức Mẹ đã chết. Đó có lẽ phải là khẳng định đầu tiên mà các nhà khảo cổ có thể đưa ra khi tìm thấy tảng đá…

Chết là số phận tất yếu của thân phận con người. Chúa Giêsu đã chết. Có ai thoát khỏi sự chết. Nhưng có nhiều cái chết. Chúa Giêsu đã chết để phục sinh. Đức Mẹ đã chết để được cất nhắc cả hồn xác về trời. Với Chúa Giêsu và Đức Mẹ, cái chết là khởi đầu của hy vọng. Cái chết là ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì có chết mới được sống đời đời…

Nếu cái chết của Marilyn Monroe là một dấu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ Maria chính là câu trả lời. Qua cái chết để được cất nhắc về trời, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống, của cái chết và như vậy Mẹ trở thành chính niềm hy vọng của chúng ta.

Trong một cuộc sống không dư tiền dư của như Marilyn đã từng sống, chúng ta vẫn nhận ra được ý nghĩa của cuộc sống. Trong ý nghĩa đó, cái chết đã trở thành khởi điểm cho một sự biến đổi mà chính Đức Maria đã là dấu hiệu báo trước cho chúng ta… Xin cho niềm tin này củng cố chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Xin cho chúng ta luôn biết hướng nhìn về Mẹ Maria, như là đèn pha cho chúng ta giữa những u tối và cuồng phong của cuộc sống.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
15-08-2009, 06:52 AM
16 tháng 08

Anh ấy chưa bao giờ trưởng thành

Ngày 16/8 kỷ niệm ngày qua đời của Elvis Presley, ca sĩ được xem như là thần tượng của nhạc rock tại Hoa Kỳ trong thập niên 70.

Xuất thân từ một gia đình nghèo, lại mang tính nhút nhát, Elvis thường trở thành trò cười cho bạn bè trong lớp. Nhưng luôn ôm ấp trong mình giấc mơ thành ca sĩ, Elvis đã thắng vượt được tính nhút nhát của mình để trở thành một ngôi sao sáng chói trong nền âm nhạc Mỹ quốc…

Danh vọng và tiền bạc đến quá nhanh khiến Elvis không kịp chuẩn bị để trang bị cho mình một triết lý sống vững chắc. Anh mua cho người mẹ một ngôi biệt thự lộng lẫy xa hoa. Cá nhân anh thì lại vung vãi tiền bạc trong không biết bao nhiêu thú vui phù phiếm. Cuộc hôn nhân đầu tiên đã đổ vỡ, chỉ để lại cho anh cay đắng buồn phiền…

Sự ái mộ của dân chúng dường như không đủ để lấp đầy khoảng trống vắng quá lớn trong tâm hồn anh. Ma túy và các thứ thuốc an thần cũng không đủ hiệu lực để xoa dịu bao nỗi khắc khoải trong anh…

Buổi sáng 16/8/1977, sau một đêm thức trắng để đọc sách, Elvis đã được tìm thấy trong phòng tắm của anh, mặt úp xuống sàn nhà, sau một cơn chống trả mãnh liệt với tử thần… Anh đã tắt thở ngay sau khi được chở vào bệnh viện.

Priscilla, người vợ đầu tiên của Elvis đã thốt lên như sau: “Cái chết của Elviskhiến tôi nghĩ nhiều về chính cái chết của tôi… Tôi chợt nhận ra rằng tôi cần phải chia sẻ với người khác nhiều hơn. Khi trở thành một ngôi sao trong nền âm nhạc, Elvis còn quá trẻ để có thể biết cách sử dụng tiền tài, danh vọng đang đến với anh. Anh chỉ là một nạn nhân. Anh bị hủy diệt bởi chính những người ái mộ anh. Anh cũng là nạn nhân của chính hình ảnh mà anh đã tự tạo ra. Anh chưa bao giờ sống như một con người thật sự, anh chưa bao giờ trưởng thành, anh chưa bao giờ ra khỏi cái vỏ ốc ấm áp của anh để cảm nghiệm được thế giới bên ngoài”.

Bảo rằng tiền bạc, danh vọng không làm cho con người hạnh phúc có lẽ cũng bằng thừa. Biết bao nhiêu người đã đi tìm hạnh phúc trong của cải chóng qua ở đời này, rốt cục, họ chỉ gặp thất vọng, chán nản ê chề… Thánh Augustinô đã được coi như là hiện thân của một cuột tìm kiếm không ngừng. Tìm kiếm hạnh phúc trong hiểu biết, tìm kiếm hạnh phúc trong khoái lạc.v.v., tất cả chỉ để lại trong tâm hồn Ngài nỗi trống vắng ê chề. Cuối cùng ngài đã tìm ra chân lý: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho chính Chúa, tâm hồn con chỉ ngơi nghỉ khi được yên nghỉ trong Chúa…”

Phải, chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy nỗi khao khát hạnh phúc trong lòng người… Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để tìm kiếm Chúa trong những cái chóng qua ở đời này. Giá trị cao cả nhất để chúng ta đeo đuổi không phải là tiền của, danh vọng, nhưng là chính Chúa và những giá trị của nước Trời.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
16-08-2009, 09:24 AM
17 tháng 08

Tiếng thì thầm của sa mạc

Một nhà thám hiểm nọ lạc mất giữa sa mạc. Đi từ đụn cát này đến cồn cát nọ, nhìn hết hướng này sang hướng kia, nơi đâu ông cũng thấy toàn là cát với cát. Lê gót trong tuyệt vọng, tình cờ chân ông vấp phải một gốc cây khô. Ông vấp ngã và nằm vùi bên gốc cây. Ông không còn đủ sức để đứng lên, ông không còn đủ sức để chiến đấu và cũng không còn một chút hy vọng sống sót nào. Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm bỗng ý thức được sự thinh lặng của sa mạc. Bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình, ông ngẩng đầu lên. Trong sự thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai. Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận thức đó là tiếng róc rách chảy của một dòng suối từ xa vọng lại.

Như sống lại từ cõi chết, ông định hướng nơi xuất phát của tiếng suối. Rồi dùng nguồn năng lượng còn sót lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi tìm được dòng suối…

Cuộc sống có quá nhiều bận rộn và ồn ào khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và nhận ra được sự hiện diện của Chúa.

Có những ồn ào của những bận tâm thái quá cho danh vọng, cho tiền của, cho tương lai. Có những ồn ào của tham lam giành giựt không đếm xỉa đến người khác. Có những ồn ào của sôi sục cừu hận, báo thù…

Có thinh lặng trong cõi lòng, chúng ta mới nghe được tiếng thì thầm mời gọi của Chúa trong từng phút giây của cuộc sống. Có thinh lặng, chúng ta mới nhận ra được tiếng Ngài qua những khóc than của không biết bao nhiêu người bất hạnh xung quanh. Có thinh lặng, chúng ta mới nghe được lời an ủi, đỡ nâng của Ngài giữa gánh nặng chồng chất của cuộc sống…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
17-08-2009, 08:19 AM
18 tháng 08

Ngài là sự bình an của chúng ta

Năm 1899, cuộc xung đột biên giới giữa hai nước Chile và Argentina suýt đưa tới một cuộc chiến tranh khốc liệt… Mùa Phục sinh năm 1900, quân đội của hai bên đã sẵn sáng giao tranh với nhau.

Trong suốt Tuần Thánh năm đó, vị Tổng Giám mục Buenos Aires của Argentina đã đưa ra một lời kêu gọi tha thiết về Hoà bình. Sứ điệp của Ngài đã không mấy chốc được truyền sang Chile. Các Giám mục của nước này cũng hưởng ứng nhiệt liệt lời kêu gọi. Giáo hội của hai bên đã làm áp lực để hai chính phủ ngồi vào bàn hội nghị với nhau qua trung gian của vua Edward thứ 7 của Anh quốc.

Không mấy chốc, một hoà ước đã được hai nước ký kết. Để nói lên thiện chí xây dựng hoà bình, quân đội Argentina đã gom góp lại một số khí giới và nung lên để rồi đúc thành một tượng Chúa Giêsu. Bức tượng đã được đặt tên là “Đức Kitô của dãy núi Andes”. Andes là dãy núi nơi đã có cuộc xung đột giữa hai quốc gia. Cánh tay phải của bức tượng được mở rộng để ban phép lành, còn cánh tay trái cầm Thánh giá.

Chính phủ Argentina đã quyết định đưa bức tượng lên đỉnh núi ở cao độ gần 4 ngàn thước. Xe lửa di chuyển bức tượng đến chân núi. Sau đó, người ta dùng chính các chiến xa do lừa kéo để đưa bức tượng lên núi. Và cuối cùng, khi tới gần đỉnh núi, chính các quân nhân là những người hoàn thành công tác còn lại.

Sau khi đã dựng bức tượng, người ta viết dưới bộ của bức tượng như sau: “Những ngọn núi này sẽ sụp xuống và biến thành cát bụi nếu nhân dân của Chile và Argentina quên đi lời giao hoà mà họ đã long trọng ký kết dưới chân Đức Kitô”. Trên mặt khác của chân tượng, người ta cũng đọc thấy câu trích từ thư của thánh Ephesô như sau: “Chính Ngài là sự bình an của chúng ta. Ngài đã làm cho đôi bên bị chia rẽ nên một”.

Giải thưởng Nobel Hoà bình năm 1990 đã quyết định trao tặng cho tổng thống Gorbachov của Liên Xô. Cả thế giới đã nhìn nhận vai trò quan trọng của ông trong việc đạp đổ bức tường ô nhục Bá Linh và các chế độ cộng sản tại Đông Âu, cũng như góp phần dập tắt cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối cộng sản và tư bản.

Hoà bình mà tổng thống Gorbachov góp phần kiến tạo phải chăng không là kết quả của một sự “đạp đổ”: chỉ khi nào những bức tường của kỳ thị, của bách hại, của hận thù, của độc tôn bị đạp đổ thì Hoà bình mới thực sự chớm nở…

Người La mã ngày xưa thường nói: Nếu muốn Hoà bình, hãy chuẩn bị chiến tranh. Còn cuộc chiến nào gay go, khốc liệt cho bằng cuộc chiến để đạp đổ những bức tường của hận thù, của bạo động, của bất khoan dung trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ thực sự có bình an trong tâm hồn và người người mới thực sự có Hoà bình khi những bức tường ấy được đạp đổ trong chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
18-08-2009, 12:47 PM
19 tháng 08

Hãy nhìn lên cao

Dạo cuối tháng tư năm 1990, ở độ cao 620 cây số trên biển Thái Bình Dương, cánh tay dài 12 thước của người máy từ phi thuyền con thoi Discover đã đưa ống thiên văn Hubble rời xa phi thuyền để đi vào quỹ đạo không gian, bắt đầu một cuộc hành trình quan sát vũ trụ được dự trù kéo dài trong suốt 15 năm, mở đầu cho một kỷ nguyên mới trong ngành thiên văn học.

Do nhu cầu tìm hiểu vũ trụ, kính thiên văn đã được ra đời cách đây khoảng 380 năm. Nhờ kính thiên văn, các nhà thiên văn học mới có thể quan sát một cách chi tiết những thiên thể ở gần trái đất và từ đó đưa ra những định lý căn bản cho ngành thiên văn học. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học, đặc biệt là máy điện toán, những kính thiên văn ngày càng được cải tiến về kỹ thuật cũng như kích thước để gia tăng khả năng quan sát. Hai kính thiên văn có đường kính lớn nhất hiện nay được đặt trên đỉnh núi Palomar và Caucasus. Nhưng dù được cải tiến cách mấy đi nữa, khoảng cách quan sát và mức độ phân giải của kính thiên văn đặt trên mặt đất vẫn còn bị giới hạn, vì ánh sáng từ các thiên thể trước khi đến mặt đất đã bị ngăn cản và tản xạ nhiều bởi lớp khí quyển bao quanh trái đất.

Ý tưởng về kính thiên văn đặt ngoài không gian đã được đề cập đến năm 1923, nhưng mãi đến năm 1981, ý tưởng này mới được thực hiện với một kinh phí khổng lồ là 1 tỷ rưỡi Mỹ kim. Kính thiên văn đặt ngoài không gian trái đất này mang tên khoa học gia Hoa Kỳ Edwin Hubble, một trong những tài năng lỗi lạc nhất trong ngành thiên văn học.

Sự ra đời của kính thiên văn Hubble có thể so sánh với sự ra đời của kính thiên văn đầu tiên của Galilêô vào năm 1609: đây là bước tiến quan trọng trong ngành thiên văn học, nó giúp con người tiến đến gần chân lý hơn trên con đường tìm hiểu vũ trụ.

Càng lên cao, con người mới nhìn xa thấy rộng. Càng ra khỏi mặt đất, càng lên cao trên không gian, nhãn giới của chúng ta càng mở rộng. Cũng giống như ống kính thiên văn Hubble, người Kitô hữu cũng được trang bị bằng cái nhìn từ trên cao. Nhờ cái nhìn ấy, chúng ta nhìn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, chúng ta biết được đâu là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta. Nhờ cái nhìn ấy, chúng ta có thể nhìn thấy dấu vết của một Tình yêu luôn hiện diện và tác động trong lịch sử của nhân loại và của từng người.

Khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc tử nạn của Ngài. Phêrô kéo Ngài lại và can gián Ngài. Chúa Giêsu đã quở trách ông: “Hãy lui ra đằng sau Ta hỡi Satan. Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, bởi vì cái nhìn của ngươi không phải là cái nhìn của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Lắm lúc chúng ta cũng khước từ cái nhìn trên cao của Thiên Chúa để chỉ nhìn vào các biến cố bằng cái nhìn trần tục của chúng ta. Với cái nhìn trần tục, chúng ta chỉ thấy màu đen của thất bại, chết chóc, thất vọng, buồn thảm. Nhưng với cái nhìn của Chúa, sự yếu đuối sẽ trở thành sức mạnh, mất mát sẽ trở thành lợi lộc, khờ dại sẽ trở thành khôn ngoan. Trong với cái nhìn của Chúa, chúng ta sẽ chỉ thấy ánh sáng, hy vọng, tin tưởng, lạc quan.

Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Hãy yêu thích những sự trên trời”. Hãy mặc lấy cái nhìn từ trên cao. Hãy luôn sống và hành động bằng những tâm tình của chính Chúa Giêsu.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
19-08-2009, 08:16 AM
20 tháng 08

Hai vì sao mỉm cười

Một vị ẩn sĩ nọ tịnh niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn và nước uống. Từ trên đỉnh núi cao, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày: đó là dấu hiệu trời cao chấp thuận của lễ hy sinh của ông.

Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đương leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi theo. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô gái hãy uống nước. Cuối cùng, không ai chạm đến nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.

Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Đến một lúc, vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé gái phải quằn quại trong cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và lúc bấy giờ cô bé gái cũng mỉm cười uống nước với ông. Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ lỡ của ông, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi, ông thấy có hai vì sao lấp lánh như mỉm cười với ông.

Để mặc khải cho chúng ta bộ mặt thông cảm, nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã không ngần ngại đến ngồi đồng bàn với những người thu thuế, Ngài đã nhìn thấy Matthêô, Ngài đã chọn ông vào số các tông đồ của Ngài. Trong bữa tiệc do Matthêô khoản đãi, những người bạn thu thuế của ông ngồi đồng bàn với Chúa Giêsu. Thấy thế, những người biệt phái đã tỏ ra khó chịu. Chúa Giêsu đã nói với họ như sau: “Không phải những kẻ khoẻ mạnh cần đến thầy thuốc, mà chính là những người đau ốm. Hãy đi học hiểu câu nói: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ”.

Qua thái độ và lời phát biểu trên đây, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cốt lõi của tin mừng, cốt lõi của đạo chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc ăn chay có giá trị nhất, là của lễ cao đẹp nhất mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Nếu chỉ có một vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành động khổ chế, thì sẽ có hai vì sao hiện ra để xác nhận cho một hành động bác ái. Thật ra, bác ái đích thực cũng là một hành động khổ chế, bởi vì nó đòi hỏi con người phải chết cho bản thân, phải ra khỏi chính mình để đến với người khác. Một hành động bác ái đích thực phải là một cái chết dần chết mòn trong chính bản thân.

Nói như Mẹ Têrêxa Calcutta: “Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao ban cho người một điều gì làm tôi cảm thấy mất mát, đau khổ, thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị. Tôi không chia sẻ và trao ban của dư thừa, mà chính là trao ban chính tôi.

Khi tôi cố gắng chào hỏi một người tôi ghét cay ghét đắng, đó mới thực sự là một hành động bác ái. Khi tôi có thể đến sống nghèo, chia sẻ kiếp sống nghèo của người khác, đó mới là một hành động bác ái. Khi tôi có thể đưa tay ra để giao hoà với kẻ thù của tôi, đó mới thực sự là một hành động bác ái. Khi tôi có thể tha thứ cho những người xúc phạm đến tôi, đó mới thực sự là một hành động bác ái thực sự. Tôi đã chết đi một phần và cái chết ấy sẽ được Thiên Chúa của lòng nhân từ đón nhận như là lễ hy sinh đích thực”.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
20-08-2009, 10:45 AM
21 tháng 08

Kẻ thù trong mơ

Đời Trang Công, nước Tề, có một người đàn ông nọ đêm nằm cứ thấy chiêm bao có một người to lớn, mặc áo vải quần gai, đeo gươm, đi vào tận nhà ông mắng chửi, rồi lại nhổ vào mặt mà đi… Ông ta giật mình tỉnh dậy, ngồi suốt đêm, bực dọc, không tài nào ngủ lại được.

Sáng hôm sau, ông nói chuyện với một người bạn với lời lẽ như sau: “Từ thuở nhỏ đến giờ, tôi vốn là một người hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi rồi, chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đêm hôm qua, có người đã đến làm nhục tôi. Tôi quyết tìm cho kỳ được kẻ ấy để báo thù. Nếu tìm thấy nó thì tốt, bằng không chắc tôi phải chết mất”.

Kể từ sáng hôm ấy, ngày nào ông ta cũng cùng với người bạn ra đứng ngoài đường để rình cho được kẻ thù trong giấc mơ. Ba ngày trôi qua, nhưng ông ta vẫn chưa thấy được kẻ thù.

Đã tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, nay lại hậm hực thêm vì không tìm được kẻ thù, ông ta trở về nhà uất người lên và chết.

Nhà diễn giả hùng biện nhất của đế quốc La Mã là Cicero có nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Câu chuyện của người nằm mơ thấy kẻ thù, để rồi đi tìm kẻ thù và cuối cùng, tự hủy hoại chính mình phải chăng không là một minh họa cho câu nói của Cicero. Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình, bởi vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để tự tiêu diệt chính mình.

Chúa Giêsu không đến để chối bỏ sự thù hận, nhưng trái lại bày tỏ bộ mặt thực của nó và đánh bại nó. Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan, kẻ thù đúng nghĩa nhất. Chính Satan gieo sự thù hận trong lòng người và đặt con người vào thế chống đối và tiêu diệt nhau.

Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù ấy bằng chính cái chết yêu thương tha thứ của ngài. Chỉ có yêu thương và tha thứ mới có thể là thứ khí giới tiêu diệt được kẻ thù. Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta thứ khí giới ấy. Ngài đã không ngừng nói với chúng ta: “Hãy yêu thương kẻ thù ngươi, hãy làm ơn cho kẻ thù ghét ngươi”.

Nếu con người ta là kẻ thù khủng khiếp của chính mình, thì quả thực chúng ta phải bắt đầu tiêu diệt nó ngay chính trong chúng ta. Chính khi chúng ta cưu mang cừu hận là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt chính mình. Chính khi chúng ta khước từ tha thứ và làm ơn cho những kẻ thù ghét hãm hại chúng ta, là chính lúc chúng ta tự giam hãm trong hận thù để rồi tự hủy hoại chính mình.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
21-08-2009, 10:08 AM
22 tháng 08

Trinh Nữ Vương

Hiện nay, tại một số ít quốc gia trên thế giới như Anh Quốc, Hòa Lan, Thụy Điển, Thái Lan, chức Nữ Hoàng và Quốc Vương vẫn còn tồn tại, nhưng họ chỉ đóng vai trò tượng trưng, chứ không có thực quyền.

Giữa trào lưu có sự thay đổi quan trọng này trong hình thức chính trị và trong đời sống xã hội, những câu kinh: “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy…” lược dịch bài bình ca bất hủ bằng tiếng La Tinh: “Salve Regina…” vẫn còn được bao cửa miệng và tâm hồn dâng lên Mẹ Maria, diễn tả tấm lòng tôn kính, mến yêu của đoàn con cái đối với Mẹ không mảy may bị lạnh nhạt, mặc cho thế sự đổi thay.

Trong tông huấn mang tựa đề: “Lòng sùng kính Đức Mẹ Maria”. Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã định nghĩa về lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương mà Giáo Hội mừng kính hôm nay đại khái như sau: “Lễ này là tiếp diễn lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời. Thực vậy, vào lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, chúng ta suy ngắm và hân hoan mừng kính Mẹ Maria như là hoa quả đầu mùa của công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu, đã chiến thắng hai kẻ thù của nhân loại, đó là: tội lỗi và sự chết. Hôm nay, trong lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ ngự bên cạnh Vua Cao Cả trời đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người mẹ nhân hiền”.

Lời giải thích của Đức cố Giáo hoàng Phaolô VI trên đây giúp chúng ta hiểu đúng vai trò của mẹ Maria theo tinh thần của công đồng Vatican II. Đó là liên kết vai trò của Đức Trinh Nữ Maria với Chúa Giêsu và công cuộc cứu rỗi của Ngài.

Theo dòng trào lưu đổi thay của quan niệm về tự do, dân chủ, vai trò Nữ Vương của Mẹ Maria vẫn đứng vững trong tâm trí và con tim của trăm triệu con cái Mẹ, vì Mẹ ngự bên cạnh Chúa Giêsu Vua. Một vị Vua dùng thập giá làm ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn Ngài bị đâm thủng, để nguồn suối của Tình yêu Thiên Chúa luôn chảy tràn, giải lao cho nhân loại đang khao khát Tình yêu chân thật, làm động lực để biến xã hội loài người thành Nước Trời, với Chúa Giêsu là Vua. Mẹ Maria đứng cạnh ngai vàng thập giá, trái tim bị gươm đâm thâu, để dòng máu Tình yêu của mẹ hoà chảy, hầu đồng lao cộng khổ và đồng thống trị với con Mẹ trong nước Trời.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
22-08-2009, 11:53 AM
23 tháng 08

Hoa đầu mùa của Mỹ Châu

Hôm nay Giáo hội kính nhớ thánh Rosa Lima, vị thánh đầu tiên của Châu Mỹ. Thánh nữ có hai đặc điểm mà dường như vị thánh nào cũng có, đó là: bị chống đối và sống khắc khổ.

Chọn thánh nữ Catarina Siena làm mẫu mực, Rosa quyết sống trọn vẹn cho Thiên Chúa. Sợ nhan sắc của mình có thể quyến rũ nhiều người cũng như làm cớ vấp phạm cho chính mình, Rosa đã lấy tiêu thoa lên mặt để biến thành một người xấu xí. Cô cũng lấy thép quấn thành vòng gai nhọn đội trên đầu.

Nhưng Rosa không phải là một con người mơ mộng viễn vông. Khi thấy gia đình gặp khó khăn về kinh tế, Rosa đã hy sinh làm lụng suốt ngày ngoài đồng và tối về may vá suốt đêm để kiếm tiền đắp đổi cho gia đình. Sống cho cha mẹ, lo cho gia đình, nhưng Rosa vẫn quyết tâm dâng hiến trọn đời cho Chúa. Cô đã mất mười năm để chống lại ý định của cha mẹ nhằm cưỡng bách cô phải lập gia đình. Và cuối cùng, vì cha mẹ cũng không chấp thuận cho cô vào dòng, Rosa đã gia nhập vào dòng ba thánh Đa Minh. Như thế cô vừa sống được lý tưởng tu dòng vừa sống thánh giữa đời.

Trong những năm cuối đời, Rosa dành một phòng trong nhà để đón tiếp trẻ em không nhà không cửa và những người già cả bệnh tật. Đây là một trong những hình thức hoạt động xã hội đầu tiên tại Peru.

Rosa qua đời năm 31 tuổi. Cả thành phố Lima thương khóc cô như một vị thánh trẻ đã kết hợp tinh thần chiêm niệm, khổ chế với hoạt động bác ái.

Thánh Rosa kể lại rằng trong một giấc mơ, ngài được Chúa dẫn đến một xưởng điêu khắc dành cho những người muốn nên Thánh. Thánh nhân chứng kiến cảnh không biết bao nhiêu người đang ngồi trước các khối đá cẩm thạch. Có người sắp hoàn thành xong một tác phẩm nghệ thuật. Có người chỉ mới bắt đầu đục đẽo trên một phiến đá sần sùi, cứng nhắc. Thánh nữ cũng được Chúa trao cho những đồ nghề cần thiết và đặt ngồi trước một phiến đá lớn. Người mẫu của tác phẩm chính là hình ảnh mà Thiên Chúa đã đặt để từ đời đời trong thánh nữ.

Mỗi ngày chúng ta kính nhớ một vị thánh. Mỗi một vị thánh là một nhắc nhở chúng ta về ơn gọi nên thánh của mỗi người chúng ta. Không một vị thánh nào giống vị thánh nào. Không ai bắt buộc phải sống khuôn rập theo bất cứ một mẫu mực nào. Mỗi người là một vị thánh cá biệt. Nhưng tất cả đều có một mẫu số chung: đó là họa lại hình ảnh của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình.

Và hình ảnh mà Thiên Chúa muốn mỗi người chúng ta họa lại trong cuộc đời của chính mình là Đức Giêsu Kitô. Nhưng người Kitô không chỉ sống như Đức Kitô, mà còn sống bằng chính Đức Kitô. Họa lại Đức Kitô cũng có nghĩa là để cho Đức Kitô uốn nắn, tạc vẽ cho đến khi nào chúng ta đạt được tầm mức của Ngài.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
23-08-2009, 12:41 PM
24 tháng 08


Tách nước tràn đầy

Để đả phá sự kiêu ngạo, người Nhật bản thường kể câu chuyện như sau: Có một nhà hiền triết nọ nổi tiếng về sự khôn ngoan và kiến thức: Ai ai cũng tìm đến vấn kế.

Để kiểm chứng điều đó, một hôm có một giáo sư đại học đến xin tiếp kiến nhà hiền triết. Ông trang bị cho mình không biết bao nhiêu lý lẽ và kiến thức.

Khi ông giáo sư đại học an tọa trong phòng khách, nhà hiền triết mới đưa một bình trà thật nóng ra tiếp khách. Ông bắt đầu rót nước vào tách của ông giáo sư. Những giọt nước trà nóng hổi không mấy chốc đã tràn ra tách, nhưng nhà hiền triết vẫn điềm nhiên rót tiếp. Nước tràn ra cả khay… Ông giáo sư nhìn nước tràn ra khay rồi nghĩ thầm trong lòng: thì ra con người mà thiên hạ tôn thờ như bậc thánh hiền chỉ là một con người lơ đễnh, bất chấp… Không còn đủ kiên nhẫn nữa, vị giáo sư mới nói lớn: “Thưa Ngài, tách trà đã đầy tràn, nước đang chảy lai láng ra bên ngoài cả khay kìa”.

Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới dừng tay lại và nói: “Cũng giống như tách này, đầu óc của ông tràn đầy văn hoá, kiến thức, tư tưởng và những định kiến. Nếu ông không dốc cạn tách trà của ông, thì làm sao tôi có thể nói với ông về triết thuyết của tôi, bởi vì triết thuyết của tôi chỉ dành cho những con người đơn sơ và cởi mở”.

Có dốc cạn tâm hồn, có trở nên nghèo nàn, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy. Cái nghịch lý lớn nhứt của cuộc đời là khi con người tìm cách lấp đầy tâm hồn mình bằng những của cải chóng qua ở đời này, thì đó cũng là lúc con người cảm thấy trống vắng nhứt trong tâm hồn. Trái lại, càng dốc cạn chính mình, càng trở nên nghèo nàn, con người càng được Thiên Chúa lấp đầy, con người càng tìm thấy bình an và hạnh phúc đích thực.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
24-08-2009, 01:43 AM
25 tháng 08


Giấc mơ của một thi sĩ

Thi sĩ Sully Prudhomme, người Pháp đã có lần tưởng tượng ra một giấc mơ sau:

Ông mơ thấy một nhà nông bảo ông hãy cày lấy đất, trồng lấy lúa, gặt lấy thóc, làm lấy gạo mà ăn. Ông mơ thấy người thợ dệt bảo ông hãy đánh lấy chỉ, dệt lấy áo mà mặc. Ông mơ thấy người thợ nề bảo ông hòa lấy vữa, xây lấy nhà mà ở. Còn gì nữa? Ông đã thấy mọi người bỏ ông, xa lánh ông, để ông trơ trọi với cảnh vật. Ông kinh hãi. Ông kêu cầu, khấn hứa nhưng chỉ thấy mãnh thú xuất hiện trên đường.

Có lẽ không có bao nhiêu người đã mơ giấc mơ nói trên. Nhưng chắc chắn nhiều người chỉ nghĩ đến mình, tưởng rằng một mình có thể sống giữa vũ trụ, không cần đến ai, không cần ai giúp đỡ.

Không ai là một hòn đảo. Chúng ta đều bị ràng buộc với mọi người, chúng ta đổi công việc của chúng ta với công việc của người khác, chúng ta phụng sự người vì người đã phụng sự chúng ta.

Nhưng chúng ta không chỉ sống trong tình liên đới về mặt vật chất. Con người còn liên đới với nhau trong hạnh phúc và đau khổ. Không ai hạnh phúc một mình và cũng không ai một mình có thể chịu nổi sự đau khổ. Nhờ người, ta mới vui và nhờ người, ta mới trút bớt những cơ cực của ta. Thế giới này quá nặng khiến một người có thể mang nổi và sự khổ cực của vũ trụ quá lớn cho một trái tim.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
24-08-2009, 10:41 PM
26 tháng 08

Gia đình là nền tảng của xã hội

Án Tử, người nước Tề, nổi tiếng là một người thanh liêm và thủy chung. Xuất thân từ một gia đình nghèo, Án Tử được vợ hy sinh buôn tảo bán tần để nuôi ăn học. Đỗ đạt làm quan, Án Tử không bao giờ quên ơn ấy của vợ. Cuộc sống đầy cạm bẫy, ông vẫn một mực trung thành với vợ.

Một hôm vua Cảnh Công đến thăm ở lại dùng bữa với Án Tử. Một người đàn bà đã già xuất hiện trong bữa tiệc. Khi Án Tử vừa giới thiệu người đàn bà đó là vợ mình, nhà vua ngạc nhiên đến sửng sốt. Ông đề nghị với Án Tử: “Ôi, vợ khanh trông vừa già lại vừa xấu. Quả nhân có một đứa con gái vừa trẻ vừa đẹp, quả nhân muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao?”

Án Tử liền trả lời một cách dứt khoát, không chút do dự: “Nội tử của tôi nay thật già và xấu. Nhưng chúng tôi đã lấy nhau và đã ở với nhau bao lâu nay, kể từ khi nàng còn trẻ đẹp. Xưa nay, đàn bà lấy chồng lúc còn trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lấy chồng lúc đẹp để nhờ cậy khi xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi cũng như tôi đã từng nhận sự giúp đỡ của nội tử tôi. Nay, bệ hạ muốn ban ơn mưa móc là tùy ở bệ hạ, nhưng xin đừng để tôi phải mang tiếng là ăn ở bội bạc với nội tử của tôi”.

Nói xong, Án Tử lạy hai lạy, xin từ chối không lấy con gái của nhà vua.

Gia đình là nền tảng của xã hội. Con người chỉ có thể sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Trong cái nhìn Kitô, thì gia đình là một Giáo hội nhỏ trong đó đức tin được thông ban và trưởng thành.

Nền tảng để gia đình được đứng vững đó là Tình yêu. Nhưng Tình yêu không là một cái có sẵn, mà là một giá trị luôn đòi hỏi sự xây dựng và vun xới của con người… Một gia đình hạnh phúc hay không, tất cả đều tùy thuộc ở sự phấn đấu xây dựng từng ngày của con người.

Hai cử chỉ dường như được gắn liền với nhau trong chuyến viếng thăm quê hương dạo tháng 5 năm 1987 của Đức Gioan Phaolô II, đó là: viếng mộ song thân và cử hành Thánh Lễ đặc biệt cho các đôi vợ chồng.

Cây tốt thường sinh trái tốt: con người của Đức Gioan Phaolô II là hoa trái Tình yêu của cha mẹ Ngài. Viếng mộ song thân, Đức Thánh Cha không những muốn nói lên niềm tri ân của Ngài đối với bậc sinh thành, nhưng Ngài còn muốn đề cao giá trị của đời sống hôn nhân.

Giữa thời đại mà đời sống hôn nhân và gia đình bị lay động đến tận gốc rễ, Đức Thánh Cha muốn gióng lên một tiếng kêu vô cùng thảm thiết: hãy trung thành với nhau.

Trong Thánh lễ cầu nguyện cho gia đình, qua đó các đôi vợ chồng hiện diện được mời gọi lập lại lời thề hứa trong hôn phối. Đức Thánh Cha đã lập lại ý nghĩa và giá trị của Bí tích Hôn phối. Ngài nói như sau: “Khi quỳ gối trước bàn thờ trong ngày cưới, các đôi vợ chồng đã thề hứa trung thành với nhau cho đến cùng. Họ thề hứa với nhau như thế trước mặt Thiên Chúa. Lời cam kết này phản ánh chính lời hứa của Chúa Giêsu rằng Ngài yêu họ và yêu cho đến cùng”.

“Tôi hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ, để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời tôi”.

Khi tuyên hứa với nhau như thế, hai người đã lập lại chính lời cam kết của Chúa Giêsu, Đấng đã yêu thương và yêu thương cho đến cùng.

Yêu cho đến cùng nghĩa là chấp nhận cái chết từng ngày. Tình yêu hôn nhân là một hạt giống: có được chôn vùi, có mục nát đi mới sinh hoa kết trái. Luật của đời sống hôn nhân chính là luật của hy sinh, của chiến đấu, của chính sự chết. Nhưng cũng chính khi con người biết chối bỏ chính mình bằng hy sinh, con người sẽ tìm gặp lại chính mình trong người khác… Đó là lẽ sống mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
26-08-2009, 08:31 AM
27 tháng 08

Ăn cắp lửa trời

Thần thoại Hy Lạp có kể lại câu chuyện của thần Prométhée ăn cắp lửa trời để sáng tạo con người.

Theo óc tưởng tượng của người Hy Lạp, Thiên Triều do thần Zeus cai trị gồm có hai loại thần: các đại thần và tiểu thần. Tiểu thần là các vị thần đã bị nhóm các vị thần trung thành với Ngọc Hoàng Zeus đánh đổ… Trong số các tiểu thần thất sủng ấy, Prométhée là vị thần duy nhứt vẫn còn được Ngọc Hoàng Zeus tín nhiệm nên ban cho quyền tạo dựng con người và súc vật trên mặt đất.

Ngày nọ, Prométhée và em của mình đã thí nghiệm khả năng sáng tạo của họ. Họ dùng mọi yếu tố trên trần gian để nhào nặn nên con người… Thế nhưng, giống người mà họ tạo nên vẫn chết cứng bởi vì còn thiếu lửa. Nhưng lửa thì chỉ có các vị đại thần trên thiên triều mới nắm giữ. Thế là Prométhée đã lén đến lò rèn của thần Hephetus để đánh cắp lửa thiêng. Lửa ăn cắp từ thiên triều đã lan tràn khắp mặt đất làm cho con người được sưởi ấm và hân hoan.

Ngọc Hoàng Zeus đã hay biết mọi chuyện. Ông nổi giận lôi đình và cho sấm sét đến lay chuyển cả mặt đất… Vì tội ăn cắp lửa trời, nên Prométhée đã bị Zeus cho trói vào một ngọn núi cao, mỗi ngày diều hâu đến mổ vào gan của ông.

Huyền thoại Prométhée trên đây như muốn nói lên sự khao khát vô tận và khả năng khoa học gần như không giới hạn của con người… Khả năng đó là một thể hiện của chính hình ảnh mà Thiên Chúa khắc ghi vào con người. Khả năng đó cũng nói lên phẩm giá siêu việt của con người… Khả năng sáng tạo đó, Thiên Chúa phú bẩm cho con người là để phục vụ phẩm giá con người hay để hủy hoại nó? Đó là câu hỏi đang được đặt ra cho con người của thời đại chúng ta.

Có nhiều người chủ trương rằng do tiến hóa, con người bởi loài khỉ mà ra. Đứng trên phương diện khoa học thì giả thuyết đó không phải là một điều tưởng tượng… Tuy nhiên một thách đố có thể đặt ra cho con người là: liệu có thể có một tiến trình ngược lại theo đó con người sẽ trở thành khỉ không?

Cách đây không lâu, ông Chiarelli, một giáo sư nhân chủng học tại đại học Firenze bên Italia đã đề nghị cho khỉ cái được thụ thai nhân tạo với tinh trùng của người nam. Giống sinh vật do sự lai giống này sinh ra sẽ là một con vật nửa người nửa khỉ. Mục đích được tạo dựng của giống sinh vật này là để dùng vào các công tác tạp dịch hoặc để lấy các cơ phận của nó ghép vào các bệnh nhân.

Vấn đề được đặt ra là: giống sinh vật nửa người nửa khỉ này nếu dùng được ngôn ngữ của con người, nó sẽ xưng hô như thế nào với người cho tinh trùng từ đó nó được thụ thai? Dù muốn dù không, không ai có thể chối bỏ được phụ tính của người đàn ông cho tinh trùng. Nói một cách nôm na, giống sinh vật nửa người nửa khỉ này là con của ông, nó có quyền gọi ông là cha… Vậy thì, có người cha nào muốn biến con của mình vào những cuộc thử nghiệm không? Có người cha nào muốn biến con của mình thành một con thú hay không?

Đặt câu hỏi như thế không phải là xa vời, bởi vì dưới ánh mặt trời này, khi con người chối bỏ lẫn nhau, khi con người không còn biết nhìn nhận phẩm giá siêu việt của người khác, thì chuyện gì xem ra cũng có thể xảy đến…Hitler đã giết hại 6 triệu người Do Thái, Polpot đã tiêu diệt gần 2 triệu đồng bào ruột thịt của mình. Cả hai đều xây dựng trên một lý thuyết: con người chỉ là một con vật!

Câu chuyện khoa học trên đây có quá xa vời với chúng ta không? Dù trong nghiên cứu khoa học, trong các hoạt động chính trị hay trong các giao tế hằng ngày: vấn đề vẫn giống nhau. Mỗi khi con người chối bỏ phẩm giá của người khác là lúc con người cũng muốn biến người đó thành một loài khỉ và dĩ nhiên theo một thứ luận lý rất chặt chẽ, con người cũng tự nhận mình là khỉ.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
27-08-2009, 10:21 AM
28 tháng 08

Con yêu Chúa quá muộn màng

“Lạy Chúa, con yêu mến Chúa quá trễ: Ôi vẻ đẹp của ngàn xưa nhưng muôn thuở vẫn còn tươi mát, trẻ trung.

Con yêu mến Chúa quá trễ: Chúa ở bên trong tâm hồn, còn con, con sống hời hợt bên ngoài và chỉ chú tâm tìm kiếm Chúa ở đó.

Chúa hiện diện ở trong con nhưng con không sống ở trong Chúa. Nhiều tạo vật đã kiềm hãm khiến con sống xa Chúa.

Chúa đã gọi tên con, Chúa đã lớn tiếng kêu gọi con, Chúa đã đâm thủng đôi tai giả điếc làm ngơ của con.

Chúa đã tỏa ánh sáng chiếu soi và đã phá tan màn đêm tối dày đặc nơi con.

Chúa đã thở ra hương thơm ngào ngạt, con hít vào và con khao khát Chúa. Chúa đã chạm đến con và con luôn cảm thấy nung nấu được hưởng sự bình an của Chúa.

Trên đây là một đoạn trong quyển “Tự thú” của Thánh Augustinô, vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay. Sau khi ăn năn trở lại, Ngài đã nhận lãnh Phép Rửa vào năm 33 tuổi, chỉ sau đó 3 năm Ngài được phong chức linh mục, 5 năm sau đó được đề cử làm Giám mục thành Hippone.

Duyệt qua cuộc sống của thánh Augustinô, chúng ta có thể nói: Ngài là một tội nhân đã trở thành thánh nhân nhờ được Thiên Chúa đến gõ cửa lòng bằng câu nói mạnh mẽ của thánh Phaolô: “Đừng sống theo dục tình và lạc thú dâm ô, nhưng hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô”.

Và kể từ đó, có thể nói được là Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ buông tha Ngài, trái lại tạo trong tâm hồn ngài một sự khắc khoải và khao khát để đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa.

Ngoài lời mời gọi và thôi thúc của Tình yêu Thiên Chúa, quãng đầu cuộc đời của Augustinô, một tội nhân trở thành Thánh nhân, có lẽ được vẽ lại bằng những nét chấm phá và những bàn tay cộng tác với ơn Chúa trong việc hoán cải như sau:

Trước tiên, cường độ của sức sống nơi Ngài trên con đường thụt lùi xa lìa Thiên Chúa cũng như cường độ mãnh liệt hơn của sức sống ấy trên con đường tiến về Thiên Chúa.

Tiếp đến, những dòng nước mắt sầu đau và những kinh nguyện thành tâm của mẹ Ngài, bà thánh Monica dâng lên Thiên Chúa trong kiên tâm, bền chí ròng rã bao năm trời.

Và sau cùng là sự hướng dẫn tận tình của thánh Giám mục Ambrôsiô.

Tất cả những yếu tố trên cộng lại đã giúp chuyển tình yêu cuộc sống thành một cuộc sống cho và vì Tình yêu, như thánh nhân đã tự thú trong đoạn sách được trích dẫn ở trên: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa quá trễ, ôi vẻ đẹp của ngàn xưa, nhưng muôn thuở vẫn còn tươi mát, trẻ trung”.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
28-08-2009, 09:50 AM
29 tháng 08

Cái chết của một tiên tri

Qua lệnh truyền của một bạo chúa, một nhát gươm gieo, một chiếc đầu rơi trong ngục tối. Đó là những diễn tiến đã kết thúc cuộc đời của thánh Gioan Tẩy giả, một biến cố mà Giáo hội mời gọi chúng ta tưởng niệm hôm nay.

Chúng ta đã thấy một lời thề thiếu khôn ngoan, một quan niệm thiển cận về danh dự của một bạo chúa cũng như lòng hận thù của một hoàng hậu lăng loàn đã đưa Gioan Tẩy giả vào cái chết. Nhưng đây là cái chết đích thực, vì Gioan cũng đã bị đau khổ, giam cầm và cái chết vì lời mình rao giảng.

Gioan Tẩy giả đã tự ví mình là “tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường lối cho ngay thẳng” và Ngài đã đóng trọn vai trò này qua việc tích cực rao giảng và làm Phép Rửa thống hối. Tích cực vì Ngài đã can đảm vạch mặt chỉ tên những vấp phạm của tất cả mọi người, không nể nang, không khiếp sợ, kể cả những tội lỗi của các vua chúa là những người nắm toàn quyền sanh sát thời bấy giờ, cụ thể là tội loạn luân của vua Hêrôđê và hoàng hậu Hêrôđiađê.

Qua đó, Gioan Tẩy giả đã sống để nói lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật: sự thật về hiện tình của xã hội, sự thật về thực trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình. Gioan tuyên bố rõ ràng ngài không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ là người được kêu gọi để đóng vai trò Tiền hô chuẩn bị cho ngày Đấng cứu tinh sẽ đến.

Mọi Kitô hữu chúng ta cũng được kêu mời để đáp lại tiếng gọi. Và mặc dù không ai có thể tái diễn vai trò của thánh Gioan Tẩy giả, nhưng mọi Kitô hữu đều phải tiếp diễn sứ mệnh của Ngài trong mọi hoàn cảnh mình đang sống. Đó là sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
29-08-2009, 08:23 AM
30 tháng 08

Ban phát không ngừng

Trong một câu chuyện ngắn, văn hào Tolstoi của Nga đã ghi lại mẩu đối thoại của 3 người khách bộ hành như sau:

Mệt mỏi vì đường xa, ba người bộ hành đã dừng lại nghỉ chân bên một dòng suối trong vắt. Trong những giây phút thoải mái bên cạnh dòng suối, mỗi người mỗi phát biểu về lợi ích của nó.

Người thứ nhứt lên tiếng: “Còn gì sung sướng bằng gặp được một dòng suối mát bên vệ đường! Nước suối trong vắt không những làm cho chúng ta được tươi mát, nhưng còn mời gọi chúng ta sống thành thật với nhau”.

Người bộ hành thứ hai góp ý: “Dòng suối chảy như không ngừng muốn nói với tôi: Hỡi loài người, hãy làm việc! Hãy làm việc không ngừng để làm cho thế giới được tốt đẹp hơn”.

Người bộ hành thứ ba, sau một phút trầm ngâm, mới thốt lên: “Những gì các bạn vừa phát biểu đều đúng cả. Nhưng còn có một điều quan trọng hơn nữa mà tôi muốn chia sẻ cho các bạn. Các bạn hãy nhìn kìa, dòng suối nào chảy không ngừng. Nó ban phát không ngừng, nó ban phát cho tất cả mọi người mà không đòi hỏi một sự đáp trả nào… Mỗi người chúng ta hãy sống cao thượng như thế”.

Sự sống đang châu lưu trong tâm hồn chúng ta chính là Thần Khí của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho chúng ta sức sống của Ngài, Tình yêu của Ngài, mà không đòi hỏi một điều kiện nào nơi chúng ta.

Thiên Chúa chỉ muốn thông ban, Thiên Chúa chỉ muốn san sẻ và Ngài chờ đợi chúng ta cũng sống như thế. Nguồn suối đang châu lưu trong tâm hồn chúng ta, nhờ đó chúng ta được sống một cách tươi mát, luôn mời gọi chúng ta cũng hãy ban phát không ngừng.

Thánh Thần là ân ban của Thiên Chúa… Người kitô nhận lãnh Thánh Thần cũng hãy trở thành ân ban của Thiên Chúa cho người khác. Càng trao ban, càng phân phát, người kitô càng tìm gặp lại chính mình.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
30-08-2009, 01:42 PM
31 tháng 08

Ốc đảo hòa bình

Cách Giêrusalem khoảng 30 cây số, một số người Do Thái và Ả Rập đã tình nguyện sống chung với nhau trong một ngôi làng mà người Do Thái gọi là Neve Shalom, còn người Ả Rập thì gọi là Wahat as Salam: cả hai tiếng đều có nghĩa là “Ốc đảo của hoà bình”.

Năm 1978, khi mới thành lập, ngôi làng Hòa bình này chỉ có một gia đình. Một năm sau, con số đó lên đến 5 và hiện nay, có tất cả 15 gia đình vừa Do Thái vừa Ả Rập chung sống với nhau. Tổng cộng dân số của ngôi làng Hòa bình này hiện nay là 70 người. Tất cả đều đeo đuổi một mục đích chung là minh chứng rằng người Do Thái và người Ả Rập có thể sống chung với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau.

Người sáng lập ngôi làng này là cha Bruno Hussar, một linh mục công giáo năm nay 78 tuổi. Cha Ngài là một người Pháp gốc Do Thái và mẹ Ngài là một người Hungary cũng gốc Do Thái. Cả hai đều là những người Do Thái khô đạo. Năm lên 22 tuổi, Ngài đã trở lại công giáo và xin tu trong tu viện Đaminh. Cha Bruno Hassar tuyên bố với tất cả xác tín như sau: “Trong Kinh Thánh người ta đọc được lời này: Dân Ta sẽ sống trong một ốc đảo hòa bình. Cố gắng cảm thông là điều có thể làm cho những người Do Thái và Ả Rập xích lại gần nhau, cũng như chính những người Kitô có thể đến gần với những người hồi giáo và vô thần”.

Ước vọng của các phụ huynh của 33 trẻ em sinh ra trong ngôi làng Hoà bình này là thấy chúng được giáo dục chung với nhau. Do đó, họ đã cho xây một vườn trẻ chung, một trường mẫu giáo chung, một trường tiểu học chung, nơi đó các trẻ em Do Thái và Ả Rập đều có thể nói một lúc hai thứ tiếng. Một người cộng tác viên của cha Bruno cho biết như sau: “Ngay từ lúc nhỏ, các trẻ em đã có thể làm quen với hai nền văn hóa một lúc. Nhưng điều đó không có nghĩa là các em sẽ đánh mất nền văn hóa của mình, trái lại càng ý thức về nguồn gốc của mình cũng như càng tôn trọng người khác”.

Để bảo tồn văn hóa của mình, các gia đình trong ngôi làng Hoà bình này cũng xây nhà theo sở thích của họ. Nhưng những căn nhà này không thuộc về quyền sở hữu của họ. Tất cả đều chọn lựa sống một cuộc sống gần như tập thể: tuy trình độ khác nhau, nhưng tất cả mọi người đều đồng ý có một mức lương giống nhau. Mỗi ngày, mọi dân cư trong ngôi làng này dùng điểm tâm và ăn trưa chung với nhau.

Người phụ tá của cha Bruno Hussar nói rằng: “Ngồi đồng bàn để nói chuyện với nhau thay vì giữ những thành kiến riêng, điều đó giúp thay đổi thái độ rất nhiều”.

Cũng trong tinh thần đó, từ 10 năm qua, 15 gia đình trong ngôi làng Hoà bình này đã tổ chức được rất nhiều cuộc gặp gỡ cho giới trẻ Do Thái và Ả Rập. Người ta cũng đã nghĩ đến một nhà cầu nguyện chung, chung không những cho người Do Thái và Ả Rập, mà còn chung cho những người không tín ngưỡng nữa…

Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối… Những người dân cư trong ngôi làng Hoà bình trên đây, hẳn đã thấy được vết dầu loang của Hòa bình mà họ đã tung ra. Một ánh lửa được đốt lên sẽ không bao giờ tàn lụi một cách vô ích. Nó sẽ lan ra và khơi dậy những ngọn lửa mới.

Tình yêu là điều có thể có giữa con người. Hòa bình là điều mà con người có thể xây dựng nếu con người biết tin tưởng nhau, biết chấp nhận nhau, biết tôn trọng sự khác biệt của nhau…

Trong phạm vi nhỏ bé của một tổ, của một khu phố, của một xóm làng, liệu những người Kitô chúng ta có thể xây dựng được một trong ngôi làng Hoà bình với nhau không?…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
31-08-2009, 09:36 AM
THÁNG CHÍN

“Ông ấy đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với chúng”.
(Lc 15,2)
01 tháng 09

Bờ dậu trước ngõ

Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị… Ở đó, chàng đã ăn chơi trác táng… Kiếp sống sa đọa đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.

Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng, không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.

Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà lấy tất cả áo trong nhà ra treo cả dậu trước ngõ.

Thiên Chúa cũng đối xử với ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai mở tiệc ăn mừng.

Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
01-09-2009, 06:54 AM
02 tháng 09

Khuôn mặt Giuđa

Một trong những giai thoại nổi tiếng nhứt trong lịch sử hội họa đó là câu chuyện danh họa Leonardo da Vinei đi tìm người mẫu để họa lại khuôn mặt của Giuđa, kẻ phản bội.

Leonardo đang miệt mài trên bức tranh “Bữa ăn cuối cùng” của Chúa Giêsu với các môn đệ. Tất cả các khuôn mặt, từ Chúa Giêsu đến các môn đệ, đều đã hiện nguyên hình trên khung vải. Nhưng đến lúc phải tô vẽ cho khuôn mặt của Giuđa, danh họa Leonardo da Vinci đã tỏ ra lúng túng vì ông không biết phải tìm một người nào làm mẫu cho con người phản bội này… Ông đã phải đi rảo khắp nơi để tìm một khuôn mặt xấu xí, hiện thân của phản bội, gian trá. Sau mấy tháng trời tìm kiếm, cuối cùng ông đã gặp được một khuôn mặt mà ông cho là ưng ý nhất. Trong khu xóm lầy lội, nghèo nàn, ông đã khám phá được một khuôn mặt mà ông cho là có đầy đủ những đường nét của tội ác. Ông đã lần mò đến gần người đó, và sau khi đã giải thích về bức tranh mình đang thực hiện, ông đã đề nghị người đó đến xưởng vẽ của ông để bắt tay vào công việc.

Người được chọn làm mẫu cho Giuđa nhìn nhà danh họa hồi lâu. Cuối cùng, ông đốt lên một ngọn đuốc sáng và mời danh họa nhìn thẳng vào gương mặt của ông… Leonardo da Vinci ngạc nhiên vô cùng, bởi vì người đàn ông này cũng chính là người đã làm mẫu cho ông vẽ chân dung Chúa Giêsu… Cũng khuôn mặt đó, nhưng có lúc Leonardo da Vinci nhìn thấy những đường nét của Chúa Giêsu, vào lúc khác, ông lại thấy nó xấu xí như gương mặt của Giuđa.

Chúng ta thường nói: khi yêu thì trái ấu cũng tròn… Trong một lá thư tình nào đó, có lẽ hai người yêu nhau sẽ nói với nhau: không có anh, không có em, đất trời như vô nghĩa… Tình yêu có tính sáng tạo. Tình yêu giúp chúng ta chỉ nhìn thấy cái hay cái đẹp nơi người mình yêu.

Tin và yêu là hai động tác gắn liền với nhau. Ngôn ngữ của đức tin không thể là ngôn ngữ của khoa học. Con người không đến với Thiên Chúa sau một thời gian dài tìm kiếm, lý luận. Con người chỉ đến với Thiên Chúa bằng Tình yêu. Nói đến tình yêu là nói đến tin tưởng và phó thác.

Tomas đã đến với Chúa Giêsu Phục Sinh bằng sự lý luận, uyên bác của một nhà khoa học. “Nếu tôi không xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh và vào cạnh sườn của Ngài… Tôi không tin” . Thái độ này rất phù hợp với tinh thần khoa học. Trong công cuộc nghiên cứu khoa học, người ta quan sát, đưa ra giả thuyết, kiểm chứng, thí nghiệm rồi đi đến kết luận… Phương pháp này hoàn toàn vô giá trị trong tình yêu. Không ai quan sát một người nào đó, đưa ra một giả thuyết, rồi mới đi đến một kết luận: yêu hay không yêu. Mà trái lại, tình yêu đến trước tất cả những lý luận và tìm tòi chúng ta… Trong đức tin cũng thế, Thiên Chúa yêu thương chúng ta và Ngài mời gọi chúng ta đi vào tình yêu của Ngài.

Tình yêu đó mời gọi chúng ta vượt lên trên tất cả những lý luận và ngờ vực của chúng ta. Tình yêu đó giúp chúng ta khám phá ra vẻ đẹp và lòng nhân từ của Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, trong ánh mắt nụ cười của con người cũng như trong muôn màu sắc của thiên nhiên. Tình yêu đó giúp chúng ta nhìn thấy nơi gương mặt xấu xí của Giuđa những đường nét yêu thương của Chúa Giêsu. Tình yêu ấy cho chúng ta tìm thấy niềm vui trong những thất vọng, thua thiệt. Tình yêu ấy cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong những giờ phút trống rỗng vô nghĩa của cuộc sống.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
02-09-2009, 07:29 AM
03 tháng 09

Đi một ngày đàng, học một sàng khôn

Cách đây không lâu, một cặp thanh niên người Pháp đã đến Phi Luật Tân bằng xe đạp riêng của họ. Nước Phi là quốc gia thứ 31 họ dùng xe đạp để đi tham quan. Trong vòng 7 năm qua, họ đã không ngừng di chuyển một cách thích thú trên hầu hết các nước và đã học hỏi nhiều kinh nghiệm khác nhau. Họ đã bỏ ra 3 năm để đạp từ Pháp xuyên qua đến Thái Lan. Họ dành một năm làm việc trong các trại tỵ nạn dọc biên giới Thái, chín tháng để đi xuyên qua Trung Hoa Lục Địa, sáu tháng để tham quan Nhựt Bản, Đại Hàn và Đài Loan.

Người con gái tên là Claude đã giải thích mục đích của cuộc mạo hiểm như sau: “Kể từ thời của Marco Polo, con người không ngừng đi thám hiểm thế giới với nhiều lý do và với nhiều phương tiện khác nhau. Trong thời đại du hành vũ trụ này, việc đi vòng quanh thế giới bằng những phương tiện thô hiển như xe đạp vẫn không ngừng thu hút nhiều người… Mạo hiểm như thế để giúp thay đổi cuộc sống của chúng tôi, để cùng trải qua một kinh nghiệm quá lớn lao” .

Cuộc mạo hiểm nào cũng thích thú và nguy hiểm. Claude kể lại rằng tại Thái Lan, họ đã bị hai tên cướp chận đường toan hành hung. Tại Trung Đông, họ đã chứng kiến tận mắt cảnh chết chóc hằng ngày. Và nhứt là tại Ấn Độ, sau khi đã trải qua vài tuần lễ tại một vài trại cùi, họ đã ghi lại trong cuốn sổ ghi niệm của các trung tâm này như sau: “Sau khi đã đến đây, chúng tôi cảm thấy không còn gì để than phiền trong cuộc sống này nữa” .

Có lẽ đó là kinh nghiệm lớn lao nhứt mà những người trẻ này đã cảm nhận được trong cuộc sống. Chạm trán với bao nguy hiểm, sờ được từng nỗi đau khổ, cảm nghiệm được niềm vui của từng dân tộc khác nhau… Tất cả những kinh nghiệm ấy cho họ thấy rằng: người ta có thể vượt qua được tất cả mọi hàng rào ngăn cách để đến với nhau và nơi nào con người cảm thấy mình đang sống trong gia đình, thì đó là nhà của họ, là quê hương của họ.

Đời là một chuyến đi… Không những đi một ngày đàng, học một sàng khôn, mà đi để tiến gần đến mục đích của cuộc sống.

Tổ phụ Abraham đã được Chúa gọi để bỏ quê hương, bỏ tất cả mọi sự và lên đường đến một nơi vô định. Dân Do Thái đã được Chúa mời gọi rời bỏ Ai Cập để tiến về Đất hứa.

Ra đi là chết trong lòng một ít. Cuộc ra đi nào cũng đòi hỏi con người phải dứt khoát, có khi phải từ bỏ những gì mình yêu thích nhứt trong cuộc đời. Abraham đã từ bỏ quê hương. Có gì quý giá và thân yêu bằng nơi chôn rau cắt rún… Tiên tri Êlisê đã phải giết bò và dùng cày để nướng thịt bò trước khi lên đường theo tiên tri Elia… Các môn đệ của Chúa Giêsu đã bỏ nghề nghiệp, vợ con, tất cả mọi sự để lưu lạc nay đây mai đó với Chúa Giêsu. Cuộc ra đi nào cũng là một mất mát… Nhưng có mất mát mới tìm lại được những gì quý hóa hơn.

Giáo hội đã được định nghĩa như dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian hướng về Thiên Quốc. Mỗi người Kitô được mời gọi để tham dự vào cuộc lữ hành này.

Họ không trẩy đi cô độc một mình. Nhưng bên cạnh họ, từng đoàn người cùng tiến bước trong hân hoan. Người ta không tiến bước trong buồn bã bởi vì đích điểm đang chờ đợi họ là một khung trời của an vui, hạnh phúc… Cuộc lữ hành nào cũng đầy cam go. Nhưng người Kitô không tiến bước với đôi tay trơ trọi. Hành trang của họ chính là Sức Sống mà Đức Kitô hằng thông ban cho họ. Cũng giống như người Do Thái trên đường trở về Đất hứa luôn được nuôi dưỡng bằng manna và được hướng dẫn bởi cột lửa giữa đêm thâu, người Kitô hữu cũng tiến bước bằng sức mạnh của Chúa Kitô.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
03-09-2009, 06:57 AM
04 tháng 09

Người ta sao, tôi vậy!

Theo khuynh hướng tự nhiên, có lẽ ai trong chúng ta cũng thích dựa theo đám đông để hành động.

Chúng ta hãy thử quan sát sự đi lại trong các thành phố. Cũng như xe cộ, khách bộ hành cũng phải tuân theo đèn xanh, đèn đỏ. Những buổi chiều khi tan sở, người ta thường thấy xe cộ nối đuôi nhau ở các ngã tư. Đối lại với một chuỗi dài của những xe cộ, người ta cũng thấy lố nhố cả một đoàn người đang chờ đèn xanh để qua đường.

Quan sát cho kỹ, thỉnh thoảng người ta thấy một điều rất buồn cười, nhưng cũng rất bình thường: nếu có một người trong đám bộ hành này, vội vàng vì công việc hoặc không đủ kiên nhẫn, đã lợi dụng lúc vắng xe để băng qua đường bất chấp đèn đỏ, thì lúc đó, một số người trong đám đứng đợi cũng sẽ làm theo, nghĩa là cũng sẽ băng qua đường ngay giữa lúc đèn còn đỏ… Những người đi theo này có lẽ không nhìn thấy những dấu hiệu của luật lệ đi đường, mà chỉ làm theo người khác. Đối với những người này, dấu hiệu để băng qua đường không phải là đèn xanh, mà là gương của người khác.

Trong cuộc sống hằng ngày cũng thế, nhiều người trong chúng ta có lẽ không hành động, không cư xử theo những dấu hiệu, theo những chỉ dẫn của chân lý, mà có lẽ theo gương kẻ khác nhiều hơn. Người ta làm sao, tôi làm vậy ! Đó là lý luận thông thường của chúng ta. Như thế, người vượt đèn đỏ để băng qua đường không chỉ làm một hành động cá nhân cho riêng mình, mà còn trở thành dấu hiệu để cho không biết bao nhiêu người làm theo.

Không ai có thể tự phụ sống cho riêng mình mà hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến người khác. Bằng lời nói hay hành động, tất cả mọi hành xử của chúng ta đều gây một chấn động nào đó với người khác. Một cách nào đó, chúng ta không sống như một hòn đảo, mà là một dấu hiệu đối với người khác.

Riêng đối với những môn đệ của Đức Kitô, thì vai trò dấu hiệu ấy càng hiển nhiên hơn. Thật thế, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Các con là muối đất, các con là ánh sáng thế gian” .

Ước gì cuộc sống chứng tá của bác ái, của nhẫn nhục, của tha thứ, của quảng đại, của phục vụ và của sự cần kiệm liêm chính mà người Kitô luôn phải thể hiện, có sức trở thành dấu hiệu của chân lý, của Sự Sống. Và để có thể trở thành dấu hiệu cho người khác, người Kitô cần phải luôn hướng nhìn về Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Sống theo Ngài, cư xử như Ngài, người Kitô cũng sẽ lôi cuốn nhiều người đến với Ngài.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
04-09-2009, 08:48 AM
05 tháng 09

Bỏ mọi sự để theo Chúa

“Bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa”, lời kêu gọi này của Chúa Giêsu có thể thực hiện được trong xã hội dư dật ngày nay không? Như một dụ ngôn trong Phúc Âm, chúng ta hãy lắng nghe câu chuyện sau đây của tiến sĩ Marcello Candia, người đã dâng cúng tất cả tài sản để xây một bệnh viện giữa khu rừng già Amazone bên Ba Tây và sinh sống tại đó như một người dân nghèo.

“Khi còn ở bậc trung học, tôi là thành phần của một nhóm trẻ sinh hoạt dưới sự hướng dẫn của một cha dòng Phanxicô. Chúng tôi thường đi thăm các gia đình nghèo tại ngoại ô Milano… Sự chú ý đến người nghèo đã làm nảy sinh ước muốn truyền giáo nơi tôi.

Một hôm thầy Cêciliô, người coi cổng nhà dòng đã nhờ tôi phát thức ăn cho những người nghèo… Trên tường nơi phòng ăn dành cho người nghèo có treo một tấm hình của cha Daniele Samarale, một vị thừa sai của dòng đã chết vì bệnh cùi sau một thời gian phục vụ người thổ dân tại một miền ở Ba Tây… Mỗi lần phát thức ăn cho người nghèo, tôi đều nhận ra hình ảnh đầy đau khổ của ngài. Dần dà, hình ảnh đó quen thuộc đến nỗi trong bất cứ người nghèo nào, tôi cũng nhận ra hình ảnh ấy… Từ đó, ước muốn phục vụ những người cùi này đã nảy sinh trong tôi”.

Sau khi tốt nghiệp đại học, Marcello đã được cha gởi đi công cán tại nhiều nước nghèo trên thế giới. Trong dịp ghé thăm một vùng nghèo tại Amazone bên Ba Tây, Marcello đã trở về với quyết định bán hết tất cả tài sản và rút vềđây để phục vụ người nghèo. Với tài sản do gia đình để lại, Marcello đã xây cất một bệnh viện với 120 giường và được trang bị với đầy đủ dụng cụ của một trung tâm y tế đa khoa.

Marcello đã giải thích về việc làm của mình như sau: “Người ta nói với tôi rằng tốt hơn hãy giúp những người nghèo của xứ sở mình trước đã. Tôi xin trả lời rằng điều quan trọng là mỗi người chúng ta biết làm một chút gì cho những người đang đau khổ, bất cứ họ đang ởđâu… Niềm vui lớn nhứt của tôi là thấy nhiều người, thụ động và cam chịu số phận, đã biết cởi mở.

Sự trưởng thành của Giáo hội được thể hiện qua ý thức mỗi lúc một sâu sắc của người giáo dân về vai trò của mình. Đã qua rồi cái thời mà người ta cho rằng Giáo hội là chuyện của các Giám mục, Linh mục. Đã qua rồi cái thời mà người ta cho rằng nên thánh là chuyện của vị Giáo hoàng, các Giám mục, Linh mục và tu sĩ… Không ai chiếm giữ độc quyền để nên thánh một mình. Nên thánh là ơn gọi chung cho tất cả mọi người đã chịu phép rửa… Do đó, tất cả những lời khuyên trong Phúc Âm đều có giá trị cho tất cả mọi người theo Chúa Kitô. “Hãy về bán hết mọi sự, phân phát cho người nghèo khó và trở lại với Ta”. Mệnh lệnh này không chỉ ngỏ với một số thành phần ưu tuyển trong dân Chúa, nhưng là lệnh truyền cho tất cả mọi người.

Chúng ta không được sống trong một xã hội dư dật. Nghèo đói là một sự dữ mà Thiên Chúa không bao giờ muốn cho con người rơi vào. Tuy nhiên, bên cạnh sự nghèo đói cơm bánh, còn có một sự nghèo đói còn đáng khiếp sợ hơn, đó là nghèo đói tình thương… Có biết bao người đang chờ một ít cơm thừa cá cặn từ bàn ăn của chúng ta? Có biết bao nhiêu người đang mong mỏi một nghĩa cử yêu thương của chúng ta?

Thế giới cần được biến đổi không phải chỉ bằng của cải vật chất, nhưng bằng chính tình thương mà con người biết san sẻ với nhau. Sự san sẻ đó là: dù sống trong xã hội nào, dù trải qua hoàn cảnh nào, mọi người Kitô chúng ta đều có thể và phải làm được. Và đó cũng là bí quyết duy nhứt để giúp chúng ta nên thánh.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
05-09-2009, 08:25 AM
06 tháng 09

Không mong đền đáp

Trên đường đi hành hương đến La Mecque, thủđô của Hồi giáo, một tín đồ đã cải trang thành một người hành khất.

Anh gặp một người thợ hớt tóc đang săn sóc cho một người giàu có. Nhưng lạ lùng thay, khi anh vừa mở miệng xin người thợ cắt tóc, cạo râu cho mình, thì người thợ này liền bỏ người giàu ngồi đó và tức khắc đến phục vụ cho anh. Và đáng phục hơn nữa là người thợ này đã không đòi hỏi bất cứ thù lao nào, trái lại ông còn cho anh một ít tiền để độ thân.

Cảm động vì lòng tốt của người thợ cắt tóc, người tín đồ quyết định sẽ tặng cho ông tất cả số tiền anh sẽ xin được trong ngày.

Và ngày hôm đó, người tín đồ cải trang thành người ăn xin đã nhận được một túi vàng do một người khách hành hương giàu có trao tặng. Như đã hứa với lòng mình, người tín đồ quay trở lại tìm người thợ hớt tóc và trao tất cả gói vàng cho ông ta.

Nhưng, ngoài sự tưởng tượng của người tín đồ, người thợ hớt tóc vừa thấy cử chỉ của người hành khất đã nghiêm sắc mặt nói: “Xin lỗi, ông cho mình là người đạo đức ư? Ông không cảm thấy xấu hổ để trả công cho một nghĩa cử yêu thương sao?”

Thì ra, người thợ hớt tóc đã không cạo râu cho một người hành khất để được trả công. Ông chỉ làm cử chỉ đó với tất cả yêu thương dành cho một người khốn khổ và ông không nghĩ rằng mình làm như thế để được đền đáp.

Ngạn ngữ tiếng Latinh thường nói: tôi cho bạn, để bạn cho lại… Hoặc như người Việt Nam chúng ta cũng thường nói: có qua có lại mới toại lòng nhau.

Người ta dùng câu ngạn ngữ này để diễn tả những đòi hỏi công bằng giữa con người với nhau. Tôi cho bạn để bạn cho lại. Tôi làm cho bạn để hy vọng bạn sẽ đền đáp lại… Trên bình diện xã hội và nhân bản, ý thức được sự qua lại này đã là một điều đáng kể trong các mối tương quan giữa người với người.

Tuy nhiên, chúng ta không thể áp dụng một thứ công binh như thế vào mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa.

Thiên Chúa không thi ân giáng phúc để chúng ta biết ơn, hay đền đáp lại. Thiên Chúa cũng không căn cứ trên tài năng của từng người để ban phát ân huệ của Ngài. Thiên Chúa không dùng cán cân công lý thông thường của loài người. Công lý của Ngài là công lý của tình thương. Người thợ của giờ thứ nhứt không lãnh hơn người thợ thứ vào giờ cuối cùng… Nếu Thiên Chúa không thi ân giáng phúc tùy theo công nghiệp và tài năng của con người, thì con người cũng không thể nại đến công lao của mình để đòi hỏi một sự trả công tương xứng… Sau một công lao vất vả, có lẽ chúng ta chỉ có thể thốt lên: Lạy Chúa, chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng.

Lắm khi chúng ta vẫn còn đeo đuổi sự công bằng cộng trừ nhân chia của chúng ta đối với Chúa. Tôi sẽ đọc bao nhiêu kinh để xin được ân này, ơn nọ. Tôi sẽ làm bao nhiêu hy sinh để cầu cho được một ơn đặc biệt… Lý luận như thế trong các việc lành phúc đức, chúng ta dễ dàng rơi vào một thứ biệt phái mới nhằm đề cao công nghiệp riêng của chúng ta mà quên rằng: tất cả những gì chúng ta có, tất cả những gì chúng ta đã và sẽ lãnh nhận được đều xuất phát từ Tình yêu vô vị lợi của Chúa.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
06-09-2009, 07:16 AM
07 tháng 09

Đâu là Hạnh phúc đích thực?

Seiji Katagire, một phi công Nhựt Bản, đang trên cần lái của chiếc phản lực cơ DC 8 của hãng hàng không dân sự với 174 hành khách trên tàu. Đang lúc anh chuẩn bị đáp xuống phi trường Đông Kinh, thì anh bỗng nghe được những âm thanh khủng khiếp báo hiệu một sự chết chóc rùng rợn. Do phản ứng tự nhiên, anh đã kéo giật cần lái, khiến cho chiếc máy bay đâm nhào xuống đất gây tử thương cho 24 hành khách và hàng trăm người bị thương.

Khi cuộc điều tra về tai nạn kết thúc thì anh được gửi ngay đến bệnh viện tâm thần. Các bác sĩ về khoa thần kinh học cho rằng những tiếng kêu gào khủng khiếp mà viên phi công đã nghe được, xuất hiện ngay trong cơn ác mộng giữa lúc tỉnh táo của anh và đó chính là nguyên nhân gây ra tai nạn… Theo các bác sĩ tâm thần, ác mộng xảy ra trong tình trạng nửa tỉnh nửa mơ là dấu hiệu báo trước một cơn khủng hoảng tinh thần.

Theo những con số chính xác được tiết lộ từ các bệnh viện thần kinh tại Nhựt Bản, thì số người mắc bệnh mất trí và thác loạn thần kinh đã gia tăng theo tỷ lệ thuận với sự phát triển kỹ thuật và kinh tế tại quốc gia này… Người dân Nhựt nổi tiếng là cần cù siêng năng nhất thế giới. Từ em bé mới tập tễnh cắp sách đến trường, đến một vị bộ trưởng trong chính phủ, tất cả mọi người đều bon chen và lấy sự phấn đấu làm phương châm của cuộc sống… Sự cố gắng đó vừa đưa nước Nhựt đến chỗ phồn thịnh cũng vừa xô đẩy người dân đến tình trạng căng thẳng không ngừng. Một chút lơ đễnh có thể đưa đến thất bại, một chút sơ sót có thể đưa đến chỗ mất công ăn việc làm… Tự ái cá nhân và tự ái dân tộc khiến người Nhựt không chịu đựng được sự thất bại. Một lần thi trượt có thể xô ngã không biết bao nhiêu học sinh Nhựt đến chỗ tự vẫn.

Nhựt Bản được coi là quốc gia giàu mạnh nhứt Á Châu và là nước có một trong những kỹ thuật khoa học cao nhứt thế giới. Nhưng chúng ta hãy thử hỏi: liệu sự giàu có phồn thịnh đó có đem lại cho con người hạnh phúc hay không?

Hạnh phúc là một cái gì vô cùng tương đối. Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột.

Chúng ta hãy thử so sánh niềm vui của các trẻ em thuộc hai xã hội khác nhau. Trong một gia đình mà cơm trắng được coi như một thứ xa xỉ phẩm, thì chắc chắn một ổ bánh mì tây sẽ tạo ra cho các em bé trong gia đình nghèo một niềm vui lớn gấp nghìn lần niềm vui của những em bé suốt đời sống trên nhung lụa và ăn toàn cao lương mỹ vị.

Một chiếc áo mới mỗi năm chỉ được mặc một lần của em bé nhà nghèo có lẽ sẽ làm cho em bé đó vui hơn tất cả những em bé suốt đời chỉ biết có lụa là gấm vóc.

Của cải vật chất là một điều kiện cần thiết để cho con người được sống xứng với phẩm giá con người. Những phương tiện kỹ thuật giúp con người được phát triển nhiều hơn trong nhân cách. Sự sung túc về vật chất phải đem lại sự phát triển nhân bản và tinh thần. Có nhiều hơn để nên nhiều người hơn: đó là khẩu hiệu người ta thường đề ra để kêu gọi giúp đỡ các nước kém mở mang… Tuy nhiên, tự nó, của cải vật chất, sự giàu có, những phương tiện văn minh tiến bộ không phải là cùng đích của con người.

Người Kitô luôn thức tỉnh để đánh giá đúng những phương tiện vật chất họ đang sử dụng hay đang tìm cách để đắc thủ. Sự chạy đua với những phương tiện vật chất không nên làm họ mờ mắt, bán đứng lương tâm của mình.

Hạnh phúc duy nhứt và đích thực trong cuộc sống của người Kitô phải là chính Chúa. Có được hạnh phúc đó trong tâm hồn, chúng ta sẽ đánh giá đúng mức của cải vật chất và đồng thời sẽ tìm được hạnh phúc ngay trong những điều kiện thiếu thốn nhứt của cuộc sống.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
07-09-2009, 06:50 AM
08 tháng 09

Cuốn sách một chữ

Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy ra một ý kiến ngộ nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ được vỏn vẹn có một chữ.

Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của văn sĩ.

Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào mà viết được cuốn sách một chữ ấy?

Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng… Tất cả những danh từ trong thế giới, không đủ cung cấp tài liệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.

Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được tất cả những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là đẹp xinh, tất cả những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng.

Chữ ấy là: Maria, tên của người trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn và điểm tô cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.

Ngày hôm nay toàn thể Giáo hội hân hoan mừng ngày chào đời của công trình tuyệt hảo ấy của Thiên Chúa. Hân hoan vì với tiếng khóc và nụ cười của em bé mang tên Maria này, vầng đông của lịch sử và chương trình cứu rỗi của toàn thể nhân loại đã ló dạng.

Một ngày nọ, thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.

Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:

- Chồng bà đã được cứu thoát. Quá ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta hỏi lại:

- Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy? Cha Vianney cắt nghĩa:

- Có Chúa ở giữa chiếc cầu và dòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã làm hòa với Ngài.

- Nhưng làm sao có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại.

- Đó là một ơn của Đức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:

- Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước tượng Đức Mẹ ở bên đường. Đức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao?

Mừng ngày sinh nhật của Mẹ Maria hôm nay, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp dâng kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính Mẹ, như: lần hạt mân côi, đọc kinh truyền tin, nguyện kinh cầu. Nhưng chúng ta hãy làm những việc đạo đức thông thường ấy một cách phi thường. Có nghĩa là: miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Đức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng được thể hiện trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
08-09-2009, 07:12 AM
09 tháng 09

Các Thánh xuống hỏa ngục

Văn hào Guenter Eich, người Đức, có viết một vở kịch truyền thanh với nhan đề: “Festiamus, người tử đạo”, đại ý câu chuyện như sau:

Festiamus là một con người lành thánh, đơn sơ hiếm có. Mặc dù sống giữa những người gian ác, chàng vẫn luôn cư xử đoan chính, giàu lòng thương đối với những người bần cùng.

Sau khi chết, chàng được lên Thiên đàng. Ở đó, sau khi làm quen với các vị thánh, chàng đã bỏ ra mấy ngày liền để đi tìm kiếm cha mẹ, anh em và bạn hữu ngày xưa. Nhưng chàng không thấy ai. Thánh Phêrô cho biết: Cha mẹ và bạn hữu chàng ngày xưa đã ăn ở gian ác, nên đã bị giam trong hỏa ngục.

Nghe đến đây, Festiamus buồn thiu, chàng liền thưa với thánh Phêrô: “Con không thể ở nơi đây được bao lâu còn có những người đang phải chịu đau khổ dưới đó”.

Chàng liền rời bỏ Thiên đàng, xuống hỏa ngục để thăm cha mẹ, bạn hữu và những người thân. Chàng làm điều đó với xác tín rằng: Khi một người vô tội từ trời cao, đến và sống với những người bị kết án, cùng chia sẻ với họ những đau khổ nhọc nhằn, thì người đó sẽ phá tung được địa ngục và vòng phong tỏa của quỷ ma…

Câu chuyện tưởng tượng trên đây phần nào muốn đề cao thiện chí của những người dám hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để chia sẻ số phận đau thương của những người khác.

Đó là tất cả Mầu Nhiệm Thiên Chúa làm người. Thiên Chúa đã từ trời cao xuống trần trong thân phận nghèo hèn nhứt. Ngài sinh ra trong chuồng bò để cảm thông với nỗi cơ cực nghèo nàn của những kẻ không nhà không cửa.

Thiên Chúa từ trời cao không muốn ban xá lệnh, ban ơn tha thứ cho tội nhân, mà trái lại đã thân hành đến ngồi đồng bàn với từng tội nhân. Thiên Chúa không thể hiện sự cảm thông bằng lời nói suông, mà bằng cả cuộc sống làm người.

Người Việt Nam nào dường như cũng đang sống trong địa ngục của thiếu thốn và nghèo khổ. Không cần phải đi tìm kiếm, ai trong chúng ta cũng đã cảm nghiệm được thế nào là cơ cực, bần cùng. Ai sẽ biến cảnh khốn cùng ấy trở thành Thiên đàng của Tình thương? Mỗi người một ít, nếu ai cũng ra khỏi nỗi khổ của mình và gom góp lại đốm lửa của yêu thương, chia sẻ, cảm thông, chúng ta sẽ xoa dịu được phần nào nỗi khổ đau chung mà chúng ta đang trải qua…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
09-09-2009, 06:52 AM
10 tháng 09

Quà tặng quý giá nhất

Trong một góc hè phố, một bác hành khất tê bại nằm co quắp. Chợt có một người đàn ông ăn mặc bảnh bao đi qua. Người hành khất bèn mở miệng xin bố thí. Người đàn ông ăn mặc sang trọng xỏ tay vào túi áo, nhưng ông tìm mãi mà chẳng được gì. Vừa bối rối, vừa thành kính, ông ta mới phân bua với người hành khất.

“Này bác, tôi muốn biếu bác chút đỉnh, nhưng rất tiếc, vì đi bất ngờ nên tôi không có mang tiền theo. Xin bác thông cảm cho”.

Người hành khất mới trả lời: “Cám ơn ông. Ông đã cho tôi nhiều hơn mọi của bố thí. Bởi vì ông đã gọi tôi là Bác. Chưa bao giờ trong đời tôi, tôi đã nhận được danh dự đó trên môi miệng của một người sang trọng nào cả”.

Dù là một người hành khất, dù là một người tàn tật, dù là một người bị xã hội ruồng rẫy bỏ rơi, tất cả mọi người đều có một phẩm giá như nhau. Quà tặng quí giá nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho người khác, chính là tôn trọng người đó với tất cả phẩm giá cao quí nhứt của họ.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
09-09-2009, 11:57 PM
11 tháng 09

Thuốc dã rượu

Cách đây vài năm, công ty dược phẩm Hoffman La Roche ở Thụy Sĩ đã tình cờ khám phá ra một loại thuốc có tính chất làm dã rượu. Các nhà khoa học trong phòng thí nghiệm của công ty đã đem loại thuốc mới này thí nghiệm trên các chú chuột đang say lúy túy. Như thuốc tiên, mấy chú chuột đang say bỗng trở nên tỉnh táo hẳn lại.

Nhiều người nghiện rượu có lẽ đã mừng thầm với phát minh mới này. Nhưng mọi người đều sửng sốt khi một nhà nghiên cứu của công ty nói trên đã đề nghị hủy bỏ loại thuốc mới này. Ông giải thích như sau: “Xã hội sẽ tốt hơn nếu không có loại thuốc này. Bởi vì loại thuốc này sẽ có cảm giác là họ không bao giờ bị đốn ngã vì chất men… Thật ra, loại thuốc này có đặc tính làm cho dã rượu, chứ không làm bớt lượng rượu trong máu cũng như những tác hại khác trong hệ thống thần kinh và trong các bộ phận khác”.

Loại thuốc dã rượu trên đây có thể làm cho chúng ta nghĩ đến thứ bình an giả tạo mà nhiều người đang đi tìm.

Thiên Chúa đã dựng nên con người để sống trong bình an với Ngài. Những buổi chiều tà khi Thiên Chúa đến trong vườn Địa Đàng để truyện vãn với Ađam và Evà: đó là hình ảnh của một sự kết hiệp thâm sâu giữa con người và Thiên Chúa. Thế nhưng, con người đã chối bỏ Thiên Chúa và đã cắt đứt mối dây thân tình ấy… Từ đó, bất an đã trở thành số phận thường tình của con người.

Nhưng bất an không những chỉ là một trừng phạt, bất an là nỗi khao khát mà Thiên Chúa đã đặt vào lòng người để giúp con người tìm đường quay lại với Ngài…

Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù sống trong xã hội nào, dường như không ai thoát khỏi cái lo, cái sợ… Nếu những người Việt Nam đói khổ lo sợ cho ngày mai không cơm, không áo, thì những người Âu Mỹ dư dật lại lo sợ trước trăm mghìn cái đe dọa khác của cuộc sống… Dĩ nhiên, không ai có thể so sánh được đau khổ của một người nghèo đói, mất tự do với sự bất an của những người giàu có. Nhưng trong cơ bản, nỗi khổ tâm và bất an nào cũng có một sức nặng riêng của nó. Dường như mỗi người đều có một thập giá, một nỗi khổ và một ưu tư tỷ lệ với sức lực của mình…

Chúa Giêsu kêu mời mọi người chúng ta hãy đặt tất cả tin tưởng vào Tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Dù có lo lắng đến đâu, chúng ta cũng không thể làm cho mình cao hơn một chút. Mỗi người có nỗi khổ riêng của mình và mỗi ngày có nỗi khổ của ngày đó…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
11-09-2009, 12:37 PM
12 tháng 09

Bức tranh đời người

Một họa sĩ vô danh nọ vào thời Trung cổ đã tóm tắt đời người thành 4 bức tranh xếp bên cạnh nhau. Bức tranh thứ nhứt họa lại tuổi thơ. Không gì đẹp và thanh thản cho bằng tuổi thơ. Một em bé hồn nhiên, vô tư ngồi trên một chiếc ghe buồm vừa nhổ neo ra khỏi bờ… Em bé nhìn theo sóng nước không chút sợ hãi bởi vì người đang cầm bánh lái là một thiên thần. Bóng đen đang ngủ một cách dịu hiền đàng sau bánh lái.

Sang đến bức tranh thứ hai, người ta bỗng thấy cậu bé trở thành một trang thiếu niên đang đứng nhìn chân trời xa tấp với nỗi háo hức trước những điều mới lạ… Vị thiên thần vẫn còn cầm tay lái, nhưng sóng đã bạc đầu và bóng đen đã thức giấc.

Bức tranh thứ ba là cảnh tuổi trưởng thành. Bầu trời đã trở nên ảm đạm. Sóng gió ập phủ tư bề. Bánh lái đã nằm trong tay của bóng đen. Vị thiên thần đã bị trói chặt trong một góc. Người đàn ông đã phải dùng tất cả sức lực của mình để chiến đấu, để chiếc ghe không bị lật úp…

Cuối cùng, trong bức tranh thứ tư, người ta thấy một cụ già đang ngồi ung dung giữa ghe. Sóng yên, gió lặng, mặt trời xuất hiện trở lại. Vị thiên thần đã dành lại được bánh lái, còn bóng đen thì bị trói chặt đàng sau.

Đời là một cuộc hải trình gay go… Đích điểm có thể là bến yên hàn mà cũng có thể là vực thẳm của chết chóc. Đến nơi yên hàn hay đứt gánh giữa đường: số mệnh ấy không ai có thể định đoạt cho ta, mà chỉ có mỗi người phải biết làm chủ, lèo lái con thuyền của mình…

Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã quá quen thuộc với trò chơi “Thiên đàng hỏa ngục” mà các em bé thường tụ tập trước sân thánh đường để cùng biểu diễn… Thiên đàng hỏa ngục hai bên, ai khéo thì nhờ, ai vụng thì sa… Trả lời được một số câu hỏi thì được vào Thiên đàng, trả lời không được thì bị chận lại ngoài cửa.

Trò chơi đơn sơ nhưng cũng có tác dụng gieo vào đầu chúng ta một hình ảnh về cuộc đời. Đời là một cuộc ra đi. Hướng đi của cuộc đời tùy thuộc ở sự định đoạt của mỗi người. Con đường dẫn đến hư đốn luôn rộng thênh thang. Con đường dẫn đến sự sống là một con đường chật hẹp, đòi hỏi nhiều chiến đấu…

Sự thánh thiện là một ơn Chúa ban, nhưng phải mất nhiều lao nhọc, vất vả chiến đấu, con người mới đạt được. Nói đến chiến đấu là nói đến kẻ thù. Con sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé trong cuộc sống của chúng ta là không biết bao nhiêu cạm bẫy giăng mắc trên lối đi của chúng ta. Những cạm bẫy đó từ bên ngoài cũng có, nhưng hầu hết đều xuất phát từ trong tâm hồn chúng ta… Đó là những dục vọng đam mê đang cày xéo tâm hồn chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta đánh bại được kẻ nội thù ấy và biến chúng thành đạo binh trung thành thì lúc đó chúng ta mới chiến thắng được kẻ thù đến từ bên ngoài…

Khí giới tiên quyết và chủ yếu giúp chúng ta chiến thắng được nội thù đó là sự cầu nguyện. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Ngài: chỉ có ăn chay và cầu nguyện các con mới có thể chiến thắng được loài quỷ này…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
13-09-2009, 09:27 AM
13 tháng 09

Bộ lông chồn

Tại những khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loài chồn màu nâu nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như tuyết, trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ lạ nào đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận. Chúng không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.

Những người thợ săn Âu châu biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu cuộc săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiểm và ngay cả sự chết, hơn là để thân thể hóa ra hoen ố…

Đối với giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quý hơn cả mạng sống: chúng sẵn sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.

Cuộc sống của người Kitô chúng ta cũng phải như thế. Được tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh, mỗi người Kitô chúng ta được khoác lên một chiếc áo trắng tinh tuyền. Chiếc áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo hội trong ngày chúng ta chịu Phép Rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa…

Cuộc sống nào cũng có chiến đấu. Cạm bẫy giăng mắc đầy các lối đi của chúng ta. Người Kitô không vì một chút lợi lộc, một chút an toàn giả hiệu để làm hoen ố chiếc áo tâm hồn của mình.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
13-09-2009, 09:31 AM
14 tháng 09

Quyển sách cao siêu nhất

Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.

Có một người kia phàn nàn trách Chúa vì đã gởi đến cho mình một thập giá quá nặng… Chúa đã đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó tự do chọn lựa.

Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận”.

Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng… Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy”. Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng”.

Hôm nay lễ Suy Tôn Thánh giá, Giáo hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu nhiệm Thập giá trong đời sống đức tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: “Thập giá là quyển sách cao siêu nhất… Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thực sự là người thông thái”.

Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình yêu. “Không có Tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu”. Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất mà con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình yêu: Tình yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình yêu dâng hiến cho nhân loại…

Suy tôn Thánh giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu nhiệm Tình yêu của Thiên Chúa. Trong Mầu nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình yêu…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
14-09-2009, 08:11 AM
15 tháng 09

Đây sẽ là niềm an ủi của con

Một trong những hình ảnh thánh thiện nhứt về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người hấp hối trên tay cầm thánh giá.

Người ta kể về một người đàn bà đạo đức nọ như sau: Trong một căn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu là vì còn hy vọng sống cho cậu con trai. Khi người ta bắt đầu cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: “Lạy Chúa tôi”. Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buộc miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: “Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Đấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ”. Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là liều thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.

Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã an nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: “Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Đây sẽ là niềm an ủi của con”.

Hôm nay Giáo hội kính nhớ Đức Mẹ Đau Khổ hay cũng thường được gọi là 7 sự thương khó của Đức Mẹ.

Suốt cuộc đời trần thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên cạnh. Còn nỗi đớn đau nào bằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập giá? Nhưng đó cũng chính là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng. Từ lúc cưu mang Chúa trong lòng, từ lúc cất giữ mọi sự trong lòng để suy niệm cho đến lúc ôm lấy xác Chúa: từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng. Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình đức tin.

Là mẫu mực trong cuộc hành trình đức tin, Mẹ cũng muốn trao gởi Đấng Cứu Thế cho mỗi người chúng ta. Mang lấy Đức Kitô chịu đóng đinh trong mình, chúng ta sẽ cảm thấy được sự nâng đỡ trong muôn nghìn thử thách đớn đau trong cuộc sống.

Mẹ Maria đã đảm bảo cho chúng ta điều đó. Chúng ta hãy kết hiệp với thập giá của Đức Kitô. Trong mọi đau khổ, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Ngài. Chúng ta hãy thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi chỉ biết có mỗi Đức Kitô chịu đóng đinh”.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
15-09-2009, 06:43 AM
16 tháng 09

Sống là một cuộc chạy đua

Vào khoảng cuối tháng tư năm 1989, một cuộc chạy việt dã gây quỹ cho thế giới đệ tam đã được tổ chức tại 300 thành phố bên Pháp Quốc. Cuộc chạy bộ này đã do tổ chức có tên là chống đói và giúp phát triển thuộc Giáo hội Pháp đề xướng, và với sự hỗ trợ của Bộ Thanh Niên và Thể Thao.

Từ năm 1968 đến nay, hằng năm, tổ chức chống đối và trợ giúp phát triển phát động những chiến dịch tương tự để gây ý thức nơi giới trẻ về những vấn đề phát triển trên thế giới, nhứt là tại các nước nghèo.

Trong cuộc chạy việt dã nói trên, các bạn trẻ mang theo trong người những tấm vé số mà họ sẽ bán cho người lớn. Trung bình, cứ mỗi cây số chạy được, mỗi bạn trẻ bán một vé số. Mỗi một vé số trị giá gần hai Mỹ kim. Theo dự tính, tổng số cây số mà các bạn trẻ sẽ chạy được lên đến 120.000 cây số, nghĩa là tương đương với một vòng của thế giới đệ tam.

Số tiền thu được sẽ trao cho tổ chức chống đói và trợ giúp phát triển để tài trợ cho hai dự án phát triển tại Colombia: một dự án nhằm tái định cư những nạn nhân của vụ núi lửa tại Armero cách đây hai năm, và một dự án khác nhằm thiết lập những vườn trẻ tại thủ đô Bogota.

Nhiều bạn trẻ thuộc các phong trào công giáo tiến hành, các nhóm học giáo lý, các học sinh tại các trường công giáo đã hăng say tham gia vào chiến dịch nói trên.

Trong cuộc sống tại các nước tân tiến ngày nay, ai cũng thấm thía với câu ngạn ngữ: sống là một cuộc chạy đua! Buổi sáng, người ta chen lấn nhau để lên xe chạy đến sở làm; buổi chiều, người ta giành giựt nhau một chỗ trên xe để về nhà sớm. Hằng tháng, người ta phải chạy đua với sự leo thang của vật giá. Và dĩ nhiên, những tiện nghi mỗi ngày một mới mẻ cũng khiến cho con người chạy bở hơi tai.

Cuộc chạy đua nào cũng đưa lại mệt mỏi. Nhưng mệt mỏi hơn cả đó là cuộc chạy đua trong đó con người không biết mình sẽ đi về đâu… Đó là hình ảnh của một cuộc sống không có mục đích.

Thánh Phaolô đã so sánh cuộc sống của người Kitô với một cuộc chạy đua. Người kitô cũng cảm nghiệm được những nhọc mệt trong lộ trình, nhưng họ luôn kiên trì vì biết chắc đích điểm và phần thưởng đang chờ đợi họ.

Người Kitô cũng kiên trì chạy đua, bởi vì họ không chạy lẻ loi trong cuộc sống, nhưng họ biết rằng bên cạnh họ, còn có những người anh em cùng chung sức với họ… Một vòng tay, một nụ cười, một cử chỉ thân ái, một hành động tương trợ: bao nhiêu cử chỉ là bấy nhiêu nâng đỡ cho người Kitô trong cuộc hành trình của họ và cũng là bấy nhiêu ánh sáng soi dẫn trong cuộc chạy đua của họ.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
16-09-2009, 10:26 AM
17 tháng 09

Lời nói không mất tiền mua

Mahatma Gandhi, người đề xướng chủ trương tranh đấu bất bạo động, đến Phi Châu. Ông vào dùng bữa trong một quán ăn bình dân. Sau khi dùng bữa, ông trả tiền và nói với người giúp bàn: “Xin cám ơn vì sự tử tế của anh”. Người giúp bàn trả lời: “Thưa Ngài, tôi sẽ không bao giờ quên Ngài. Từ 25 năm phục vụ ở đây, tôi chưa bao giờ nghe được một tiếng cám ơn”.

“Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Một tiếng cám ơn, một lời chào hỏi, nếu đích thực thì với tất cả chân tình là một biểu lộ của một lòng tin sâu sắc. Nói một tiếng cám ơn, biểu lộ một cử chỉ thân thiện với người khác là muốn nói lên rằng tình liên đới giữa con người là một điều thiết yếu và ta cần có người chung quanh để sống với. Nói một tiếng cám ơn với người nào đó là khẳng định giá trị và nhân phẩm của người đó. Nhưng ở đời, có ai mà không cho ta một món quà hay không dạy ta bất cứ bài học nào đó.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
17-09-2009, 08:17 AM
18 tháng 09

Những giọt nước mắt của sám hối

Người Hồi giáo thường nói đến ý nghĩa và giá trị của lòng sám hối qua câu chuyện tưởng tượng như sau:

Một hôm Allah, Đấng Khôn Ngoan, truyền cho một sứ thần xuống trần gian để tìm cho được điều tốt đẹp nhứt và mang về thiên quốc.

Vị sứ thần đáp ngay xuống một trận chiến nơi máu của những vị anh hùng đang chảy lai láng. Vị sứ thần thu nhặt một ít máu và mang về trình cho Đấng Allah. Nhưng Đấng Allah xem ra không hài lòng mấy. Ngài nói: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhứt dưới trần gian”.

Vị sứ thần đành phải giáng trần một lần nữa. Lần này, ngài gặp ngay một đám tang của một người giàu có, nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo đàng sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc, vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Vị sứ thần bèn thu nhặt hương thơm ngào ngạt mang về trời. Lần này, Đấng Allah mỉm cười đón lấy mùi thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: “Dĩ nhiên, lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng ta nghĩ rằng còn có một cái gì khác tốt đẹp hơn”.

Lại một lần nữa, vị sứ thần đành phải vâng lệnh Allah để trở lại trần gian. Phải mất một thời gian lâu, sau khi đã đi rảo khắp bốn phương, vị sứ thần mới tìm hiểu được điều mong mỏi. Một buổi chiều nọ, ngồi nghỉ mệt bên vệ đường, ngài bỗng thấy một người đàn ông ngồi bên cạnh khóc sướt mướt. Vị sứ thần được người đàn ông giải thích như sau: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ để phạm tội… Giờ đây, nước mắt là cơm bữa từng ngày của tôi”. Vị sứ thần bèn đưa tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và vội vã bay về trời. Đấng Allah nhìn thật lâu vào những giọt nước mắt và mỉm cười nói với vị sứ thần:

“Thế là ngươi đã hoàn thành tốt sứ mệnh. Quả thật dưới trần gian, không có gì đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, người đã thấy đó, trước khi vui mừng, Ta đã nhìn thật kỹ xuyên qua những giọt nước mắt. Một dòng sám hối giả dối không có ích lợi gì cả. Một sự sám hối thành thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân của Tình yêu”.

Trong Tin Mừng theo thánh Luca ở đoạn 15 câu 7, Chúa Giêsu đã nói: “Trên Trời sẽ vui mừng gấp bội khi có một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công chính không ăn năn hối cải”.

Vinh quang của Thiên Chúa, niềm vui của Thiên Chúa chính là con người được sống. Và sự sung mãn, sự sống đích thực chính là ân sủng, là sự sống của Thiên Chúa trong tâm hồn con người. Sự sống ấy chỉ có thể đến trong tâm hồn con người, nếu con người biết mở rộng cửa tâm hồn để đón nhận Thiên Chúa… Những giọt nước mắt sám hối chính là sức đẩy để mở tung cánh cửa tâm hồn vậy.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
18-09-2009, 09:44 AM
19 tháng 09

Ôi lạy Đấng tối cao

Để nói lên tình yêu vô biên và mầu nhiệm của Thiên Chúa, người Hồi giáo thường kể câu chuyện sau đây:

Một hôm, Đấng Allah cho gọi một vị thiên sứ đến và sai xuống trần gian. Ngài truyền lệnh cho vị thiên sứ như sau: “Ngươi hãy xuống trần gian và đưa về đây người đàn bà goá có 4 đứa con thơ”.

Vị thiên sứ ra đi. Ngài gặp ngay người đàn bà goá đang cho đứa con nhỏ nhứt bú. Ngài hết nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, lại ngước mắt lên nhìn về Đấng Allah như xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm để tách biệt người mẹ với những đứa con thơ còn lại… Nhưng ánh mắt van xin của Vị sứ thần đã không mảy may đánh động được Đấng Allah. Cuối cùng, Vị sứ thần đành phải vâng lệnh Đấng Allah để cướp lấy người đàn bà khỏi đám con thơ và đưa về trời.

Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng Vị sứ thần không thể vui được. Vui thế nào được trước cảnh chia cắt giữa mẹ và con. Thấy Vị sứ thần buồn bã, Đấng Allah mới cho gọi ngài lại và đưa ngài vào giữa sa mạc. Đấng Allah chỉ cho Vị sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo ngài hãy đập vỡ nó ra…

Tảng đá vừa vỡ ra, Vị sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong đó, một con sâu nhỏ từ từ bò ra… Hiểu được ý nghĩa của cử chỉ ấy, Vị sứ thần thốt lên: “Ôi lạy Đấng tối cao, Mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và Tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được bốn đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.

Đâu là hình ảnh chúng ta có về Chúa? Ngài là Thiên Chúa từ nhân, luôn tha thứ, Ngài là Người Cha nhân hậu luôn yêu thương săn sóc cho từng đứa con, hay trái lại, Ngài chỉ là một ông thần độc ác mà vì sợ hãi chúng ta phải chạy đến để khỏi bị trừng phạt…?

Trở về với Thiên Chúa, trước tiên là gạt bỏ ra khỏi tâm hồn chúng ta hình ảnh bất xứng mà chúng ta gán cho Chúa. Hãy phục hồi lại trong tâm hồn chúng ta hình ảnh của một Thiên Chúa mà Tin Mừng đã mạc khải cho chúng ta: đó là một người Cha luôn yêu thương và không ngừng tha thứ cho chúng ta, một người Cha mà tình thương vượt hẳn những tính toán cân lường của trí khôn loài người chúng ta…

Có những lúc chúng ta cảm thấy tội lỗi đang đè nặng trong tâm tư ư? Hãy mau mắn chạy đến với Ngài.

Có những lúc đau khổ, mất mát che phủ khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Ngài ư? Hãy tin tưởng rằng, Ngài đang nhìn thấy và cảm thông với từng nỗi khốn khổ của chúng ta và Tình yêu nhiệm mầu của Ngài luôn nhào nặn để biến những đắng cay chua xót ấy thành ân phúc cho chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
19-09-2009, 02:13 PM
20 tháng 09

Bởi vì tôi rất yêu mến bà!

Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta tiến lại gần một người mà người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Đó là một lão bà. Mình phủ đầy những mảnh giẻ rách, nước da đen dày những vết thương hôi thối. Mẹ Têrêsa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng người đàn bà đáng thương này đang hấp hối… có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén canh nóng và tràn đầy tình thương yêu.

Người đàn bà đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêsa bằng một giọng thều thào:

- “Tại sao bà lại làm như vậy?”

Mẹ Têrêsa trả lời:

- “Bởi vì tôi rất yêu mến bà…”

Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất từ tận đáy lòng, đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu xuất hiện.

- “Ôi, bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!”

- “Tôi rất yêu mến bà”. Mẹ Têrêsa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.

- “Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà”.

Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêsa và kéo về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt vời nhứt trên cõi đời…

Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêsa đã biết cách nhìn sự suy sụp của tình người, Mẹ đã biết khám phá ra cái thực thể thiêng liêng Mầu nhiệm của những con người nghèo hèn xấu số nhứt.

Chúng ta cũng hãy luôn nhìn mọi người bằng chính cái nhìn yêu thương và tôn trọng của chính Chúa đối với mọi người…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
20-09-2009, 12:02 PM
21 tháng 09

Vị Thánh là ai?

Ngày kia, một em bé được theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai người phải đi ngang qua một thánh đường nguy nga, to lớn. Em bé ngước mắt nhìn thánh đường, chợt em giơ tay chỉ cho mẹ và nói: “Mẹ xem kìa, những cửa kiếng màu bị đóng đầy bụi, xem thật dơ bẩn và không đẹp tí nào”.

Bà mẹ không nói không rằng về nhận xét của con, nhưng tiếp tục nắm lấy tay dẫn em bé tiến vào bên trong nhà thờ. Tại đây, những cửa kiếng bên ngoài xem ra dơ bẩn, xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc lộng lẫy.

Em bé ngạc nhiên mở to đôi mắt nhìn những cửa kiếng màu diễn tả nhiều hình ảnh đẹp mắt. Bỗng mắt em dừng lại ở cửa kiếng sau bàn thờ diễn tả hình cũa 4 thánh sử viết Phúc Âm trong lúc ánh sáng mặt trời đang chiếu dọi qua. Em bé hỏi mẹ đó là những thánh nào và được mẹ giải thích vắn tắt về từng vị thánh.

Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ giáo lý viên hỏi các em: “Này, trong các em có ai trả lời được: một vị thánh là ai?” Trước một câu hỏi có vẻ không có ý nghĩa, cả lớp giáo lý thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào bên trong nhà thờ để nhìn ngắm các cửa kiếng giơ tay xin trả lời. Em nói: “Vị thánh là một người để cho ánh sáng mặt trời chiếu thấu qua”.

Kinh nghiệm và câu trả lời của em bé trên có lẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn phần nào về cuộc đời của thánh Matthêu vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay, trước và sau khi được Đức Giêsu kêu gọi, như được chính thánh nhân vắn tắt thuật lại như sau: Đi khỏi đấy, Đức Giêsu thấy một người ngồi ở bàn thâu thuế, tên là Matthêu. Chúa bảo ông rằng: “Hãy theo Ta”. Ông Matthêu liền đứng dậy và đi theo Chúa.

Một tiếng gọi và một hành động đáp trả được diễn tả vắn gọn trong những dòng trên đây có thể nói được chỉ là bề mặt của trận chiến nội tâm diễn ra từ lâu nơi ông Matthêu. Một trận chiến dằng co những cái mình phải mất với những cái nình sẽ đạt được, khi ông bỏ mọi sự để theo Chúa.

- Ông phải mất một nghề hái ra bạc nhưng tìm được một số mệnh và sứ mệnh thật sự có giá trị vĩnh viễn.

- Ông phải mất một gia tài to lớn nhưng tìm lại được danh dự.

- Ông phải mất sự bảo đảm xây dựng trên của cải vật chất để đi theo Đức Giêsu trong một cuộc hành trình đem đến sự sống mà trước đó.

Về phần Đức Giêsu, khi chọn lựa và kêu gọi ông Matthêu, một người hành nghề thâu thuế, bị các người đồng hương thời đó coi như là người phản quốc, nối giáo cho giặc, bóc lột đồng bào để làm lợi cho quân ngoại xâm, cũng như bị lên án là kẻ tội lỗi, biển thủ, gian lận và bị nhóm biệt phái kết án là kẻ tội lỗi, Đức Giêsu không nhìn những lỗi lầm, những vết nhơ bên ngoài, nhưng Ngài nhìn sâu thẳm tận tâm hồn, nhìn tận bên trong và nhất là Ngài đã lấy ánh sáng của tình yêu thương, lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ của Thiên Chúa để chiếu sáng và chiếu thấu, biến ông Matthêu từ một người thâu thuế thành một tông đồ và một thánh sử viết Phúc Âm.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
21-09-2009, 08:20 AM
22 tháng 09

Người lính mù

Tại nhà ga Verona, bên Italia năm 1945, dân chúng đang chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Sự xuất hiện của chuyến xe lửa đã khơi dậy những tiếng reo vui tưởng chừng như không bao giờ dứt.

Từ trên xe lửa những tấm thân tiều tụy bắt đầu bước xuống sân ga giữa tiếng cười pha lẫn tiếng khóc của người thân. Cuối cùng, một người lính trẻ mò mẫm bước đi từng bước. Anh từ từ tiến về phía một người đàn bà già yếu và chỉ đủ sức để thốt lên tiếng “Mẹ”. Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau… Người mẹ già xót xa: “Làm sao một người mù như con lại có thể tìm đến với mẹ?” Người lính mù ấy đáp: “Thưa mẹ, con không nhìn thấy mẹ bằng đôi mắt, nhưng trái tim con đã hướng dẫn con”.

Người ta không chỉ thấy bằng đôi mắt, nhưng còn bằng chính tâm hồn của mình. Người ta không những chỉ hiểu biết bằng lý trí, nhưng còn bằng con tim của mình nữa.

Chúng ta không những hiểu được thế giới và con người bằng trí khôn của mình, nhưng còn bằng chính đức tin nữa. Với ánh sáng đức tin, chúng ta đi vào mầu nhiệm của sự vật bằng chính sự hiểu biết của Thiên Chúa. Hãy để cho ánh sáng của Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta. Hãy nhìn vào con người và thế giới bằng chính cái nhìn của Thiên Chúa.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
22-09-2009, 08:24 AM
23 tháng 09

Cậu bé đau liệt trong bức tranh

Một trong những bức tranh bất hủ của danh họa Rafaello, người Italia, hiện đang được cất giữ trong bảo tàng viện Vatican: đó là bức họa Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê.

Trong bức tranh, người ta thấy có 3 tầng. Ở tầng cao nhứt của bức tranh là khuôn mặt và toàn thân Chúa Giêsu trong cảnh chiếu sáng rực rỡ giữa các tầng mây. Ở tầng dưới của bức tranh và kề sát với Chúa Giêsu là ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong tình trạng ngây ngất trước sự biến dạng rực rỡ của Chúa Giêsu. Và ở tầng thấp nhất của bức tranh, người ta thấy một nhóm môn đệ và một gia đình đang quây quanh một em bé đang đau liệt: tất cả đều chìm ngập trong một khung cảnh ảm đạm, mờ ảo.

Có lẽ danh họa Rafaello đã cố gắng giải thích cho chúng ta về sứ điệp của bài Tin Mừng tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là niềm hy vọng và là Đấng cứu chữa con người. Đứa bé đau liệt trong bức tranh là chính mỗi người trong chúng ta, là toàn thể nhân loại đang chịu đựng vì không biết bao nhiêu bệnh tật trong thân xác lẫn tâm hồn. Trong đám môn đệ đang quây quanh cậu bé đau liệt, Rafaello đã làm nổi bật hai cử chỉ: cử chỉ của một người môn đệ đang trỏ tay chỉ về cậu bé và cử chỉ của một môn đệ khác đang chỉ tay về Chúa Giêsu…

Phải chăng Rafaello đã không muốn đánh thức ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đang say sưa chiêm ngưỡng Thánh nhan rực rỡ của Chúa Giêsu mà quên đi cảnh nhân loại đang quằn quại trong đau thương khốn khổ?

Trong đời sống đạo, chúng ta dễ rơi vào hai thái cực: hoặc chỉ chăm chú cầu nguyện mà không đếm xỉa gì đến lòng bác ái đối với tha nhân, hoặc ngược lại, xem hành động bác ái là một lời cầu nguyện mà không màng đến đời sống nội tâm.

Nơi Chúa Giêsu, chúng ta thấy được sự dung hòa tuyệt hảo giữa hoạt động và cầu nguyện. Ngài luôn bắt đầu một ngày hoạt động bằng sự cầu nguyện: từ sáng tinh sương, Ngài đã lên núi cầu nguyện một mình. Và Ngài cũng kết thúc một ngày làm việc bằng những giây phút kết hợp thân tình với Chúa Cha. Giữa những hoạt động sôi nổi, Ngài cũng dừng lại để cầu nguyện với Chúa Cha.

Nơi Chúa Giêsu, cầu nguyện đưa đến hoạt động và hoạt động dẫn đến cầu nguyện. Mỗi một gặp gỡ của Ngài với tha nhân cũng là một lời cầu nguyện và mỗi một lời cầu nguyện của Ngài cũng ôm trọn lấy tất cả những ai mà Ngài đã hoặc sẽ gặp gỡ.

Chúng ta hãy chiêm ngắm mẫu gương của Chúa Giêsu… Cả cuộc đời của chúng ta phải là một lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa, chứ không chỉ có những lời kinh mà chúng ta đọc ngoài môi mép.

Người ta không lên xe để ở mãi trên đó… Một môn sinh không đến thụ giáo để ở mãi bên cạnh thầy mình… Cũng thế, chúng ta không leo lên núi cao để ở lại mãi trên đó. Sau cơn ngây ngất của ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trên núi Tabôrê, Chúa Giêsu đã kêu gọi các ngài hãy trở lại với thực tế: đó là thực tế của những cuộc gặp gỡ, đương đầu và cuối cùng là cái chết.

Từ đỉnh cao của sự cầu nguyện, từ bốn bức tường của nhà thờ, từ cung thánh của những giây phút ngất ngây trong sự kết hiệp, chúng ta hãy quay lại với cuộc sống, nơi đó có những nghĩa vụ để thi hành, nơi đó có những con người để gặp gỡ và yêu thương.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
23-09-2009, 08:41 AM
24 tháng 09

Hãy có ánh sáng

Năm 1963, trên màn ảnh truyền hình, dân chúng Hoa Kỳ đang hồi hộp theo dõi hai phi hành gia Amstrong và Aldrin đặt chân xuống mặt trăng, thì tại Houston thuộc tiểu bang Texas, một cậu thanh niên tên là Thomas Franklin Caraway bị đưa lên ghế điện vì tội cướp của, giết người… Cậu vừa lên 18 tuổi.

Trước đó, trong thời gian chờ đợi bị xử tử, cậu đã đọc và nghiền ngẫm quyển KKnh thánh mà một người nào đó đã tặng cậu. Khi một ký giả hỏi cậu thích đoạn nào nhất, cậu giở lại trang đầu quyển Kinh thánh và đọc đoạn: “Hãy có ánh sáng và tức thì ánh sáng đã có”. Cậu lập đi lập lại: “Và đã có ánh sáng. Ngày càng trôi qua, tôi càng nghĩ đến điều đó. Tất cả ý nghĩa của cuộc sống nằm ở đó; ánh sáng đã che chở chúng ta khỏi những đêm dài tăm tối”.

Giữa bốn bức tường đen tối của nhà tù, tình yêu của Thiên Chúa đã đánh động được Thomas. Không có sự dữ nào mà Thiên Chúa không thể biến thành sự thiện… Thiên Chúa quyền năng không bao giờ mong muốn và tạo nên sự dữ cho con người, nhưng Tình yêu của Người mãnh liệt đến nỗi có thể biến sự dữ thành một cơ may phúc lộc cho con người.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
24-09-2009, 08:17 AM
25 tháng 09

“Con người bất hạnh nhất trần gian”

Cuộc đời của nhạc sĩ Beethoven, ngay cả khi đạt đến đỉnh cao của danh vọng, cũng không phải là một cuộc đời hạnh phúc. Tất cả những nhà viết tiểu sử của thiên tài đều ghi nhận rằng ông đã qua môt thời tuổi thơ khốn khổ. Cha ông đã xem kỳ tài âm nhạc của ông như một cơ hội để làm tiền. Thần đồng âm nhạc đã phải ngồi vào đàn Pianô từ sáng tới chiều, đến độ ông đâm chán cả âm nhạc. Chỉ có mẹ ông mới là nguồn an ủi duy nhất của ông trong lúc tuổi thơ, nhưng bà đã mất năm ông mới 17 tuổi.

Năm 28 tuổi, Beethoven bắt đầu bị điếc. Ông cảm thấy thất vọng hoàn toàn. Và tai họa đã tiếp diễn cho đến cuối đời ông.

Tuy nhiên, con người “bất hạnh nhất trần gian ấy” như ông thường nói về mình đã sáng tác những dòng nhạc bất hủ nhất ở cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19.

Kho tàng ẩn dấu trong ta chỉ có thể được khám phá và đem ra thi thố với thế giới nếu ta biết chiến đấu. Điều đó đòi hỏi những năm tháng dài, tuy nhiên, trở ngại cuối cùng mà ta có thể vượt qua sẽ làm ló dạng kho tàng ẩn dấu trong ta. Thánh Basiliô đã nói: vĩ nhân không phải là người chỉ đọ sức với những điều cả thể, nhưng chính là biết làm cho những việc tầm thường trở thành cao cả bằng chính sức mạnh của mình.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
25-09-2009, 08:03 AM
26 tháng 09

Xin được đánh giày

Một linh mục thuộc giáo phận New York bên Hoa Kỳ chuyên lo mục vụ cho các tù nhân đã kể lại kinh nghiệm như sau:

Một hôm, ngài được mời đến thăm một thanh niên da đen sắp sửa bị đưa lên ghế điện vì đã giết người bạn gái của mình. Như thường lệ, mỗi khi gặp một tử tội sắp bị hành quyết, vị linh mục thường khuyên nhủ, giải tội và trao ban Mình Thánh Chúa.

Sau khi đã lãnh nhận các bí tích cuối cùng, người thanh niên da đen bỗng trầm ngâm suy nghĩ như muốn nói một điều gì rất quan trọng. Cuối cùng, với tất cả cố gắng của một người biết mình sắp lìa cõi đời này, anh mới thốt lên với tất cả chân thành:

“Thưa cha, con đã làm hư hỏng cả cuộc đời. Con chưa hề học được một điều gì hữu ích ngoài một điều duy nhất: đó là đánh giày. Xin cha cho con được phép đánh bóng đôi giày của cha. Như thế, con hài lòng vì nhận được sự tha thứ của Chúa, bởi vì con không biết làm gì để tạ ơn Chúa trước khi con gặp lại người bạn gái của con trên Thiên Đàng”.

Và không đợi cho vị linh mục trả lời, người thanh niên đã cúi gập người xuống và bắt đầu đánh bóng đôi giày của vị linh mục… Cử chỉ ấy khiến cho vị linh mục nhớ lại hình ảnh của người đàn bà đã quỳ gối bên chân Chúa Giêsu, đổ dầu trên đầu, trên chân của Ngài và dùng tóc của bà để lau chân Ngài. “Tội của con dù có nhiều đến đâu cũng được tha, bởi vì con đã yêu nhiều”.

Theo quan niệm công bình và thưởng phạt của chúng ta, kẻ có tội ắt phải đền tội. Toà án của loài người thường cân lường tội trạng của người có tội để tìm ra một hình phạt cân xứng.

Chúng ta không thể áp dụng một thứ cán cân như thế vào trong mối tương quan giữa tội lỗi của chúng ta với sự công thẳng của Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa chỉ có một trái cân duy nhất: đó là lòng nhân từ. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và muốn phủ lấp tất cả tội lỗi của chúng ta bằng lòng nhân từ vô biên của Ngài.

Do đó, khi nói đến ăn chay đền tội, chúng ta không thể cân lường tội lỗi của chúng ta để rồi tìm ra một lượng đền tội cho cân xứng. Có hy sinh nào tương xứng đượcvới tội trạng của chúng ta? Có án phạt nào cân xứng với sự xúc phạm của chúng ta?

Thiên Chúa không chờ đợi nơi chúng ta điều gì khác hơn bằng chính Tình yêu của chúng ta. Với Tình yêu, thì dù một cử chỉ nhỏ mọn cũng trở thành một lễ dâng đẹp lòng Chúa. Những gì chúng ta dâng lên Chúa, không phải là của cải chúng ta có, những bố thí chúng ta làm cho người khác, những khổ chế chúng ta tự áp đặt cho bản thân… mà chính là lòng yêu mến của chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
27-09-2009, 11:33 AM
27 tháng 09

Tuyên úy của tù nhân

Hôm nay là ngày kính nhớ thánh Vinh Sơn đệ Phaolô. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 17, linh mục Vinh Sơn được cử đi làm tuyên úy cho các tù khổ sai bị trói vào những cột chèo lớn trên các thuyền buồm của đế quốc Pháp. Với bản chất nóng nảy, hiếu thắng, cục mịch… cộng với những phản ứng thô lỗ mà có lẽ vị linh mục tuyên úy đã bị tiêm nhiễm trong suốt thời kỳ ở với các tù nhân, cha Vinh Sơn đã được một nữ bá tước đứng ra mời làm trưởng nhóm của một số linh mục đang phục vụ như những thừa sai giữa giới nghèo trong khắp cả nước Pháp… Cha Vinh Sơn đã chấp thuận lời đề nghị.

Một khúc quanh lịch sử không những bắt đầu với cha mà còn cho cả Giáo hội nữa: các linh mục dòng thánh Vinh Sơn đệ Phaolô mà chúng ta thường gọi là các cha Lazaristes đã ra đời từ đó. Ngoài ba nhân đức thông thường mà các tu sĩ phải khấn giữ, họ còn cam kết phục vụ hoàn toàn cho giới nghèo.

Thời gian sau, với sự cộng tác của chị Louise de Marillac, cha Vinh Sơn đã thiết lập dòng Nữ Tử Bác Ái cũng đeo đuổi cùng một mục đích: đó là phục vụ người nghèo… Cha Vinh Sơn đã định nghĩa dòng nữ này như sau: nhà dòng của họ là nhà thương, nhà nguyện của họ là nhà thờ giáo xứ, khu nội cấm của họ là các ngả đường phố xá.

Chúc thư và cũng là tinh thần của thánh Vinh Sơn de Phaolô được chứa đựng trong các lá thư của Ngài. Chúng ta hãy đọc qua một đoạn sau đây: “Hãy cố gắng bằng lòng ngay giữa những điều làm cho chúng ta bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí con khỏi những điều đang làm con giao động. Chúa sẽ lo liệu cho mọi sự… Cha van xin con, hãy tín thác nơi Chúa. Con sẽ có mọi sự tâm hồn con khao khát”.

Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng con số không: Ngài nghèo đến nỗi không có nơi gối đầu. Thế nhưng ngày nay, khi nhìn vào Giáo hội, người ta nghĩ ngay đến quốc gia Vatican, với một bảo tàng viện phong phú nhất, với những vương cung thánh đường lộng lẫy, với những cuộc biểu dương rầm rộ. Người ta cũng có thể nhìn vào các tòa giám mục đồ sộ.

Các vị sáng lập dòng cũng thường bắt đầu bằng con số không. Nhưng ngày nay, có ai chối cãi được rằng những cơ sở lớn mà người ta thường thấy trong các đô thị lại thuộc về các hội dòng.

Giáo hội và cách riêng các hội dòng có phục vụ người nghèo và có thuộc về người nghèo không?… Có lẽ, nhiều hội dòng mà mục đích nguyên thủy là phục vụ người nghèo và sống nghèo, cần phải đấm ngực tự thú rằng mình đã quá đi xa tinh thần của đấng sáng lập… Sống nghèo trước hết đó là sống tín thác vào Chúa quan phòng. Có thể nói đó là nhân đức trỗi vượt và cũng là mẫu số chung của các vị thánh: phó thác hoàn toàn vào Tình yêu của Chúa.

Chúa kêu mời chúng ta chớ có lo lắng thái quá về ngày mai. Càng lo lắng con người càng nuôi dưỡng sự tham lam và càng thiếu lòng tin tưởng vào Chúa. Lòng tin của chúng ta được đo lường bằng chính lòng phó thác vào Chúa.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
27-09-2009, 11:38 AM
28 tháng 09

Con vật đầu đàn

Một khách lữ hành đi về những vùng núi xứ Tô Cách Lan, một hôm dừng chân lại bên cạnh một đàn cừu. Bỗng ông ta chú ý đến một con cừu đang được người mục tử chăm sóc một cách đặc biệt. Con vật nằm dài trên mặt đất. Chủ nó vừa vuốt ve vừa nói chuyện với nó một cách dịu dàng, trong lúc tay chân vẫn không ngừng băng bó một chân của nó. Người khách bộ hành lại gần và hỏi xem cho biết việc gì. Thoạt tiên, người chăn chiên tỏ vẻ khó chịu vì phải trả lời. Nhưng sau đó vẻ thân mật của người bộ hành đã làm cho anh vững lòng, vì thế anh ta không ngần ngại giải thích:

“Con cừu này có những đức tính tuyệt hảo của một người hướng đạo. Khi còn lành mạnh, nó luôn luôn dẫn đầu đàn cừu, biết cách làm cho những con vật khác vâng lời nó và theo nó. Khổ thay vì quá tự tin nên nó không theo lệnh của tôi và dẫn đàn cừu theo sở thích riêng của nó. Tôi đã tìm đủ mọi cách để thay vào chỗ của nó một con đầu đàn khác nhưng vô hiệu, vì hễ con nào có vẻ như muốn thay nó đều bị nó đánh và xua đuổi. Tình trạng của đàn cừu do đó trở nên nguy ngập. Tôi buộc lòng phải áp dụng một phương pháp khá đau đớn”.

Nói đến đây người chăn chiên ngừng lại như bị cảm xúc mạnh. Anh giải thích tiếp như sau: “Tôi đành phải bẻ gãy chân nó. Kể từ lúc đó, con vật bị thương nên hoàn toàn tùy thuộc vào tôi. Mỗi buổi sáng, tôi vác nó lên vai đem ra đồng cỏ. Và buổi chiều tôi lại vác nó trên vai đem về. Nó không thể tự mình đi ăn cỏ được. Vì thế, từ một tháng nay, nó ăn giữa lòng bàn tay của tôi. Những săn sóc liên tục của tôi đã tạo nên giữa tôi và nó một sự liên hệ vô cùng mật thiết. Bây giờ có lẽ nó hiểu rằng sau khi đã làm cho nó bị thương, tôi đã tìm đủ mọi cách để làm giảm bớt sự đau đớn của nó. Về phần tôi, tôi cũng biết rằng sẽ không tìm được trong tất cả đàn cừu một con nào biết vâng lời tôi hơn nó. Trong vài ngày nữa, khi nó khoẻ mạnh, tôi sẽ phục hồi nó lại trong địa vị cũ của nó”.

Hình ảnh trên đây gợi lại phần nào Tình yêu của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta. Cựu ước đã không ngần ngại so sánh Thiên Chúa với một người mục tử. Người mục tử chăm sóc từng con chiên, người mục tử uốn nắn từng con chiên, người mục tử sửa trị từng con chiên… Nhưng tất cả chỉ vì sự yêu thương đàn chiên của mình.

Thiên Chúa có thực sự yêu thương chúng ta không? Đó là câu hỏi mà chúng ta có quyền đặt ra trong những mò mẫm tìm kiếm hạnh phúc của chúng ta. Cuộc sống xem chừng như không diễn ra một cách xuôi chảy cho từng người. Chúng ta không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Đau khổ, thất bại như những bóng mờ lúc nào cũng chực sẵn để ập phủ trên chúng ta… Chiến tranh, chết chóc, bệnh tật, tai ương đã trở thành như tất yếu đối với chúng ta. Một Thiên Chúa nhân từ, một Thiên Chúa quan phòng, một Thiên Chúa quyền năng lẽ nào lại để cho đau khổ đè bẹp con người?… Bí ẩn của đau khổ luôn gợi lên trong chúng ta những thắc mắcvề Tình yêu của Thiên Chúa.

Người Kitô chúng ta chỉ có thể tìm thấy câu trả lời trong mầu nhiệm Thập giá của Đức Kitô. Thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài. Và Người Con Một đó đã yêu đến nỗi đã tự phó nộp mình và chết trên thập giá.

Tình yêu của Thiên Chúa gắn liền với Thập giá của Đức Kitô. Đau khổ đã trở thành ánh sáng chiếu rọi vào Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nói như thế không có nghĩa là Thiên Chúa muốn con người phải chịu đau khổ, Thiên Chúa cũng không tạo ra đau khổ để sửa trị con người. Nhưng qua đau khổ, Thiên Chúa, như muốn hé mở cho con người thấy Ngài là Đá Tảng, là nơi nương tựa duy nhất của con người.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
28-09-2009, 02:15 AM
29 tháng 09

Người ăn cắp cừu

Tại một miền quê bên Mỹ, vào thời kỳ lập quốc. Có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang đang ăn cắp cừu. Dân trong làng đã mở tòa án nhân dân để trừng phạt.

Sau khi nghị án, mọi người đã đồng thanh cho khắc trên trán của tội nhân hai chữ viết tắt S.T có nghĩa là “Người ăn cắp cừu”.

Một trong hai người ăn trộm không chịu nổi sự sỉ nhục đã trốn sang một vùng đất khác để chôn chặt dĩ vãng của mình. Nhưng anh không thể xoá nhòa được hai chữ viết tắt trên trán của mình. Bất cứ một người lạ mặt nào cũng đều tra hỏi anh về ý nghĩa của hai chữ ấy. Lại một lần nữa, không chịu nổi sự nhục nhã, anh đã rời bỏ nơi cư ngụ mới để tiếp tục lang thang và cuối cùng mòn mỏi trong cay đắng, anh đã bỏ mình nơi đất khách quê người.

Nếu người anh của mình đã bị sự nhục nhã gậm nhắm đến độ phải trốn suốt cả cuộc đời, thì người em lại tự nói với mình: “Tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn cắp mấy con cừu. Tôi phải ở lại đây và tôi phải tạo lại sự tin cẩn nơi những người xung quanh và nơi chính tôi”.

Với quyết tâm đó, anh đã ở lại trong xứ sở của mình. Và không mấy chốc, anh đã xây dựng được cho mình một sự nghiệp cũng như danh thơm của một người thanh liêm chính trực.

Nhưng cho dù năm tháng có qua đi, hai chữ S.T vẫn còn ghi đậm trên vầng trán của anh… Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa của hai chữ viết tắt ấy. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: “Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng hai chữ ấy có nghĩa là Thánh thiện”.

Một thi sĩ người Ấn Độ đã gửi tặng cho Đài Phát Thanh Chân Lý những vần thơ sau đây:

“Hãy tin nơi bạn, vì bạn là hình ảnh của Thiên Chúa.

Hãy tin ở công việc của bạn vì một công việc chính trực là một lời cầu nguyện.

Hãy tin ở ngày hôm nay vì mỗi phút chứa đựng một dịp may để phụng sự Chúa.

Hãy tin ở những người xung quanh của bạn vì bạn hữu là điều quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc.

Hãy tin ở hiện tại vì hôm qua đã qua đi và ngày mai sẽ không bao giờ đến.

Hãy tin ở lòng thương của Chúa vì Ngài tha thứ cho bạn. Và bạn hãy tha thứ cho chính mình”.

Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta và Ngài mời gọi chính chúng ta cũng đừng thất vọng về chính mình. Mỗi một may mắn là một dịp để chúng ta dâng lời cảm tạ và chúc tụng Chúa. Mỗi một thất bại và đau khổ là khởi đầu của một nguồn ơn dồi dào hơn. Mỗi một vấp phạm là bàn đạp để chúng ta vươn cao hơn. Bởi vì trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
29-09-2009, 08:06 AM
30 tháng 09

Tình thương đáp trả hận thù

Bà Coretta King, vợ của cố mục sư Martin Luther King, đã ghi lại trong quyển hồi ký của bà như sau:

Martin ra trước cửa nhà. Một cách nào đó, đây là giờ phút quan trọng nhất trong cuộc đời của anh.

Trước đó vài hôm, một quả bom đã được quăng vào nhà. Vợ và con anh suýt bị sát hại. Đây là thử thách đầu tiên nặng nề nhất mà anh phải chịu đựng. Đồng thời nó cũng là trắc nghiệm để xem anh có thể sống những nguyên tắc Kitô và thuyết bất bạo động mà anh hằng rao giảng không. Anh xuất hiện một cách bình thản trước đám đông người da đen đang sôi sục hận thù.

Khi anh vừa giơ tay lên làm hiệu thì mọi tiếng động bỗng như dừng lại. Anh đã chiếm lĩnh được tâm hồn mọi người, từ những người đứng tuổi đến các bạn trẻ bốc đồng nhất, từ các cảnh sát viên cho đến từng người sợ hãi đang đứng nép bên các bậc thang trước cổng nhà.

Với một giọng nói bình tĩnh, nhẹ nhàng, anh khuyên nhủ mọi người như sau:

“Vợ tôi và con gái tôi vẫn bình an. Tôi xin anh em hãy trở về nhà và hãy buông khí giới. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề bằng bạo động. Chúng ta phải yêu thương những người da trắng anh em của chúng ta, dù họ có làm gì cho chúng ta đi nữa. Chúng ta phải làm cho họ hiểu rằng chúng ta yêu thương họ thật sự. Chúng ta phải sống như thế đó: nghĩa là hãy lấy tình thương đáp trả hận thù”.

Lời kêu gọi trên đây của mục sư Luther King và cái chết của ông là một bản sao trung thành nhất của Tin Mừng: đó là Tin Mừng của Đấng yêu thương và yêu thương cho đến chết trên thập giá…

Vào tù ra khám, bị đòn vọt, trải qua trăm nghìn gian lao khốn khổ do những người không tiếp nhận Tin Mừng gây ra, thánh Phaolô vẫn có thể khuyên nhủ các tín hữu Roma như sau:

“Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ. Hãy vui với kẻ vui, hãy khóc với kẻ khóc. Cùng nhau tâm đầu ý hợp. Đừng quá cao vọng về mình. Trái lại, hãy biết bỏ mình, chuộng phần yếu kém… Đứng lấy ác báo ác: điều thiện trước mặt mọi người, hãy cố quan tâm. Hãy sống an hòa với mọi người… Anh em thân mến, hãy sống an hoà với hết thảy mọi người. Đừng báo oán. Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ”.

Ước gì những lời khuyên nhủ trên đây trở thành khuôn vàng thước ngọc trong mọi giao tiếp và gặp gỡ chúng ta với mọi người.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
30-09-2009, 08:18 AM
THÁNG MƯỜI


“Chúa Giêsu nói với người môn đệ: này là Mẹ con. Và từ lúc đó, môn đệ đưa người về nhà mình”.
(Gio 19,27)


01 tháng 10

Chợ hoa

Trong những thập niên vừa qua, đã có rất nhiều hội chợ hoa được tổ chức khắp nơi. Nhưng vĩ đại nhất có lẽ là hội chợ hoa Osaka, Nhật Bản, khai mạc dạo đầu tháng tư và kết thúc ngày cuối tháng chín năm một ngàn chín trăm chín mươi vừa qua.

Hội chợ hoa này được tổ chức tại thị xã Tsunimi, một vùng đất đang phát triển theo kế hoạch xây dựng cho thế kỷ hai mươi mốt. Trên một khoảng đất rộng một trăm bốn mươi mẫu tây, ba triệu loại hoa và thảo mộc khác nhau trên khắp thế giới đã tề tựu về để khoe sắc tranh hương chào đón du khách.

Vừa bước vào trung tâm hội chợ, một bức tường lớn đan bằng đủ loại hoa, màu sắc rực rỡ đập ngay vào mắt du khách. Khuôn viên phía tây dành cho các loại hoa cần chăm sóc trong nhà kiếng, cùng với các loại hoa điện tử nhân tạo. Khách thưởng ngoạn sẽ được xem những loại hoa lớn nhất thế giới từ Nam Dương đưa sang. Du khách cũng có thể say mê với những loại hoa nhân tạo mà hình dạng và màu sắc biến đổi không ngừng, tạo nên hình ảnh của thế giới thần tiên.

Vắng người hơn, ở phía đông, là khuôn viên dành cho các loại hoa, tất cả các loại hoa đều được trồng giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ.

Giữa hai khuôn viên là một con sông nhỏ, dưới lòng sông có thiết kế những vòi phun nước. Nước lên mạnh yếu tùy theo điệu nhạc phát ra từ giàn âm thanh nổi tuyệt hảo ở hai bờ sông. Cứ nửa tiếng đồng hồ, có một câu chuyện thần thoại được dòng sông kể lại bằng hệ thống phun nước, hoà với tiếng nhạc và ánh đèn màu về đêm, tạo nên một khung cảnh rất nên thơ và thanh bình.

Hoàng đế Nã Phá Luân của nước Pháp đã có lần phát biểu như sau: “Nơi nào hoa tàn, nơi đó con người không thể sống”… Ai trong chúng ta cũng yêu hoa, ai trong chúng ta cũng thích sống với sự hiện diện của hoa. Vui, chúng ta thích ngắm hoa, buồn, chúng ta cũng thích nhìn hoa. Hoa dường như gần gũi và thông cảm với con người… Nhìn hoa sen, chúng ta tưởng tượng ra cảnh gió mát bên bờ hồ. Ngắm hoa mai, chúng ta như muốn đi vào mùa Xuân bất tận. Nhìn hoa hồng, chúng ta như thấy dậy lên những tình cảm thanh cao. Ngắm hoa huệ giữa đồng, chúng ta chợt nghĩ đến cảnh đời sớm nở tối tàn…

Tháng mười hằng năm, cùng vui với những cành hoa dâng lên mẹ, chúng ta chiêm ngắm Mẹ, Mẹ là đoá hoa đẹp nhất của vũ trụ. Nhìn lên Mẹ, chúng ta hưởng nếm được tất cả mọi hương sắc của thánh thiện…

Mẹ là đóa hoa luôn gần gũi và cảm thông với chúng ta. Lúc nào mẹ cũng có thể nở nụ cười của khích lệ, cổ võ cho chúng ta. Lúc nào Mẹ cũng có thể hướng ánh mắt của cảm thông, tha thứ về phía chúng ta…

Chạy đến với Mẹ, chiêm ngắm hương thơm thánh thiện của Mẹ, chúng ta cũng hãy xin Mẹ biến chúng ta thành những cánh hoa để giúp cho đời thêm tươi thắm… Giữa sa mạc khô cằn tình người, xin Mẹ luôn làm nở lên trong chúng ta những cánh hoa của yêu thương, bác ái, cảm thông, tha thứ, phục vụ… Giữa sa mạc khô cằn niềm tin và hy vọng, xin Mẹ làm nở lên trong chúng ta những cánh hoa của tin tưởng, phó thác, cậy trông…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
01-10-2009, 08:27 AM
02 tháng 10

Những lá thư của người mẹ

Trong trận đệ nhị thế chiến, có một văn sĩ Hunggary gốc Do Thái bị Đức quốc xã bắt làm tù binh, trong khi tham gia trong quân đội Pháp. Qua những tác phẩm chống Đức quốc xã, văn sĩ gốc Do Thái này khó mà che dấu được tung tích của mình. Một người lính Pháp cùng bị bắt làm tù binh đã đề nghị là hai người nên sử dụng chung một tên tuổi và lý lịch, bởi vì họ sẽ bị thuyên chuyển đến các trại khác nhau. Quân Đức quốc xã khó mà nhận ra sự kiện hai người cùng đồng tên và có chung một lý lịch. Người lính Pháp đã trao cho văn sĩ gốc Do Thái thẻ bài cũng như một số thư của mẹ anh. Anh dặn dò văn sĩ gốc Do Thái như sau: “Nếu có ai điều tra anh về lý lịch, anh hãy cho họ xem những lá thư này”.

Sau này, người văn sĩ gốc Do Thái có dịp đọc những lá thư của mẹ người lính Pháp. Nhìn những tờ giấy viết thư nhàu nát, dòng chữ yếu ớt, ông đoán được rằng người mẹ này có lẽ là một người đàn bà nhà quê già yếu, nhưng thương con với tất cả sự đậm đà của tình mẫu tử. Chung quy những lá thư ấy đều có dặn dò giống nhau như: “Con hãy giữ gìn sức khỏe… Cố gắng đắp chăn cho thật ấm nghe con… Xin Chúa chúc lành cho con và chóng đưa con về đến nhà bình an”.

Mang lấy tên tuổi và lý lịch của người lính Pháp, văn sĩ gốc Do Thái đọc lên những lời dặn dò trên đây như chính người mẹ ruột thịt của mình. Cũng chính những dòng chữ nguệch ngoạc nhưng dạt dào tình mẹ ấy đã trở thành một bảo chứng cứu thoát ông.

Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta. Ngài đã cho chúng ta mang lấy tên tuổi và lý lịch của Ngài. Ngài cũng trao ban cho chúng ta chính người Mẹ của Ngài. Tâm tình của một người mẹ đã cưu mang, đã cho bú mớm, đã dõi theo từng bước chân của con, đã câm lặng bên thập giá, đã đón lấy tấm thân không hồn của người con: tâm tình ấy của mẹ Maria, Chúa Giêsu cũng muốn trao cho chúng ta. Mẹ của Chúa Giêsu cũng là người Mẹ trọn vẹn của mỗi người trong chúng ta.

“Hỡi Bà, đây là con Bà!” Trao ban thánh Gioan cho Mẹ, Chúa Giêsu cũng trao ban mỗi người chúng ta cho Mẹ. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay đần độn, khoẻ mạnh hay bệnh tật: mỗi người chúng ta đều được Mẹ đón nhận như người con trọn vẹn của mẹ. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ dành cho tất cả tâm tình mà Mẹ đã dành cho Chúa Giêsu.

Hơn bao giờ hết, chúng ta hãy tin tưởng điều đó… Người lính trận đã luôn mang những lời dặn dò của mẹ anh như một báu vật, như một hành trang giữa những nguy ngập của cuộc chiến. Chúng ta cũng hãy mang lấy tâm tình của Mẹ. Hãy luôn chạy đến với Mẹ. Hãy luôn ôn lại những lời dặn dò của Mẹ, nhất là mỗi khi chúng ta gặp thử thách, u buồn trong cuộc sống.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
02-10-2009, 08:44 AM
03 tháng 10

Báu vật cuối cùng

Ngày mười tháng ba năm một ngàn sáu trăm mười lăm, tại Glasgow bên Tô Cách Lan, một vị thừa sai lừng danh là cha Ogilvie bước lên máy chém vì tội rao giảng Phúc Âm.

Trong giây phút cuối đời, đứng trên đoạn đầu đài thấy hàng ngàn người đứng coi, muốn để lại cho họ một kỷ niệm và một đảm bảo đức tin, vị tử đạo lấy ra vật cuối cùng còn lại trong mình: đó là một cỗ tràng hạt… Ngài cố sức ném tràng chuỗi vào giữa biển người. Tràng chuỗi đã rơi xuống trúng một ông hoàng xứ Hungary đang trên đường chu du học hỏi, tình cờ ghé qua Glasgow.

Chuỗi tràng hạt này đã bám riết ông khắp nơi, mãi đến ngày ông quyết định từ bỏ giáo phái Calvin để quay trở lại với Công giáo.

Những mẩu chuyện trên đây không phải là ít trong lịch sử Giáo hội. Việc sám hối luôn gắn liền với kinh Mân Côi. Đó là mệnh lệnh mà Mẹ Maria đã ban bố tại Fatima năm một ngàn chín trăm mười bảy: “Hãy năng lần hạt Mân Côi”.

Thánh Grêgoriô thành Nysse thường dùng thí dụ sau đây để nói về ảnh hưởng của kinh Mân Côi trong đời sống Kitô của chúng ta: “Mỗi người chúng ta được ví như một họa sĩ, linh hồn chúng ta là một khung vải còn nguyên vẹn, màu sắc được dùng là các nhân đức Kitô giáo, hình ảnh phải họa theo là chính Chúa Giêsu Kitô, hình ảnh sống động của Chúa Cha. Họa sĩ nào càng muốn hình ảnh họa lại được giống hình mẫu này phải năng ngắm nhìn hình mẫu khi đặt bút vẽ”.

Mẹ Maria là mẫu gương của đời sống Kitô. Qua kinh Mân Côi, chúng ta chiêm ngắm các biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Nhớ ôn đi, đọc lại nhiều lần, các biến cố đó sẽ thâm nhập tâm hồn chúng ta để dần dần biến chúng ta theo khuôn mẫu của các Ngài.

Kinh Mân Côi không những là hình thức đạo đức có tính cách cá nhân, nhưng còn là chất keo nối kết mọi người trong gia đình lại với nhau. Còn hình ảnh nào được ghi đậm trong tâm khảm chúng ta cho bằng những giờ kinh Mân Côi đọc chung trong gia đình… Gần đây, người ta phát động việc đọc kinh Mân Côi trong gia đình với khẩu hiệu: một gia đình cầu nguyện chung với nhau là một gia đình đứng vững.

“Nơi nào có hai hay ba người ngồi lại với nhau vì danh Ta, Ta sẽ ở giữa họ”. Mà nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó cũng sẽ có Tình yêu. Vì Tình yêu là chất men liên kết mọi người trong gia đình lại với nhau.

Việc cầu nguyện trong gia đình, nhất là với kinh Mân Côi, là yếu tố đảm bảo sự bền vững của hôn nhân và khơi dậy ơn gọi trong gia đình.

Trong tông huấn về việc tôn kính Mẹ Maria, Đức Phaolô VI đã nhắn nhủ chúng ta như sau: “Những điều kiện sinh sống đổi thay của ngày nay khiến việc hội họp gia đình không được dễ dàng và dù khi sum họp được thì nhiều hoàn cảnh lại làm cho cuộc họp mặt khó biến thành một dịp nguyện cầu. Các gia đình muốn sống trọn vẹn ơn gọi và tinh thần của gia đình công giáo phải tận lực lướt thắng những áp lực cản trở gia đình không thể hội họp và cầu nguyện chung”.

Tinh thần đạo đức của các phần tử trong gia đình được thể hiện và tăng triển trong những giờ cầu nguyện chung, gồm cả việc đọc kinh hay đọc sách Thánh, chia sẻ lời Chúa, nhưng thuận lợi hơn cả đối với các gia đình Việt Nam đó là việc đọc kinh Mân Côi. Cũng chính đức cố giáo hoàng VI khuyên nhủ chúng ta: “Sau việc đọc kinh Nhật Tụng thì việc đọc kinh Mân Côi được coi như một trong những kinh cầu nguyện chung tốt đẹp nhất, hữu hiệu nhất mà gia đình công giáo được khuyến khích đọc”.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
03-10-2009, 09:57 AM
04 tháng 10

Bí quyết trẻ trung

Hôm nay Giáo hội kính nhớ thánh Phanxicô Assisi.

Sống cách chúng ta trên bảy thế kỷ, thánh Phanxicô Assisi vẫn mãi mãi để lại một hình ảnh trẻ trung. Chưa có vị thánh nào trong Giáo hội được nhắc nhớ, yêu mến như thánh nhân. Chưa có vị thánh nào đã gợi lên nhiều cảm hứng cho văn chương, nghệ thuật cho bằng thánh nhân. Chưa có vị thánh nào được các nhà chính trị, các nhà cách mạng ca tụng cho bằng thánh nhân.

Sứ điệp của thánh nhân siêu vượt thời gian, bởi vì con người của thánh nhân là hiện thân của tuổi trẻ. Thật thế, suốt cả cuộc đời của mình, thánh Phanxicô Assisi luôn biết giữ mãi một tâm hồn tươi trẻ. “Tuổi tác không phải là điều kiện thể lý cho bằng bầu khí của tâm hồn”. Có lẽ thánh nhân không phải là người đã nói lên châm ngôn ấy, nhưng hẳn Ngài đã sống theo châm ngôn ấy.

Ngài biết giữ mãi cho tâm hồn tươi trẻ bằng cách hạn chế tối đa các nhu cầu, bằng cách chống cự lại các ước muốn. Ngài đón nhận mọi sự. Không thắc mắc, không lo lắng, không buồn giận.

Những khám phá của khoa tâm lý học ngày nay, thánh Phanxicô Assisi đã từng biết và sống một cách trọn vẹn. Thật thế, để có một thể xác lành mạnh, một tâm hồn tươi trẻ, các nhà tâm lý học khuyên chúng ta như sau:

- Hãy tập yêu thích những gì không quá đắt giá.

- Hãy tập yêu thích việc đọc sách, chuyện vãn, nghe nhạc.

- Hãy tập yêu thích những thức ăn thanh đạm.

- Hãy tập yêu thích tiếng chim hót, sự hiện diện của thú vật, tiếng cười đùa rộn rã của trẻ em.

- Hãy tập yêu thích trồng trọt, làm việc tay chân.

- Hãy tập yêu thích ánh bình minh cũng như hoàng hôn, tiếng mưa rơi trên mái nhà cũng như cảnh tuyết rơi.

- Hãy tập yêu thích những nhu cầu đơn giản nhất.

- Hãy tập yêu thích công việc và cảm nhận được niềm vui khi làm tốt một công việc.

- Hãy tập yêu người, dù người không giống ta.

Không khí, ánh sáng, mặt trời, niềm vui, hạnh phúc, cuộc sống, con người: đó là những yếu tố cần thiết để tạo cho bầu khí tươi trẻ trong tâm hồn. Phải chăng đó không là những yếu tố mà người ta cũng bắt gặp trong bài ca vạn vật của thánh Phanxicô Assisi?

Một tâm hồn luôn tươi trẻ: đó không chỉ là một bí quyết để được hạnh phúc trên đời này, nhưng còn là một đòi hỏi với người Kitô. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống chúng. Ta nói thật với các con: nếu các con không đón nhận Nước Trời như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
03-10-2009, 07:51 PM
05 tháng 10

Sứ điệp của một người tàn tật

Hằng năm tổ chức có tên là “Tự nguyện chịu đau khổ” hành hương đến Lộ Đức để chia sẻ kinh nghiệm của họ khi đối đầu với đau khổ. Năm một ngàn chín trăm tám mươi hai, khách hành hương đã chú ý đến lời chia sẻ của Jacques Lebreton, một phó tế vĩnh viễn không tay, mù mắt. Chúng ta hãy lắng nghe chứng từ của ông:

Sau trận đánh ở El Alamem, tôi và các bạn của tôi đang lo gỡ mìn. Một anh bạn tôi cầm một quả lựu đạn và vô tình mở chốt. Trong cơn hốt hoảng, anh trao cho tôi. Tôi cứ tự nhiên cầm lấy quả lựu đạn. Nó đã nổ tung trong tay tôi. Tôi tối tăm mặt mũi, không nói được nữa. Tôi cảm thấy mình đang chết. Tôi chỉ còn là một người không tay, không mắt… Tôi toan tự tử.

Trên giường bệnh ở nhà thương, tôi, một người đã không giữ đạo từ lâu, tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi xin được rước lễ. Tôi đã hiểu nguyên do sự đau khổ của tôi là tội lỗi nhân loại: đó là thù oán, kiêu căng, chiến tranh… Và tôi đã tìm lại được sự an vui và trông cậy.

Tôi cảm thấy một cái gì tương tự như Chúa Giêsu trong vườn Giêtsêmani. Ngài cũng không muốn chịu đau khổ. Ngài đã van xin: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này”, nhưng liền sau đó, Ngài lại thưa: “Lạy Cha, xin vâng theo ý Cha”. Sau thảm kịch Golgotha, Ngài đã sống lại. Chính nhờ mầu nhiệm chết và sống lại mà Chúa Kitô muốn cho chúng ta cùng sống. Tôi đã đạt đến mức độ không phải là chịu đựng mà là chấp nhận. Chịu đựng là một thất bại. Chấp nhận là một chiến thắng. Trên giường bệnh, tôi đã khóc, khóc vì sung sướng với ý nghĩ ấy. Điều mà tự nhiên tôi không thể chịu được, nay nhờ ơn Chúa tôi đã chịu được.

Như lời văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng để cùng hiện diện với những người đau khổ”. Tôi đã cảm nghiệm được Lời Chúa phán: “Phúc cho những kẻ khóc lóc, phúc cho những kẻ đau khổ”.

Tại Evreux, tôi gặp được một người đàn bà hoàn toàn bất toại, đến nỗi không thể nói được. Nhưng nhờ ngón chân cái của bà, bà có thể máy động bàn chữ cái trên một miếng ván và bà đã tặng tôi một bài thơ có tựa đề “Nụ cười”.

Tôi liên tưởng đến một người đàn ông khác, bị điếc từ lúc mười bốn tuổi, mù từ lúc lên mười sáu tuổi. Trên giường bệnh, lúc hấp hối, người đàn ông tám mươi bảy tuổi này đã thốt lên như sau: “Tôi đã trải qua một cuộc đời tốt đẹp”.

Ông Jacques Lebreton kết luận như sau: “Tôi, một người không tay, không mắt, tôi cũng thấy đời tươi đẹp. Cuối cùng, sự tàn tật lớn lao nhất là bị chia lìa với Thiên Chúa. Tôi không thể nói như vậy, nếu tôi lành lặn với đôi mắt và đôi tay. Nhưng tôi có thể nói như vậy vì tôi biết thế nào là sống xa Chúa. Và hôm nay, sau một chặng đường dài, tôi lớn tiếng kêu lên với tất cả các người anh em của tôi rằng: Thiên Chúa hằng sống, Đức Kitô đã sống lại”.

Đã có khoảng sáu ngàn vụ lành bệnh lạ lùng được ghi nhận tại Lộ Đức, trong số này chỉ có sáu mươi bốn vụ được Giáo hội công nhận là phép lạ. Nhưng phép lạ cả thể nhất của Lộ Đức cũng như của những trung tâm Thánh mẫu khác: chính là phép lạ của lòng tin. Và trong những phép lạ của lòng tin ấy, kỳ diệu hơn cả vẫn là niềm tin, sự chấp nhận, tinh thần lạc quan của chính những người đau khổ. Trong niềm đau tột cùng trong thân xác cũng như tâm hồn, những con người ấy vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, tình yêu cao cả của Chúa. Đó chính là phép lạ mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện qua những người có lòng tin. Và đó phải là phép lạ mà chúng ta không ngừng kêu cầu Chúa thực hiện.

Nhìn lên thập giá Chúa, trong niềm hiệp thông với Mẹ Ngài, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta được tiếp tục tin yêu, được tiếp tục nhìn thấy ánh sáng phục sinh giữa những đêm tối của khổ đau, thử thách. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho không biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau đớn của thể xác, trong cô đơn của tâm hồn. Xin cho họ được nâng đỡ, ủi an và tìm được niềm tin.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
05-10-2009, 08:53 AM
06 tháng 10

Bưu điện lớn nhất thế giới

Có lẽ bưu điện lớn nhất thế giới phải là bưu điện trước cổng Thiên đàng… Mỗi ngày có không biết bao nhiêu thư viết bằng không biết bao nhiêu ngôn ngữ được gửi đến… Tất cả đều là những lời cầu xin. Theo sự phân loại của các thiên thần, thì ba vị nhận được nhiều thư nhất: đó là Đức Maria, rồi đến thánh Antôn và thánh nữ Rita.

Một ngày kia, không còn cầm được tính tò mò, các thiên thần không những đã mở thư gởi cho các thánh, mà ngay cả các lá thư gửi đến cho Đức Mẹ, các vị cũng không tha. Nhưng các vị thiên thần đã thất vọng, bởi vì nội dung và cách viết thư đều giống nhau. Đại khái thì cũng chỉ là: Lạy Mẹ, xin chữa cho con chóng lành bệnh… Xin cho con của con được khoẻ mạnh… Xin cho con tìm được việc làm… Xin giúp con thi đỗ… Xin cho con tìm lại được chồng con…

Cả một loạt kinh cầu mà các vị thiên sứ cũng đành phải nhàm chán, đến độ các vị phải thốt lên: dường như Thiên Chúa chỉ tạo dựng con người có một cái miệng, một cái bụng… Họ không có linh hồn, bởi vì tất cả những lời cầu xin của họ đều quy về hai bộ phận ấy.

Đức Maria ngày nào cũng như ngày nào đều phải đọc lại những lá thư có cùng nội dung và một công thức. Tình cờ, có một lá thư làm Mẹ chú ý. Lá thư đó viết như sau: “Lạy Trinh Nữ rất thánh, con chỉ xin Mẹ một điều mà thôi: xin Mẹ cho con mỗi ngày được nên giống Chúa Giêsu hơn”.

Đọc xong lá thư, Đức Maria bật khóc vì cảm động. Ngài nói với các thiên sứ phục vụ tại bưu điện: đây là lá thư mà Mẹ mong đợi từng ngày.

Theo sự thăm dò của nhiều tờ báo lớn trên thế giới, thì tước hiệu “Người đàn bà của năm một ngàn chín trăm tám mươi bảy” đã được dành cho thủ tướng nước Anh là bà Margueret Thatcher, người đã đắc cử vào chức vụ này liên tiếp trong ba nhiệm kỳ.

Đứng hàng thứ hai trong danh sách những người đàn bà trong năm là nữ tổng thống Aquinô của Phi Luật Tân, người đang đương đầu với không biết bao nhiêu xáo trộn trong nước.

Người thứ ba trong danh sách là Mẹ Têrêxa thành Calculta, giải thưởng Nobel về hoà bình năm một ngàn chín trăm bảy mươi chín… kế đó là nữ hoàng Elizabeth II của nước Anh, bà Simone Veil, chủ tịch quốc hội Âu Châu v.v…

Đối với chúng ta, những người Kitô, thì người đàn bà trong năm và nhất là trong tháng mười này, phải là Mẹ Maria, người Mẹ không phải của một gia đình, một dân tộc, vị nữ hoàng không phải của một dân tộc, nhưng là của tất cả nhân loại… Mẹ đang lắng nghe chúng ta trong suốt tháng mười này. Chúng ta hãy thưa với mẹ tất cả những gì chúng ta đang cần.

Nhưng điều mà Mẹ luôn chờ đợi để trợ giúp chúng ta: đó là mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa Giêsu con Mẹ. Bởi vì, trong tất cả mọi ơn cần cho chúng ta, đó là ơn cao trọng nhất. Càng nên giống Chúa Giêsu, chúng ta càng nên giống Mẹ và được đến gần Mẹ.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
06-10-2009, 08:27 AM
07 tháng 10

Chờ đợi

Theo tâm lý thông thường, ai cũng sợ phải chờ đợi, ai cũng sợ phải xếp hàng cả ngày. Ít hay nhiều, sự chờ đợi nào cũng là một cực hình. Nhưng mâu thuẫn thay, chúng ta lại thường biến cuộc đời thành một thứ đợi chờ, thành những phòng đợi triền miên…

Cả tuần lễ, ai cũng mong được đến ngày thứ Bảy, Chủ Nhật để được nghỉ ngơi. Chủ Nhật này đến, chúng ta lại chờ đợi Chủ Nhật khác đến. Tháng này hết, chúng ta lại chờ tháng sau. Năm này đến, chúng ta lại chờ năm sau…

Lên xe, chúng ta mong đến đích điểm. Khi đến nơi, chúng ta lại thấp thỏm mong ra về. Vào rạp chiếu bóng, nhiều người thường vội vàng đứng dậy trước khi cuốn phim chấm dứt: họ làm như thể vào rạp chiếu bóng là chỉ để mau đến giây phút ra về. Đi dự thánh lễ, dù lễ chưa xong, đã có kẻ muốn vội vàng đứng lên ra về: họ làm như thể chỉ đến nhà thờ để mong cho đến giây phút tan lễ. Vừa ra khỏi nhà, đã chờ mong để quay trở lại, nhưng khi vào nhà thì lại đợi đến lúc đi ra.

Với sự nóng lòng chờ đợi giây phút sẽ tới này, chúng ta sống như thể cuộc đời không có liên hệ với những giây phút hiện tại. Chúng ta biến cuộc đời thành một thứ phòng đợi, đợi hết cái này đến điều kia, đợi cả những điều sẽ không bao giờ xảy đến.

Tháng mười là tháng dành riêng để tôn kính Mẹ Maria với tràng chuỗi Mân côi và cùng với Mẹ, sống mầu nhiệm cứu rỗi trong từng phút giây của cuộc sống.

Ơn cứu rỗi không là một biến cố của quá khứ hoặc là mọi biến cố sẽ đến mà là một sự kiện đang diễn ra trong từng phút giây của cuộc sống. Mẹ Maria quả thực là mẫu gương cho chúng ta trong thái độ tiếp nhận ơn cứu rỗi. Thời gian đối với mẹ không là những tháng ngày chờ đợi, mà là những tích tắc của từng khoảnh khắc đang đến với mẹ. Với hai tiếng thưa xin vâng, Mẹ đón nhận giây phút hiện tại như một món quà cao quý nhất Thiên Chúa trao ban.

Cùng với Mẹ sống lại mầu nhiệm của ơn cứu rỗi, chúng ta hãy đón nhận Đấng đang đến, Đấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Chúng ta hãy đón Ngài trong phút giây hiện tại này đây với tất cả tin tưởng phó thác.

Chúa trao ban cho chúng ta nhiệm vụ để thi hành trong phút giây này đây. Chúng ta hãy hoàn tất với tất cả cố gắng của chúng ta. Chúa trao ban cho chúng ta niềm vui của phút giây này đây, hãy tận hưởng như thể sẽ không còn một niềm vui nào khác.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
07-10-2009, 08:06 AM
08 tháng 10

Bức tượng người mù

Cũng như tại bất cứ một trung tâm hành hương nào. Tại Lộ Đức, du khách và khách hành hương có thể đọc được không biết bao nhiêu lời cảm tạ dâng lên Đức Mẹ cũng như không biết bao nhiêu kỷ vật khác mà những người thọ ơn muốn cho thiết lập để ghi nhớ ơn Mẹ… Trong muôn nghìn kỷ vật tạ ơn ấy, người ta thấy có một bức tượng diễn tả một người mù vừa được chữa lành. Dĩ nhiên, được sáng mắt là một trong những phép lạ đầu tiên được ghi trong sách những phép lạ tại Lộ Đức. Nhưng bức tượng người mù sáng mắt ở đây lại tượng trưng cho một biến cố khác, một phép lạ theo đúng nghĩa bởi vì đó là phép lạ của một người tìm lại được ánh sáng đức tin.

Bức tượng này được một người đàn bà quý phái cho dựng lên để ghi nhớ ánh sáng Đức tin mà bà đã tìm lại được tại Lộ Đức. Tuy là người công giáo, nhưng kể từ khi chồng qua đời, người đàn bà không còn một chút tin tưởng gì nơi Chúa và Mẹ nữa. Và dĩ nhiên, cũng giống như những người khô đạo khác, người đàn bà chỉ tìm kiếm có mỗi một điều: đó là thú vui trong cuộc sống.

Một mùa hè nọ, trên đường đi đến một trung tâm nghỉ mát nổi tiếng ở phía Nam nước Pháp, người đàn bà phải đi qua Lộ Đức. Thấy đám đông tấp nập tại trung tâm Thánh Mẫu, bà ta tò mò dừng lại xem. Bà không ngờ rằng chính Chúa đang tìm kiếm và đeo đuổi bà. Từ thái độ bàng quang của một người hiếu kỳ, người đàn bà đã tìm lại ánh sáng đức tin. Để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, bà đã cho dựng lên bức tượng của người mù với hàng chữ như sau: “Tìm lại Đức tin là một phép lạ vĩ đại hơn là được sáng mắt”.

Trên vạn nẻo đường của chúng ta, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Thật ra, không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đeo đuổi kiếm tìm con người.

Trong mọi biến cố của cuộc sống, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Trong an vui hạnh phúc, hay trong thất bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh ta để mời gọi ta tin tưởng ở Tình yêu của Ngài. Ngay cả khi con người muốn khước từ và gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đeo đuổi con người.

Thánh Kinh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thủy, lúc nào cũng chờ đợi, lúc nào cũng nài nỉ lúc nào cũng vỗ về, lúc nào cũng tha thứ.

Tin ở một sự hiện diện trung thành như thế của Thiên Chúa, thái độ của chúng ta phải là thức tỉnh, chờ đợi và tin tưởng không ngừng. Trong an vui thành đạt, chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa. Trong thất bại khổ đau, chúng ta cũng hãy tin tưởng phó thác. Và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin tưởng ở lòng tha thứ vô bờ của ngài. Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ mặc con người.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
08-10-2009, 08:21 AM
09 tháng 10

Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn

Thời cách mạng Pháp năm một ngàn bảy trăm tám mươi chín, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả những gì mà họ gọi là tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân có muốn từ bỏ tôn giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phát đã trả lời như sau: “Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi cầu nguyện”.

Tự đáy tâm hồn mình, con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên Chúa. Cầu nguyện, dưới hình thức này hay hình thức khác, là hơi thở của tâm hồn. Người ta có thể trói buộc tay chân con người, người ta có thể khóa chặt miệng lưỡi con người, nhưng không ai có thể ngăn cản con người cầu nguyện.

Cầu nguyện là nhựa sống của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác vì bệnh tật, đớn đau hay bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm hồn con người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên mọi thử thách và chết chóc.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
09-10-2009, 08:40 AM
10 tháng 10

Trần như nhộng

Trần Bình vốn là một mưu thần đời nhà Hán, thời Hán Sở tranh hùng. Một hôm, khi trốn Sở về đầu Hán, Trần Bình phải đi qua một con sông lớn. Người lái đò đưa khách qua lại vốn là một tay cướp giựt, giết người khét tiếng. Hắn nghĩ Trần Bình là một người giàu có, định ra tay hãm hại để thâu đoạt tiền của. Biết ý định của tên lái đò, trước khi xuống đò, Trần Bình đã cởi hết quần áo. Mình trần như nhộng, Trần Bình lại đến xin tên lái đò cho chèo phụ giúp hắn. Nghĩ rằng một người trần truồng như thế không phải là một người giàu có, tên lái đò đã để yên cho Trần Bình. Thế là ông ta đã thoát nạn.

Đôi khi phải chấp nhận một vài nhục nhã, cắt bỏ đi một phần của cải hay ngay cả một phần thân thể, chúng ta mới có thể thoát được hiểm nguy đe dọa đến tính mạng. Trong bất cứ một cuộc di tản nào, để bảo đảm cho mạng sống, đôi khi người ta phải bỏ lại đằng sau nhà cửa, ruộng vườn, tài sản và ngay cả bà con thân thuộc của mình. Chúng ta có một sự sống giá trị gấp bội phần sự sống trên trần gian này. Sự sống ấy đòi hỏi chúng ta phải hy sinh tất cả mọi sự trong cuộc sống tạm bợ này. Lời sau đây của Chúa Giêsu đã đánh động không biết bao nhiêu người trong lịch sử nhân loại: “Lời lãi cả thế gian để được ích gì nếu mất linh hồn mình?”


Trích từ sách LẼ SỐNG

dominico_dung
09-10-2009, 09:15 AM
10 tháng 10

Trần như nhộng

Trần Bình vốn là một mưu thần đời nhà Hán, thời Hán Sở tranh hùng. Một hôm, khi trốn Sở về đầu Hán, Trần Bình phải đi qua một con sông lớn. Người lái đò đưa khách qua lại vốn là một tay cướp giựt, giết người khét tiếng. Hắn nghĩ Trần Bình là một người giàu có, định ra tay hãm hại để thâu đoạt tiền của. Biết ý định của tên lái đò, trước khi xuống đò, Trần Bình đã cởi hết quần áo. Mình trần như nhộng, Trần Bình lại đến xin tên lái đò cho chèo phụ giúp hắn. Nghĩ rằng một người trần truồng như thế không phải là một người giàu có, tên lái đò đã để yên cho Trần Bình. Thế là ông ta đã thoát nạn.

Đôi khi phải chấp nhận một vài nhục nhã, cắt bỏ đi một phần của cải hay ngay cả một phần thân thể, chúng ta mới có thể thoát được hiểm nguy đe dọa đến tính mạng. Trong bất cứ một cuộc di tản nào, để bảo đảm cho mạng sống, đôi khi người ta phải bỏ lại đằng sau nhà cửa, ruộng vườn, tài sản và ngay cả bà con thân thuộc của mình. Chúng ta có một sự sống giá trị gấp bội phần sự sống trên trần gian này. Sự sống ấy đòi hỏi chúng ta phải hy sinh tất cả mọi sự trong cuộc sống tạm bợ này. Lời sau đây của Chúa Giêsu đã đánh động không biết bao nhiêu người trong lịch sử nhân loại: “Lời lãi cả thế gian để được ích gì nếu mất linh hồn mình?”


Trích từ sách LẼ SỐNG



Nhìn người đời sống quanh ta, đang nghĩ ngợi về điều này suốt tháng nay.
Giờ ngấm thêm được khi đọc hết comment này!

Cỏ Lau
10-10-2009, 07:12 AM
11 tháng 10

Một cách truyền giáo

Tuần báo Midnight-Globe xuất bản tại Hoa Kỳ, gần đây có thuật lại một phương thức làm việc tông đồ của một tín hữu Kitô như sau: mỗi ngày, trừ ngày Chủ Nhật, ông Jewel Pierce đều ra bờ sông Coosa, gần chỗ ông ở, tại Bang Alabama. Ông ném xuống sông hai chai không, trong đó ông để một mảnh giấy ghi một câu Kinh Thánh nói về tình thương hay một sứ điệp tương tự, kèm theo đó là lời đề nghị sẵn sàng giúp đỡ tất cả những ai cần đến sự giúp đỡ của ông về tinh thần cũng như vật chất. Những chai không đó được bín kín lại và theo dòng sông chạy ra biển khơi cách đó mười lăm cây số.

Trong vòng bốn mươi năm, ông Jewel Pierce đã gởi đi được hai mươi bảy ngàn sứ điệp tình thương Kitô như thế, kèm theo địa chỉ của ông. Đã có hơn hai ngàn người thuộc ba mươi quốc gia khác nhau đã viết thư trả lời và rất nhiều người đã đọc được những lời đầy hy vọng của sứ điệp Kitô.

Một vị giám mục Việt Nam đã thuật lại chứng từ sau đây. Tại một làng nhỏ ở miền thượng du bắc Việt, toàn dân làng là người công giáo, nhưng từ hai mươi năm qua, họ không có linh mục coi sóc. Dù vậy, các tín hữu vẫn tổ chức các buổi đọc kinh và hát thánh ca tại nhà thờ. Đây cũng là nơi họ tổ chức các lễ cưới và rửa tội một cách trọng thể. Dù gặp nhiều khó khăn, nhưng dân làng vẫn sống trong an vui và bình thản.

Tiếng đồn về niềm vui của dân làng đến tai một làng sơn cước. Do đó, dân làng sơn cước này yêu cầu những người công giáo cho người đến dạy họ các bài kinh và thánh ca để họ cũng tìm được niềm vui.

Nhưng dân làng công giáo không tìm được ai: người lớn thì phải đi làm việc đồng áng, trẻ em thì phải đi học, còn người già cả thì không đủ sức băng rừng leo núi để đến giúp người sơn cước. Chỉ có một người thuộc lòng kinh bổn, thánh ca và biết các nghi thức tôn giáo. Người đó lại là một người mù.

Sau khi bàn bạc với nhau, dân làng sơn cước đã đồng ý sai người dẫn hai con ngự đi rước người mù. Người tín hữu tàn tật này đã ở lại với dân làng bốn tháng. Cứ mỗi tối, sau khi làm việc trở về, dân làng tụ họp với nhau, nay nhà này, mai nhà khác, để tập đọc kinh và hát thánh ca. Sau một thời gian, người giảng viên giáo lý mù khảo sát và làm phép rửa cho người dân làng đầu tiên. Và người tân tòng này lại rửa tội cho những người khác và cứ như thế cho đến người cuối cùng.

Phương pháp làm việc tông đồ của làng công giáo trên đây là phương pháp đơn sơ, nhưng cốt yếu của Kitô giáo: đó là rao giảng bằng chính chứng từ của cuộc sống, nhất là cuộc sống an bình và vui tươi.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
11-10-2009, 07:25 AM
12 tháng 10

Người nữ tu khó tính

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu được trao phó cho công việc trông coi một chị nữ tu già bị bất toại. Người nữ tu già này nổi tiếng là một người khó tính trong nhà dòng. Têrêxa phải dìu bà đi từng bước. Một chút thiếu sót cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Bà không một lần nói lên một tiếng cám ơn. Thế nhưng Têrêxa vẫn luôn tỏ ra vui tươi hồn nhiên và chịu đựng tất cả vì thánh nữ yêu mến Chúa và vì Tình Yêu Chúa, thánh nữ yêu mến người nữ tu già đáng thương này.

Tình yêu đối với Chúa thường không được tỏ hiện bên ngoài. Dấu hiệu bên ngoài của Tình yêu mến đối với Chúa chính là yêu mến tha nhân. Và chúng ta chứng tỏ Tình yêu đối với tha nhân không những bằng lời nói nhưng nhất là bằng hành động, bằng sự nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
12-10-2009, 08:07 AM
13 tháng 10

Mặt trời múa

Hôm nay ngày mười ba tháng mười, là ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra lần thứ sáu cho ba em Lucia, Phanxicô và Giacinta tại làng Fatima bên Bồ Đào Nha.

Đây là lần hiện ra có đông đảo dân chúng chứng kiến nhất. Mặc dù thời tiết xấu, ngay từ ngày mười hai, có trên mười ngàn người Bồ Đào Nha từ khắp nơi trong nước đổ xô về Fatima để chờ đợi phép lạ như Đức Mẹ đã hứa trong các lần hiện ra trước. Người lo lắng nhất trong suốt mấy ngày hôm đó chính là bà mẹ của Lucia. Bà khuyên cô con gái hãy đi xưng tội để nhỡ nếu không có phép lạ xảy ra, thì khi bị giết chết, họ cũng an tâm vì đã xưng tội. Cô Lucia trả lời: con sẽ đi xưng tội, nhưng không phải vì sợ phép lạ không xảy ra… Đức Mẹ sẽ giữ lời hứa.

Buổi sáng sớm ngày mười ba tháng mười, người ta đã thấy đám đông đứng phủ đầy ngọn đồi Cova da Iria, Đức Mẹ hứa sẽ hiện đến. Dưới cơn mưa lất phất của những ngày đầu mùa thu, ai cũng cảm thấy lạnh cóng, nhưng đều hiệp ý với nhau trong lời kinh Mân Côi dâng kính Mẹ. Mọi người đều chăm chú hướng nhìn về ba em bé mục đồng, trong y phục rách rưới và bê bết những bùn.

Lucia bắt đầu đọc kinh Mân Côi, bỗng cô hô lớn: “Xin mọi người hãy xếp dù lại”. Với hai em Phanxicô và Giacinta, cô ra lệnh: “Hai em hãy quỳ gối xuống, vì Đức Mẹ đang hiện đến”.

Cùng với ba em, nhiều người đã nhìn thấy những vệt sáng trên nền trời. Trong một cái nhìn vừa cảm thông và u buồn, Đức Mẹ nói với ba em bé: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi… Ta muốn người ta xây một nhà nguyện tại đây để kính nhớ Ta. Các con hãy tiếp tục lần hạt mỗi ngày”. Và Đức Mẹ cũng hứa sẽ nhận lời cầu xin của một số người mà Lucia đã đại diện trình lên mẹ. Nhưng Mẹ cảnh cáo: “Đừng xúc phạm đến Chúa nữa, người ta đã xúc phạm quá đỗi rồi”. Nói xong những điều đó, Đức Mẹ chỉ tay về hướng mặt trời… Trong cơn ngây ngất, Lucia đã thốt lên: “Xin mọi người hãy nhìn về mặt trời”.

Lạ lùng thay, ai cũng có thể nhìn thẳng về mặt trời mà không bị lóa mắt. Như một bánh xe cuồn cuộn lửa đỏ, ánh thái dương bỗng quay lượn, nhảy múa và toát ra những tia sáng muôn màu sắc. Rồi thình lình từ trời cao, mặt trời bỗng đổ xuống như một trái bóng da khổng lồ. Trong cơn hốt hoảng, mọi người cảm thấy như mặt trời sắp rơi xuống, ai ai cũng nằm rạp xuống trên bãi cỏ và đấm ngực ăn năn như để chờ đợi giây phút cuối cùng của vũ trụ… Hiện tượng mặt trời nhảy múa và sa xuống mặt đất kéo dài trong vòng hai phút. Khi mặt trời đã trở lại trạng thái bình thường, mọi người đều nhận thấy rằng, bãi cỏ ướt đẫm trong cơn mưa bỗng trở nên khô ráo.

Việc Đức Mẹ hiện ra và hiện tượng mặt trời múa đi kèm như được mô tả trên đây, mang nhiều ý nghĩa.

Chính phủ cách mạng tại Bồ Đào Nha vào năm một ngàn chín trăm mười bảy muốn đánh đổ những thứ mà họ gọi là huyền thoại tôn giáo, cũng như dẹp bỏ mọi thứ cuồng tín. Buổi sáng ngày mười ba tháng mười hôm đó, cả một lực lượng võ trang hùng hậu đã được gởi đến đồi Cova da Iria để ngăn cản mọi cuộc tập họp của dân chúng. Báo chí thì tung ra lời tiên đoán rằng phép lạ sẽ không bao giờ xảy ra và huyền thoại tôn giáo sẽ cáo chung từ hôm đó.

Thế nhưng tất cả những sức ép trên đây đã không đánh đổ được lòng tin của người tín hữu.

Phép lạ mặt trời múa vừa là một thể hiện của quyền năng của Thiên Chúa vừa là một lời mời gọi sám hối. Đệ nhất thế chiến đã làm phát sinh nhiều làn sóng vô thần chủ trương tiêu diệt tôn giáo bằng bạo lực. Bên cạnh những chế độ độc tài đang chối bỏ quyền sống của con người, nhiều người cũng buông thả trong đời sống luân lý.

Thế giới chỉ có thể cứu vãn được nếu con người biết hoán cải: đó là sứ điệp mà Đức Maria đã không ngừng lập đi lập lại tại Fatima. Và phương tiện để giúp con người hoán cải trước tiên đó là cầu nguyện. Cầu nguyện không những là quay trở lại với Chúa, nhưng còn là một cải đổi tương quan với người anh em.

Lịch sử đang lập lại không ngừng. Quyền sống của con người đang bị chối bỏ nhiều nơi trên thế giới. Con người cũng chối bỏ và chà đạp chính hình ảnh của Thiên Chúa trong những sa đọa về luân lý. Đức Maria đang tha thiết kêu mời chúng ta hãy sám hối, siêng năng cầu nguyện với kinh Mân Côi… Đó là phương thế duy nhất để cứu vãn thế giới của chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
13-10-2009, 08:20 AM
14 tháng 10

Lời trăn trối của người Mẹ

Thời cách mạng Pháp, người ta hay nhắc đến một khuôn mặt dữ tợn, chuyên săn lùng các linh mục: đó là đại úy Laly.

Ông đã gia nhập vào Đảng Jacobins đi khắp nơi để gieo rắc kinh hoàng cho dân chúng. Nhiều vị linh mục đã kín đáo đến khuyên nhủ để lôi kéo ông ra khỏi tội ác. Nhưng tất cả mọi cố gắng của người khác đều vô ích. Con người độc ác đó chỉ đáp lại bằng lãnh đạm và những lời lẽ thô tục.

Thế nhưng một hôm, khi mọi người tưởng như không còn một chút hy vọng. Laly đã lần mò đến một linh mục để xin xưng tội và hoà giải với Giáo hội. Sau đó ông đã thú nhận: “Cả đời, ngày nào tôi cũng đọc một kinh Kính Mừng, theo lời trối trăn của Mẹ tôi trước khi chết”.

Có những câu ca dao, có những bài hát, có những bài học làm người, chúng ta tiếp thu ngay khi còn ngồi trên gối mẹ. Trí óc non dại của chúng ta chưa đủ khả năng để lĩnh hội ý nghĩa sâu xa của những bài học đó. Nhưng dần dà với thời gian, khi chúng ta bắt đầu biết suy nghĩ, những bài học đó trồi lên một cách trong sáng trong kiến thức của chúng ta. Có lẽ người mẹ nào cũng hiểu được giá trị của câu: “Dạy con từ thuở còn thơ…”

Mẹ Maria, Hiền Mẫu của chúng ta, vừa là một mẫu gương vừa là một nhà giáo dục tuyệt hảo trong đức tin. Lời kinh dâng Mẹ mà chúng ta bập bẹ khi vừa biết nói là bài ca dao đẹp nhất không ngừng ngân vang trong cuộc sống Kitô chúng ta. Có thể, đôi lúc chúng ta cũng ngâm nga một cách máy móc, nhưng Mẹ vẫn có đó và Mẹ vẫn đeo đuổi, ấp ủ chúng ta trong Tình yêu bao la của Mẹ.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
14-10-2009, 08:31 AM
15 tháng 10

Người đàn bà “rất đàn bà”

Hôm nay là ngày kính nhớ thánh nữ Têrêxa Avila.

Vị nữ tiến sĩ hội thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo hội. Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời khi Công Đồng Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo hội như một đóa hoa đẹp đẽ nhất giữa những gai góc đang ụp phủ trên Giáo hội. Nhưng Têrêxa Avila cũng chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn bà khác. Đẹp, có nhiều năng khiếu, đảm đang, đa tình. Têrêxa lại là một người đàn bà “rất đàn bà”. Thế nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có nhiều tương phản: thông minh, nhưng lại thực tế; biết nhiều, nhưng không cao vời với kinh nghiệm sống; thần bí, nhưng lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.

Têrêxa là một người đàn bà hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện, kỷ luật và biết cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Đã thách thức tất cả mọi chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng tiếp tục đương đầu với không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng kín. Người đàn bà yếu đuối này chỉ còn một nơi nương tựa duy nhất: đó là Thiên Chúa.

Một người sống cho Chúa hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác. Canh tân cuộc sống của mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người khác canh tân cuộc sống.

Suốt cuộc đời trải qua trong gian lao và thử thách, về cuối đời, Thánh nữ đã thốt lên: “Ôi lạy Chúa, tất cả những ai làm việc cho Chúa đều được đáp trả bằng gian lao, khốn khó. Nhưng cao quý thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa, nếu họ hiểu được giá trị của nó”.

Hiện nay, người ta nói đến rất nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ nữ.

Có lẽ tất cả những ai đang tranh đấu cho nữ quyền nên nhìn vào mẫu gương của thánh nữ Têrêxa Avila. Một người đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại, nhưng bản chất đàn bà vẫn không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người đàn bà chỉ có thể đóng trọn vai trò của họ trong Giáo hội và trong xã hội khi họ biết trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!

Người nữ có phúc nhất giữa các người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là Đức Maria. Bí quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người nữ và làm người của mình chính là hai tiếng xin vâng. Thiên Chúa đã tạo dựng con người và đã quy định cho con người một định mệnh: định mệnh đó chính là sống cho Chúa. Đức Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam nữ khác, đã thực hiện được định mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Chỉ có một sự bình đẳng duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Đức Maria đã minh chứng được sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu rỗi của Đức Kitô.

Trước mặt Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng hơn chỗ đứng khác. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Chúa.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
15-10-2009, 08:04 AM
16 tháng 10

Xin cho chúng con lương thực hằng ngày

Hôm nay là ngày quốc tế về lương thực do tổ chức Lương nông của Liên Hiệp Quốc đề xướng.

Nói đến lương thực, nhất là trong một quốc gia nghèo đói như Việt Nam, có lẽ tự nhiên, ai trong chúng ta cũng nghĩ đến cái đói trên thế giới.

Đói không chỉ là một trạng thái cần ăn uống, nhưng được các chuyên viên về thực phẩm và sức khoẻ định nghĩa như là một tình trạng thường xuyên của một người không đủ ăn để có thể có một cuộc sống lành mạnh. Danh từ chuyên môn thường được dùng để chỉ tình trạng này là dưới mức dinh dưỡng. Nạn nhân dễ thấy nhất của tình trạng này là các trẻ em của những nước nghèo.

Mỗi năm người ta tính có đến 15 triệu trẻ em chết vì nhiều nguyên do có liên quan đến tình trạng thiếu dinh dưỡng. Mỗi ngày, trên khắp thế giới, có khoảng 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Số người chết vì đói ăn cũng tương đương với số thương vong nếu cứ 3 ngày một trái bom hạt nhân được ném xuống một vùng đông dân cư.

Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến nạn đói kém. Người ta cho rằng nguyên nhân chính nằm trong chính sách kinh tế, chế độ chính trị, xã hội. Nhưng tựu trung, căn rễ sâu xa nhất vẫn là sự ích kỷ của con người. Nếu một phần mười những người giàu có trên thế giới biết san sẻ cho những người nghèo, thì có lẽ thế giới này không còn có những trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu ngay cả trong một quốc gia, người ta biết dùng tiền bạc để mua cơm bánh cho con người hơn là đầu tư vào khí giới, thì chắc chắn sẽ không còn cảnh người chết đói nữa.

Tại một vài quốc gia kỹ nghệ đang chuyển mình để bước vào cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ ba, người ta thường nói đến kỷ nguyên điện toán, thụ thai trong ống nghiệm… Thế nhưng, tại rất nhiều nơi trên thế giới, mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói ăn… Thế giới của chúng ta quả là một thân thể bệnh hoạn. Một nơi nào đó trong cơ thể, một số bộ phận phát triển một cách dư dật, một nơi khác, nhiều cơ phận đang chết dần chết mòn vì thiếu tiếp tế.

Có lẽ nhân loại của chúng ta không chết đói cho bằng vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương của người đồng loại. Những người dư dật nhưng không biết san sẻ cũng là những người đang chết dần trong ích kỷ. Con người cần có cơm bánh để sống đã đành, nhưng con người cũng cần có tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống.

Chúng ta phải làm gì để được sống? Dĩ nhiên, chúng ta phải có đủ cơm bánh hằng ngày. Nhưng câu trả lời mà mỗi người kitô phải tự nói với mình là: để được sống, tôi cần phải làm cho người khác được sống. Đó là sự sống đích thực của chúng ta. Bởi vì ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
16-10-2009, 08:19 AM
17 tháng 10

Lòng nhân từ cảm hoá

Dưới tựa đề: “Lòng nhân từ cảm hoá”, người ta thuật lại một câu chuyện như sau:

Một bà mẹ kia lo lắng nhiều vì đứa con trai không đi nhà thờ nữa, mà lại theo những bạn bè xấu và tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Bà mẹ đau khổ này đã tìm mọi cách để đưa con về con đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Một ngày Chủ Nhật nọ, bà nảy ra một ý tưởng. Gọi đứa con trai lại, bà nói: “Con làm ơn giúp mẹ một chuyện. Hãy đem gói đồ này đến cho gia đình ở căn nhà trong khu phố đối diện với chúng ta. Nếu con làm dùm mẹ việc này, mẹ hứa sẽ không bao giờ quấy rầy con nữa”.

Có lẽ để khỏi nghe tiếng mẹ giảng dạy, la rầy, chàng thanh niên đã nhận làm điều mẹ anh ta yêu cầu. Anh đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một căn nhà nghèo nàn và bỡ ngỡ đến tột điểm, anh đã khám phá thấy một người đàn bà đau ốm chỉ còn da bọc xương với ba đứa con nhỏ, rách rưới, lem luốc, đang than khóc, kêu la vì đói.

Chàng thanh niên trao vội gói đồ và muốn nhanh bước rút lui. Nhưng người đàn bà đã gọi giật anh trở lại, và qua giọng yếu ớt bà thều thào: “Cậu ơi! Cậu không thể đi ngay được khi tôi chưa kịp cám ơn cậu. Cậu là ơn quan phòng Chúa gởi đến cho chúng tôi. Xin Ngài trả ơn cho cậu”.

Chàng thanh niên ra về với tấm lòng bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, anh trở lại nhà bà mẹ đang bị đau ốm với đàn con nheo nhóc hôm qua với một gói quà khác, mà anh đã mua với chính tiền của anh. Và sau khi trao quà, anh còn ở lại chơi với mấy đứa nhỏ.

Chàng thanh niên đã thay đổi cuộc đời, vì lòng nhân hậu đã làm anh mỗi ngày một hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và nhờ đó anh cảm thấy hạnh phúc hơn.

Chúng ta đã đi nửa đoạn đường của tháng Mân Côi, đây là khoảng thời gian chúng ta âu yếm dâng lên Mẹ Maria những tràng chuỗi Mân Côi với hằng triệu lời chào: “Kính mừng Maria, đầy ơn phước”. Nhưng ước gì xen lẫn với những lời kinh tiếng hát, chúng ta cũng biết lắng nghe những lời Mẹ khuyên qua những mầu nhiệm thuật lại các biến cố xảy ra trong cuộc đời Mẹ.

Chú tâm nghe lời Mẹ khuyên nhủ, chắc chắn qua Mầu nhiệm thứ hai của Năm Sự Vui: “Đức Bà đi viếng thánh Ysave, ta hãy xin cho được lòng yêu người”. Mẹ Maria, cũng như bà mẹ trong câu chuyện trên, cũng muốn nhờ chúng ta làm cho Mẹ một chuyện: đó là hãy thể hiện lòng yêu người qua những hành động cụ thể để tinh thần phục vụ Mẹ đã thể hiện qua sự giúp đỡ bà chị họ Ysave cũng được con cái Mẹ tiếp tục làm lại.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
17-10-2009, 11:17 AM
18 tháng 10

Lòng đầy miệng mới nói ra

Người ta thường bảo: “Lòng đầy miệng mới nói ra” hay “Văn tức là người”. Hai câu nói này có thể áp dụng rất đúng vào vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay: Thánh luca, thánh sử.

Chúng ta không có được những sử liệu để biết về cuộc đời của thánh Luca ngoài danh hiệu thánh Phaolô nói về Ngài: “Luca, vị y sĩ rất thân mến của chúng tôi…” Vì thế, chúng ta phải tìm hiểu về con người của thánh Luca qua 2 tác phẩm ngài biên soạn, nhất là qua sách Phúc âm, thường được trao tặng những biệt hiệu sau đây:

1. Phúc âm thánh Luca là Phúc âm của Lòng Thương Xót: Thánh Luca đặc biệt nêu bật lòng ưu ái và sự kiên nhẫn của Chúa Giêsu đối với những tội nhân và những kẻ đau khổ. Ngài luôn mở rộng đôi tay để đón nhận họ: những người xứ Samaria, những kẻ bị bệnh phong hủi, những người thu thuế, những kẻ phạm tội công khai, những người nghèo cũng như những mục đồng thất học.

Ngụ ngôn về người phụ nữ phạm tội ngoại tình, về một con chiên lạc, một đồng tiền bị đánh mất, về đứa con hoang đàng và người trộm lành chỉ được ngọn bút của thánh Luca ghi lại rất linh động và xúc tích.

2. Phúc âm thánh Luca là Phúc âm của Ơn Cứu Rỗi phổ quát và đại đồng: Chúa Giêsu giang rộng đôi cánh tay, chết treo trên thập giá là cho tất cả mọi người. Trong luồng tư tưởng này, thánh Luca ghi lại gia phả của Chúa Giêsu ngược lại đến nguyên tổ Adam chứ không phải chỉ ghi Chúa Giêsu là con vua Đavít, con ông Abraham như thánh sử Matthêu. Và trong lúc Chúa Giêsu hoạt động rao giảng Tin Mừng, nhiều người dân không phải là Do Thái cũng được Ngài ân cần tiếp đón và thi ân.

3. Phúc âm thánh Luca là Phúc âm của những người nghèo, trong đó những người đơn sơ, nhỏ bé, đóng một vai trò quan trọng, như: ông Giacaria và bà Ysave, Đức Maria và thánh Giuse, những người mục đồng, ông Simêon và bà goá Anna.

4. Phúc âm thánh Luca là Phúc âm của sự cầu nguyện và của Chúa Thánh Thần: Luca thường mở đầu một đoạn Phúc âm với lời ghi nhận “Chúa Giêsu đang cầu nguyện” và Thánh Thần mang Giáo hội đến chỗ hoàn hảo cuối cùng.

5. Phúc âm thánh Luca là Phúc âm của niềm vui: thánh Luca thành công trong việc phát họa hình ảnh Giáo hội sơ khai tràn đầy niềm hân hoan vì cảm nghiệm được Mầu nhiệm Phục sinh, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và Ơn Cứu Rỗi.

Mừng lễ kính thánh Luca, chúng ta hãy cùng nhau đọc đoạn cuối của Phúc âm, gồm những dòng có thể so sánh như chiếc gạch nối liên kết sách Phúc âm với sách Tông Đồ Công Vụ để diễn tả một sinh hoạt rất quan trọng của Giáo hội và của mọi tín hữu Kitô: “Đoạn Chúa dẫn các môn đệ đi về phía làng Bêtania. Chúa giơ tay chúc phúc cho họ. Đang khi Chúa phán, Chúa rời khỏi họ mà lên trời. Các môn đệ thờ lạy Chúa rồi trở về Giêrusalem, lòng đầy hân hoan. Họ có mặt luôn luôn trong đền thờ để ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa”.

Dõi theo gương của các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn dâng lời ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
18-10-2009, 11:54 AM
19 tháng 10

Ôi Giêsu, Ôi Giêsu!

Jeanne D’Arc, một cô gái quê, đã nghe theo tiếng gọi từ trời cao để cầm quân đánh đuổi người Anh ra khỏi đất Pháp. Nhờ chiến thắng này, hoàng tử Charles đã được đăng quang làm vua nước Pháp.

Nhưng sau đó trong một trận chiến khác, Jeanne D’Arc bị bại trận, cô bị người Anh bắt giữ và bị kết án hỏa thiêu. Trong những giờ phút cuối cùng cô chỉ còn trơ trọi một mình: người mẹ thân yêu ở cách xa ngàn dặm, vua Charles không muốn bỏ tiền ra để chuộc cô, các tướng lãnh và binh lính đã từng sát cánh với cô cũng bỏ chạy trốn hết. Chỉ còn lại âm thanh lúc nào cũng trung thành với cô: đó chính là tiếng kêu của cô.

Trong cơn đau đớn cùng cực, người thiếu nữđã kêu lớn: “Ôi Giêsu, ôi Giêsu!” Quả thật, dù lòng người có bội bạc phôi pha, Chúa Giêsu vẫn luôn ở với cô và luôn an ủi nâng đỡ cô.

Tin tưởng là tiếp tục yêu mến cho dù trong từng phút giây ta có bị người đời bỏ rơi, phản bội. Yêu là tin rằng ta có thể trung thành trước những bất trung của người khác và những thăng trầm của cuộc sống. Chúng ta đứng vững trong niềm tin vì cho dù xung quanh ta không còn một bóng người, Thiên Chúa vẫn luôn ởđó.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Blue cloud
18-10-2009, 05:43 PM
Nhìn Lại Chính Mình

Source: www.softtunesmusic.com
Sau gần hai thập niên bị mất tích, cô Jaycee Lee Dugard đã được tìm thấy. Gia đình của cô hưởng một niềm hạnh phúc bất ngờ, vì họ đã tưởng là cô không còn trên cõi đời này nữa. Tên hung thủ, là Phillip Craig Garrido, đã bắt cóc Jaycee Lee vào năm 1991 khi cô còn nhỏ. Trong khi giam giữ Jaycee Lee, Garrido lợi dụng chiêu bài danh Thiên Chúa để ức hiếp cô và bắt phục vụ mình trong suốt 18 năm trường.
Khi nghe tin đó trên đài Truyền hình, tôi cực lực lên án Garrido, vì hắn đã che đậy những hành động xấu xa của mình bằng những lời tuyên xưng danh Chúa hào nhoáng trên môi miệng. Nhưng sự kiện trên đã làm tôi giật mình khi nghĩ lại chính mình: biết đâu có lần tôi cũng đã phạm phải những lỗi lầm tương tự. Biết đâu, khi dự Lễ, tôi đã ngang nhiên lên rước lễ khi lòng còn mang tội trọng. Chẳng phải như vậy là tôi đã phạm sự thánh rồi sao? Chẳng phải như vậy là tôi đã mượn sự rước Lễ để che đậy tâm hồn vướng mắc của mình trước con mắt người khác đó sao? Như vậy thì tôi có khác gì Garrido đâu?
Lần kia, tôi được nghe một bài giảng của Đức Cha Nguyễn Khảm nói về sự mong manh của đức tin: Khi mình làm điều xấu lần đầu, lương tâm cắn rứt và tâm hồn không được bình yên. Nhưng mà nếu mình cứ làm điều xấu hoài thì đến một lúc nào đó nó sẽ trở thành một tập quán và mình sẽ không còn lo ngại về nó nữa. Đáng sợ chưa!
Chúa đã dạy là con người thường dễ thấy lỗi lầm nhỏ mọn nơi anh em, nhưng lại không thấy được những sai sót tệ hại nơi chính mình. Đó chỉ là vì mình đã làm mù con mắt đức tin của mình bằng tập quán xấu, hoặc bằng vị nể sự đánh giá của người khác, để rồi mình rất dễ gạt đi những nhắc nhở của lương tâm.
Thắng người thì dễ, nhưng thắng chính mình thì mới khó. Trước khi một nhà doanh nhân đánh bại những đối thủ tầm cỡ trên thương trường, ông ta phải trải qua những ngày tháng học tập gian truân. Ông phải tự bỏ đi những thú vui của bản thân để rèn luyện cho mình một kiến thức và khả năng vững vàng. Ông nói rằng sự khác biệt duy nhất giữa thành công và thất bại là sự kiểm soát chính mình. Tuy rằng hoàn cảnh phần nào chi phối bản thân, sự lựa chọn tối hậu vẫn là nơi con người. Thiên Chúa đã ban cho con người quyền tự do lựa chọn tuyệt đối và Người tôn trọng quyền tự do đó. Như vậy mình phải dùng món quà tự do này thế nào đây?
Xin Chúa cho con luôn được nhìn thấy chính mình con và giúp con can đảm lựa chọn những điều lành cho mình và cho anh em. Amen.

Cỏ Lau
19-10-2009, 08:17 AM
20 tháng 10

Làm trai nên chết ở biên thùy

Gần một nửa thế kỷ trước Chúa Giáng Sinh, một danh tướng nhà Đông hán là Mã Viện đã nói một câu bất hủ: “Làm trai nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thân mà chôn, chứ nằm xó giường mà chết trong tay người nâng đỡ thì còn xứng đáng gì”.

Tại thành Sparte thuộc Cổ Hy Lạp, mỗi khi tiễn con ra trận, người mẹ thường đưa cho con một cái mộc và bảo con rằng: cùng với nó hay nằm trên nó. Cùng với nó, con đắc thắng trở về. Nằm trên nó, xác con được mọi người kính nể khiêng vác trên vai.

Người Kitô chúng ta cũng đã nhận lấy một chiếc mộc. Đó là chiếc mộc của bí tích Rửa tội. Qua cửa ngõ của bí tích này, chúng ta như được gởi ra chiến trường.

Cái chết từng ngày là điều đang chờ đợi chúng ta. Nhưng cái chết đó là con đường dẫn đến vinh quang Phục sinh. Đức Kitô, vị thủ lãnh của chúng ta, đã đi qua con đường ấy. Ngài cũng đang có mặt trong cuộc chiến của chúng ta để dìu dắt chúng ta trong từng phút giây. Nếu có một lúc nào đó, chúng ta chán nản muốn đào ngũ và bỏ cuộc, chúng ta hãy nhìn lên thập giá của Ngài. Thập giá đó phải là ánh sáng soi dẫn những đoạn đường tăm tối trong cuộc chiến của chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
20-10-2009, 08:37 AM
21 tháng 10

Hai cha con và con lừa

Một trong những câu chuyện ngụ ngôn mà người Mỹ thường kể cho con cái nghe nhất đó là câu chuyện “Hai cha con và con lừa”. Có hai cha con dắt con lừa ra chợ bán. Cha ngồi trên lưng lừa, con đi bộ theo sau. Người bên đường thấy thế bèn nói: “Cha gì mà không biết thương con! Ngồi chễm chệ trên lưng lừa, trong khi con phải đi bộ!” Nghe vậy, người cha bèn nhảy xuống khỏi lưng lừa và nhường cho con cỡi lừa. Đi một chốc, hai cha con lại nghe người hai bên đường chỉ trích: “Đồ con bất hiếu, ngồi ung dung trên lưng lừa, trong khi cha lại đi cuốc bộ”. Nghe như vậy, hai cha con mới bảo nhau: “Chỉ còn một cách để cho thiên hạ khỏi nói là hai ta cùng cỡi lừa”.

Thế là hai cha con leo lên lưng lừa. Nhưng đi được một quãng họ lại bắt đầu nghe một lời phê bình khác: “Thật là đồ vô nhân đạo! Làm sao con lừa có thể chịu đựng cả một sức nặng như thế”.

Nghe thế, hai cha con lại vội nhảy xuống khỏi lưng lừa. Lần này thì cũng có người phê bình: “Đồ dại dột, có lừa mà không dám cỡi lại phải đi bộ”. Hai cha con không biết nghĩ sao, đành phải nai lưng khiêng con lừa đến chợ.

Đôi khi chúng ta cũng bị ảnh hưởng rất nhiều vì những lời khen chê của thiên hạ. Dĩ nhiên chúng ta cùng phải biết lắng nghe những ý kiến xây dựng của những người có thiện chí muốn giúp đỡ chúng ta. Tuy nhiên chúng ta không nên để mình bị “rung động” bởi những lời dèm pha thiếu nền tảng của người khác.

Trong Giáo hội cũng có những người mắc phải chứng bệnh thích chỉ trích phê bình người khác. Họ quên rằng mình cũng chỉ là những con người đầy khiếm khuyết. Họ là những gai nhọn hoặc giấm chua trong Giáo hội. Sự hiện diện của họ thường gây sứt mẻ hơn là góp phần xây dựng Giáo hội trong tình yêu thương và hiệp nhất.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
21-10-2009, 08:19 AM
22 tháng 10

Hòn vọng phu

Giữa Nha Trang và Tuy Hoà, khoảng xa lộ 21 và sông Hinh, gần quận Khánh Dương có một ngọn núi tên là Vọng Phu, có nghĩa là trông đợi chồng.

Theo tục truyền trong dân gian thì thưở xưa có một gia đình sống hạnh phúc ở gần chân núi. Khi giặc giã nổi lên ở biên thùy, người chồng theo lệnh vua, tòng quân ra ngoài biên ải để chống quân thù, để lại người vợ trẻ và một đứa con đang còn bú mớm. Người vợ trẻ ở nhà chờ chồng, mỗi ngày bế con trèo lên ngọn núi ngóng về phía biên cương xem có dáng chồng trở về hay không. Thời gian trôi qua nhưng đoàn quân chưa thấy về, người vợ và đứa con chờ đợi mãi hoá thành đá. Người đời biết chuyện nên gọi đó là Hòn Vọng Phu.

Có lẽ đây chỉ là một ngọn núi được cấu tạo bởi nhiều loại đá khác nhau. Theo thời gian, mưa gió soi mòn loại đá mềm, để lại hình dạng mường tượng như một người bồng con ngồi trông ra phía biển.

Người dân ta đa sầu đa cảm, lại thêm cảnh nước luôn loạn ly, đã mượn hình dạng của núi để diễn tả tâm sự trông đợi chồng của người thiếu phụ Việt Nam.

Điều làm cho xao xuyến cảm động ở đây là lòng chung thủy của một thiếu phụ, dù đói no, đau yếu hay mạnh khoẻ, vẫn trước sau một lòng thương yêu chồng, xem chồng như là lẽ sống của cuộc đời.

Rung động trước dạ trung kiên của người thiếu phụ Việt Nam qua hình ảnh Hòn Vọng Phu, chúng ta không khỏi không cảm động trước Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Dù núi dời, dù đồi chuyển, dù con người có bội bạc phôi pha, Thiên Chúa vẫn luôn chung thủy trong Tình yêu của Người. Càng thấm thía tình thương của Chúa, chúng ta càng cảm thấy Người là lẽ sống và là tất cả của cuộc sống.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
22-10-2009, 08:24 AM
23 tháng 10

Cùm chân chó

Sách Lã Thị Xuân Thu có chép một câu chuyện như sau: Nước Tề có người xem tướng chó rất giỏi. Một người hàng xóm tới nhờ anh ta tìm cho một con chó biết bắt chuột. Ít lâu sau, anh mang đến một con chó và nói: “Con chó này tốt lắm, ông cứ dùng sẽ vừa ý”.

Người hàng xóm tin theo, nhưng mấy năm qua, con chó không bắt được con chuột nào cả. Người hàng xóm phàn nàn, anh ta liền nói: “Con chó này tốt nhưng nó chỉ có tài săn bắt hưu nai, bây giờ muốn nó bắt chuột thì phải buộc chân sau nó lại”. Người hàng xóm đã nghe theo và quả nhiên con chó bắt chuột rất hay.

Có cùm chân lại, con chó mới có thể bắt được chuột. Phải chăng đó không là hình ảnh của rất nhiều người thành công trong những địa hạt lớn, trong những công tác xã hội, trong những việc làm ở quy mô lớn, nhưng lại thất bại trong gia đình hay trong chính cuộc sống cá nhân của mình. Người ta nghĩ rằng chỉ có những công việc vĩ đại mới có giá trị. Người ta phân bua rằng việc trong nhà, việc ở xó bếp là việc của đàn bà.

Thế nhưng có ai nghĩ rằng hạnh phúc của gia đình tùy thuộc rất nhiều vào những công việc xó bếp ấy. Và những công việc vô danh ấy cũng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhẫn nhục và Tình yêu hơn tất cả những đại cuộc khác. Công việc càng nhỏ nhặt, càng vô danh thì càng nhiều phiền toái và càng đòi hỏi nhiều phấn đấu hơn. Nếu không biết cùm lấy một chân, nếu không biết hy sinh, nhẫn nhục, một người mẹ trong gia đình không thể chịu đựng năm kia qua tháng nọ tất cả những phiền toái ấy.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
23-10-2009, 09:06 AM
24 tháng 10

Ngày Liên Hiệp Quốc

Vào năm 1945, 3 quốc gia gây chiến Đức, Italia, Nhật mang bộ mặt tan nát tả tơi của những nước bại trận. Đa số những thành phố lớn tại Đức cũng như hai thành phố Hiroshima và Nagasaki tại Nhật chỉ còn là những đống gạch vụn, những thành phố chết.

Hình ảnh của thế giới, nhất là tại các quốc gia bị chiến tranh tàn phá trong những năm “39, 45” có lẽ không khác gì bộ mặt của trái đất sau trận lụt Đại hồng thủy, khi trận lụt vĩ đại gây ra do những trận mưa lũ kéo dài 40 đêm ngày đã giết hại mọi sinh vật, như tác giả sách Khởi Nguyên viết: “mọi loài xác thịt động đậy trên đất đều tắt thở; chim chóc, thú vật, mãnh thú… tất cả các vật trên cạn đều bị xóa sạch trên mặt đất từ người cho đến súc vật, côn trùng và chim trời…”

Từ đống tro tàn của thế chiến thứ hai, một ý nghĩ đã được manh nha và Liên Hiệp Quốc đã thành hình với mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình. Ví như một chính trị gia đã phát biểu: “Nếu con người không hủy diệt chiến tranh, chiến tranh sẽ hủy diệt con người”.

Nhưng từ ngày tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập vào năm 1945 đến nay không biết bao nhiêu cuộc chiến phong sương cũng như nội bộ đã xảy ra. Nhưng bàn tay con người vẫn được dùng để giơ gươm, để lảy cò, để bấm nút những khí giới giết người. Vì thế súng vẫn nhả đạn và máu tươi vẫn tuôn rơi, lòng đất mẹ vẫn thấm máu con người.

Ngày 24 tháng 10 hằng năm, bao nhiêu lá cờ của mọi quốc gia đã được trưng lên trong những buổi lễ kỷ niệm ngày Liên Hiệp Quốc được thành lập, bao nhiêu sinh hoạt đã được tổ chức để nhắc nhở con người, không phân biệt màu da, tiếng nói, không phân biệt tín ngưỡng hay quan niệm về thể chế chính trị, ý nghĩa của tổ chức mang mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình.

Nhưng thiết nghĩ, hòa bình thế giới không thể được thiết lập nếu lòng người chưa đạt được sự an bình, vì nếu những tâm tình ganh ghét, ghen tương, nghi kỵ, nếu những tư tưởng lợi dụng, đàn áp, bóc lột vẫn còn âm ỉ cháy trong lòng chúng ta, thì ngọn lửa chiến tranh vẫn còn có thể bùng cháy bất cứ lúc nào.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
24-10-2009, 02:47 PM
25 tháng 10

Con chim sáo

Trong một tập thơ mang tựa đề “Có muôn nghìn lý do để sống”, Đức cha Helder Camera, vị Giám mục người Brazil nổi tiếng là vị tông đồ của người nghèo đã ghi lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây: Bên cạnh nhà tôi, có một con chim sáo quanh năm ngày tháng sống giữa trời… Tôi vẫn có thói quen nói chuyện với nó. Một hôm, tôi hỏi chú sáo có nơi ngủ nghỉ không. Nó ngạc nhiên trả lời: “Có chứ!… Màn là trời, chiếu là đất. Có bao giờ thiếu đâu”.

Do những đòi hỏi của trí khôn loài người, tôi mới hỏi nó: “Thế thì những lúc mưa gió, chú trú ngụ ở đâu”. Nó nhanh nhẩu trả lời: “Bộ ông nghĩ là thỉnh thoảng tôi không cần tắm gội sao?” Tôi hỏi nó có đói không. Con chim chỉ mỉm cười đáp: “Điều tôi muốn là được hót. Tôi sinh ra để hót mà…” Và nó cất tiếng hót như sau: “Hỡi loài người kiêu ngạo. Hãy nói cho ta biết đi: liệu ngươi không chết sao?”

Tôi cứ nài nỉ để chú sáo nhận món quà tôi biếu: đó là một ít bánh mì có thịt… Chú sáo lại được dịp cười cợt sự ngây ngô của tôi. Nó bảo tôi: “Ông không biết là loài sáo chúng tôi không có ăn bánh mì và thịt như các ông sao?”

Lần kia, tôi hỏi chú sáo có cầu nguyện không? Nó không hiểu được câu hỏi của tôi. Nó chỉ cười trả lời: “Có mấy chú nhóc con lấy đá ném tôi. Nhưng tôi bay đi, tôi cười và tôi hót”.

Một lúc nào đó, tôi có ý nghĩ đưa con sáo vào bệnh viện để nhờ các bác sĩ tìm ra căn bệnh của nó và chữa trị cho nó. Nhưng tôi chợt nhận ra rằng nó chỉ là một con chim.

Qua câu chuyện ngụ ngôn trên đây, có lẽ Đức Cha Helder Camera muốn gợi lên cho chúng ta cái thảm trạng của con người ngày nay: chiến tranh, chết chóc, đau khổ đều phát xuất từ chỗ con người không chấp nhận nhau. Ai cũng muốn người khác phải suy nghĩ như mình, phải hành động như mình, phải sống như mình. Ý thức hệ nào cũng tự cho là ưu việt và muốn áp đặt trên người khác ngay cả bằng bạo lực.

Ngày nay, con người mỗi lúc một ý thức hơn về sự đa diện của các nền văn hóa, của các khuynh hướng chính trị, của các tôn giáo… Sự trưởng thành của nhân loại được thể hiện qua chính sự chấp nhận ấy: chấp nhận sự khác biệt của tha nhân, chấp nhận tư tưởng của người khác. Khoan dung là thái độ mà con người ngày nay đang cần hơn bao giờ hết.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
25-10-2009, 10:04 PM
26 tháng 10

Xin cho con được thay đổi chính con

Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.

Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.

Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được thay đổi chính con.

Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.

Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân là điều tiên quyết.

Một nhà cách mạng nào đó đã nói: chỉ cần 10 người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự đó là cách mạng bản thân.

Chúa Giêsu đã chuẩn bị 3 năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: hãy sám hối và tin vào Tin mừng…

Ai trong chúng ta cũng biết câu châm ngôn: Thà thắp lên một ngọn đèn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Nếu mỗi người, ai cũng đốt lên ngọn đèn của mình, nếu mỗi người, ai cũng đóng góp phần ít ỏi, nhỏ mọn của mình, thì có lẽ thế giới này sẽ bớt lạnh lẽo hơn vì lòng ích kỷ… Không ai nghèo đến nỗi không có gì để cho người khác. Chúng ta hãy bắt đầu bằng món quà nhỏ mọn, có khi vô danh của chúng ta. Mỗi giọt nước nhỏ là điều không đáng kể trong đại dương, nhưng nếu không có những giọt nước nhỏ kết tụ lại, thì đại dương kia cũng chỉ là sa mạc khô cằn.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
25-10-2009, 10:38 PM
27 tháng 10

Bất ngờ

Như một chuyện khó tin mà có thật: đó là chuyện của một chàng thanh niên Tây Đức một mình lái chiếc Cessna cánh quạt nhỏ, vượt qua hành lang 400 dặm trên lãnh thổ Liên Xô, rồi an toàn đáp xuống Quảng Trường Đỏ, gần điện Cẩm Linh… Trước khi đáp xuống vào lúc 7 giờ tối, phi cơ còn lượn 3 vòng chung quanh mộ của chủ tịch Lênin.

Người thanh niên Tây Đức tên là Matthias Rust này đã điềm tĩnh bước ra khỏi phi cơ, ký sổ lưu niệm cho một số khách hiếu kỳ và khâm phục. Sau đó, công an Liên Xô đã đến tóm cổ anh đưa đi mất.

Trong suốt một cuộc hành trình dài, anh chỉ bị phi cơ tuần thám của Liên Xô theo dõi mà không làm cản trở. Có thể họ cho phi cơ của anh định làm chuyện kỳ lạ khác người cho nên không bắt anh đáp xuống nửa đường. Phi cơ lại bay rất thấp cho nên đã tránh được sự kiểm soát của các dàn radar. Dù sao đây cũng là một chuyện khó tin chưa từng xảy ra trên một lãnh thổ có một hệ thống phòng thủ chặt chẽ như Liên Xô.

Sự thành công của chiếc phi cơ nhỏ này đã khiến cho nhà cầm quyền Liên Xô e ngại và giật mình về sự phòng thủ sơ sót của mình. Sau một cuộc họp khẩn cấp của Bộ chính trị, tổng trưởng quốc phòng và bộ trưởng không quân đã bị cách chức. Trong khi đó thì chủ tịch Gorbachov lại nói một câu khôi hài như sau: “Chúng ta phải cám ơn anh chàng thanh niên Tây Đức này vì nhờ có anh ta mà chúng ta mới cải tổ hệ thống phòng thủ của chúng ta chặt chẽ và cẩn thận hơn”.

Nhiều người đã xem lời phát biểu trên đây phản ảnh tinh thần phục thiện và cởi mở của chủ tịch Gorbachov.

Sự thành công của chàng thanh niên Matthias Rust khi đáp xuống Quảng Trường Đỏ có thể được xem như là một tai nạn trong hệ thống phòng thủ của Liên Xô.

Tai nạn là một bất ngờ mà con người không bao giờ lường trước được… Không ai học được chữ ngờ trong cuộc sống. Có một cái gì đó luôn ở ngoài tầm tay, ở ngoài khả năng của con người. Bài học thông thường nhất mà ai cũng có thể học được từ một tai nạn: đó là không ai làm chủđược chính sự sống của mình.

Người Kitô luôn được mời gọi để tìm ra ý nghĩa của các biến cố. Biến cố nào xảy đến trong cuộc sống cũng là một lời ngỏ của Thiên Chúa đối với con người. Ngài nhắc nhở cho con người biết rằng Chủ Tể của sự sống chính là Ngài. Ngài kêu mời con người luôn sẵn sàng để đến với Ngài trong cuộc gặp gỡ tối hậu. Ngài cho con người thấy những giới hạn của mình để biết hướng về Ngài với tất cả tin tưởng phó thác.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
25-10-2009, 10:43 PM
28 tháng 10

Chuyến xe cuộc đời

Cách đây hơn một trăm năm, khi đường sắt vừa mới được phát minh, nhu cầu đi lại mỗi lúc một bành trướng, một văn sĩ nọ, trong quyển lịch sử của xe lửa và đường sắt, đã ghi ra một số chỉ dẫn cho hành khách. Trong một chương trình có tựa đề: “Những lời khuyên trước khi lên đường”, ông đã đưa ra vài căn dặn như sau: “Trước khi bắt đầu một cuộc hành trình, hành khách nên quyết định: mình sẽ đi đâu, sẽ lên chuyến xe lửa nào và ở đâu, tại nơi nào sẽ đổi tàu…

Trong một đoạn khác, ông nhắn nhủ hành khách như sau: “Khuyên quý khách nên mang theo càng ít hành lý bao nhiêu càng tốt… Riêng với các bà, các cô, không được phép mang theo quá ba hành lý và năm gói nhỏ”.

Những lời khuyên trên đây xem chừng như không có chút giá trị nào đối với hệ thống đường sắt hiện tại ở Việt Nam. Chen chúc nhau để có được một chỗ ngồi thích hợp, đã là quá lắm rồi, còn chỗ đâu để xác định số hành lý phải mang theo.

Nhưng dù thanh thản trong một con tàu đầy tiện nghi, hay chen chúc nhau trong một wagon chật hẹp bẩn thỉu, mỗi khi bước vào xe lửa, ai trong chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nghĩ đến chuyến đi của cuộc đời… Đời cũng là một chuyến đi.

Bước lên chuyến xe lửa của cuộc đời, ai trong chúng ta cũng được mời gọi để chuẩn bị cuộc hành trình bằng một số câu hỏi cơ bản: tôi sẽ đi về đâu? Tôi phải mang những gì cần thiết cho cuộc hành trình?

Trên một tuyến đường liên tỉnh tại Phi Luật Tân, thỉnh thoảng hành khách có thể đọc được một bảng hiệu có thể làm cho họ phải giật mình suy nghĩ: có thể đây là chuyến đi cuối cùng của bạn. Thật ra, ít có ai khi lên đường, lại có ý nghĩ ấy. Có lẽ người ta nghĩ đến công việc, nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những thú vui đang chờ đợi hơn là phải dừng lại với ý nghĩ của một cái chết bất ngờ.

Thái độ khôn ngoan nhất mà Chúa Giêsu thường lập lại trong Tin mừng của Ngài: đó là “Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào, ngày nào”. Con người sinh ra để chết. Nói như thế không hẳn là một phát biểu bi quan về cuộc đời, mà đúng hơn là một cái nhìn trong suốt về hướng đi của cuộc đời.

Giá như ai trong chúng ta cũng biết rằng: công việc ta đang làm trong giây phút này đây là công việc cuối cùng trong cuộc đời, thì có lẽ mọi việc đều có một ý nghĩa và một mục đích khác hẳn.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
28-10-2009, 05:12 PM
29 tháng 10

Các ông là quái vật

Cuốn phim E.T. (nghĩa là người đến từ bên ngoài trái đất) đã là khởi đầu cho những giả thuyết về sự hiện hữu của nhiều giống người khác trên các hành tinh. Chúng ta hãy thử tưởng tượng một ngày nào đó những người này đến viếng thăm trái đất của chúng ta. Có lẽ họ sẽ phải học hỏi rất nhiều nơi chúng ta. Họ sẽ nghiên cứu về các tôn giáo hiện hữu trên mặt đất. Họ sẽ tra cứu mọi thứ triết thuyết và mọi lẽ khôn ngoan cũng như bao cái điên rồ của con người… sau cùng họ sẽ điều tra về những người Kitô và khám phá ra rằng thủ lãnh của họ là Giêsu Kitô… Chúng ta hãy thử tưởng tượng cuộc đối thoại giữa họ và những người Kitô.

- Ông Giêsu Kitô là ai? Một người Kitô sẽ trả lời: ông là một người Do Thái, ông đã được muôn dân trông đợi từ ngàn xưa. Ông đến như một vị tiên tri để cứu thoát trần thế.

- Thế nhưng họ đã làm gì với ông ta?

- Thưa, họ đã đóng đinh ông vào thập tự.

Và một người trong cuộc đối thoại sẽ thêm: “Phải, có lẽ ông ta đã không đến đúng lúc. Giả như ông đến bây giờ đây, thì mọi sự có lẽ sẽ khác… Người ta sẽ thông cảm với ông, sẽ yêu mến ông và như vậy, tình huynh đệ đại đồng như chúng ta hằng mong ước sẽ được thực hiện… Thực là đáng tiếc, ông Giêsu đã đến không đúng lúc. Thật là một tai nạn đáng tiếc”.

Một người Kitô khác có lẽ sẽ phản đối: “Tôi không đồng ý. Chúa Giêsu có đến lúc nào và ở đâu, thì mọi sự cũng sẽ diễn ra như thế thôi”. Theo dõi cuộc đối thoại, không chừng người đến từ hành tinh khác sẽ phát biểu: “Vậy thì các ông là những quái vật”.

Có lẽ giống người của chúng ta trên mặt đất này là những quái vật. Và chính vì thế mà Chúa Giêsu đã đến để cứu độ chúng ta. Ngài đã yêu thương chúng ta. Ngài đã thể hiện lòng nhân từ đối với chúng ta, bởi vì chúng ta là những quái vật.

Chúng ta hãy thử nhìn vào các giống vật đang chia sẻ sự sống với chúng ta trên mặt đất này. Chúng nó có thể cắn xé những con thú khác không thuộc dòng giống của nó. Nhưng chúng nó không bao giờ giết hại cắn xé lẫn nhau. Còn giống người của chúng ta thì sao?

Nhưng thập giá của Đức Kitô không chỉ là một mặc khải về tính cách quái vật của con người, nó còn là một thể hiện của Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Đó là dấu chỉ của Tình yêu, của Hòa bình.

Người Kitô mang trên người, vẽ trên người dấu thập giá để ca tụng Tình yêu của Thiên Chúa cũng như để nói lên thiện chí xây dựng Hòa bình của họ.

Ước gì dấu Thánh giá chúng ta làm mỗi ngày sẽ luôn nhắc nhở cho chúng ta về Tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa cũng như mời chúng ta không ngừng xây dựng Hòa bình với tất cả những người xung quanh.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
29-10-2009, 08:28 AM
30 tháng 10

Viên đá quý

Edith Stein, đó là tên của một người đàn bà mà chúng ta thường nghe nhắc đến nhiều lần nhân chuyến viếng thăm lần thứ hai của Đức thánh cha Gioan Phaolô II tại Tây Đức năm 1987.

Stein theo tiếng Đức có nghĩa là đá. Đây không phải là một viên đá tầm thường, nhưng là một viên ngọc quý đã được tôi luyện giữa lò lửa của hận thù, chiến tranh. Viên ngọc quý Stein đã được gọt đẽo và nung nấu trước tiên trong sự dửng dưng vô tôn giáo của những trào lưu tục hóa sau đệ nhất thế chiến.

Lên 14 tuổi, Edith Stein đã mất hoàn toàn niềm tin vào Thiên Chúa của tổ phụ Abraham. Nhưng cho dù con người có chối bỏ Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đeo đuổi con người. Cuộc săn đuổi kỳ diệu ấy đã đưa con người đến ngõ cụt của cuộc sống. Nhưng chính khi đứng trước bức tường tưởng chừng như không thể vượt qua được, Thiên Chúa đã đưa cánh tay của Ngài ra để nâng con người lên. Đó là điều đã xảy ra cho Edith Stein khi cô chứng kiến gương kiên nhẫn chịu đựng của một người thiếu phụ công giáo. Chiến tranh đã cướp đi người chồng thân yêu, người đàn bà vẫn lấy đức tin vào Chúa Kitô để vượt thắng mọi đau khổ, thử thách… Edith Stein thú nhận: Thập giá của Đức Kitô đã đem lại sức mạnh kiên hùng cho người phụ nữ và do đó, cũng phá vỡ bức tường cứng lòng tin của cô.

Trong ánh sáng của thập giá Đức Kitô, Edith Stein đã tìm lại được niềm tin vào chính Thiên Chúa của người Do Thái… Nhưng ánh sáng đó đã gắn liền với cả cuộc đời còn lại của cô như một định mệnh. Giữa những đổ vỡ và tàn ác của chiến tranh, Edith đã tìm lại được định hướng cho cuộc đời. Thánh giá đã được gắn liền với tên cô từ đó: Terêxa Benedicta Della Croce, Terêxa được thập giá chúc lành.

Thập giá của Đức Kitô mà cô đã vác lấy qua cái chết đau đớn trong lò hơi ngạt tại trại tập trung Auschwitz đã biến cô trở thành một viên ngọc quí có giá trị cứu rỗi cho cả một dân tộc mà cô hằng yêu mến.

Ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá. Đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá… Tại sao Thiên Chúa đã để cho người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ. Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề.

Trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống. Mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy Tình yêu mạnh hơn sự chết. Mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
30-10-2009, 08:26 AM
31 tháng 10

Một ngày để nhớ đến thần dữ

Hôm nay ngày cuối tháng 10. Buổi chiều ngày cuối tháng 10 được người Mỹ và các nước chịu ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, nghĩa là vọng lễ các thánh.

Có lẽ do những rơi rớt còn lại của một ngày lễ ngoại giáo bắt nguồn từ thời những người Celtic trước công nguyên, ngày vọng lễ các thánh mang màu sắc ảm đạm ma quái.

Trong các cửa tiệm, hàng hóa được trưng bày trong một khung cảnh quái dị: những hình nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần chết, những màng nhện trắng xóa giăng mắc khắp nơi, các đồ chơi trẻ em cũng được khoác lên những nét kinh hãi quái dị. Trên màn ảnh của truyền hình cũng như tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim trình chiếu đều mang nội dung quái đản, kinh dị. Buổi tối ngày Halloween, thanh niên thiếu nữ thường cải trang thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau nghe chuyện ma quái.

Phải chăng mỗi năm người ta dành một ngày để nhắc nhở về sự hiện hữu và tác quái của thần dữ? Nhưng liệu con người ngày nay còn ý thức được tội lỗi và sự tác động của thần dữ không?

Thi sĩ Baudelaire của Pháp đã có lần nói: “Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục được con người rằng nó không hiện hữu”.

Với những khám phá mới trong ngành tâm lý học cũng như bệnh lý học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám mà Kinh thánh nói đến chỉ là những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay khoa học có thể tìm ra nguyên nhân. Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự hào đã loại trừ ma quỷ ra khỏi cuộc sống.

Có lẽ ngày nay, người ta ít có dịp chứng kiến những vụ quỷ ám nhãn tường như Kinh thánh đã ghi lại. Tuy nhiên, dù muốn dù không, không ai có thể chối cãi được một sức mạnh luôn cày xéo tâm hồn con người, luôn lôi kéo con người đến chỗ tự hủy và hủy diệt lẫn nhau. Mãi mãi câu nói của thánh Phaolô vẫn đúng cho kinh nghiệm của mỗi người: “Điều thiện tôi muốn làm thì tôi không làm, điều ác tôi không muốn làm, thì tôi lại làm”. Có một sức mạnh vô hình nào đó luôn khuyến dụ, luôn lôi kéo con người vào tội ác… Thánh Phêrô hẳn không thể nào quên được lời cảnh cáo của Chúa Giêsu: “Hỡi Satan, hãy tránh khỏi mặt Ta”. Trong lá thư đầu tiên gởi cho các tín hữu, vị Giáo hoàng đầu tiên đã nhắn nhủ: “Hãy tỉnh thức luôn. Kẻ thù của anh em là ma quỷ như sư tử luôn gầm thét lượn quanh, tìm mồi để cắn xé. Anh em hãy chống cự và kiên vững trong đức tin”.

Là người tín hữu, chúng ta không ngừng cầu nguyện bằng chính lời Kinh của Chúa Giêsu: “Xin cứu chúng con khỏi ác thần”. Ước gì lời kinh ấy luôn nhắc nhở chúng ta về sự tác động liên lỉ của ma quỷ trong cuộc sống của từng người chúng ta. Nhưng chúng ta không phải sợ hãi bởi vì chúng ta không chiến đấu một mình mà cùng với và bằng chính sức mạnh của Đấng đã nói: “Đừng sợ hãi, vì Ta đã thắng thế gian”.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
31-10-2009, 06:37 PM
THÁNG MƯỜI MỘT


“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người, để tất cả những ai tin vào Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”.
(Gio 3, 16)

01 tháng 11

Dòng giống vĩ nhân

Cách đây 10 năm, một người Pháp tên là Alfred de Pierrecourt để lại gia tài của ông là hai triệu mỹ kim với lời di chúc là phải sử dụng số tiền ấy để gây giống cho những người khổng lồ. Người thi hành di chúc của ông đã trích ra một phần tư số tiền để tìm và mang những người cao lớn vượt tầm mức về sống ở gần thành phố Rouen, khuyến khích họ lập gia đình với nhau. Nhưng chương trình gây giống những người khổng lồ này bị thất bại vài năm sau đó.

Cách đây non hai ngàn năm có một người cũng để lại một di chúc, một chương trình, nhưng không phải để gây giống cho những người khổng lồ về phương diện hình vóc mà là về phương diện tinh thần. Chương trình này quen được gọi là “Tám mối phúc thật” do Chúa Giêsu soạn thảo. Trải qua bao thế hệ mãi cho đến thời đại chúng ta, vô số những tín hữu Kitô nhờ áp dụng chương trình này mà trở thành vĩ nhân.

Mừng kính những vĩ nhân ấy trong ngày lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta hãy noi gương các Ngài đem ra thực hành mỗi mối phúc thật trong cuộc sống, để càng sống chúng ta cần phát triển, tiến bộ trên con đường thánh thiện mà Chúa Giêsu đã vạch ra cho mỗi người chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
01-11-2009, 04:09 PM
02 tháng 11

Bên kia sự chết

Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi con tới bàn tiệc thánh”.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe những lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân chúng ta, trước khi từ giã cõi đời… Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy.

Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn đức tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.

Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp “các thánh thông công”, Giáo hội ngay từ buổi đầu của kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng mười một hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: “Giáo hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”

Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công đồng viết như sau: “Khi được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người các thánh lại không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha…” Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.

Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và cái chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết… Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình yêu đã làm cho những người chết được sống và cũng chính Tình yêu liên kết chúng ta với những người chết. Vâng, chỉ có Tình yêu mới làm cho con người được liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.

Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống… Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.

Yêu thương chính là tái sinh, là thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ đức tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
02-11-2009, 08:30 AM
03 tháng 11

Con chỉ là một tên mọi đen

Hôm nay, Giáo hội kính nhớ thánh Martinô Porres.

Nhắc đến thánh nhân, người ta thường liên tưởng đến những ơn lạ lùng như xuất thần ngất trí trong khi cầu nguyện, như hiện diện ở hai nơi cùng một lúc, hoặc như có thể trò chuyện và điều khiển cả thú vật.

Vị thánh có lòng bác ái cao độ này lại xuất thân từ một hoàn cảnh vô cùng bi đát và đắng cay. Là con của một thiếu nữ da đen đã từng bị đem bán làm nô lệ vào một nhà quý tộc người Tây Ban Nha, Martinô đã được vị linh mục rửa tội ghi trong sổ bộ của giáo xứ là “con không cha”. Quả thật, con không cha như nhà không nóc. Martinô đã lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình cha mãi cho đến năm tám tuổi. Nhưng sau khi được chính thức thừa nhận không bao lâu, thì người cha lại bỏ rơi gia đình. Một lần nữa, cậu bé Martinô lại rơi vào cảnh khốn khổ như đa số những em bé nghèo của thành phố Lima, Pêru vào giữa thế kỷ thứ mười sáu.

Nhưng cảnh nghèo ấy đã không gieo vào lòng cậu bé mang hai dòng máu này chút đắng cay nào. Trái lại, cậu tiếp nhận mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống như một thách đố, như một ân sủng.

Năm mười hai tuổi, Martinô đã được học nghề hớt tóc và đôi chút xảo thuật của ngành giải phẫu. Vừa hành nghề như một người thợ hớt tóc, vừa như một y tá, Martinô đã đem hết sự hăng say và tận tụy của mình để phục vụ những người nghèo đồng cảnh ngộ.

Nhưng nhận thấy chỉ có thể sống trọn Đức ái trong một tu viện, Martinô đã đến gõ cửa một nhà dòng Đaminh để xin được làm trợ sĩ trong nhà… Bí quyết nên thánh của thầy Martinô là sám hối cầu nguyện và phục vụ, nhất là phục vụ trong những công việc vô danh nhất. Lần kia, nhà dòng mang nợ đến độ không thể đảm bảo được các nhu cầu của các tu sĩ, thầy Martinô đã đến thưa với Bề trên như sau: “Thưa cha, con chỉ là một tên mọi đen. Xin hãy bán con đi”.

Sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho người khác, thầy Martinô cũng luôn nhận tất cả phần lỗi về mình.

Ôn lại gương hy sinh, cầu nguyện và bác ái của thánh Martinô, không những chúng ta chỉ chạy đến xin ngài bầu cử trong những lúc gặp gian nan thử thách, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là lòng tín thác vào Chúa quan phòng của thánh nhân mà chúng ta cần học hỏi, nhất là trong giai đoạn khó khăn này.

Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta. Một Thiên Chúa quan phòng là Đấng có thể biến tất cả những cay đắng, buồn phiền, thất bại khổ đau trong cuộc sống con người thành khởi đầu của một nguồn ơn cao quý hơn. Cũng như loài ong chỉ rút mật ngọt từ bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, cũng thế, người có niềm tin luôn có thể rút tỉa được những sức đẩy mới từ những thất bại rủi ro trong cuộc sống. Thánh Martinô đã không hận đời đen bạc vì bị người cha bỏ rơi, mà trái lại xem đó như một dịp may để cảm thông, để học hỏi và để phục vụ người khác hữu hiệu hơn. “Hạt lúa rơi xuống đất có mục nát đi mới trổ sinh được nhiều bông hạt”. Đó là định luật của cuộc sống. Thập giá trong cuộc sống thường là khởi đầu và cơ may cho một vươn lên cao hơn.

Chúng ta thường chạy đến khẩn cầu với thánh Martinô trong cơn hoạn nạn thử thách, chúng ta cũng hãy noi gương ngài để phó thác cho Tình yêu quan phòng của Chúa, và nhất là xin ngài cũng giúp chúng ta luôn biết lấy tình thương để thắng vượt những ngược đãi của người đời, cũng luôn biết sẵn sàng phục vụ bằng chính mạng sống của mình.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
03-11-2009, 06:37 AM
04 tháng 11

Quo Vadis, Domine?

Đêm trước ngày vào cơ mật viện để bầu Giáo hoàng, Hồng Y Karol Wojtyla đã chuẩn bị hành lý để trở về Krakow, tổng giáo phận của Ngài. Thế nhưng, Ngài đã không trở lại Krakow nữa… Ngày thứ hai, mười sáu tháng mười năm một ngàn chín trăm bảy mươi tám, vị Hồng Y năm mươi tám tuổi này đã được bầu làm Giáo Hoàng và lấy tên là Gioan Phaolô II. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ Ba Lan, là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Italia kể từ bốn trăm măm mươi năm qua, và tính từ một trăm năm mươi năm trở lại, thì ngài là vị Giáo Hoàng trẻ nhất.

Trong khi chuẩn bị cho bài giảng Chủ nhật đầu tiên kể từ lúc được bầu làm Giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã nghĩ đến tác giả của quyển tiểu thuyết giả sử nổi tiếng “Quo Vadis, Domine?” là ông Henryk Sienkiewicz, một văn sĩ và đồng thời cũng là một nhà ái quốc Ba Lan… Qua tác phẩm này, vị Giáo hoàng người Ba Lan đã so sánh tâm tình của mình với vị Giáo Hoàng đầu tiên là thánh Phêrô như được ghi lại trong tác phẩm “Quo Vadis, Domine?”. “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”

Theo tác giả quyển tiểu thuyết giả sử, thì có lẽ thánh Phêrô thích ở lại quanh quẩn bên bờ hồ Genezareth hơn là đến giữa trung tâm của đế quốc La Mã để gặp không biết bao nhiêu chống đối và bách hại. Giữa lúc vị Giáo Hoàng đầu tiên toan tính trốn khỏi La Mã để trở về quê hương của mình, thì Ngài gặp lại Chúa Giêsu hiện ra đang đi ngược chiều với Ngài. Ngạc nhiên về sự xuất hiện của Chúa, thánh Phêrô đã hỏi: “Quo Vadis, Domine?” nghĩa là “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?” Và Chúa Giêsu đã trả lời như sau: “Ta đang đi đến La Mã để chịu đóng đinh một lần nữa”. Hiểu được ý Chúa, Phêrô đã quay trở lại La Mã và ngài ở lại đó cho đến khi chịu đóng đinh.

Hôm nay Giáo hội kính nhớ thánh Carolô Borremêô và mừng bổn mạng một cách đặc biệt của Đức thánh cha Gioan Phaolô II. Mãi mãi tên Carolô gắn liền với tên tuổi và vận mệnh của Đức Thánh Cha. Hơn ai hết, Ngài phải là người kính nhớ và noi gương vị thánh bổn mạng nhiều nhất.

Tên thánh được đặt cho chúng ta trong ngày chịu phép rửa đánh dấu sự đổi đời quan trọng của chúng ta. Từ cõi chết trong tội lỗi, chúng ta được tái sinh trong sự sống của Chúa. Hướng đi của chúng ta phải là hướng đi tới Chúa, không thể là bước thụt lùi.

Mang lấy tên thánh Carolô, Wojtyla đã quyết tâm hướng cuộc đời của mình tiến tới trong phục vụ và hy sinh như chính thánh giám mục Carolô Borremêô. Và khi chọn lấy danh hiệu mới là Gioan Phaolô, vị Giáo Hoàng người Ba Lan cũng quyết tâm tiến tới trên con đường mà hai vị tiền nhiệm của mình đã vạch ra… Là người Kitô, chúng ta cũng luôn luôn được mời gọi tiến tới, không ngừng trên đường theo chân Chúa Giêsu. Tên thánh mà chúng ta mang lấy trong ngày rửa tội, danh hiệu Kitô mà chúng ta được đặt cho phải luôn luôn là một nhắc nhở chúng ta về con đường tiến lên ấy.

Chắc chắn con đường ấy không là một con đường rộng thênh thang. Sự tiến lên ấy không là một đà tiến dễ dàng. Phêrô đã quay trở lại la Mã để chịu đóng đinh… Thập giá có lẽ đang chờ đợi chúng ta, chông gai giăng mắc đầy lối đi của chúng ta, chúng ta hãy hiên ngang tiến bước vì đó chính là hướng đi của tất cả những ai mang danh hiệu Kitô.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
04-11-2009, 08:19 AM
05 tháng 11

Chiếc quan tài con

Tại chùa Tô Châu bên Tàu có một nhà sư tên gọi là Viên Thủ Trung, nổi tiếng là tu hành đắc đạo.

Nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độc ba tấc, có một cái nắp đậy, mở được. Khách đến chơi trông thấy thường tò mò tra hỏi, nhà sư trả lời: “Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết đến cái chết là gì… Mỗi khi có việc không được như ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên ổn trong tâm hồn ngay”.

Con người sở dĩ chạy theo tiền tài danh vọng đến độ chà đạp trên người khác là bởi vì con người không nghĩ đến cái chết đang rình rập sau lưng. Khi tử thần xuất hiện, thì con người không kịp mang theo bất cứ một tài sản nào. Cái chết chỉ trở thành đáng sợ khi con người còn quá nhiều dính bén đối với trần thế này. Trái lại, được ôm ấp suy gẫm mỗi ngày, cái chết sẽ trở thành một người bạn đồng hành giúp con người vượt qua được mọi chán chường, bận tâm thái quá… Trong tất cả mọi sự, người khôn ngoan đích thực luôn nghĩ đến cùng đích.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
05-11-2009, 06:45 PM
06 tháng 11

Đồng bạc nhân nghĩa

Một câu chuyện ngụ ngôn của Nga kể rằng: Có một nhà phú hộ kia khi gần chết lòng trí vẫn chỉ nghĩ đến tiền của là động lực đã thúc đẩy ông lao lực không biết mỏi mệt suốt cả cuộc đời. Dùng chút sức tàn, ông cố gỡ chiếc bao nhỏ đeo ở cổ, lấy ra chiếc chìa khóa trao cho người đầy tớ gái trung tín nhất của ông. Ông phú hộ ra dấu chỉ chiếc rương nằm trong góc nhà và ra lệnh cho cô ta lấy những túi tiền vàng ở trong đó bỏ vào quan tài.

Khi chết xong, ông bắt đầu sống cuộc đời mới.

Đứng trước chiếc bàn dài bày đủ thứ cao lương mỹ vị, ông ta hỏi: “Món này giá bao nhiêu vậy?” Người bán hàng trả lời: “Một xu”. Ông phú hộ chỉ một món khác kém giá trị hơn và hỏi: “Còn hộp cá mòi kia giá bao nhiêu?” “Cũng một xu”, người bán hàng nhã nhặn trả lời.

Thấy người bán hàng vui tính ông phú hộ tiếp tục hỏi: “Còn miếng bánh này?” “Tất cả các vật trưng bày ở đây đều được bán với giá một xu”, người bán hàng cho biết.

Ông phú hộ mỉm cười thỏa mãn. Rẻ thật, ông nghĩ thầm. Rồi sau một hồi ngắm nghía, ông chọn một dĩa thức ăn lớn. Nhưng khi ông lấy một đồng tiền vàng mang theo lúc từ giã cõi đời ra trả, cô thu tiền không nhận. Cô ta vừa lắc đầu vừa nói: “Ông đã học được quá ít trong cuộc sống”. Nghe nói thế ông phú hộ không khỏi ngạc nhiên, gặng hỏi: “Thế nghĩa là gì? Đồng tiền vàng của tôi không đủ để trả cho dĩa thức ăn này sao?”

Bấy giờ người thu tiền mới cho ông biết: “Ở đây chúng tôi chỉ nhận những đồng tiền mà trong cuộc sống trước đây ông đã dùng để giúp đỡ cho những người nghèo túng, đói khổ”.

Tại những vùng chịu ảnh hưởng của Phật giáo đến từ Trung Hoa, vào những ngày giỗ hay ngày tư, ngày tết, các phật tử có thói quen đốt những giấy tiền vàng bạc với niềm tin là qua đó họ có thể gửi tiền ấy cho ông bà, cha mẹ đã quá cố để họ có thể tiêu xài nơi chốn suối vàng.

Những người công giáo cũng thể hiện lòng hiếu thảo của mình đối với những thân nhân đã qua đời bằng cách dâng những hy sinh và kinh nguyện đặc biệt trong tháng mười một mỗi năm. Cộng vào đấy, là những hành động bác ái, chia sẻ, làm thay cho những người đã từ biệt cõi đời.

Lúc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nêu bật thật rõ ràng ý nghĩa của biến cố “nhập thể” của Ngài: Ngài không những “làm người” trong một thân xác duy nhất, Ngài còn đồng hóa mình với tất cả mọi người để nếu chúng ta yêu thương bất kỳ ai, đó là chúng ta cũng yêu mến Ngài.

Để sống trọn ý nghĩa của tháng mười một, tháng các đẳng linh hồn, chúng ta không chỉ dâng lời cầu nguyện cho những người đã khuất bóng, nhưng cũng hãy gia tăng những việc từ thiện bác ái, chia sẻ cơm áo với những anh chị em thiếu thốn đang sống bên cạnh, để dâng những công đức ấy cho các đẳng, đồng thời cũng để thâu nhập cho chính chúng ta những công nghiệp có giá trị vĩnh cửu trong cuộc sống mai sau.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
06-11-2009, 08:48 AM
07 tháng 11

Nỗi khao khát của hạt muối

Khao khát duy nhất của hạt muối là được xem thấy biển. Bằng mọi giá, nó muốn khám phá thế nào là biển… Ngày kia, nó ra đi… Vừa đến bờ biển, nó khám phá ra một cái gì mênh mông, xanh ngắt và sống động. Nó thốt lên:

- Biển ơi, hãy nói đi, ngươi là ai? Một đợt sóng trả lời:

- Hãy chạm đến ta, rồi ngươi sẽ hiểu. Hạt muối trườn mình xuống nước. Ô kìa, nó cảm thấy ngây ngất, niềm vui tột cùng làm nó cảm thấy như không còn đứng vững được nữa. Nó cảm thấy như đang hòa lẫn từ từ trong nước. Niềm vui dâng trào. Nó lại hỏi một lần nữa:

- Biển ơi, hãy nói đi, ngươi là ai? Một đợt sóng cuối cùng ôm ghì lấy nó và nó từ từ tan biến trong nước. Nó chợt reo vui lần cuối cùng:

- Bây giờ ta mới hiểu thế nào là biển: biển là một phần của chính ta.

Hạt muối chỉ có thể hiểu được thế nào là biển khi nó được hòa tan trong nước. Có chìm ngập trong biển, có đi vào biển mới hiểu được thế nào là biển… Thiên Chúa cao cả hơn lý trí của con người. Chúng ta không thể chỉ biết Thiên Chúa bằng lý trí… Hãy để cho Thiên Chúa chiếm ngự, hãy để cho Thiên Chúa ôm chầm lấy ta, ta mới có thể biết được Người là ai. Tình tri giao giữa Thiên Chúa và con người chỉ có thể nảy nở bằng thinh lặng, hòa nhập trong cảm mến. Tri ân.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
07-11-2009, 07:31 PM
08 tháng 11

Tôi là người hạnh phúc nhất trần gian

Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông nhận được tiền của do sự cưỡng bách.

Ngày nọ, ông vua giàu có đã làm một quyết định táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được giá trị của đồng tiền bố thí… Thế là mỗi ngày Chủ Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị hơn… Ông tự nghĩ: bây giờ ta mới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào.

Khi đã gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.

Trong đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng đem con chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.

Đón nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: “Từ trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà cho một người hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương… Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian”.

Một thời gian sau đó, trong vùng, có một người tá điền nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và bảy đứa con dại phải bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được… Cuối cùng ông đã quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình của người tá điền nghèo… Và một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.

Bùi ngùi vì phải chia tay những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh… Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: “Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này”.

Câu chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho chúng ta về hình ảnh của chuyến đi cuộc đời chúng ta… Người Kitô là một người lữ hành đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực của chúng ta là gì nếu không phải là trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp đầy bằng chính Chúa.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
08-11-2009, 11:44 AM
09 tháng 11

Dấu chỉ của hòa bình

Một trong những biểu tượng sống động nhất trên thế giới về khát vọng hòa bình của con người, có lẽ là bảo tàng viện và đài kỷ niệm những nạn nhân đầu tiên của bom hạt nhân tại thành phố Hiroshima bên Nhật Bản… Bước vào tháng tám, kỷ niệm bom nguyên tử được dội xuống Hiroshima, hàng trăm ngàn người Nhật Bản đã tập trung trước đài kỷ niệm tại thành phố này để tưởng niệm những người đã chết. Từ bốn giờ sáng, chuông các chùa chiềng và giáo đường trên toàn quốc đổ hồi để nhắc nhở người Nhật về biến cố đau thương này.

Hiroshima tưởng niệm những người quá cố, nhưng nó không là biểu trưng của hận thù, trái lại, trong những giây phút mặc niệm trước những nạn nhân của bom hạt nhân, tất cả mọi người Nhật đều được mời gọi để tha thứ và xây dựng hòa bình.

Ông Akihiro Takahashi, một nạn nhân còn sống sót của biến cố, nay đã được bầu làm giám đốc của bảo tàng viện hòa bình Hiroshima và đồng thời điều khiển tổ chức văn hóa phụng sự hòa bình của thành phố, đã nói lên tâm tình của ông như sau:

“Tôi đã không bao giờ quên ngày đó… Qua bao nhiêu năm, tôi đã thù ghét chế độ quân phiệt của Nhật Bản và quân đội tại Hoa Kỳ. Lúc đó, tôi là đứa bé khỏe mạnh, ngày nay tôi trở thành một người bệnh hoạn… Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tôi đã gặp gỡ với rất nhiều người có tín ngưỡng, nhất là các bạn trẻ. Họ đã mời gọi tôi tha thứ… Qua những cuộc gặp gỡ này, tôi đã lướt thăng được hận thù. Tôi cũng đã nói chuyện với viên trung úy phi công đã ném bom và tôi đã có thể nói với ông rằng tôi không kết án ông nữa”.

Nếu chết là một chấm hết, thì cái chấm hết ấy có lẽ chỉ có giá trị đối với sự thù hận. Người chết không còn hận thù nhau nữa. Dù có căm thù sâu sắc đến đâu, nằm kề bên nhau trong một nghĩa địa, những người chết sẽ không bao giờ thấy một cuộc chiến giữa những người chết. Nếu có một thế giới không còn chiến tranh, không còn vũ khí, không còn thù hận nhau nữa… có lẽ đó là thế giới của nghĩa trang. Nơi đó, chính là nơi an nghỉ khỏi mọi thù hận.

Cái chết, dù độc ác đến đâu, cũng trở thành dấu chỉ của hòa bình… Đó là điều mà chúng ta có thể xác quyết khi nhìn ngắm cái chết của Đức Kitô trên thập giá. Ngài chết để lôi kéo mọi người đến với Ngài. Và để thực hiện điều đó, trong những giây phút cuối cùng của cuộc sống trần gian, Ngài đã tha thứ ngay cho những kẻ đang hành hạ Ngài.

Trong cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta hãy tưởng nhớ đến những người quá cố. Những người quá cố đó có thể là những người thân của chúng ta, họ cũng có thể là những người chúng ta chưa hề quen biết, nhưng nhất là những người đã từng là kẻ thù của chúng ta… Tâm tình của người Kitô chúng ta trước hết phải là tâm tình tha thứ của Chúa Giêsu… Cái chết của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn ơn cứu rỗi và hòa bình. Cái chết của những người Nhật Bản tại Hiroshima đã trở thành một lời kêu gọi xây dựng hòa bình và tha thứ… Cái chết của những người mà chúng ta đang ngậm ngùi tưởng niệm trong suốt tháng mười một này cũng phải là một âm vang của chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá: Xin Cha tha cho chúng.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
09-11-2009, 08:11 AM
10 tháng 11


Hôm nay là ngày của Chúa


Khi Đức Gioan XXIII lâm bệnh lần cuối, không biết vì lý do gì mà các bác sĩ muốn giấu nhẹm sự nguy kịch của căn bệnh, họ bảo Ngài chỉ bị chứng lở bao tử. Nhưng Đức Gioan XXIII biết rõ bệnh tình của mình hơn ai hết, vì thế Ngài nói: “Tôi đã dọn sẵn hành trang”.


Ông Giacômô Manzu, một nhà điêu khắc nổi tiếng người Ý viết hồi ký về những giây phút sau hết của cuộc đời Đức Gioan XXIII như sau: Vào ngày cuối cùng của chuỗi ngày đau đớn kéo dài, linh mục Capovilla, bí thư riêng của Đức Thánh Cha đến bên giường bệnh, hôn tay bệnh nhân và hỏi xem Ngài cảm thấy thế nào. Đức Gioan XXIII trả lời: “Tôi cảm thấy trong mình khoẻ khoắn và an bình như thể tôi đang ở trong Chúa. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơi lo”.


Linh mục Capovilla thưa: “Xin cha đừng lo. Những người phải lo là chính chúng con, vì con đã nói chuyện với bác sĩ… Đức Gioan XXIII ngắt lời hỏi: “Họ đã nói với con những gì?”


Nghẹn ngào, linh mục bí thư của Ngài nói: “Thưa Đức Thánh Cha, con muốn nói với cha sự thật: hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha sẽ được về Thiên đàng”.


Nói xong, linh mục bí thư quỳ xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua, bỗng cha cảm thấy một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một giọng ôn tồn nói: “Hãy ngước mắt nhìn lên. Bình thường, người bí thư của tôi rất mạnh mẽ, can đảm, nhưng bây giờ phải trở nên mềm nhũn. Cha đã nói với người bề trên của cha những lời hay đẹp nhất mà con người có thể nghe từ miệng của một linh mục: Hôm nay Cha sẽ được về Thiên đàng”.


Chúng ta đang sống trong tháng mười một:


- Đây là tháng Giáo hội dành riêng để tưởng nhớ đến những người quá cố.


- Đây là tháng chúng ta đặc biệt có dịp để báo hiếu cho ông bà, tổ tiên, tháng để trả nghĩa cho cha mẹ, anh chị em, bà con thân thuộc đã qua đời bằng những kinh nguyện, bằng những chuỗi lần sốt sắng, nhất là bằng cách siêng năng tham dự tích cực và cố gắng sống thánh lễ để thực hành những công việc bác ái như thánh lễ đòi hỏi.


Nhưng, vào mỗi tháng mười một hằng năm, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở bến bờ chúng ta phải tới, nhắc nhớ khúc quẹo ngặt nhất trong đời chúng ta sẽ phải đi:


- Đó là từ giã cõi đời.


- Đó là nhắm mắt xuôi tay.


- Đó là sự thật: ai trong chúng ta cũng phải chết.


Ước gì chúng ta có được sự bình thản trong giờ lâm tử như Đức Gioan XXIII. Ước gì, như Ngài, chúng ta có được sự bình an trong tâm hồn và có niềm hy vọng để tin tưởng rằng: lời Chúa Giêsu phán với người trộm lành cũng được áp dụng cho chúng ta: “Hôm nay con sẽ được cùng Ta về Thiên đàng”.


Nhưng, nếu Thiên đàng là bến bờ, là mức đến, thì cuộc sống của chúng ta phải định hướng theo đó.

Nếu Thiên Chúa là cùng đích của giây phút cuối cùng, thì trong những chuỗi ngày sống, chúng ta cũng phải hướng mục và xây dựng theo tiêu chuẩn đó.


Trích từ sách LẼ SỐNG

chi bang
10-11-2009, 02:57 PM
..... cam on* chi rat^' nhiu` ! ... thieu^' xot' ve^` tam^' long^` ... lun la thieu^ xot lon* nhat^' cua~ 1 con nguoi*` !!!!

____________________ Anh' sao dem^ ... soi duong*` chung' toi^ buoc*' ____________

Cỏ Lau
10-11-2009, 04:12 PM
11 tháng 11

Xẻ áo

Trong một ngày đông giá lạnh, Martinô, lúc ấy đang còn phục vụ trong quân ngũ và chưa lãnh nhận niềm tin Kitô, gặp một ông ăn mày nghèo khổ đến độ không có lấy một mảnh vải che thân, đang ngồi tựa lưng vào bức tường, giơ bàn tay khẳng khiu xin từng đồng xu nhỏ của những người qua lại. Không sẵn tiền trong túi và cũng không có lương thực để cho, Martinô nhanh nhẹn leo xuống ngựa, tuốt gươm cắt phân nửa áo choàng của mình và quàng lên tấm thân gầy guộc của người ăn xin đang run rẩy vì cái lạnh buốt xương. Kẻ qua đường đồng thanh cười nhạo cử chỉ khác lạ của người thanh niên.

Đêm hôm đó, Martinô nằm mơ thấy chính Chúa Giêsu bận nửa áo choàng mà chàng đã trao tặng người ăn mày và Chúa nói: “Martinô, tuy chưa lãnh nhận Phép rửa tội, đã đắp lên tôi tấm áo này”.

Ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện truyền khẩu trên về hành động bác ái của thánh Martinô, vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay.

Chào đời vào khoảng thế kỷ thứ bốn tại Sabaria, nay thuộc nước Hungary, năm hai mươi tuổi, Martinô được gửi theo học tại Italia. Tuy là người không theo đạo Kitô, nhưng vì sống giữa các sinh viên công giáo, nên chàng đã suy nghĩ nhiều khi nghe bạn bè nói đến Đức Giêsu. Chàng nhất định tìm hiểu xem Giêsu là ai?

Nhưng chẳng bao lâu chàng bị động viên. Khoảng năm ba trăm năm mươi, rời khỏi quân ngũ, Martinô xin làm đồ đệ thánh Hilariô, giám mục thành Potiers. Nhận thấy Martinô là người đầy nhân đức và có học thức, giám mục Hilariô đã phong cho chàng các chức thánh.

Năm ba trăm năm mươi, bè rối Ariô bắt thánh Hilariô đem đi đày vì ngài chống lại họ. Martinô cũng bị giám mục thành Milan là người bênh vực bè rối trục xuất khỏi giáo phận và sống trên một hòn đảo cùng với một linh mục khác. Sau khi thánh Hilariô được tha, Martinô trở lại Poachi và lập một dòng tu tại Luguygé. Năm ba trăm bảy mươi, ngài được bầu làm giám mục thành Tôrinô. Có thể nói trong thời kỳ này, ngài là một nhà truyền giáo lỗi lạc nhất. Năm ba trăm bảy mươi chín khi đến Cadei để hòa giải một bất bình giữa một số linh mục và tu sĩ, ngài đã ngã bệnh và từ trần tại đó.

Mỗi năm gần đến ngày lễ thánh Martinô thành Tôrinô, các trẻ em vùng nói tiếng Đức cũng náo nức như các trẻ em Việt Nam nôn nao đếm từng ngày trước lễ Trung thu. Vì đây cũng là ngày các em rước đèn đi đến khoảng sân rộng để xem diễn tuồng thánh Martinô, với những bài hát ca ngợi tình yêu thương cụ thể của chàng sĩ quan trẻ tuổi, với vở tuồng được trình diễn bằng người ngựa thật và nhất là với những quà bánh thơm ngon được bày bán chung quanh chỗ diễn tuồng.

Chủ đích của cuộc lễ này vẫn là khắc ghi thật đậm nét vào lòng các trẻ em mẫu gương “xẻ áo” của thánh Martinô để giúp các em hiểu rõ lời Chúa Giêsu sẽ tuyên bố trong ngày phán xét: “Ta bảo thật: mỗi lần anh chị em làm những sự ấy cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì là làm cho chính Ta vậy”.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
11-11-2009, 08:38 AM
12 tháng 11

Tình yêu mạnh hơn thời gian

Một hôm, vua Ai Cập đang đứng chiêm ngưỡng những bia tháp mà ông đã cho dựng lên tại thành phố Eliopolis. Bỗng nhiên, có một cụ già râu tóc bạc phơ không biết từ đâu đến, đã cười ngạo nghễ và thách thức với nhà vua như sau: bỏ tất cả và cút đi…

Nhà vua giận tím gan, thế nhưng ông ta đã tự chủ và trả lời: “Hỡi lão già, ngươi là ai mà dám ra lệnh cho ta một cách hỗn láo như thế… Không lẽ ngươi có nhiều quyền thế hơn ta?”

Lão ông tự giới thiệu: “Đúng thế, bởi vì ta là Thời Gian…”

Nghe đến tên Thời Gian, vua Ai Cập tái mặt và té khỏi ngai vàng… Cùng với ông, cả đế quốc Ai Cập cũng sụp đổ.

Lão già Thời Gian cũng rảo qua khắp các đế quốc trên thế giới. Lão đi đến đâu, thì các đế quốc rơi rụng như sung: Hôm nay tại Babylone, ngày mai tại Athenne, ngày mốt tại Ninive, tại Carthoge…

Nhưng ngày kia, người ta bỗng thấy xuất hiện tại đồi Vatican một cụ già khác. Cụ tuyên bố nghênh chiến với lão già Thời Gian. Lão già Thời Gian tưởng mình có thể phá vỡ tất cả mọi công trình của con người trên trần gian này. Cũng một giọng điệu vô cùng hách dịch, lão ta cũng đến trước cửa Vatican và dõng dạc tuyên bố: “Ta là Thời Gian đây”. Tiếng gầm thét đó đã làm rung chuyển trái đất, thế nhưng đã không làm cho ông lão trên ngọn đồi Vatican mảy may lo sợ. Cụ bình tĩnh đáp lại: “Còn ta, ta chính là Vĩnh Cửu!… Xuyên qua các thế hệ, ta phải đại diện cho lòng chung thủy của Thiên Chúa đối với loài người…”

Thời gian là liều thuốc chữa được mọi khổ đau… Thời gian giúp chúng ta quên được dĩ vãng u buồn… Đó là những câu nói mà chúng ta thường dùng để tự an ủi mình hoặc an ủi người khác khi đứng trước thất bại hay bất cứ một nỗi bất hạnh nào…

Mà quả thật, thời gian không những giúp chúng ta chữa lành được nhiều vết thương trong cuộc sống, thời gian còn là một kẻ phá hoại tàn nhẫn. Cái chết xảy ra hằng ngày xung quanh chúng ta là một chiến thắng của thời gian. Sự sụp đổ của không biết bao nhiêu đế quốc trên cõi trần này cũng là một chiến thắng của thời gian…

Chỉ có một sức mạnh mà thời gian đành phải nhượng bộ: đó là sức mạnh của Tình yêu. Chúng ta thường nói: Tình yêu mạnh hơn sự chết. Đúng hơn, chúng ta phải nói: Tình yêu mạnh hơn Thời gian, bởi lẽ thời gian không bao giờ có thể xóa mờ được Tình yêu.

Bất cứ một nghĩa cử yêu thương nào mà con người làm cho tha nhân, đều trở thành bất diệt. Những nghĩa cử yêu thương trở thành bất diệt là bởi vì nó tham dự vào Tình yêu của Thiên Chúa. Người sống cho kẻ khác là người sống cho Chúa. Và ai sống cho Chúa tức là sống mãi trong Tình yêu.

Chúng ta đang cầu nguyện cho các đẳng linh hồn trong tháng mười một này. Chúng ta cầu cho họ vì chúng ta tin rằng thời gian đã không đưa họ đi vào quên lãng. Trong Tình yêu của Chúa mà chúng ta đang san sẻ cho những người xung quanh, những người quá cố cũng sẽ được sống mãi. Còn lời kinh nào hữu hiệu hơn cho những người quá cố cho bằng những nghĩa cử yêu thương của chúng ta…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
12-11-2009, 04:44 PM
13 tháng 11

Ánh mắt mẹ tôi

Paul Nagai, một bác sĩ người Nhật, từ sau quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, đã trở thành con người bất hủ, vì sự tận tụy và tấm lòng hy sinh vô bờ bến của ông. Từ vô thần, ông đã trở thành người có niềm tin. Ông đã giải thích như sau:

“Trong kỳ nghỉ mùa xuân, lúc đó tôi học hết năm thứ hai y khoa, mẹ tôi trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường của người. Trong cơn hấp hối, người nhìn tôi và thở ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt người mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương tôi đến cùng, cặp mắt này đã nói với tôi một cách rõ rệt rằng: cho dù khuất núi, người vẫn ở bên tôi luôn mãi… Tôi không tin gì ở sự hiện hữu của linh hồn. Bỗng nhiên, trong ánh mắt của mẹ tôi, tôi đã nhìn thấy linh hồn của người… Từ đó, con người tôi đổi hẳn, tôi tin rằng mẹ tôi, người đã sinh ra tôi, đã yêu thương tôi, không thể bị tiêu diệt hoàn toàn sau cái chết”.

Chúng ta có một linh hồn bất tử. Đó là nền tảng của phẩm giá con người. Nếu sinh ra, sớm nở tối tàn như kiếp hoa đồng nội và cuối cùng trở về với cái không vô tận, thì đâu là giá trị của con người?…

Chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta mang trong mình ánh lửa của Vĩnh Cửu, cho dù thân xác này có hư nát đi, chúng ta vẫn tiếp tục cuộc sống mai sau. Đó là cùng đích của tất cả mọi bôn ba lao nhọc của chúng ta trên cõi đời này. Bạn sẽ chuẩn bị gì cho mảnh hình hài còn lại ấy?


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
13-11-2009, 08:03 AM
14 tháng 11

Tôi tiếp tục cuộc chơi!

Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn một ngàn hai trăm người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt như sau: “Nếu bạn chỉ còn một ngày nữa để sống, bạn sẽ làm gì?” Kết quả của cuộc thăm dò được phân chia như sau:

- Năm mươi bảy phần trăm những người đàn bà được phỏng vấn trả lời rằng họ sẽ sống ngày cuối cùng với gia đình. Mười hai phần trăm khác thích ở một mình hoặc với bạn bè.

- Hai mươi sáu phần trăm những người đàn ông được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình. Bốn mươi hai phần trăm khác thích ở một mình hoặc với bạn bè.

- Ba mươi hai phần trăm đàn ông lẫn đàn bà muốn được sống với gia đình trong những giây phút cuối đời.

- Sáu phần trăm người đàn ông muốn được sống bên vợ…

Trên đây có lẽ chỉ là những con số không đại diện cho ước muốn hay suy nghĩ của tất cả mọi người. Nhưng xuyên qua kết quả đó, chúng ta cũng có thể đọc được một thái độ chung của con người khi đứng trước sự chết: đó là sự cô đơn…

Cái chết là một chia lìa vĩnh viễn, nhất là với những người thân của chúng ta. Nếu câu hỏi trên đây được đặt ra cho bạn giây phút này đây, bạn sẽ làm gì?

Có lẽ chúng ta còn nhớ chuyện của một vị thánh trẻ khi được hỏi về cách thế chuẩn bị chết…

Giữa một đám trẻ đang chơi đùa, viên giám thị đặt câu hỏi: nếu ngay bây giờ, chúng con biết mình sắp chết, chúng con sẽ làm gì?

Một số trả lời rằng sẽ đi vào nhà thờ cầu nguyện, một số cho biết sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành v.v… Chỉ có một cậu bé điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát tôi có chết, tôi cũng sẽ tiếp tục cuộc chơi”.

Có lẽ đó là câu trả lời làm cho viên giám thị ưng ý nhất, bởi vì nếu giải trí lành mạnh là một bổn phận, thì việc thánh hóa trước tiên phải nằm trong bổn phận hằng ngày.

Nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ Chúa trong từng sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng giây phút… thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ đó. Người luôn trung thành với những gặp gỡ trong giây phút hiện tại, sẽ không phải hãi sợ trong cuộc gặp gỡ tối hậu là cái chết.

Chúng ta đang cầu cho các đẳng linh hồn. Giáo hội kêu mời chúng ta dâng các việc đạo đức và hy sinh để cầu cho họ. Đó là những việc làm không thể thiếu sót trong nghĩa vụ liên đới của người Kitô. Nhưng còn có một việc làm khác không kém giá trị: đó là sự trung thành của chúng ta trong những bổn phận hằng ngày. Người có niềm tin trưởng thành thực sự, luôn nhìn thấy ý nghĩa và giá trị của những bổn phận vô danh và nhàm chán hằng ngày…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
14-11-2009, 06:42 PM
15 tháng 11

Xuống núi

Có hai vị thiền sư vừa xuống núi. Họ đi vào trong một con đường lầy lội. Cơn mưa nặng hạt đã khiến một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã tư lầy lội được… Lập tức, một trong hai vị thiền sư đến bồng người thiếu nữ trên tay và đưa qua đường. Vị sư khác lấy làm khó chịu nên không mở miệng nói với bạn mình một lời. Mãi một lúc sau, không còn nhịn được nữa, ông ta mới lên tiếng: Chúng ta là người tu hành, không được phép gần đàn bà, nhất là những cô gái đẹp. Sao anh lại bồng đàn bà trên tay?

Vị sư đã bồng người thiếu nữ trên tay mỉm cười đáp: “Tôi đã bỏ cô ta tại chỗ rồi. Còn anh sao cứ mang mãi cô ta theo tới đây”.

Chúa Giêsu đã nói: Chính từ lòng người mới xuất phát mọi tội ác… Sự hoán cải đích thực chính là hoán cải nội tâm. Tất cả những thực hành đạo đức bên ngoài, nếu không đi kèm với một ý hướng ngay lành và một tâm hồn sám hối thực sự, chỉ là trò giả hình…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
15-11-2009, 01:46 PM
16 tháng 11

Vui để đợi chết

Theo giai thoại của người Trung Hoa thì ngày xưa có một người tên là Vinh Khải Kỳ tỏ ra là một bậc tiên ông đạo cốt, mình mặc áo lông cừu, lưng thắt dây, ngày ngày giao du ở sơn thủy, vui thú cầm ca chậm rãi rảo bước, tay đánh đàn miệng ca hát không ngừng. Một hôm, Đức Khổng Tử đi dạo gặp Vinh Khải Kỳ, ngài mới hỏi ông: “Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ ca hát thế?”

Khải Kỳ thưa: “Trời sinh muôn vật, loài người cao quý nhất. Ta đã được làm người, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què, có người non yếu… mà ta thì khỏe mạnh sống lâu, thế là hai điều đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta nay biết vui với cảnh đời để đợi cái chết thì có gì lo buồn nữa?”

Lạc quan, vui sống là đức tính cơ bản nhất của người Kitô. Người Kitô nhận ra phẩm giá cao cả của mình và tiếp nhận mọi sự xảy đến như một hồng ân của Chúa. Cây cỏ đồng nội, muông thú trên rừng không nhọc công tích trữ mà còn được Chúa che chở nuôi nấng, huống cho con người là hình ảnh của Người… Mỗi ngày có niềm vui nỗi khổ của nó. Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống từng phút giây như một ân ban của Chúa, đó là bí quyết để giúp ta được hạnh phúc ở đời này.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
16-11-2009, 08:16 AM
17 tháng 11

Trong mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích

Một ngày nọ, triết gia Diogene của Hy Lạp đã đến giữa chợ Athene và dựng lên một căn lều có ghi đậm hàng chữ như sau: “Tại đây có bán sự khôn ngoan”.

Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều đọc được lời rao báo mới cười thầm trong bụng… Muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.

Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ… Anh đưa cho Diogene ba hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba hào bỏ vào túi, triết gia Diogene nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích”.

Vị khoa cử thành Athene vô cùng thích thú về lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước của nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy…

“Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích”.

Có lẽ đó cũng là khuôn vàng thước ngọc mà Giáo hội muốn ngỏ với mọi người chúng ta trong những ngày cuối cùng của năm Phụng Vụ này. Một năm qua đi: đó là hình bóng của đời người và lịch sử của thế giới này.

“Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích”. Người lực sĩ nghĩ đến phần thưởng đang chờ đợi mình. Người học sinh nghĩ đến ngày đỗ đạt thành tài… Điểm đến thúc đẩy con người hăng say làm việc.

Thời Noe, mọi người ăn uống, vui chơi và cười nhạo khi ông cho đóng tàu để phòng nạn Hồng Thủy. Đối với họ, chuẩn bị để đương đầu với tai nạn, chuẩn bị để làm một cuộc hành trình dài là một chuyện viễn vông, là điều ngu xuẩn…

Hãy vui hưởng cuộc sống, hãy sống như thể con người sẽ không bao giờ chết: đó là thái độ của nhiều người trong chúng ta. Sống như thế là sống không định hướng, sống như thế là sống không có mục đích. Thánh Phalô đã gọi những người đó là những người chỉ biết thờ cái bụng của mình…

Cái chết là cửa để bước vào cuộc sống mai sau. Và cuộc sống mai sau ấy tùy thuộc vào những tích chứa, những xây dựng của chúng ta trong cuộc sống tại thế này. Nếu trong cuộc sống này, chúng ta hướng tất cả mọi hoạt động của chúng ta vào cùng đích ấy, nếu chúng ta hành động, suy nghĩ như thể chúng ta sẽ ra đi tức khắc, thì chắc chắn khi bước qua ngưỡng cửa ấy, chúng ta sẽ không ngỡ ngàng, thất vọng…

Nhưng dĩ nhiên, không phải tự sức mình, chúng ta có thể xây dựng cho mình tương lai vĩnh cửu ấy. Sự sống trường sinh là ân ban nhưng không của Chúa. Thiên Chúa chỉ chờ đợi nơi chúng ta sự ưng thuận và đáp trả tích cực mà thôi… Ước gì từng suy nghĩ, từng hành động, từng gặp gỡ, từng hơi thở của chúng ta đều là một đáp trả tích cực của chúng ta với lời mời gọi vào sự sống bất diệt của Chúa. Ước gì trong tất cả mọi sự, sự khôn ngoan hướng dẫn chúng ta chính là cõi phúc trường sinh mà Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ước gì trong từng bước lữ hành về cõi phúc ấy, chúng ta có thể nếm được niềm vui và hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống này…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
17-11-2009, 04:56 PM
18 tháng 11

Tôi đã gặp Ngài

Andre Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cách đây vài năm, là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín…

Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ đợi ông. Trong phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý”.

Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Người”. Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách của những tác phẩm bán chạy nhất…

Dù cho ta có chối bỏ Thiên Chúa, Người vẫn luôn luôn chờ đợi ta. Tại một góc đường nào đó, trước một ánh nến lung linh nào đó, Người đang chờ ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc nào cũng chờ đợi ta… Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi hẹn hò của Thiên Chúa. Bao lâu ta còn tìm kiếm, bao lâu ta còn phấn đấu, bao lâu ta còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn còn chờ đợi ta…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
18-11-2009, 08:28 AM
19 tháng 11

Một lỗ nhỏ trên vách tường

Tại một trung tâm bài phung nọ, đa số các nạn nhân đều buồn chán vì cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn biết cười và vẫn tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ.

Vị nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu đâu là nguyên nhân của phép lạ này. Sau nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến. Đó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày, ông chờ đợi nụ cười ấy. Khuôn mặt người đàn bà chỉ chợt xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn ông duy nhất còn biết cười trong trung tâm bài phong đó đã giải thích cho vị nữ tu như sau:

“Người đàn bà ấy chính là vợ tôi. Trước khi tôi đến đây, nàng đã tìm đủ mọi cách để chữa chạy tôi. Mỗi ngày, nàng lau sạch một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn… Nhưng cuối cùng, nàng không thể giữ tôi lâu hơn. Người ta đã đến đưa tôi vào trung tâm này.

Nhưng vợ tôi đã không bỏ tôi. Mỗi ngày, nàng đến nhìn qua lỗ hỏng của vách tường và mỉm cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống. Nhờ nàng, tôi vẫn còn muốn sống…”

Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã làm cho người vợ không nhìn người chồng xấu số như một con người đáng xa lánh. Tình yêu của người vợ đã đem lại sức mạnh và niềm vui sống cho người chồng… Nhu cầu căn bản nhất của con người là yêu và được yêu. Bất cứ ai cũng cần đến Tình yêu và muốn thể hiện Tình yêu… Bạn có biết rằng có bao người đang cần một nghĩa cử, một nụ cười, và một ánh mắt cảm thông của bạn không?


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
19-11-2009, 05:03 PM
20 tháng 11

Con lừa của Chúa

Thánh Gioan Maria Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không đủ khả năng để tiến tới chức linh mục. Ngày kia, thừa lệnh Giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học đã đến khảo sát Vianney. Vianney đã không trả lời được câu hỏi nào… Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn: “Vianney, anh dốt như lừa! Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?”

Vianney khiêm tốn, bình tĩnh trả lời: “Thưa thầy, ngày xưa, Samson chỉ dùng một cái xương hàm của một con lừa để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh. Vậy, với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao?”

Thiên Chúa tự do chọn lựa mỗi người vào chương trình của Người. Người chọn chúng ta không vì tài năng, đức độ của chúng ta. Người quyền năng đến độ có thể biến sự dốt nát, tầm thường của chúng ta thành những giá trị siêu phàm.

Điều quan trọng chính là sự đáp trả quảng đại của chúng ta đối với chương trình của Người. Thiên Chúa luôn làm được phép lạ, nếu con người biết cộng tác với Người, ngay cả bằng chính sự dốt nát, vô dụng của mình.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
20-11-2009, 08:30 AM
21 tháng 11

Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời

William Barlay, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng người Anh đề nghị sửa một dấu trong kinh “Lạy Cha” như sau: Giữa những câu “chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” và câu “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” thay vì dấu phết hay dấu chấm phết nên dùng dấu hai chấm, để nêu bật ý nghĩa: Nếu chúng ta vâng theo ý Chúa dưới đất như ý Chúa được vâng phục trên trời thì chúng ta sẽ làm cho: danh Chúa cả sáng và Nước Chúa được thống trị mọi nơi.

Đề nghị trên nhằm mục đích nhấn mạnh sứ mệnh xây dựng Nước Trời giữa lòng xã hội trần thế bằng cách hoàn toàn vâng theo ý Chúa của các tín hữu Kitô.

Bởi lẽ đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của sứ điệp Chúa Giêsu rao giảng và cũng là mẫu gương nổi bật nhất trong cuộc đời của Ngài.

“Ai vâng theo ý Cha Ta ở trên trời thì kẻ ấy là anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ Ta”.

Tuyên bố câu này, Chúa Giêsu không có ý khước từ mối dây liên lạc và tình mẫu tử giữa Ngài với Đức Maria. Nhưng Ngài muốn nêu bật một thực tại: Đức Maria đã trở nên Mẹ Ngài qua câu trả lời: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” và trong suốt cuộc đời, Đức Maria đã trung tín giữ trọn lời thưa xin vâng này đến giây phút đứng dưới chân thập giá.

Mừng lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, không gì chúng ta có thể làm đẹp lòng Mẹ hơn là học cùng Mẹ để bập bẹ thưa: “Xin vâng”.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
21-11-2009, 12:22 PM
22 tháng 11

Nồi cháo tuyệt vời

Một hôm, có một người lạ mặt đến gõ cửa nhà của một bà góa nghèo để ăn xin. Nhưng người đàn bà cho biết trong nhà bà không còn gì để ăn cả. Người lạ mặt mới nói: “Bà đừng lo, tôi có mang theo một hòn đá có thể biến nước thành một thứ cháo tuyệt vời nhất trần gian. Nhưng trước tiên bà hãy cho tôi mượn một cái nồi lớn”.

Thấy người lạ mặt đề nghị một cách nghiêm chỉnh, cho nên người đàn bà mới cho nước vào cái nồi lớn nhất và đặt lên bếp. Khi nước vừa sôi, thì người đàn bà chạy đến các nhà láng giềng để mời sang chứng kiến điều lạ lùng sắp xảy ra. Trước đôi mắt mở to của mọi người, người khách lạ mới cho viên đá vào nồi, rồi dùng muỗng lấy nước đưa lên miệng nếm, ông vừa hít hà: “Thật là tuyệt diệu! Nhưng giá có thêm một ít khoai thì tốt hơn”. Nghe thế, một người đàn bà có mặt bèn sốt sắng đề nghị: “Trong bếp tôi còn một ít khoai”. Nói xong, bà đon đả chạy về mang khoai sang. Người khách lạ cho những miếng khoai tây được thái nhỏ vào trong nồi. Một lát sau, ông nếm thử và nói: “Tuyệt! Nhưng giá có thêm chút thịt thì chắc chắn phải ngon hơn”.

Nghe thế, một người đàn bà khác chạy về nhà mang thịt đến. Người lạ mặt cũng cho thịt vào nồi, đảo lên trộn xuống một hồi rồi nếm thử và nói: “Bây giờ thì quý vị có thể thưởng thức nồi cháo của tôi, nhưng nếu có thêm một chút rau cỏ cho vào thì là hoàn hảo”. Dĩ nhiên, ai cũng muốn nếm thử nồi cháo, cho nên ai cũng hăm hở đi tìm rau. Có người mang đến nguyên một giỏ củ cà rốt và hành. Người lạ mặt cho các thứ rau vào nồi rồi ra lệnh cho người đàn bà chủ nhà: “Bây giờ tôi cần một ít muối và tiêu nữa là có được nồi cháo ngon nhất trần gian”. Khi nồi cháo đã sẵn sàng, ông hối thúc mọi người đi tìm chén bát. Ai cũng hối hả chạy về nhà mang chén bát đến. Có người mang cả bánh mì và trái cây.

Mọi người vui vẻ ngồi vào một bàn tiệc bất ngờ. Trong khi mọi người nói cười rộn rã, thì người khách lạ lẻn đi. Ông vẫn để lại hòn đá mà mỗi khi cần đến, những người hàng xóm có thể sử dụng để cùng nấu chung với nhau một nồi cháo ngon nhất thế giới.

Một hòn đá, cộng với một ít thực liệu và gia vị sẽ tạo nên một nồi cháo ngon nhất trần gian: đó là hình ảnh của sự đóng góp vào phép lạ mà Thiên Chúa không ngừng thực thi cho con người.

Bà góa thành Sarepta đã dâng cúng một ít bột mì cho tiên tri Êlia để từ đó được lương thực hằng ngày trong suốt mùa hạn hán. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhân bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh và hai con cá của một cậu bé…

Với một chút đóng góp từ lòng quảng đại của con người, Thiên Chúa có thể làm những phép lạ cả thể. Tất cả những công trình bác ái và giáo dục trong Giáo hội đều bắt đầu một cách khiêm tốn: Chúng ta hãy nhìn vào công trình của Mẹ Têrêxa thành Calcutta, của cha Pierre, sáng lập cộng đồng Emmaus, của cha Van Straatten, sáng lập Hội trợ giúp các Giáo hội đau khổ: một căn nhà nhỏ, một miếng thịt mỡ, một công việc vô danh… Phép lạ của Thiên Chúa thường bắt đầu bằng những đóng góp nhỏ và âm thầm của con người.

Thiên Chúa luôn ban cho mỗi người chúng ta cơ may để đón nhận phép lạ của Ngài. Ngài chỉ cần một chút lòng quảng đại của chúng ta. Nếu chúng ta sẵn sàng dâng tặng cho Ngài một chút những gì chúng ta có thì có biết bao nhiêu người chung quanh sẽ được chung hưởng phép lạ của Thiên Chúa.


Trích từ sách LẼ SỐNG

nguyenfrank
21-11-2009, 01:32 PM
Đay thật sự là những thông tin rất bổ ích. Xin cảm ơn nhiu

Cỏ Lau
22-11-2009, 12:20 PM
23 tháng 11

Tấm gương trong lâu đài Versailles

Lâu đài Versailles ở ngoại ô Paris là một trong những danh lam thu hút nhiều du khách nhất. Trong lâu đài, nơi mà du khách cảm thấy bị giữ chân lâu nhất đó là phòng khánh tiết bằng pha lê, được trang bị bằng hàng ngàn tấm kính từ trên trần nhà đến các vách tường.

Du khách sẽ ngỡ ngàng vì một hiện tượng lạ lùng: Nếu bạn đưa tay ra và chỉ về một phía nào đó, bạn sẽ thấy có hàng trăm cánh tay và hàng ngàn khuôn mặt đang hướng về bạn như đang ngắm nhìn bạn. Bạn sẽ cảm thấy như mọi người đang chú ý đến bạn. Nhưng nhìn cho kỹ thì tất cả những cánh tay, tất cả những khuôn mặt đó đều là của bạn.

Đó là hình ảnh của mỗi người trong chúng ta. Ai trong chúng ta cũng cho mình là người quan trọng nhất. Tất cả mọi hành động, mọi ý nghĩ, mọi lời nói, đều tập trung vào bản thân chúng ta và trong lòng chúng ta không còn một chỗ trống nào để dành cho người khác.

Cái tôi trong chúng ta có thể là một trở ngại cho tương giao giữa chúng ta và người khác cũng như tương giao giữa chúng ta và Chúa. Sự sống của Chúa chỉ có thể lớn mạnh trong chúng ta và sự sống của chúng ta chỉ có thể triển nở là lúc chúng ta thực sự sống cho Chúa. Lời của Ngài phải tiêu diệt cái tôi ích kỷ trong chúng ta để chúng ta có thể lớn lên trong Người. Nói như thánh Gioan Tẩy giả khi gặp Chúa Giêsu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Thưa bạn, đó phải là bí quyết trong cuộc sống của người Kitô chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
23-11-2009, 08:26 AM
24 tháng 11

Đây bài ca nghìn trùng

Đây bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, từ dạo Đức Giêsu gục đầu tắt thở trên thập giá, cuộc sống và cái chết của Ngài đã trở nên một bài ca nghìn trùng, một bản tình ca muôn thuở nói lên mối tình Thiên Chúa yêu thương nhân loại, được thể hiện qua cái chết tự ý thật tình của Ngài để sống trọn từng chữ lời mình tuyên bố:

“Không có Tình yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình”.

Đây bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, bài ca nghìn trùng, bài ca muôn thuở của một cuộc đời sống cho Tình yêu và một cái chết, chết cho cuộc tình. Vì thế, cuộc sống khó nghèo, khiêm tốn, lam lũ để dấn thân rao giảng Tin Mừng và cứu nhân độ thế của Đức Giêsu phải kết thúc bằng cái chết tang thương, tất tưởi, cái chết đầy đau đớn, tủi nhục trên thập giá, để ngàn đời hai bàn tay bị đinh đâm thâu qua không thể nào nắm lại được nữa, nhưng muôn thuở một bàn tay luôn xòe ra như muốn nói: “Vâng, Con hoàn toàn yêu mến và vâng phục thánh ý Cha”, và bàn tay kia luôn mở rộng như muốn nói: “Vâng, Ta trọn tình thương yêu và sẵn sàng phục vụ mọi người cho đến khi đổ đến giọt máu cuối cùng”.

Đây bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, bài ca nghìn trùng của cuộc sống dấn thân phục vụ được kết thúc trên thập giá để từ dạo ấy thập giá là biểu tượng cho một quy luật muôn thuở của Tin Mừng do Đức Giêsu rao giảng: “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không mục nát đi, nó cứ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó mục nát đi, nó sinh được nhiều hạt khác”.

Đây bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, đây bài ca tình thương muôn thuở được xướng lên để chờ đợi những cái đáp trả. Ngày hôm nay, nhân ngày lễ mừng thánh Andrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo, chúng ta hãy hân hoan dâng lên Thiên Chúa cuộc sống và cái chết vì đức tin, vì Tình yêu của các bậc đàn anh, đàn chị của chúng ta như những câu đáp lại điệp khúc bản tình ca của Chúa Giêsu: “Không có Tình yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình”.

Một điểm son nổi bật nhất trong những thành tích vẻ vang chứng tỏ niềm tin sắc đá được các thánh tử đạo Việt Nam ghi vào những trang sử của Giáo hội là: Lòng tôn kính thập giá.

Không hiểu vì lý do gì mà các vua quan Việt Nam thời đó đã dùng thập giá làm phương tiện để thách đố niềm tin của các vị tử đạo. Họ gọi đó là “Quá khóa” để dùng thập giá vạch ranh giới giữa cái sống và cái chết. Nhưng trăm ngàn hình khổ đã không làm cho các vị anh hùng đức tin Việt Nam tự ý bước qua thập giá, dấu hiệu của Đấng đã rao giảng và đã thực hiện lời mình xác quyết: “Không có Tình yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình”.

Không bước qua thập giá để chứng tỏ mình không chối bỏ đạo, không chối bỏ niềm tin vào Thiên Chúa, không chối bỏ Tình yêu của Thiên Chúa đối với mình dù phải chịu tan xương nát thịt, dù phải chịu kiềm kẹp, giam cầm, dù phải chịu voi dày ngựa xéo, dù phải chịu đầu rơi máu đổ, các vị tử đạo Việt Nam đã nêu gương đáp lại Tình yêu của Đấng chết treo trên thập giá để:

- Nợ máu, các ngài đã trả bằng máu.

- Nợ tình, các ngài đã trả bằng tình.

- Nợ mạng sống, các ngài đã trả bằng những cái đứng lặng yên, không quá khóa, nhưng cái đứng bất động này là những cử chỉ hùng hồn dẫn các ngài đến cái chết vì một niềm tin, chết cho một cuộc tình như Đức Giêsu đã nêu gương.


Trích từ sách LẼ SỐNG

dakbla
24-11-2009, 10:20 AM
cảm ơn gấu trúc nhiều lắm chỉ một buổi tối mà sao chị post được nhiều vậy . từ nay em sẽ thường xuyên online đễ được đọc bài của chị !

Cỏ Lau
24-11-2009, 05:46 PM
25 tháng 11

Không quá muộn để nên thánh

Người Nhật Bản có kể một câu chuyện như sau:

Zenkai là một thanh niên con của một hiệp sĩ Samourai. Anh được tuyển vào phục dịch cho một viên chức cấp cao trong triều đình. Không mấy chốc, Zenkai đem lòng say mê người vợ của chủ mình. Anh lập mưu giết người chủ và đem người đàn bà trốn sang một vùng đất xa lạ.

Anh tưởng có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà. Nhưng không mấy chốc, người đàn bà đã để lộ nguyên hình của một con người ích kỷ, đê tiện. Zenkai đành bỏ người đàn bà và ra đi đến một vùng đất khác, ở đó anh sống qua ngày bằng nghề hành khất.

Trong cảnh bần cùng khốn khổ, Zenkai bắt đầu hồi tâm để nhớ lại những hành động tội lỗi của mình. Anh quyết định làm một việc thiện để đền bù cho quá khứ nhơ nhớp của mình.

Anh đi về một vùng núi hiểm trở, nơi mà nhiều người đã bỏ mình vì khí hậu khắc nghiệt cũng như vì công việc nặng nhọc. Zenkai đem hết sức lực của mình để khai phá một con đường xuyên qua vùng núi ấy.

Ban ngày đi khất thực, ban đêm đào đường xuyên qua núi. Zenkai cặm cụi làm công việc ấy ròng rã trong ba mươi năm trời.

Hai năm trước khi Zenkai hoàn thành công trình của mình, thì người con của viên chức triều đình mà anh đã sát hại trước kia bỗng tìm ra tung tích của anh. Người thanh niên thề sẽ giết Zenkai để trả thù cho cha mình. Biết mình không thoát khỏi án phạt vì tội ác mình đã gây ra mấy chục năm trước, Zenkai phủ phục dưới chân người thanh niên và van xin.

“Tôi xin sẵn sàng chịu chết. Nhưng cậu hãy cho phép tôi được hoàn thành công việc tôi đang làm dở. Khi mọi sự đã hoàn tất, cậu hãy giết tôi”.

Người thanh niên ở lại để chờ cho đến ngày trả được mối thù cho cha. Nhưng trong khi chờ đợi, không biết làm gì, người thanh niên đành phải bắt tay vào việc đào đường với Zenkai mà vẫn nuôi chí báo thù cha.

Nhưng chỉ sau một năm cùng làm việc với kẻ đã giết cha mình, người thanh niên cảm thấy mọi ý muốn báo thù đều tan biến trong anh. Thay vào đó, anh lại thấy dậy lên trong lòng sự cảm phục và thương mến đối với sự nhẫn nhục, chịu đựng của Zenkai.

Con đường đã được hoàn thành trước dự định. Giờ đây dân chúng có thể qua lại vùng núi hiểm trở một cách dễ dàng.

Giữ đúng lời hứa, Zenkai đến phủ phục trước mặt người thanh niên để chấp nhận sự trừng phạt. Nhưng người thanh niên vừa đỡ Zenkai dậy vừa nói trong tiếng khóc:

“Làm sao tôi có thể chém đầu được thầy của tôi?”

Câu chuyện trên đây hẳn hàm chứa nhiều bài học. Ngạn ngữ Latinh thường nói: “Sai lầm, vấp ngã là chuyện thường tình của con người, nhưng ngoan cố trong sai lầm là bản chất của ma quỷ”. Nét đẹp quý phái nhất nơi lòng người đó là biết hồi tâm, còn biết nhận ra lỗi lầm và từ đó quyết tâm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Trong câu chuyện trên đây hẳn phải là hình ảnh của sự phục thiện mà Thiên Chúa vẫn luôn khơi dậy trong lòng người.

Nhưng bài học đáng chú ý hơn trong câu chuyện trên đây có lẽ là: tình liên đới xóa tan được hận thù trong lòng người. Người thanh niên đã khám phá ra giá trị ấy khi bắt tay làm việc với Zenkai, con người mà trước đó anh đã quyết tâm tiêu diệt cho bằng được. Quả thực, tình liên đới, sự đồng lao cộng khổ, sự hiện diện bên nhau có sức tiêu diệt được hận thù trong lòng người.


Trích từ sách LẼ SỐNG

vit con xau
25-11-2009, 12:06 PM
cảm ơn rất nhiều ! những mẩu chuyện nhỏ nhưng ý nhgiã của chuyện không nhỏ tý nào. những câu chuyện gợi lên trong tôi niềm xúc cảm, những suy nghĩ, hơn hết đó là sự dằn vặt trong mình.
xin cảm ơn vì đã cho tôi được biết về những mẩu chuyện này, xin cảm ơn vì những mẩu chuyện đã làm tôi thao thức và tôi cũng xin cảm ơn tất cả.......:hug:

Cỏ Lau
25-11-2009, 06:15 PM
26 tháng 11

Vui với người vui, khóc với kẻ khóc

Cha Pierre, người sáng lập phong trào Emmaus, chuyên giúp những người không nhà không cửa tìm được nơi cư ngụ và tự lực cánh sinh từ việc chế biến những đồ phế thải, đã ôn lại một trong những kỷ niệm mà ngài cho là ý nghĩa nhất trong cuộc đời như sau: Gia đình tôi gồm có tất cả tám anh chị em. Một ngày thứ năm nọ, chúng tôi muốn tập trung lại với nhau để đi đến thăm một gia đình bà con của chúng tôi. Nhưng cha mẹ tôi đã phạt tôi bằng cách bắt tôi phải ở nhà. Buổi chiều hôm đó, các anh em tôi trở về, ai cũng cười nói huyên thuyên vì một ngày được chơi đùa thỏa thích. Thái độ đó càng làm tôi bực tức thêm. Không kềm hãm được sự ghen tức, tôi đã nói với một người anh của tôi như sau: “Không có tôi thì kể như cuộc chơi cũng không có ý nghĩa gì”. Tôi trút hết cả giận dữ cũng như sự kiêu hãnh của tôi và bỏ đi nơi khác.

Ba tôi đang đau liệt trong phòng của ông. Tình cờ nghe được lời phát biểu ngạo mạn của tôi, ông cho gọi tôi vào… Lúc đó tôi mới hiểu được sai trái của tôi cũng như nỗi khổ tâm của cha tôi. Nhưng cha tôi đã không la rầy tôi. Ông chỉ nhỏ nhẹ bảo tôi: “Con không biết rằng con vừa nói một lời lẽ xấu xa ư? Con nghĩ rằng chỉ có con là người quan trọng nhất sao? Tại sao con không bằng lòng khi những người khác được sung sướng?”

Lúc đó tôi mới hiểu rằng ba tôi đau khổ trong thân xác đã đành, nhưng ông còn đau khổ gấp bội trong tinh thần vì tính xấu của tôi.

Tôi không bao giờ quên được câu chuyện trên đây… Và có lẽ đây là câu chuyện đánh dấu cả cuộc đời còn lại của tôi.

Ba nguyên tắc cơ bản hướng dẫn đời sống của các cộng đồng Emmaus do cha Pierre sáng lập, trước hết đó là lao động. Các thành phần của cộng đồng Emmaus không chấp nhận bất cứ một sự dâng cúng nào. Tay làm hàm nhai, mỗi người trong cộng đồng đều ý thức về giá trị của việc làm và sự đóng góp của mình.

Nguyên tắc thứ hai đó là đời sống cộng đoàn. Tất cả mọi tiền của kiếm được đều bỏ vào quỹ chung của cộng đoàn. Từ ba mươi năm nay, tất cả tiền của thu tích được đều được chi dùng cho đời sống của cộng đồng cũng như được bố thí cho những người nghèo khổ túng thiếu hơn.

Nguyên tắc thứ ba là phục vụ. Đây là nguyên tắc tổng hợp mọi nguyên tắc khác của đời sống cộng đoàn. Phục vụ có nghĩa là sống cho người khác, lấy đau khổ của người khác làm chính đau khổ của mình, lấy niềm vui của người khác làm chính niềm vui của mình.

Có lẽ nguyên tắc cơ bản mà cha Pierre đang áp dụng trong các cộng đoàn Emmaus của ngài chính là bài học mà ngài tiếp thu được từ thân phụ của mình: “Con không bằng lòng khi thấy những người khác được hạnh phúc ư?”

Nguyên tắc trên đây cũng là lời khuyên mà thánh Phaolô thường nhắn nhủ các tín hữu của ngài: “Vui với người vui, khóc với kẻ khóc”.

Dù sống trong địa vị nào trong xã hội, dù sống dưới hình thức gia đình nào, độc thân hay có đôi bạn, mọi người đều được mời gọi để sống chung với những người xung quanh. Nguyên tắc đơn sơ và cơ bản nhất trong cuộc sống chung vẫn là: “Lấy hạnh phúc của người khác làm hạnh phúc của chính mình, lấy niềm đau của người khác làm nỗi khổ của chính mình”.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
26-11-2009, 03:48 PM
27 tháng 11

Tiếng vọng rừng sâu

Có một cậu bé ngỗ nghịch thường bị mẹ khiển trách. Ngày nọ, giận mẹ nhưng không thể xúc phạm một cách trực tiếp, cậu bé chạy đến một thung lũng cạnh một khu rừng rậm. Cậu lấy hết sức mình và thét lên: “Tôi ghét người”. Cậu ngạc nhiên vô cùng vì từ khu rừng có tiếng vọng lại: “Tôi ghét người”. Cậu hoảng hốt quay về với mẹ và khóc nức nở. Cậu không thể hiểu được từ trong rừng đã có người thù ghét cậu.

Người mẹ nắm tay đưa cậu trở lại khu rừng và bảo cậu hãy hét lên: “Tôi yêu người”. Lạ lùng thay, cậu vừa dứt tiếng thì cũng có người nói vọng lại: “Tôi yêu người”. Lúc đó người mẹ mới giải thích cho cậu như sau: “Con ơi, đó là định luật trong cuộc sống của chúng ta. Con cho điều gì, con sẽ nhận điều đó. Ai gieo gió thì người đó sẽ gặt bão. Nếu con thù ghét người, thì người cũng sẽ thù ghét con. Nếu con yêu thương người, thì người cũng sẽ yêu thương con”.

Hận thù lúc nào cũng kéo theo hận thù, bạo động lúc nào cũng sinh ra bạo động. Chỉ có Tình yêu mới làm phát sinh Tình yêu. Bạo động và hận thù không thể là phương thế để cải tạo xã hội. Chỉ có Tình yêu đích thực mới cải đổi được lòng người. Bạn hãy sống cao thượng. Bạn hãy lấy Tình yêu để đáp trả lại hận thù. Tiếng vọng cao đẹp nhất của một nghĩa cử yêu thương lúc nào cũng là tiếng vọng của bình an tự trong đáy tâm hồn chúng ta.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
28-11-2009, 06:52 PM
28 tháng 11

Bà vợ của Socrate

Nhà hiền triết Hy Lạp Socrate chẳng may có một người vợ khó tính như chằng tinh. Nhưng ông đã chịu đựng tất cả những dở chứng của bà một cách kỳ diệu… Một ngày nọ, ông đang đàm đạo với các môn sinh ngay trước cửa nhà, bà vợ bắt đầu dùng mọi lời lẽ thô tục để rủa sả ông. Nhưng ông vẫn một mực điềm nhiên như không nghe biết gì. Bà vợ không cầm nổi cơn giận, đã múc một gáo nước tạt vào người ông. Nhà hiền triết cũng không để lộ một phản ứng. Mãi một lúc sau, ông mới bông đùa với đám môn sinh: “Sau cơn sấm sét thì lại có mưa giông”.

Thánh Basiliô khuyên dạy như sau: “Đừng ăn miếng trả miếng”. Kẻ chiến thắng trong một cuộc chiến phi lý là người bất hạnh nhất, bởi vì người đó sẽ mang theo tất cả phần lỗi… Hãy để cho kẻ thù ta là thầy dạy ta. Đừng bắt chước điều ta ghét bỏ. Đừng trở nên gương soi cho một kẻ đang giận dữ bằng cách phản chiếu chính khuôn mặt giận dữ của người đó.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
28-11-2009, 06:54 PM
29 tháng 11

Cái dũng của thánh nhân

Thánh Clêmentê Hofbaner, nổi tiếng là một người nóng tính.

Ngài được cử làm bề trên của một cô nhi viện. Một hôm trong nhà không còn lương thực, Clêmentê đã phải đích thân đi xin ăn. Ngài vào nhà một người giàu có đang tổ chức một sòng bạc. Người chủ nhà vừa gặp cơn đen lại vừa bị người hành khất quấy rầy. Ông không kềm nổi cơn bực bội nên đã nhổ tung nước bọt vào mặt thánh nhân. Bình thường có lẽ Clêmentê đã có phản ứng mạnh. Nhưng vốn luyện tập sự nhẫn nại, nên ngài đã đứng lên lau mặt rồi vui vẻ nói với người đã phỉ nhổ mình: “Đó là quà ông dành cho tôi, xin cám ơn ông. Thế còn quà của các trẻ mồ côi đâu?” Bị đánh động bởi cử chỉ điềm nhiên vui vẻ của thánh nhân, người chủ nhà đành phải lấy tiền trao cho ngài để giúp đỡ các em mồ côi.

Cái dũng của thánh nhân chính là biết dùng sự thinh lặng, nhẫn nhục để biến cải tâm hồn con người. Cổ nhân thường nói: “Một câu nhịn bằng chín câu lành”. Không có sức mạnh nào có thể thắng nổi sự bất bạo động. Bởi vì, khí giới dù có tối tân và có sức đe dọa đến đâu cũng không thể thuyết phục được tâm hồn con người. Chỉ có lòng tha thứ mới có thể bẻ gãy được thứ vũ khí ác hại nhất là hận thù.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
29-11-2009, 04:09 PM
30 tháng 11

Bảo chứng của trường sinh bất tử

Công chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 trước công nguyên, nhưng được những người sinh sống đồng thời tin tưởng là bà sẽ trường sinh bất tử vì bà được an táng trong một quan tài bằng ngọc thạch. Chồng bà nhắm mắt lìa đời 9 năm trước đó cũng được an táng trong một quan tài tương tự.

Đôi vợ chồng được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong vùng đồi núi hoang vu. Mãi đến năm 1969 người ta mới khám phá ra và cả thế giới ngạc nhiên trước sự giàu sang của thời đại ấy được biểu lộ qua 2 800 của lễ được dâng tặng lúc cử hành lễ ang táng, nhưng đặc biệt nhất là 2 cái quan tài, mỗi cái gồm tất cả 2 000 mảnh ngọc thạch nhỏ được kết chung lại bằng những sợi chỉ bằng vàng.

Những người sinh sống vào thời đại ấy quan niệm rằng: vàng và ngọc thạch không bị thời gian làm hư hại vì thế chúng là bảo chứng cho sự trường sinh bất tử.

Trên ba vòng bán nguyệt của khung cửa chính ở nhà thờ chính tòa Milanô bên Italia có khắc 3 dòng chữ:

- Phía dưới hình một hoa hồng được chạm trổ tinh vi của một vòng bán nguyệt, người ta đọc được hàng chữ: “Mọi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc”.

- Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây thập giá có ghi hàng chữ: “Mọi đau khổ chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc”.

- Ở vòng bán nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chánh của vương cung thánh đường có khắc dòng chữ: “Chỉ có sự đời mới là quan trọng”.

Ở giữa một bên là quan niệm đi tìm thuốc tiên hay sử dụng quan tài bằng ngọc thạch để được trường sinh bất tử và bên kia là quan niệm cuộc đời con người chấm cùng bằng cái chết, những người Kitô hữu xây dựng cuộc sống vĩnh cửu bằng những giây phút hiện tại và tin tưởng rằng cái chết là ngưỡng cửa dẫn vào cuộc sống đời đời và chính cuộc sống này mới thực sự quan trọng.

Vì thế họ chọn thái độ “sống gởi thác về”. Họ thu nhặt những giá trị quý như vàng ngọc bằng cách sống tốt, sống thật những giây phút hiện tại, bằng cách áp dụng “hai đạo luật vàng: mến Chúa yêu người”, vì họ biết rằng chỉ có những gì được làm vì Tình yêu mới có giá trị vĩnh cửu.

Vì thế họ quan niệm đời sống là một cuộc hành trình, phải luôn cất bước ra đi: nước mắt, nụ cười chỉ có giá trị tương đối, để mỗi ngày họ bắt đầu lại, mỗi ngày họ cất một bước chân mới đi về nhà Cha.

Năm phụng vụ đã gần kết thúc. Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục sống, nhưng với chú tâm sống tốt, sống thật từng phút giây hiện tại vì chúng ta là những hạt cát, những viên gạch xây dựng cho cuộc sống mai sau.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
30-11-2009, 04:00 PM
THÁNG 12


“Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”.

(Mt 1, 23)

01 tháng 12

Mang nặng đẻ đau

Trong tờ thông tin liên lạc của một giáo xứ nọ, người ta đọc thấy ở trang bìa của số ra tháng 12 như sau: Mùa Vọng là mùa của thai nghén…

Có lẽ chỉ có những người đàn bà đã hơn một lần kinh qua thời thai nghén và sinh nở mới có thể giúp chúng ta hiểu được thế nào là 9 tháng 10 ngày mang nặng đẻ đau… Trong 9 tháng 10 ngày, ngoài những nôn mửa không ngừng, người đàn bà mang thai thường phải trải qua nhiều tâm trạng khác nhau của vui buồn lẫn lộn…

Vui vì sự sống và niềm hy vọng đang lớn dần trong tâm hồn và thể xác của mình, người đàn bà mang thai cũng lo sợ, vì những bất ngờ không lường trước được. Những đột biến trong người cũng khiến cho người đàn bà mang thai cảm nhận được sự mỏng dòn, yếu đuối của con người. Tất cả mọi cử động, chế độ dinh dưỡng đều được cân nhắc cẩn thận để không phương hại đến bào thai… Có nên tiếp tục đi nhanh như trước kia không? Có được hút một điếu thuốc như trước không? Có nên dùng cafe không? Có nên dùng một chút bia rượu không? Có nên thức khuya không?… Tất cả đều được cân nhắc từng ly từng tí.

Bào thai càng lớn dần, niềm vui và nỗi lo lắng cũng tăng thêm… Và khi đến ngày nở nhụy khai hoa, như Chúa Giêsu đã nhận xét, niềm vui của người đàn bà khỏa lấp được tất cả những chờ đợi trong khi mang thai và những đớn đau trong khi sinh con.

Sự chào đời của hài nhi không những mang lại niềm vui, nhưng cũng đảo lộn cuộc sống trong gia đình. Đứa bé đã trở thành trung tâm của cuộc sống gia đình. Giờ giấc thay đổi, nhịp sống cũng thay đổi. Và có lẽ cái nhìn cũng đổi mới với mọi người trong nhà.

Mùa Vọng là mùa của thai nghén… Do tiếng thưa xin vâng đáp trả của Đức tin, chúng ta cũng cưu mang chính Chúa. Như người đàn bà có thể cảm nhận được sự tăng trưởng của bào thai, chúng ta cũng có thể cảm nhận được sự hiện diện mỗi lúc một thêm thân mật và gần gũi của Chúa trong tâm hồn chúng ta.

Cũng như người đàn bà mang thai có thể nhận ra sự mỏng dòn yếu đuối của mình, với sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, chúng ta cũng cảm nhận sâu sắc hơn những bất toàn, khiếm khuyết và tội lỗi của chúng ta. Ý thức ấy càng mời gọi chúng ta bước đi trong từng cố gắng vươn cao hơn. Cũng như người đàn bà mang thai cân nhắc từng đường đi nước bước, từng cách ăn mặc đi đứng, người cưu mang Chúa cũng tập trung tất cả suy tư, hành động, cư xử của mình vào chính Chúa. Lẽ sống là động lực của người có niềm tin chính là Chúa…

Bào thai càng lớn lên thì sự quên mình của người mẹ càng gia tăng. Người cưu mang Chúa cũng thế. Thánh Gioan Tẩy giả đã diễn tả đúng đòi hỏi ấy khi Ngài nói về Chúa Giêsu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”… Càng quên mình, người tín hữu Kitô càng cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn. Đó là định luật của đời sống Đức tin, chính khi quên mình, người Kitô cảm nhận được sự hiện diện của Chúa và càng gặp được chính mình…

Mùa Vọng là mùa của thai nghén: chúng ta hãy chuẩn bị cho Chúa Giêsu một máng cỏ trong tâm hồn chúng ta. Cũng như người đàn bà quên mình vì không biết bao nhiêu chuẩn bị cho con, chúng ta cũng hãy hướng trọn cuộc sống của chúng ta về với Chúa Giêsu. Hãy để cho Ngài lớn lên bằng những nhỏ lại của chúng ta: nhỏ lại trong tham vọng, nhỏ lại trong những ước muốn bất chính, nhỏ lại trong những đố kỵ, ghen ghét ích kỷ, nhỏ lại trong muôn vàn những đốn hèn, nhỏ nhặt trong cuộc sống… Và rồi, với Chúa ngự trị trong ta, tình mến sẽ lớn mãi trong trái tim.


Trích từ sách LẼ SỐNG

muoicamau
30-11-2009, 07:13 PM
"Xin thương đỡ nâng con suốt cuộc đời vì ngoài Chúa con đâu có ai nương nhờ"

Cỏ Lau
01-12-2009, 12:33 PM
02 tháng 12

Mòn mỏi đợi trông

Ngày kia, một hoàng đế nọ tập trung lại tất cả các nghệ sĩ trong mọi lãnh thổ của đế quốc, để tổ chức một cuộc thi đua. Đề tài của cuộc thi đua là: mô tả dung mạo của hoàng đế…

Các nghệ sĩ Ấn Độ với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa cương quý giá. Các nghệ sĩ người Anmêni mang đến một thứ đất sét mà chỉ có họ mới biết được giá trị của nó. Những người Ai Cập thì mang đến đủ thứ dụng cụ và một khối cẩm thạch quý giá.

Sau cùng, người ta thấy xuất hiện một phái đoàn Hy Lạp. Mọi người đều ngạc nhiên, bởi vì họ chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng…

Người ta giam các nghệ sĩ vào trong các khu nội cấm trong cung điện. Khi thời hạn ấn định đã đến, hoàng đế cho trưng bày tất cả các tác phẩm của các nghệ sĩ. Ông trầm trồ ca ngợi bức chân dung của chính mình do các họa sĩ Ấn Độ vẽ. Sang đến các pho tượng của người Ai cập và các mô hình của người Anmêni, ông càng tỏ ra thán phục hơn.

Sau cùng, khi đến gian hàng của người Hy Lạp, ông chỉ thấy vỏn vẹn bức tường bằng cẩm thạch của phòng khách, nhưng mặt tường được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy nguyên khuôn mặt của mình hiện ra từng nét…

Và dĩ nhiên, phái đoàn đã đoạt giải chính là những người Hy Lạp, bởi vì họ đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được chính khuôn mặt của mình.

Họa lại khuôn mặt của Đức Kitô: đó là mục đích của Giáo hội. Và nói như danh họa kiêm điêu khắc gia Michelangelo: “Để tạc một bức tượng, điều quan trọng chính là những gì phải được gọt bỏ”.

Muốn họa lại khuôn mặt của Đức Kitô, Giáo hội phải đánh bóng bức tường khuôn mặt của mình bằng cách gọt bỏ, đục đẽo tất cả những gì còn sần sùi, thừa thãi…

Mùa Vọng là mùa của mong đợi… Hai chữ mong đợi trong ngôn ngữ Việt Nam thường được đi kèm với hai chữ khác: mòn mỏi. Mong đợi nào cũng làm cho con người ra mòn mỏi. Nhưng chính sự hao mòn đó càng làm cho giây phút gặp nhau thêm đậm đà, thắm thiết hơn.

Mùa Vọng thường dạy chúng ta mong đợi. Đức Kitô đến với chúng ta qua từng biến cố, từng phút giây trong cuộc sống. Ngài chỉ được nhận diện, Ngài chỉ được họa lên nguyên hình nếu chúng ta chấp nhận đánh bóng bức tường thành rong rêu hoặc sần sù của con người chúng ta. Càng mòn mỏi, càng được gọt đẽo, chúng ta càng thấy được Đức Kitô và càng họa lại được Đức Kitô cho người khác…

Thật ra, không phải chúng ta là người họa lại khuôn mặt của Đức Kitô, mà chính Ngài đến với chúng ta với những đường nét mà chỉ có Ngài mới biết đích thực là của Ngài. Bổn phận của người Kitô chính là chấp nhận cho Đức Kitô dùng con người của mình để nhìn thấy khuôn mặt của Ngài. Phiến đá cẩm thạch của con người chúng ta càng bóng láng, gương mặt của Đức Kitô càng hiện rõ…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
02-12-2009, 06:25 PM
03 tháng 12

Giác ngộ

“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”… Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ một tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.

Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo hội kính nhớ… Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.

Không còn chống cưỡng lại với Lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khiết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Đức Thánh Cha.

Năm 1537, nghĩa là 3 sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisbon của Bồ Đào nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Độ. Trong 10 ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đã rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Độ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất… Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Đào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.

Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe… tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta.

“Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”… Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.

Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành…

Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ… Những đứa trẻ giàu có ở đô thị sẽ thèm khát những giây phút được cỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê…

Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ…

Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh phúc: ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại… Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
03-12-2009, 08:56 AM
04 tháng 12

Bức ảnh của gia đình

Trong thời kỳ khai phá bên Mỹ Châu, có 5 thanh niên mỹ tới vùng Ohio tìm vàng. Đây là một vùng hoang vu nguy hiểm không thể lường trước được… Sau một thời gian sống giữa rừng thiêng nước độc, khi trở về nhà, 4 người trong đám đã trở nên cộc cằn dữ tợn. Chỉ có một người còn giữ được tinh thần minh mẫn như trước. Người ta hỏi anh: làm thế nào để tránh được những lỗi lầm của những người kia, anh trả lời như sau:

“Vì một bức hình tôi đã mang theo. Không phải là bức hình của một người bạn gái, nhưng là của chính gia đình tôi… Buổi sáng trước khi tôi lên đường, chúng tôi đã ngồi ăn sáng chung với nhau. Mọi người đều nghẹn ngào vì tôi là người thứ nhất xa gia đình… Cha tôi nhắn nhủ đôi lời và cả gia đình đều quỳ gối cầu nguyện cho tôi. Chính hình ảnh đó đã theo tôi trong suốt chuyến đi và đã nâng đỡ tôi”.

Sống ở đời, ai cũng cần phải có một lý tưởng. Lý tưởng đó nuôi dưỡng và hướng dẫn chúng ta cũng như đem lại cho chúng ta sự kiên trì trong cuộc sống. Lý tưởng của bạn là gì? Tiền tài, danh vọng hay lạc thú? Tất cả những điều đó rồi cũng sẽ đưa chúng ta đến thất vọng, chán chường. Duy chỉ có mình Chúa mới có thể lấp đầy nỗi trống vắng trong tâm hồn chúng ta và giúp chúng ta vượt qua được bao gian nguy trong cuộc sống… Bạn muốn lấp đầy tâm hồn bạn với hận thù, bạo động và cau có ư? Hãy trục xuất Chúa ra khỏi tâm hồn bạn… Bạn muốn được sự bình an đích thực và một tâm hồn minh mẫn thư thái ư? Hãy để cho Chúa chiếm ngự tâm tư bạn một cách trọn vẹn…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
04-12-2009, 11:58 AM
05 tháng 12

Thiện nguyện

Hôm nay là ngày quốc tế những người thiện nguyện được Liên Hiệp Quốc thành lập năm 1985 và cử hành lần đầu tiên ngày 5 tháng 12 năm 1986. Ngày quốc tế những người thiện nguyện vừa là một tưởng thưởng và biết ơn đối với không biết bao nhiêu người đang âm thầm phục vụ không công những người đồng loại của mình, vừa là một lời mời gọi dấn thân phục vụ.

Hiện nay, trên khắp thế giới có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gởi người đi khắp nơi để phục vụ trong mọi lĩnh vực: từ một cán sự y tá phục vụ trong rừng già Phi Châu, đến các chuyên viên làm việc trong các dự án phát triển tại các nước thuộc thế giới đệ tam, từ một thanh niên thiếu nữ âm thầm làm việc tại các nước nghèo đến các chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên: tất cả đều được thúc đẩy bởi một ý chí: đó là phục vụ người anh em.

Ngày quốc tế những người thiện nguyện cũng là một bài ca dành cho một nhân loại đã đạt được mọi bước tiến trong sự trưởng thành. Bên cạnh những bước giật lùi vì chiến tranh, vì hủy hoại lẫn nhau, nhân loại vẫn cố gắng tiến bước trong khát vọng và những nỗ lực nhân đạo. Bước tiến ấy còn tiếp tục là nhờ ở tinh thần thiện nguyện, ý chí phục vụ…

Ngày quốc tế thiện nguyện hôm nay không phải là phụ trương của những ngày quốc tế khác rải rác trong suốt năm như ngày Hòa bình thế giới, ngày Sức khỏe, ngày Thực phẩm, ngày Giới trẻ, ngày Môi sinh, ngày Nhi đồng, ngày Phụ nữ v.v… Ngày hôm nay là khẳng định của một ý niệm nền tảng cho tất cả mọi ngày quốc tế khác: ý niệm đó chính là tự nguyện phục vụ.

Ngày quốc tế những người thiện nguyện hôm nay không chỉ là ngày tưởng thưởng và biết ơn đối với những người thiện nguyện. Ngày hôm nay là ngày của mỗi chúng ta, bởi vì chúng ta chỉ có thể sống trọn ơn gọi làm người khi chúng ta biết tự nguyện sống cho người khác…

Chúa Giêsu là mẫu mực của thiện nguyện… Là Thiên Chúa, Ngài đã đến trong thế gian để mặc lấy thân phận nghèo hèn của con người. Trở nên con người, Ngài đã không sống giữa chốn giàu sang phú quý, nhưng đến với những con người nghèo hèn nhất trong xã hội. Ngài đã phục vụ và phục vụ cho đến chết. Ngài đã đến để làm cho bộ mặt thế giới này trở nên nhân bản hơn. Cùng với Người, hàng hàng lớp lớp những con người dấn thân phục vụ tha nhân đã tô điểm cho bộ mặt thế giới được thêm tươi tốt hơn. Quả thực, một thế giới không có những người sống và chết cho tha nhân là một thế giới không có nhân tính… Chúng ta hãy tưởng tượng một thế giới không có những thánh Phanxicô Assisi, không có những Mahatma Gandhi, không có những Albert Schweitzer, không có những Têrêxa Calculta, không có những hội viên của Hội Chữ Thập Đỏ… một thế giới như thế quả thực là một thế giới buồn thảm. Một thế giới không có những bàn tay đưa ra để chia sẻ, để san sẻ, để đỡ nâng, một thế giới không có những tấm lòng tử tế: một thế giới như thế quả thực là một thế giới của chết chóc…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
05-12-2009, 12:10 PM
06 tháng 12

Hai cánh cửa sổ

Từ cánh cửa sổ nhìn vào thiên nhiên, người ta có thể có nhiều cái nhìn khác nhau về cuộc sống.

Trong một vở kịch của Samuel Beckell, một nhân vật đã kể lại như sau: “Tôi biết có một tên chán đời lúc nào cũng nghĩ rằng ngày tận thế đang đến. Tôi thường đến thăm hắn trong đường trí viện. Tôi nắm tay hắn và dìu hắn đến bên cửa sổ. Tôi nói với hắn: “Nhìn kìa, cả một cánh đồng bắp xanh tươi… Nhìn kìa, những cánh bướm đang phất phới. Còn gì đẹp bằng!” Nhưng hắn gỡ tay tôi ra và trở về góc phòng. Mặt mày hắn hớt hãi tái mét. Tất cả những gì tôi vừa chỉ cho hắn chỉ là một đống tro tàn xám xịt”.

Có một cánh cửa sổ khác từ đó người ta chỉ có thể nhìn thấy cảnh đẹp mà thôi. Đó là cánh cửa sổ nhỏ tại một nhà nguyện ở phía Nam Ái Nhĩ Lan. Tất cả mọi cánh cửa sổ trong nhà nguyện này đều được làm bằng kính trên đó có vẽ Đức Kitô và các môn đệ của Ngài. Duy chỉ có một cánh cửa sổ là không có hình vẽ. Xuyên qua tấm kính trong suốt của cánh cửa sổ này, người ta có thể nhìn thấy một quang cảnh thật tươi mát, đó là một cái hồ nước trong xanh nằm giữa những ngọn đồi cỏ lúc nào cũng xanh tươi. Bên dưới cánh cửa sổ, người ta đọc được câu kinh thánh như sau: “Trời cao tường thuật vinh quang Chúa. Thánh không kể ra sự nghiệp của Ngài”.

Câu chuyện của hai cánh cửa sổ trên đây gợi lên cho chúng ta vần thơ: Hai người cùng nhìn xuyên qua chấn song cửa của nhà tù. Một người chỉ thấy có bùn nhơ, một người lại nhìn thấy các vì sao.

Mùa vọng là thời gian của hy vọng.

Chúng ta được mời gọi để đặt tất cả tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Tiếp theo bao nhiêu vấp phạm và phản bội của con người. Thiên Chúa vẫn đeo đuổi chương trình của Ngài. Người vẫn tiếp tục yêu thương con người. Nơi hình ảnh đã hơn một lần bị hoen ố vì tội lỗi, Thiên Chúa vẫn nhìn thấy phản chiếu vẻ đẹp cao sang của chính Ngài. Xuyên qua cánh cửa sổ nhỏ của mỗi người, Thiên Chúa vẫn còn nhìn thấy cảnh đẹp của lòng người.

Chúng ta cũng được mời gọi để tiếp tục tin tưởng nơi con người. Dù thấp hèn tội lỗi đến đâu, dù hung hãn độc ác đến đâu, mỗi một con người đều là hình ảnh cao vời của Thiên Chúa, mỗi một con người đều xứng đáng để tiếp tục được tin tưởng, được yêu thương.

Tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa, tin yêu nơi con người, chúng ta cũng được mời gọi để không thất vọng về chính bản thân. Đau khổ có chồng chất, tội lỗi có ngập tràn, mỗi người chúng ta vẫn là đối tượng của một Tình yêu cá biệt… Thiên Chúa yêu thương tôi, Thiên Chúa đang thực hiện cho tôi những gì là thiện hảo nhất: đó phải là tư tưởng cơ bản hướng dẫn tất cả Mùa Vọng của chúng ta. Từ bên cánh cửa sổ của tâm hồn nhìn vào cuộc đời, chúng ta hãy nhận ra những vì sao của hy vọng, những cánh đồng xanh tươi của lạc quan.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
06-12-2009, 09:58 AM
07 tháng 12

Chiếc áo hạnh phúc

Một vị vua kia có tất cả mọi sự để được hạnh phúc… Nhưng lúc nào nhà vua cũng cảm thấy đau khổ, bứt rứt lo lắng. Các vị lương y khắp nước được triệu tập, nhưng tất cả đều bó tay. Sau cùng có một vị lương y xin yết kiến. Sau khi đã xem xét bệnh tình, vị lương y tâu rằng: “Đức vua sẽ hoàn toàn hạnh phúc, nếu đức vua mặc được chiếc áo lót của người sung sướng nhất trần gian”.

Thế là nhà vua ra lệnh cho tìm xem ai là người hạnh phúc nhất trên đời… Binh sĩ đã đi rảo khắp cả nước, nhưng không tìm được con người hạnh phúc đó. Trên đường quay về chịu tội, họ đã gặp một bác chăn chiên đang ca hát véo von, không một chút lo âu. Đám binh sĩ đã sấn lại tóm cổ người chăn chiên và lột áo. Nhưng vừa lột áo người chăn chiên, họ vô cùng sửng sốt vì ông ta không có nổi một chiếc áo lót!

Người đời thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Nhưng chắc chắn người ta không thể dùng tiền bạc để mua hạnh phúc, an vui cho tâm hồn mình. Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó. Chỉ khi nào tâm hồn chúng ta trống rỗng của cải, Thiên Chúa mới có thể lấp đầy.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
07-12-2009, 04:31 PM
08 tháng 12

Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương

Đời người, có lẽ ai cũng có một lần trải qua một biến cố lớn trong lịch sử thế giới hay dân tộc…

Một ít cụ già hiện còn sống sót có lẽ đã trải qua cuộc đại chiến thứ nhất. Nhiều người đã có thể chứng kiến những tàn phá khốc liệt của thời đệ nhị thế chiến, cộng với nạn đói kinh hoàng ở Bắc Việt Nam năm 1945. Và đa số trong chúng ta đã trực tiếp hay gián tiếp chứng kiến không biết bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu cuộc chiến trong nước cũng như tại các nước khác trong những năm gần đây… Thêm vào đó, còn có biết bao nhiêu thiên tai và tai nạn khủng khiếp đã xảy ra cho con người.

Chiến tranh và sự sa đọa của con người có lẽ mang lại cho chúng ta cái cảm tưởng rằng sự dữ, tội ác đã lan tràn khắp cả mặt đất, thế giới ngày nay không còn biết đến Thiên Chúa nữa. Cùng với tất cả một đoàn người mà Đức cố giáo hoàng Gioan XXIII gọi là “các tiên tri chuyên loan báo thảm họa”, có lẽ chúng ta chỉ nhìn vào thế giới bằng đôi mắt của bi quan, thất vọng, chúng ta chỉ nhìn thấy thảm họa, tang tóc… để rồi loan báo ngày tận cùng của thế giới như kề bên.

Thế giới có tội lỗi đó, thế giới có tang thương đó, thế giới có nhiều thảm họa đó, nhưng chúng ta đừng quên rằng chương trình của Thiên Chúa đang được thực hiện dọc theo chiều dài của lịch sử nhân loại. Giữa hai cực: một bên là sự sa ngã ở khởi đầu lịch sử và một bên là ngày tận cùng của thế giới, đã có cuộc nhập thể làm người của Con Thiên Chúa: Ngài đã làm người ngay giữa lòng của một nhân loại tội lỗi của thời đại Ngài…

Thế giới của chúng ta đầy dẫy tội lỗi, Thiên Chúa vẫn yêu thương thế giới ấy. Thay vì chỉ nhìn thấy hận thù, bạo động và sa đọa dưới mọi hình thức, chúng ta hãy cố đọc được những dấu chỉ của thời đại để thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong lịch sử con người, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.

Mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, hôm nay Giáo hội cũng muốn lập lại với chúng ta chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương con người và không có gì Thiên Chúa không làm được.

Thiên Chúa đã tạo dựng Mẹ và gìn giữ Mẹ khỏi mọi tỳ vết của tội lỗi. Mẹ là nền tảng của niềm hy vọng của chúng ta, Mẹ là bình minh của nhân loại mới, một nhân loại được Thiên Chúa cứu chuộc và ban cho sức mạnh để vươn lên không ngừng.

Chúng ta hãy chiêm ngắm Mẹ với tất cả niềm cậy trông và lạc quan ấy. Qua Mẹ, Thiên Chúa muốn tỏ bày Tình yêu không hề lay chuyển của Ngài cho nhân loại và qua Mẹ, Ngài cũng muốn chúng ta bước đi trong vâng phục và yêu mến, cậy trông.

Thân phận yếu hèn của chúng ta được dệt bằng những vấp ngã và chỗi dậy không ngừng. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ không tỳ vết để chúng ta không ngừng ngước mắt nhìn lên. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ luôn thưa xin vâng giữa muôn ngàn đớn đau thử thách, để chúng ta tiếp tục chỗi dậy sau những lần vấp ngã.

Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ. Mẹ luôn có đó để giúp chúng ta khỏi vấp ngã và nếu chúng ta có vấp ngã, Mẹ sẽ đỡ chúng ta dậy và giúp chúng ta tiếp tục thưa xin vâng với Chúa để chúng ta bước đi theo Chúa Giêsu…


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
08-12-2009, 11:48 AM
09 tháng 12

Thế nào là cầu nguyện?

Một chàng thanh niên nọ khao khát sống đời tận hiến và cầu nguyện, đến nỗi anh đã xa lánh tất cả mọi người và mọi sự, để đến gõ cửa một đan viện nọ… Anh được vị tu viện trưởng chấp nhận tức khắc.

Trong những ngày đầu, anh quan sát cách sống của các tu sĩ: Sau những giờ cầu nguyện lâu dài, tất cả mọi người đều bắt tay vào công việc: người thì cày cuốc, người thì gặt hái, người thì miệt mài trong công tác dịch thuật. Thấy thế, chàng thanh niên đâm ra thất vọng. Anh đến trình bày ý nghĩ của mình với đan viện phụ như sau: “Thưa cha bề trên, con cứ tưởng ở đây chúng ta chỉ có một sinh hoạt duy nhất đó là cầu nguyện. Đằng này, con lại thấy các thầy phải vất vả lo cho những nhu cầu vật chất quá nhiều”. Vị tu viện trưởng mỉm cười gật đầu và nói với anh: “Có lẽ con có lý… Nếu con cảm thấy việc làm tay chân không cần thiết, thì con cứ vào phòng đóng cửa lại và tiếp tục cầu nguyện”.

Nghe thế, chàng thanh niên hớn hở trở về phòng đóng cửa lại và cầu nguyện. Chỉ sau vài giờ cầu nguyện, anh cảm thấy mệt mỏi, bụng anh lại cảm thấy cồn cào vì đã đến giờ ăn trưa. Nhưng chờ mãi mà vẫn không thấy ai đến gọi anh vào nhà cơm, người thanh niên mới đến hỏi vị đan viện phụ: “Thưa cha bề trên, hình như hôm nay các thầy không dùng bữa?” Cha bề trên mỉm cười đáp: “Các thầy đã ăn cả rồi”. “Thế sao không ai đến gọi con đi ăn cả?”, người thanh niên hỏi. Cha bề trên mới trả lời: “Sáng nay con đã chẳng đến nói với cha là chúng ta chỉ có một sinh hoạt duy nhất là cầu nguyện đó sao? Cha nghĩ rằng các thầy khác lao động nhiều cho nên cần phải có ăn uống, ngủ nghỉ. Còn con, con muốn sống như các thiên thần, nghĩa là không làm việc, không ăn uống mà chỉ biết suốt ngày cầu nguyện, cho nên cha đã dặn các thầy là đừng đến gọi con dùng bữa”.

Nghe thế, người thanh niên chợt hiểu được thế nào là sống tận hiến, thế nào là cầu nguyện. Con người không chỉ cầu nguyện bằng những giây phút ưu biệt dành cho Chúa, mà còn bằng cả những sinh hoạt từng ngày như làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ, giải trí… Cầu nguyện chính là tìm thấy Thánh ý Chúa và Nước Ngài trong cuộc sống mỗi ngày.

Mùa Vọng là mùa tỉnh thức.

Chúng ta cảm thấy được thôi thúc để dành nhiều thì giờ cho việc cầu nguyện hơn. Thánh kinh nói: Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, ngày thứ bảy, Ngài nghỉ ngơi: đó cũng là hình ảnh của đời người. Cuộc sống là một chuỗi làm việc xen lẫn với nghỉ ngơi. Có một thì giờ cho tất cả mọi sự, có một thì giờ để ngủ nghỉ… Có những giây phút ưu biệt trong ngày dành cho việc cầu nguyện, có những thời gian ưu biệt trong năm dành cho việc cầu nguyện. Thời gian ưu biệt ấy không có mục đích nào khác hơn là để giúp cho con người được tỉnh thức hơn, được sẵn sàng hơn, được tươi mát hơn để gặp gỡ Chúa trong từng phút giây của cuộc sống, trong mọi sinh hoạt hằng ngày.

Cuộc sống cần có tổ chức, cần có những ngăn kéo, nhưng những ngăn kéo ấy phải được thông thương với nhau. Ngăn kéo của sự cầu nguyện cần phải được liên kết với ngăn kéo của sinh hoạt hằng ngày. Ngăn kéo của những sinh hoạt hằng ngày cũng cần phải được nối liền với ngăn kéo của sự cầu nguyện.

Tổ chức cuộc sống như thế tức là biến tất cả cuộc sống thành một lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện triền miên ấy sẽ có những phách mạnh dành cho nhũng giây phút thân mật truyện vãn với Chúa, nhưng những phách mạnh ấy chỉ được làm nổi bật nhờ những âm thầm gặp gỡ Ngài trong từng sinh hoạt, trong từng biến cố của cuộc sống.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
09-12-2009, 11:57 AM
10 tháng 12

Quyền con người

Ngày 10 tháng 12 năm 1948, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã long trọng công bố bản tuyên ngôn quyền con người… Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền của con người như một nghĩa vụ trường kỳ.

Khoản I và II của bản tuyên ngôn nhân quyền đã khẳng định rằng tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng trong phẩm giá và quyền lợi, và mỗi một cá nhân, không phân biệt chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc dân tộc hay xã hội… đều được hưởng mọi quyền lợ và tự do, được công bố trong bản tuyên ngôn.

Trong 21 khoản đầu của tuyên ngôn, chúng ta có thể kể ra những quyền cơ bản sau đây: quyền được sống, được tự do và được đảm bảo an ninh cá nhân, quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền không bị tra tấn hay chịu những hình phạt độc ác, vô nhân đạo hay chà đạp phẩm giá con người, quyền được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, quyền được nại đến sự xét xử của những tòa án quốc gia có thẩm quyền, quyền không bị bắt giữ, giam cầm hoặc đày ải trái phép, quyền không bị can thiệp độc đoán vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, quyền được đi lại, quyền được cư trú, quyền được một quốc tịch, quyền được kết hôn và lập gia đình, quyền được sở hữu, quyền được tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do phát biểu, tự do hội họp.

Đó là một số những quyền và tự do cơ bản của con người.

Bản tuyên ngôn nhân quyền đã được công bố một thời gian ngắn sau đệ nhị thế chiến. Thảm kịch của chiến tranh đã cho nhân loại mỗi lúc một hiểu rằng hòa bình chỉ thực sự có khi con người biết tôn trọng những quyền lợi và tự do căn bản của con người. Ngược lại, nơi nào quyền con người bị phủ nhận và chà đạp, thì cho dẫu không có chiến tranh đẫm máu, người ta chỉ sống trong một thứ hòa bình giả tạo mà thôi.

Nhìn nhận và tôn trọng quyền con người là bổn phận hàng đầu của người Kitô chúng ta vì chúng ta tin nhận rằng con người đã được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa và được cứu rỗi bằng chính Máu của Đức Kitô. Đó là tất cả phẩm giá của con người.

Với ý thức ấy, người Kitô luôn được kêu mời để nhận ra hình ảnh và sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi người và mỗi người, nhất là những người kém may mắn, cùng khổ nhất.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Edward Desmond được đăng trong tạp chí Time số ra ngày 4 tháng 12 năm một 1989, Mẹ Têrêxa Calculta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 vì công tác phục vụ người nghèo tại Ấn Độ, đã xác quyết về nền tảng của công cuộc của Mẹ: đó là cái nhìn tôn trọng đối với người nghèo. Được hỏi: ơn cao trọng nhất mà Chúa đã ban cho mẹ là gì? Vị sáng lập dòng Nữ Tử thừa sai bác ái đã đáp gọn: “Đó là người nghèo”. Bởi vì, theo Mẹ Têrêxa, với người nghèo Mẹ có dịp ở với Chúa Giêsu 24 giờ mỗi ngày. Mẹ nói: “Họ là Chúa Giêsu đối với tôi. Tôi tin tưởng ở điều đó còn hơn là làm những điều lớn lao cho họ”.

Nhìn những người nghèo, những người cùng khổ, những người bị xã hội tước đoạt mọi quyền lợi và đẩy ra bên lề, như chính hiện thân của Chúa Giêsu: đó phải là cái nhìn và động lực của mọi hoạt động của người kitô chúng ta. Tôn trọng nhân quyền, bênh vực nhân quyền là thế đó.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
10-12-2009, 11:07 AM
11 tháng 12

Tiếng khóc của sa mạc

Một mẩu chuyện của người Phi Châu kể lại rằng: một người Ả Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, áp tai trên cát từng giờ lâu. Có người hỏi tại sao làm thế, anh ta giải thích như sau: “Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được làm một ngôi vườn xinh tươi”.

Sa mạc mong mỏi được trở thành ngôi vườn, cũng thế tâm hồn con người luôn hướng về điều thiện. Khoảng cách giữa sa mạc và ngôi vườn xinh tươi đó là nước non, điều kiện thời tiết và nhất là công lao của con người. Không có sự chăm sóc của con người, sa mạc vẫn tiếp tục là bãi cát khô cằn. Cõi lòng con người cũng sẽ mãi mãi là một sa mạc cằn cỗi nếu nó không được vun xới và tưới bằng cố gắng, phấn đấu, hy sinh và Tình yêu. Phải tốn biết bao là kiên nhẫn, biết bao chống đỡ, biết bao cương nghị, biết bao mồ hôi… để biến sa mạc của tâm hồn thành một khu vườn tươi tốt… Sa mạc tâm hồn của chúng ta sẽ khóc mãi nếu chúng ta không ra tay cày xới và vun trồng mỗi ngày.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
11-12-2009, 08:15 AM
12 tháng 12

Thế giới sẽ hết nghèo đói

Mẹ Têrêxa thành Calculta, người được giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1979 đã kể lại câu chuyện sau đây: ngày nọ, có một thiếu phụ và 8 đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm 2 phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao lại phân làm 2. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn”.

Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau. Càng giàu có, chúng ta càng muốn tích lũy thêm, nhưng càng nghèo khổ, chúng ta càng dễ chia sẻ hơn.

Nghèo không là một điều xấu, giàu cũng không là một cái tội. Xấu hay không, tội hay không đó là lòng tham lam và ích kỷ của con người mà thôi. Giá trị và danh dự của con người tùy thuộc ở lòng quảng đại của mình.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
11-12-2009, 08:19 AM
13 tháng 12

Danh hiệu của ánh sáng

Không những ở Việt Nam, nhưng trên toàn thế giới, nhiều thiếu nữ mang tên thánh bổn mạng Lucia, như nữ tu Lucia, một trong 3 trẻ đã được thấy Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.

Những người thiếu nữ mang tên Lucia này không khỏi thất vọng khi tìm hiểu về đời sống và sự nghiệp của thánh nhân. Vì những sách cũ đã viết: tiểu sử của các thánh đã ghi lại nhiều câu chuyện về thánh Lucia, để rồi những tác giả viết về đời sống của các thánh nhân thời đại chúng ta lại phê bình những câu chuyện ấy không có tính cách lịch sử. Chúng ta chỉ có thể tóm lại những chứng tích lịch sử để viết về cuộc đời, như là cái chết vì niềm tin của thánh Lucia như sau:

Một chàng thanh niên không Công giáo thất vọng vì không được Lucia đáp trả lại Tình yêu của mình đã tố cáo với nhà cầm quyền Lucia là người Công giáo. Và nàng đã bị xử tử vào năm 304 tại thành Syracuse vùng Sicilia, mạn Nam nước Italia. Di tích lịch sử thứ hai là tên Lucia được ghi trong danh sách những thánh tử đạo trong lời nguyện thánh lễ Roma, nay là lời nguyện Thánh Thể thứ nhất trong phụng vụ mới.

Những di tích bên lề cũng nên nói đến là nhiều địa danh, nhiều làng mạc, thành phố bên Âu châu mang tên nàng, cũng như có những bằng chứng lịch sử về sự tôn kính nàng từ trước thế kỷ thứ V.

Chữ “Lucia” có nghĩa là ánh sáng. Và gương can đảm chết vì lòng tin của nàng vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tâm hồn những người đang bị thử thách và đau khổ vì lòng tin, cũng như làm rạng rỡ những khuôn mặt của những thiếu nữ mang tên thánh bổn mạng Lucia.

Muốn hiểu sự can đảm của thánh Lucia Giáo hội mừng kính hôm nay với tước hiệu đồng trinh, tử đạo, chúng ta có thể tưởng tượng một thiếu nữ công giáo sống giữa những người không công giáo vào thời kỳ tôn giáo này bị bách hại. Để sống trọn niềm tin công giáo, nàng cũng gặp nhiều khó khăn như đại đa số những tín hữu Kitô trong thời đại chúng ta phải sống chung với những người vô thần, không tin tưởng.

Lạ lùng hơn là niềm tin của Lucia. Nàng tin vào một người sáng lập một tôn giáo với thân thế và sự nghiệp không mấy được rõ ràng ở một nước thuộc địa xa xôi với thủ đô Jêrusalem bị quân đội Roma phá hủy cách đó hơn 200 năm. Trước khi truyền đạo, ông này làm nghề thợ mộc và sau một thời giảng đạo ngắn ngủi, ông bị quân lính Roma đóng đinh vào thập tự, một hình phạt dành cho dân thuộc địa phạm những trọng tội sát nhân hay nổi loạn. Nay Lucia tin tưởng với tất cả tâm hồn là ông ấy đã phục sinh, như một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã chấp nhận những gì ông truyền dạy và đã làm: Để biểu lộ lòng tin của mình, Lucia đã thề hứa sẽ giữ sự trinh khiết, không lập gia đình.

Lucia lặp lại lời hứa đó vì nàng biết đến gương anh dũng của những người chết vì đạo trong các hí trường ở Roma hay những nơi khác và nhất là để giữ lòng trung tín với ông Giêsu làng Nagiareth, đã bị chết treo trên thập giá, nhưng đối với niềm tin của nàng là Đấng Cứu Thế, Con Một Thiên Chúa.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Cỏ Lau
11-12-2009, 08:24 AM
14 tháng 12

Cánh tay của người ganh tỵ và tham lam

Câu chuyện có tính cách dụ ngôn sau đây đã xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có 2 viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.

Để chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu 2 viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua loan báo sẽ tưởng thưởng 2 viên sĩ quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ 2 sẽ được gấp đôi.

Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi… Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố: “Tôi xin được chặt đứt một cánh tay…” Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.

Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn.


Trích từ sách LẼ SỐNG

Rosa_Huong
21-12-2009, 04:17 PM
15 Tháng Mười Hai
Xin Một Chút Ánh Sáng

Triết gia Diogène nổi tiếng là người hạnh phúc nhất trên đời, thế nhưng cuộc sống của ông lại rất đơn sơ nghèo nàn. Ông sống trong một cái thùng, ngày ngày nằm đọc sách nhờ ánh sáng qua lỗ hỏng ở vách thùng. Cơ nghiệp của ông vỏn vẹn chỉ có một cái bát gỗ dùng để múc nước sông mà uống. Thế nhưng, một hôm ra sông để lấy nước, ông thấy có một em bé chăn cừu dùng hai tay để vục nước mà uống. Thế là ông ném cái bát đi và từ đó chỉ dùng tay mà uống nước.
Vua Hy Lạp nghe biết ông là người hạnh phúc nhất đời bèn tìm đến tận nơi để thăm. Thấy ông đang nằm đọc sách, nhà vua lại gần để hỏi xem ông có cần gì không. Diogène không trả lời. Nhà vua hỏi vặn nhiều lần, ông điềm tĩnh trả lời như sau: "Hạ thần chỉ xin bệ hạ một điều và chỉ một điều mà thôi: xin bệ hạ tránh ra để hạ thần có đủ ánh sáng mà đọc sách". Diogène đã đuổi khéo nhà vua vì sợ bị sa vào tròng danh lợi mà mất cái niềm vui thảnh thơi trong cuộc đời thanh bần đơn sơ.
Ai trong chúng ta cũng muốn giàu có. Thế nhưng giàu có không hẳn đem lại hạnh phúc thật sự cho chúng ta. Chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó, chỉ có những ai không coi tiền của như cứu cánh của cuộc đời, những người đó mới thực sự có hạnh phúc.
Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
21-12-2009, 04:19 PM
16 Tháng Mười Hai
Hơi Ấm Của Tình Người

Một vị linh đạo Ấn Giáo và các môn sinh ngồi quây quần bên một bếp lửa hồng. Sức nóng của than hồng và hơi nóng của từng người làm cho căn phòng ấm hẳn ra... Nhưng bỗng chốc, vị linh đạo già run lập cập, môi ông bập bẹ không nói ra lời. Các môn sinh lo lắng cho sức khỏe của thầy: "Thưa thầy, chắc thầy yếu trong người, chúng con xin phép được cho thêm củi vào lò sưởi".
Trong cơn thổn thức, vị linh đạo già cố gắng nói từng tiếng: "Lửa và sức nóng trong căn phòng này quá đủ cho ta... Ta cảm thấy lạnh là bởi vì bên ngoài có một người hành khất đang run lập cập".
Quả thật, đúng như lời của vị thầy, các môn sinh đã mở cửa nhìn ra ngoài, và họ đã tìm thấy một người hành khất đang rét run vì đói và lạnh... Họ đưa người đó vào trong căn phòng, săn sóc cho anh và từ giây phút ấy, vị linh đạo già cũng trút bớt được nỗi rét run của mình.
Câu chuyện được trích từ kho tàng khôn ngoan của người Ấn Ðộ trên đây có lẽ gợi lại cho chúng ta lời của thánh Giacôbê tông đồ: "Ðức Tin không có việc làm là một Ðức Tin chết". Vị linh đạo già trên đây đã cảm thấy rét run là bởi vì sự ấm áp của thầy trò đang có với nhau chưa được chia sẻ cho người khác. Ông chỉ cảm thấy thật sự ấm lòng, khi hơi ấm của sự quây quần ấy được san sẻ cho người khác.
Vị linh đạo này là hình ảnh của đời sống Ðức Tin của chúng ta. Dù có sốt sắng bao nhiêu trong việc cầu nguyện, trong các nghi thức phụng tự, nếu tâm hồn chúng ta không được nuôi dưỡng bằng lòng mến đối với tha nhân, thì hơi ấm của lòng đạo đức nơi chúng ta chỉ là một thứ hơi ấm giả hiệu... Một Ðức Tin nhiệt thành, một Ðức Tin có hơi ấm thật sự cần phải được nuôi dướng bằng lòn mến.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
21-12-2009, 04:20 PM
17 Tháng Mười Hai
Ðôi Vai Của Người Cha

Tháng 11 năm 1958, ngay chính ngày đăng quang, khi nói chuyện với khách hành hương, Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã kể lại một giai thoại trong cuộc đời của ngài như sau:
"Khi tôi lên 7, một hôm cha tôi đưa tôi đến một làng bên cạnh, nơi đang tổ chức một buổi lễ của Công Giáo tiến hành trong giáo phận. Phải đi bộ nhiều cây số, tôi cảm thấy mệt mỏi. Cha tôi đã phải đặt tôi trên vai của người. Ðến nơi, tôi cảm thấy thất vọng, bởi vì dân chúng qúa đông, mà tôi thì bé nhỏ. Mất hút trong chợ người, tôi không thể nhìn đoàn người đang diễn hành... Thế là một lần nữa, cha tôi lại bồng tôi trên vai của người. Từ trên cao, tôi có thể xem thấy tất cả mọi sự".
Và vị Giáo Hoàng được mệnh danh "nhân lành" đã kết luận như sau: "70 năm qua, nhưng tôi vẫn còn ghi nhớ trong tâm trí tôi cử chỉ của cha tôi. Nó đã trở thành một biểu trưng kỳ diệu. Ngày nay, mỗi khi mệt mỏi, mỗi khi tôi không còn thấy gì nữa, tôi nài xin vị Cha trên trời nâng tôi lên đôi cánh của Người".
Chỉ từ trên đỉnh cao, chúng ta mới có thể thấy rõ mọi sự. Chính Chúa là đỉnh cao của chúng ta. Nơi Người, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa của cuộc sống... Những lúc chán sống, những lúc hầu như không còn thấy gì nữa, chúng ta hãy chạy đến với Người.


Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
21-12-2009, 04:21 PM
18 Tháng Mười Hai
Cái Nhìn Của Một Tướng Lãnh

Ðại tướng Marbot, trong tập ký sự, có kể lại một hôm, khi còn là thiếu úy, vua Nã Phá Luân sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Ðó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế của địch quân. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sông và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng dòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó đã báo động bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa tỏa ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng, Nã Phá Luân đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
Ðôi mắt phượng hoàng của Nã Phá Luân đã xé tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ vũ khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
Một cái nhìn của một vị tướng lãnh đã có sức nâng đỡ người lính chiến giữa trận địa như thế, cũng vậy, Chúa cũng đã chăm chú theo dõi và nhìn mỗi người chúng ta như thể chỉ có mỗi người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa không chăm sóc chúng ta như chăm sóc một đàn cừu trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Người đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
21-12-2009, 04:21 PM
19 Tháng Mười Hai
Hợp Tác Là An Toàn

Ngày nay, khi đi trên các nẻo đường của nước Thụy Sĩ, người ta lại nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó trình bày hai chiếc xe hơi, một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều, những người ngồi trên hai xe đang chào nhau, cười với nhau. Người lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.
Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ: "Hợp tác là an toàn". Ðiều này muốn nói lên rằng giúp đỡ lẫn nhau, đối sử với nhau như người cộng sự, bằng tình bằng hữu là một đảm bảo cho một cuộc hành trình không nguy hiểm.
Tinh thần hợp tác không những chỉ đảm bảo cho một cuộc sống bình yên trên các lộ trình, mà cũng còn là một đảm bảo cho một cuộc sống bình yên ở mọi vị trí trong xã hội. Có tinh thần hợp tác là đặt kẻ khác vào chính vị trí của mình, quan tâm tới họ như quan tâm tới chính mình, kính trọng, yêu mến, giúp đỡ họ như kính trọng, yêu mến giúp đỡ chính mình vậy.


Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
21-12-2009, 04:22 PM
20 Tháng Mười Hai
Không Nhà Không Cửa

Hiện nay trên thế giới có khoảng một trăm triệu người không có nhà để ở. Riêng tại Châu Mỹ La Tinh, có khoảng 20 triệu trẻ em đang ngủ đầu đường xó chợ. Nhìn chung, có một tỷ người trên thế giới không có được một nơi ở tươm tất.
Trên đây là kết quả của một cuộc điều tra dựa trên những con số do các Hội Ðồng Giám Mục và các Giáo Hội Công Giáo địa phương cung cấp. Cuộc điều tra này do Ủy ban công lý và hòa bình của tòa thánh thực hiện và ấn hành thành lập một tập tài liệu vào dịp cuối năm quốc tế những người không nhà không cửa do Liên Hiệp Quốc khởi xướng năm 1988 vừa qua.
Theo tập tài liệu này thì vấn đề nhà ở chắc chắn là một trong những vấn đề trầm trọng nhất của thế giới ngày nay. Tài liệu cho thấy những kẻ không nhà là những người nghèo nhất trong số những người nghèo và tố cáo những người chủ nhà chỉ vì tính toán thủ lợi mà thà bỏ trống những căn nhà hơn là hạ giá để nâng đỡ những kẻ không nhà.
Chúa Giêsu đã chào đời như một con người không nhà không cửa.
Ngài đến là để cho con người được sống và sống một cách sung mãn. Tiếng kêu khóc chào đời của Ngài giữa khung cảnh cùng cực của hang lừa máng cỏ, là tiếng kêu than của hàng triệu triệu trẻ em đang bị tước đoạt quyền sống, đang bị từ chối những điều kiện cơ bản nhất để được sống như con người.
Máng cỏ mà chúng ta đang chuẩn bị ở nhà thờ hay trong gia đình phải là một nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện và tiếng van xin của không biết bao nhiêu người không nhà, không cửa xung quanh chúng ta. Hơn ai hết, người Việt Nam chúng ta đang nhìn thấy tận, mắt thế nào là cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
Chúng ta chuẩn bị một trú ngụ cho Hài Nhi Giêsu, chúng ta có nghĩ đến những người cùng khổ xung quanh chúng ta không?
Chúng ta có biết rằng khi chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước đau khổ của người anh em chúng ta là chính lúc chúng ta khước từ Chúa Giêsu không?
Chúng ta có biết rằng ngày Giáng Sinh của Chúa Giêsu cũng là ngày Giáng Sinh của những con người cùng khổ nhất không?
Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ không bao giờ đến trong máng cỏ hào nhoáng của chúng ta, nếu chúng ta xua đuổi những người khốn khổ xung quanh chúng ta.


Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
21-12-2009, 04:23 PM
21 Tháng Mười Hai
Rạn Nứt Trong Tâm Hồn

Một ông vua giàu có nọ rất keo kiệt và hà khắc đối với thần dân. Thành ra, tất cả mọi người đều oán ghét ông.
Một hôm ông ra lệnh cho quan tể tướng tiến hành việc thu thuế hằng năm. Nhưng quan tể tướng cho biết: "Năm nay mùa màng hư hại, dân chúng đang chết đói, họ không thể nào nộp thuế được".
Nhưng nhà vua vẫn một mực cho tiến hành việc thu thuế và yêu cầu quan tể tướng dùng tất cả tiền thuế để sửa sang cung điện và nội thành. Quan tể tướng đi một vòng xung quanh cung điện, nơi nào cũng có sự rạn nứt, nhưng sự rạn nứt sâu xa hơn vẫn là sự bất mãn và ta thán của người dân.
Thế là, năm đó, thay vì tiến hành lệnh của vua, quan tể tướng đã cho người đi khắp nơi và loan báo như sau: "Năm nay, nhà vua miễn thuế cho tất cả mọi người". Nghe thế, ai cũng vui mừng vỡ lở. Khắp nơi, tuy đói kém, ai ai cũng làm tiệc ăn mừng.
Trở lại triều đình, quan tể tướng thông cáo với nhà vua rằng với số tiền thu thuế được, ông đã cho làm những tu sửa cần thiết nhất.
Ngày hôm sau, quan tể tướng mời nhà vua và đoàn tùy tùng đi tham quan một vòng xung quanh những nơi mà ông báo cáo đã được tu sửa. Vừa ra khỏi cung điện, nhà vua đã được dân chúng tung hô vạn tuế không dứt lời. Nhìn đám đông vui mừng phở lở, nhà vua mới quay sang quan tể tướng để hỏi lý do của ngày hội này. Quan tể tướng mới giải thích như sau: "Tâu bệ hạ, ngày lễ hôm nay được tổ chức là để đánh dấu những tu sửa quan trọng trong cung điện. Trước khi tiến hành việc thu thuế, hạ thần đã đi tham quan một vòng, hạ thần nhận thấy rằng những rạn nứt đáng kể nhất không phải là những rạn nứt trên tường thành của cung điện mà chính là trong lòng người dân. Người dân không thể vui mừng được vì từ bao lâu nay, họ không còn thấy được lòng tốt nữa. Ðó là lý do đã khiến hạ thần tuyên bố miễn thuế cho họ trong năm nay".
Nghe thế, nhà vua mới sực tỉnh lại và nhận ra thái độ keo kiệt hà khắc của ông. Ông nhìn xuống đám đông dân chúng đang hân hoan vẫy chào, lòng ông cảm thấy xúc động. Lần đầu tiên, người ta thấy nụ cười của vui tươi và yêu thương nở trên môi ông.
Người Việt Nam chúng ta có lẽ đã quá quen thuộc với hai chữ đổi mới. Năm kia qua tháng nọ, lúc nào người ta cũng hô hào "đổi mới", nhưng đâu vẫn vào đó: đói khổ vẫn còn đó, dốt nát vẫn còn đó, lạc hậu vẫn còn đó, tù đày khốn khổ vẫn còn đó... Ðiều đó xem ra cũng dễ hiểu, người ta chỉ vá víu để hàn gắn những rạn nứt bên ngoài, còn rạn nứt thâm sâu nhất là rạn nứt trong tâm hồn mình, thì người ta không bao giờ nghĩ tới.
"Ðổi mới" là trọng tâm của sứ điệp Kitô Giáo chúng ta. Khai mở sứ vị công khai của Ngài, Chúa Giêsu đã kêu gọi: "Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng". Sự hoán cải mà Chúa Giêsu đề ra là hoán cải tâm hồn, hoán cải con tim, hoán cải tư duy, hoán cải cái nhìn.
Sự hoán cải ấy không phải là công việc của một ngày, một tháng, một năm, mà là công trình của cả một cuộc đời. Bao lâu còn mang lấy danh hiệu Kitô, thì bấy lâu người tín hữu vẫn còn được mời gọi để hoán cải.
Sự hoán cải ấy cũng không chỉ là cố gắng riêng tư của người tín hữu mà là tác động của chính Chúa. Chính Ngài mới có thể tác tạo cho con người một trái tim mới, một quả tim biết yêu thương. Sự đổi mới mà người tín hữu Kitô không ngừng đeo đuổi trong cả cuộc sống của mình chính là cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa những cố gắng riêng tư của mình và sự tác tạo của Chúa.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
21-12-2009, 04:23 PM
22 Tháng Mười Hai
Mùa Của Gửi Thiệp Tặng Quà

Người Anh thường nói: "Một quà tặng không có người tặng là một quà tặng trống rỗng trơ trụi". Giá trị của một quà tặng do đó, không tùy thuộc nhiều ở giá trị vật chất của nó, mà đi chính tâm tình của người tặng quà.
Ngày nay, cũng giống như ở bất cứ thời đại nào, cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo quốc gia thường đi kèm với nghi thức trao tặng quà cho nhau. Trong một cuộc họp thượng đỉnh ở ngoài khơi đảo quốc Malta cuối năm 1989, tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng cho chủ tịch Gorbachov của Liên Xô một viên gạch lấy từ bức tường ô nhục Bá Linh. Dù chỉ là một viên gạch, nhưng đây lại là một món quà vô giá, bởi vì tổng thống Bush đã muốn gói ghém trong đó tất cả thiện chí và ước muốn xây dựng hòa bình của ông, của nhân dân Hoa Kỳ, cũng như của tất cả những ai yêu chuộng hòa bình.
Trước đó vài ngày, chủ tịch Gorbachov cũng đã trao tặng và nhận quà trong cuộc gặp gỡ với Ðức Thánh Cha. Nhà lãnh đạo của Liên Xô đã tặng cho Ðức Thánh Cha một tập thánh vịnh in vào thế kỷ thứ 13 và 14, qua đó ông muốn khẳng định rằng những giá trị đạo đức và luân lý do tôn giáo đề ra là những nhân tố cần thiết cho việc xây dựng xã hội.
Ðáp lại, Ðức Thánh Cha đã tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống".
Ðó là tất cả những gì mà Ðức Gioan Phaolô II và qua ngài, toàn thể Giáo Hội có thể trao tặng cho một xã hội đã từ lâu muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Riêng với bà Raissa, phu nhân của chủ tịch Gorbachov, Ðức Thánh Cha đã tặng một cỗ tràng hạt. Lòng yêu mến đối với Nữ Vương của hòa bình: đó là món quà cao quý nhất mà một vị Giáo Hoàng đã có thể tặng cho tất cả những ai đang mưu tìm hòa bình cho nhân loại.
Mùa Vọng là mùa của gửi thiệp và tặng quà Giáng Sinh.
Chúng ta gửi thiệp chúc mừng đến những người thân thương quen thuộc đã đành, chúng ta cũng gửi đi những cánh thiệp xã giao đến những người chỉ một lần gặp gỡ, quen biết... Có một cánh thiệp nào, một quà tặng nào cho những người không quen biết, cho những người đầu ngõ cuối xóm mà chúng ta không hề muốn đưa mắt nhìn đến, cho những người hành khất bên vệ đường, cho những kẻ không nhà không cửa, cho những ai đang rét run vì giá lạnh, vì cô đơn không?
Hãy nhiệt tình chào hỏi những người mà chúng ta ghét cay ghét đắng. Hãy làm hòa với những ai chúng ta vừa gây gổ. Hãy dọn một bữa ăn cho những người hành khất quen thuộc. Hãy thăm viếng một người bệnh đang chờ một lời an ủi, đỡ nâng. Hãy san sẻ đôi chút với những người hàng xóm đang túng thiếu hơn ta.
Ðó là những cánh thiệp, những món quà Giáng Sinh có giá trị nhất mà chúng có thể gửi ngay đi trong Mùa Vọng này, bởi vì đó là phần cao đẹp nhất của chúng ta.


Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
11-01-2010, 01:12 PM
23 Tháng Mười Hai
Một Căn Nhà Trật Tự

Giá trị của một ngôi nhà chính là được con người cư ngụ. Một mái nhà tranh nhưng đầy ắp tiếng cười tiếng khóc của trẻ thơ vẫn đầm ấm hơn một dinh thự bỏ trống. Chúng ta có thể xác quyết rằng sự sinh sống, sự hiện diện, sự cư ngụ của con người trong căn nhà đã giữ gìn và bảo trì nó khỏi hư nát. Nhưng một khi con người bỏ đi, căn nhà sẽ trở nên tồi tàn. Sức mạnh, vẻ đẹp, sự linh động, sự tồn tại của ngôi nhà chính là được cư ngụ.
Cũng giống như thế, đời sống của chúng ta phải là một ngôi nhà được cư trú, được chiếm ngự. Nhưng cư trú ở đây không có nghĩa là chất chứa những vật dụng lỉnh kỉnh. Sự đầm ấm của một ngôi nhà còn tùy thuộc ở sự sắp xếp, sự bài trí. Ngôi nhà càng lộn xộn, càng dơ bẩn, thì càng chật chội, càng nóng nực.
Ðời sống của chúng ta có thể là một căn nhà đầy ắp, nhưng lại thiếu trật tự, thiếu ngăn nắp, thiếu sự hiện hữu linh động và những điều kiện tinh thần để bảo trì căn nhà đời sống của chúng ta.
Ngôi nhà của chúng ta có thể là một cao ốc với không biết bao những tầng lầu của lo lắng, đau buồn, bận bịu và sợ hãi. Chúng ta chất chứa cho cuộc sống chúng ta đầy ắp, nhưng những chất chứa ấy chỉ làm cho ngôi nhà của chúng ta ra buồn thảm, nhơ bẩn.
Giáng Sinh sắp đến. Có lẽ gia đình nào cũng muốn cố gắng trưng bày một máng cỏ, một hang đá trên bàn thờ, trong một phòng khách. Căn nhà của chúng ta như sáng hẳn lên, như vui hẳn lên, vì sự hiện diện của Hài Nhi Giêsu.
Trong niềm rạo rực của những ngày chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy mở rộng căn nhà cuộc đời của chúng ta để cho Chúa đến chiếm ngự. Ðã hai ngàn năm qua, Ngài đã đi tìm một chỗ trú ngụ. Ngài đến gõ cửa từng tâm hồn con người. Có còn một chỗ trống nào trong căn nhà của chúng ta không hay tất cả đều được chiếm ngự bởi không biết bao thứ lỉnh kỉnh khác như đam mê, ích kỷ, hận thù, ganh ghét và bao tâm tình bất chính khác. Hãy để cho Ngài chiếm trọn căn nhà cuộc đời chúng ta và chúng ta sẽ nghe được khúc nhạc du dương của các Thiên Thần: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm".
Bình an sẽ tràn ngập căn nhà của chúng ta, niềm vui sẽ tỏa lan trong căn nhà của chúng ta, ánh sáng sẽ chan hòa căn nhà của chúng ta nếu chúng ta để cho Ngài chiếm trọn.
Hôm nay đây, trong giờ phút này đây, Ngài cũng đang nói với chúng ta như đã từng nói với Gia Kêu: "Hôm nay đây, Ta sẽ đến và cư ngụ trong nhà ngươi".
Cách đây 10 năm, giữa quảng trường thánh Phêrô, một con người đến từ một thế giới chỉ có đe dọa, sợ hãi đã hô lớn: "Ðừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Ðức Kitô". Hãy mở rộng cửa cho Ðức Kitô, chúng ta sẽ được niềm vui trọn vẹn trong tâm hồn.

Ưu buồn, lo lắng vì không biết bao nhiêu khó khăn và thử thách trong cuộc sống, chúng ta hãy tin tưởng và vui lên vì sự cư ngụ của Chúa Giêsu chính là sức mạnh, chính là niềm tin của chúng ta.


Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
11-01-2010, 01:19 PM
24 Tháng Mười Hai
Cặp Kính Lão

Tại một viện dưỡng lão nọ, ai ai cũng cảm thấy vui, vì ngày Giáng Sinh sắp đến. Lễ Giáng Sinh không những là lễ của nhận quà, mà còn là của tặng quà nữa. Cho nên, dù không dư dả, các lão ông lão bà cũng cặm cụi suốt ngày để chuẩn bị một món quà gửi tặng cho thân nhân, người quen.
Duy chỉ có một bà lão xem chừng như dửng dưng trước những rộn rịp xung quanh. Bà ngồi trong một góc nhà, gặm nhấm từng nỗi cô đơn của mình. Bà không còn một người thân nào trên trần gian này. Kỳ thực, bà còn một người con trai, nhưng người con ấy kể như đã chết với bà. Từ lâu, anh đã bị giam trong một trại khổ sai chung thân.
Dù vậy, đối với trái tim của một người mẹ, một đứa con, cho dù có đốn mạt đến đâu, vẫn là một người con. Cũng như những lão ông lão bà khác, người đàn bà đáng thương cũng đã có ý nghĩ gửi một món quà cho đứa con bạc phước của mình. Nhưng bà không có một đồng xu dính túi. Tất cả tài sản của bà chỉ là cặp kính lão còn đeo trên mắt... Người đàn bà ước ao được gửi cho người con của mình một gói thuốc lá. Một gói thuốc không là bao, nhưng gói trọn tình thương mà bà vẫn dành cho anh.
Bà đi trao đổi với các cụ già, nhưng không ai có gì để trao tặng bà. Cuối cùng, có một ông lão còn một gói thuốc lá, loại thuốc mà có lẽ con trai bà ưa thích. Nhưng trong viện dưỡng lão này, dường như ai cũng sống theo nguyên tắc "có qua có lại". Lão ông chỉ trao cho bà gói thuốc với điều kiện bà cũng trao tặng cho ông một món quà nào đó.
Người đàn bà đành lấy cặp kính khỏi đôi mắt và trao cho ông lão. Gương mặt người đàn ông sáng rỡ lên vì ông đã có thể đọc được tỏ tường. Cuộc trao đổi chấm dứt. Người đàn bà gói bao thuốc lá lại thành một món quà Giáng Sinh quý giá để gửi tặng cho con.
Trở lại góc phòng của mình, người đàn bà làm một cử chỉ máy móc: bà đưa tay lên mắt để để sửa lại cặp kính lão. Nhưng cặp kính không còn nữa. Dù vậy, người đàn bà cảm thấy vui hơn bao giờ hết: bởi vì người con trai của bà nơi trại khổ sai sẽ vui vì nhận được quà Giáng Sinh, bởi vì lão ông trong viện dưỡng lão sẽ đọc được báo trong những ngày Giáng Sinh.
Quà tặng chỉ có ý nghĩa khi nó là biểu tượng của người tặng. Người tặng quà không chỉ gửi đi một cánh thiệp, một cái áo, một chiếc bánh, một món đồ chơi, mà gói ghém tất cả tình cảm, sự biết ơn, lòng ngưỡng mộ, tâm tình thương mến của mình. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao tặng chính bản thân mình.
Do đó, sự trao tặng nào cũng là một mất mát: mất mát một chút tiền của, mất mát một ít thì giờ. Sự mất mát càng lớn, thì quà tặng càng có giá trị. Bà cụ trong viện dưỡng lão trên đây quả thực đã mất mát nhiều: bà đã mất đi một phần ánh sáng của mình. Nhưng bù lại, niềm vui của người con và niềm vui của người đồng viện của bà sẽ lớn hơn. Mất đi một chút ánh sáng để cho người khác được thấy, chấp nhận một chút đau khổ để cho người khác được vui, thua thiệt một phần để cho người khác được cười: đó là tất cả ý nghĩa của sự tặng quà đích thực.
Nhưng đó cũng là niềm vui đích thực, bởi vì niềm vui của người chính là niềm vui của ta. Mục đích của quà tặng là làm cho người khác được vui. Do đó, niềm vui của người khác phải là quà tặng đích thực mang lại niềm vui cho ta.
Ðó chính là nghịch lý của Kitô Giáo chúng ta. Càng trao ban, càng mất mát, chúng ta càng được nhận lãnh.
Chúng ta sẽ khám phá được nghịch lý ấy trong những ngày mừng lễ Giáng Sinh. Niềm vui của Thiên Chúa, Vinh Danh của Ngài, quà tặng cao cả nhất mà Ngài đã trao tặng cho chúng ta: đó là Người Con Một của Ngài. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài.

Chúng ta đón nhận qùa tặng của Thiên Chúa với tất cả cảm mến tri ân. Nhưng mùa Giáng Sinh không chỉ là mùa của nhận quà, mà còn là mùa của tặng quà nữa. Chúng ta hãy dâng tặng Thiên Chúa tất cả con người của chúng ta.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
11-01-2010, 01:28 PM
25 Tháng Mười Hai
Phép Lạ Giáng Sinh

Hằng năm, cứ đến Giáng Sinh, Hài Nhi Giêsu thường đi một vòng rảo qua khắp các làng mạc và đô thị để tặng quà cũng như nhận quà và phân phát cho những ai cần đến.
Năm nay, tại một đô thị nọ, Ngài đang cần một món quà không dễ tìm ra: đó là một quả tim lành mạnh để thay thế quả tim của một người bệnh đang hấp hối. Bệnh nhân có quả tim gần như ngừng đập này là một nhân vật nổi tiếng trong cả nước: đó là bộ trưởng tài chính!
Tất cả các bác sĩ trong nước đều bó tay. Cuối cùng, họ mới chạy đến với Hài Nhi Giêsu, vì tin tưởng rằng ít ra trong đêm Giáng Sinh, Ngài sẽ làm một phép lạ. Nhưng Hài Nhi Giêsu trả lời với các bác sĩ: "Không phải Ta là người phải làm phép lạ, nhưng chính là lòng quảng đại của một người dâng hiến quả tim của mình".
Tin tưởng ở lòng người, Hài Nhi Giêsu đã đến gõ cửa nhà của thân nhân, bạn hữu của vị bộ trưởng. Họ đang mừng lễ Giáng Sinh: cây Giáng Sinh của họ đầy những hoa đèn và quà tặng, bàn ăn của họ đầy những thịt rượu và của ngon vật lạ. Họ đang ăn uống say sưa... Vừa thấy Hài Nhi đứng trước nhà, họ tưởng Ngài là một cậu bé vô lại phá đám, cho nên đã tống khứ Ngài đi càng sớm càng tốt. Hài Nhi Giêsu buồn bã bỏ đi... Nhưng Ngài vẫn chưa thất vọng về tình người. Lần này, Ngài đến gõ cửa của những người thân cận vị bộ trưởng. Họ là những người đã từng bán đứng lương tâm, chối bỏ phẩm giá của mình để tìm kiếm lạy lục một chút cặn bã của vinh hoa, lợi lộc phù phiếm. Hài Nhi Giêsu nghĩ thầm ít ra đây cũng là dịp để họ tỏ lòng biết ơn đối với ông bộ trưởng. Nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối, trái tim của họ đang hướng đến người sẽ lên thay thế ông bộ trưởng trong những ngày gần đây.
Hài Nhi Giêsu lại tiếp tục đi gõ cửa từng nhà, nhưng ai cũng đang bận bịu với cuộc vui đêm Giáng Sinh.
Ngài đi, đi mãi trong đêm, để rồi mệt lả không còn lê bước nữa. Ngài ngồi xuống bên vệ đường ven đô thị. Ngài đang miên man nghĩ đến tình người thì bỗng dưới ánh đèn đường mờ ảo, một bóng đen thất thểu tiến lại gần Ngài. Con người này xem chừng như không biết lễ Giáng Sinh là gì. Quần áo bẩn thỉu, dáng đi ngập ngừng. Trên vai của anh đeo lủng lẳng một chiếc đàn vĩ cầm cũ kỹ. Ðó là tất cả vốn liếng của một kẻ lãng tử. Vừa thấy em bé ngồi tiu nghỉu bên vệ đường, anh mới dừng lại, lấy chiếc đàn ra và dạo lên những khúc nhạc du dương, trầm buồn. Bản nhạc bỗng mang lại hy vọng cho Hài Nhi. Trên môi Ngài, một nụ cười bé thơ cũng vừa hé mở. Con người lang thang phiêu bạt này, con người không có lấy một mái nhà để nương náu, không có được một ngày lễ trong cuộc sống, không biết được đêm nay là đêm Giáng Sinh: vậy mà con người ấy có được một trái tim quảng đại sẵn sàng dâng hiến!
Hài Nhi Giêsu đến nắm tay anh, đưa anh vào bệnh viện. Tại đây, với nụ cười tươi nở trên môi, anh để cho các bác sĩ khoét vào lồng ngực của anh để lấy quả tim quảng đại của anh và đặt vào chỗ của quả tim đang thoi thóp của ông bộ trưởng tài chính.
Cuộc ghép tim vừa chấm dứt, thì mọi người đã có thể chứng kiến được phép lạ. Ông bộ trưởng với quả tim quảng đại và yêu đời của người lãng tử đứng dậy khỏi giường và bắt đầu ca hát.

Ông đã ném đi quả tim chỉ biết rung động vì tiền của, để thay thế bằng quả tim quảng đại biết ca hát, và sẵn sàng tự hiến cho người.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
11-01-2010, 01:36 PM
26 Tháng Mười Hai
Ông Già Noel

Tháng 9 năm 1897, một bé gái 8 tuổi tên là Virginia đã viết cho tờ báo Công Giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không?
Vài ngày sau, trên một quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau:"Virginia yêu dấu của bác. Ðiều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.
Virginia yêu dấu, tất cả mọi trí khôn của loài người, dù là của trẻ em, dù là của người lớn, tất cả đều nhỏ bé. Trong cái vũ trụ bao la này, con người chỉ là một con kiến nhỏ bé.
Virginia ạ, ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại nhờ đó cuộc sống của cháu trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào? Không có những tâm hồn ngây thơ trong trắng của những trẻ thơ như cháu thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào? Không có một niềm tin của trẻ thơ như cháu thì không có một áng văn, một dòng thơ nào có thể làm cho cuộc sống của chúng ta đáng sống nữa. Không có một niềm tin của trẻ thơ thì ánh sáng vĩnh cửu đang lấp đầy thế giới cũng sẽ tắt dần.
Virginia, nếu cháu không còn tin ở ông già Noel nữa, thì cháu cũng chẳng còn tin ở chuyện thần tiên nữa. Có thể cháu sẽ yêu cầu bố cho người ngồi canh ở lò sưởi, ở cuối giường để bắt cho được ông già Noel... Nhưng dù cháu không bắt được ông già Noel đi nữa, điều đó ý nghĩa gì? Chưa có ai thấy ông già Noel, nhưng cũng không ai chứng minh được là không có ông già Noel. Những điều có thực nhất trong thế giới của chúng ta đó là những điều mà trẻ con và ngay cả người lớn cũng chưa từng thấy.
Cháu đã bao giờ thấy các nàng tiên nhảy múa trên thảm cỏ chưa? Dĩ nhiên là chưa. Nhưng có ai chứng thực được các nàng tiên không có không? Không ai có thể có khái niệm hay tưởng tượng được bao điều kỳ diệu chưa thấy hoặc không thể thấy được trong thế giới của chúng ta.
Chỉ có Ðức Tin, chỉ có tình yêu mới có thể vén mở được bức màn bí mật của thế giới chúng ta.
Nhờ ơn Chúa, ông già Noel vẫn sống và tiếp tục sống, cháu Virginia ạ. Ông già Noel sẽ tiếp tục làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc".
Lá thư gửi cho cô bé Virginia trên đây đưa chúng ta vào trung tâm điểm của ngày Giáng Sinh: Giáng Sinh là lễ của nhi đồng, bởi vì nhân vật chính của ngày lễ là một Em Bé. Một Em Bé cũng như muôn nghìn em bé sinh ra trên cõi đời này. Em Bé đó chính là niềm vui và hy vọng cho tất cả mọi người.
Cùng với Em Bé đó, tất cả các em bé đều mang lại niềm vui cho mọi người trong mùa Giáng Sinh. Bầu khí Giáng Sinh là bầu khí của nhi đồng. Từ hoa đèn, âm nhạc cho đến quà cáp, tất cả đều hướng về các em nhi đồng... Người cho đã vui mà người nhận còn vui hơn: chính các em bé là những người đã dạy cho người lớn biết vui với niềm vui ban phát. Bao lâu con người còn có thể mở cửa tâm hồn, bao lâu con người còn có thể mở rộng bàn tay để ban phát, để chia sẻ thì bấy lâu ông già Noel của hy vọng, của quảng đại, của hân hoan vẫn còn sống mãi trong tâm trí của trẻ em và không biết bao nhiêu người sầu khổ.

Giáng Sinh là ngày của nhi đồng do đó cũng là lễ của hòa bình. Một em bé sinh ra là một hy vọng mới chớm nở. Hy vọng là tên mới của hòa bình. Còn hy vọng là còn muốn xây dựng. Xây dựng trên mầm sống đã đành mà còn xây dựng trên những đổ vỡ, mất mát. Qua Hài Nhi Giêsu, tất cả các em bé trên thế giới đang nhắn gửi đến từng người trong chúng ta niềm hy vọng vào thiện chí của con người. Hòa bình là hoa quả của hy vọng. Còn tin nơi con người, chúng ta còn có thể xây dựng hòa bình.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
11-01-2010, 01:42 PM
28 Tháng Mười Hai
Những Vị Thánh Vô Danh

Có một vị thánh nọ thánh thiện đến độ, không hề dám có ý nghĩ rằng mình là một con người thánh thiện.
Ngày kia, một thiên thần đến nói với ngài: "Chúa sai tôi đến gặp ngài. Ngài hãy xin bất cứ điều gì ngài muốn. Chúa sẽ ban cho ngài. Vậy ngài có muốn được ơn chữa bệnh không?"
Vị thánh trả lời: "Không. Thà để cho chính Chúa chữa trị thì tốt hơn". Vị sứ thần đề nghị điều khác: "Ngài có muốn đem những người tội lỗi trở về đường công chính không?"
Vị thánh cũng lắc đầu từ chối: "Không. Cải hóa tâm hồn không phải là việc của tôi. Ðó là công việc của các thiên thần". Vị sứ giả của Chúa mới gợi ý thêm: "Ngài có muốn trở thành một mẫu gương để thiên hạ luôn đến để bắt chước không?"
Vị thánh cũng khiêm tốn trả lời: "Không. Bởi vì làm như thế tôi sẽ trở thành trung tâm thu hút sự chú ý". Thiên thần mới hỏi: "Vậy thì ngài mong muốn điều gì?". Vị thánh trả lời: "Ơn Chúa, có ơn chúa, đó là điều tôi hằng khao khát".
Vị thiên thần được Chúa sai đến vẫn chưa chịu bỏ cuộc, nên đề nghị lần cuối cùng: "Ngài phải xin một phép lạ. Nếu không tôi đành phải để phép lạ xảy ra vậy". Vị thánh của chúng ta đành phải ưng thuận: "Vậy thì tôi xin điều này: ước gì mọi việc thiện được thực thi qua tôi mà tôi không hề hay biết". Thế là để cho lời ước của vị thánh thành sự thật, Thiên Chúa ban cho cái bóng phía sau của ngài được mọi thứ quyền năng. Nơi nào có cái bóng ngài đi qua, thì nơi đó, người bệnh được lành, đất đai trở thành phì nhiêu, nguồn suối phát sinh sự sống, niềm vui trở lại trên những khuôn mặt sầu khổ.
Nhưng vị thánh không hề hay biết điều đó, vì dân chúng chú ý đến cái bóng đến độ quên hẳn con người.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ các thánh anh hài, những vị thánh đã chết vì Ðức Kitô mà cũng không hề hay biết rằng mình phải chết vì Ngài. Các trẻ em ấy là kiểu mẫu của không biết bao nhiêu vị thánh vô danh.
Có những Mẹ Têrêxa Calcutta, những linh mục Pierre mà thế giới không ngừng nhắc đến, nhưng cũng có không biết bao nhiêu những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ ngày ngày âm thầm hy sinh trong không biết bao nhiêu công việc vô danh, phiền toái mỗi ngày. Có biết bao nhiêu người đang âm thầm đau khổ và hy sinh cầu nguyện mà không thể thấy được kết quả của lời cầu nguyện của mình. Có biết bao nhiêu người âm thầm phục vụ tha nhân cách này hay cách khác mà không hề được đền đáp hay nhắc nhớ.

Trong ánh sáng của Mầu Nhiệm Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi để tìm thấy giá trị của những hy sinh âm thầm từng ngày. Sự thinh lặng bé nhỏ của Hài Nhi Giêsu trong hang đá Bê Lem, 30 năm âm thầm của Ngài tại Nazareth: đó là ý nghĩa của cuộc sống phiền toái, độc điệu mỗi ngày của chúng ta. Hài Nhi Giêsu mời gọi chúng ta nhận ra giá trị của cuộc sống ấy. Thiên Chúa thi ân tùy theo cách thế Ngài muốn. Cuộc sống âm thầm và hy sinh từng ngày của chúng ta là một trong muôn nghìn cách thế thi ân của Ngài mà chúng ta không thể đo lường được. Ngoài sự tưởng tượng và dự đoán của chúng ta, những hy sinh từng ngày của chúng ta được Chúa dùng như cái bóng vô hình nhờ đó Ngài thông ban muôn ơn lành cho người khác.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
11-01-2010, 04:32 PM
29 Tháng Mười Hai
Hoàng Tử Và Cậu Bé Nghèo

Văn hào Anh Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một quyển tiểu thuyết mang tựa đề "Hoàng tử và cậu bé nghèo". Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà nghèo.
Một ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người cùng cực nhất trong xã hội.
Thế nhưng một lúc nào đó, hai cậu bé cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ quần áo rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã không tin... Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả mạo.
Giữa lúc Tom, cậu bé nghèo, sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện... Không mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giàu lòng thương người.
Cũng giống như câu chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị thế với chúng ta. Ngài mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được mang lấy tước phẩm được làm con Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với chúng ta sự sống thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy của kiếp sống khổ đau của con người.
Mang lấy trong thân xác Ngài khổ đau của nhân loại, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với từng người, nhất là những người khổ đau. Ðồng hóa mình với những người đau khổ, Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta con đường để gặp gỡ Ngài: Ngài hiện diện trong những đau khổ, bé mọn nhất. Tiếp rước những người đó chính là tiếp rước Ngài.
Thiên Ðàng là một gặp gỡ triền miên với Chúa, nhưng cuộc gặp gỡ này chỉ được chuẩn bị bằng những gặp gỡ của chúng ta với tha nhân, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúng ta khước từ tha nhân, chúng ta cũng khước từ chính Chúa. Tha nhân là Bí Tích của Thiên Chúa. Chính trong tha nhân mà chúng ta phải nhận ra và yêu mến Chúa.
Nơi bàn thờ, vị linh mục đọc lại lời của Chúa Giêsu: này là Mình Ta, này là Máu Ta... Khi chỉ cho chúng ta mỗi một con người, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ nói: "Này là Mình Ta...".

Thánh lễ là một cuộc gặp gỡ với Chúa. Cuộc gặp gỡ này chỉ có ý nghĩa và giá trị nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng biết nhận ra Chúa trong từng cuộc gặp gỡ với tha nhân... Xin Chúa thêm Ðức Tin để chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu trong tha nhân, nhất là những người cùng khổ, bé mọn trong xã hội.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 10:51 AM
30 Tháng Mười Hai
Sự Chọn Lựa Của Chúa

Vào dạo tháng 12 năm 1987, Ðức Hồng Y Jean Marie Lustiger, đương kiêm Tổng Giám Mục Paris, Pháp Quốc, đã cho xuất bản một quyển sách mang tựa đề " Sự chọn lựa của Thiên Chúa". Qua tựa đề này, ai cũng đoán được đây là một quyển tự thuật ghi lại cuộc hành trình Ðức Tin của ngài.
Sinh ra trong một gia đình Do Thái sùng đạo, ông ngoại là một thầy Rabbi uyên thâm, Jean Marie Lustiger đã tự ý trở lại với Ðức Tin Công Giáo vào năm 14 tuổi. Hành động này của Jean Marie dĩ nhiên đi ngược lại với xác tín của gia đình, nhất là mẹ cậu. Trước khi bị đưa lên xe chở đi qua trại tập trung Ðức Quốc Xã ở Auschwitz, bà còn nói với các con: "Các con hãy giữ mình, chớ theo đạo Công Giáo. Ðây là một cơn bệnh hiểm nghèo".
Nhưng tiếng Chúa còn mạnh hơn sự cảnh cáo của người mẹ. Cũng giống như thi sĩ Paul Claudel khi ngắm nhìn ánh nến lung linh trên bàn thờ, bỗng nhận ra tiếng gọi của Chúa, Jean Marie Lustiger cũng đã nghe được tiếng gọi thầm kín ấy một ngày thứ năm tuần thánh nọ khi cậu bước vào nhà thờ chính tòa Orleáns. Dân chúng đứng chen chúc đông nghẹt trong nhà thờ. Nhưng ngày hôm sau, khi cậu trở lại, nhà thờ bỗng trống vắng... Nhưng chính trong nỗi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh đó mà Jean Marie Lustiger đã nhận ra tiếng gọi của Chúa.
Qua quyển tự thuật trên đây, Ðức Hồng Y Jean Marie Lustiger tuyên xưng rằng: "ơn cứu rỗi và sự hiện diện thầm kín của Ðấng Cứu Thế trong nhân loại là một Mầu Nhiệm của lòng thương xót". Thiên Chúa yêu thương con người một cách lạ lùng. Ngài mời gọi con người trên muôn vạn nẻo đường của con người. Do đó, theo Ðức Hồng Y Lustiger, Hy Vọng, chính là tin rằng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người.
Tin Mừng được loan báo như một vết dầu loang. Chính nhờ trung gian của nhiều người khác nhau mà Thiên Chúa ngỏ lời với con người. Nói như thi sĩ Pau Claudel, Thiên Chúa viết bằng những đường cong.
Những đường cong mà Thiên Chúa không ngừng viết để ngỏ với chúng ta chính là cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Mỗi một biến cố xảy đến, mỗi một cuộc gặp gỡ là một lời ngỏ của Thiên Chúa. Chính qua trung gian của những biến cố đó mà Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta. Do đó, người Kitô sẽ không ngừng thức tỉnh để lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa. Trong giấc ngủ say như cậu bé Samuel, trong một buổi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh như trường hợp của Jean Marie Lustiger, trong niềm vui của gặp gỡ, của thịnh đạt, trong đau khổ của bệnh tật, mất mát: tiếng nói của Thiên Chúa vẫn vang dội trong lòng người.

Chúng ta cũng biết rằng cuộc đời của mỗi người chúng ta là lịch sử của một ơn gọi. Mỗi người chúng ta không phải là một con số trong năm tỷ người đang sống trên mặt đất, nhưng là một lịch sử các biệt trong Tình Thương của Chúa. Tiếng Chúa gọi chỉ ngỏ với từng người mà thôi. Tên gọi của từng người chúng ta có một âm vang đặc biệt trong tiếng gọi của Chúa. Mỗi người chúng ta chỉ có thể nói: Thiên Chúa yêu thương tôi và chỉ mình tôi mà thôi... Trong muôn nghìn đau khổ của cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy lập lại lời tuyên xưng của thánh Gioan tông đồ: "Thiên Chúa là Tình Yêu", Ngài đang yêu thương tôi.


Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 10:53 AM
30 Tháng Mười Hai
Sự Chọn Lựa Của Chúa

Vào dạo tháng 12 năm 1987, Ðức Hồng Y Jean Marie Lustiger, đương kiêm Tổng Giám Mục Paris, Pháp Quốc, đã cho xuất bản một quyển sách mang tựa đề " Sự chọn lựa của Thiên Chúa". Qua tựa đề này, ai cũng đoán được đây là một quyển tự thuật ghi lại cuộc hành trình Ðức Tin của ngài.
Sinh ra trong một gia đình Do Thái sùng đạo, ông ngoại là một thầy Rabbi uyên thâm, Jean Marie Lustiger đã tự ý trở lại với Ðức Tin Công Giáo vào năm 14 tuổi. Hành động này của Jean Marie dĩ nhiên đi ngược lại với xác tín của gia đình, nhất là mẹ cậu. Trước khi bị đưa lên xe chở đi qua trại tập trung Ðức Quốc Xã ở Auschwitz, bà còn nói với các con: "Các con hãy giữ mình, chớ theo đạo Công Giáo. Ðây là một cơn bệnh hiểm nghèo".
Nhưng tiếng Chúa còn mạnh hơn sự cảnh cáo của người mẹ. Cũng giống như thi sĩ Paul Claudel khi ngắm nhìn ánh nến lung linh trên bàn thờ, bỗng nhận ra tiếng gọi của Chúa, Jean Marie Lustiger cũng đã nghe được tiếng gọi thầm kín ấy một ngày thứ năm tuần thánh nọ khi cậu bước vào nhà thờ chính tòa Orleáns. Dân chúng đứng chen chúc đông nghẹt trong nhà thờ. Nhưng ngày hôm sau, khi cậu trở lại, nhà thờ bỗng trống vắng... Nhưng chính trong nỗi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh đó mà Jean Marie Lustiger đã nhận ra tiếng gọi của Chúa.
Qua quyển tự thuật trên đây, Ðức Hồng Y Jean Marie Lustiger tuyên xưng rằng: "ơn cứu rỗi và sự hiện diện thầm kín của Ðấng Cứu Thế trong nhân loại là một Mầu Nhiệm của lòng thương xót". Thiên Chúa yêu thương con người một cách lạ lùng. Ngài mời gọi con người trên muôn vạn nẻo đường của con người. Do đó, theo Ðức Hồng Y Lustiger, Hy Vọng, chính là tin rằng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người.
Tin Mừng được loan báo như một vết dầu loang. Chính nhờ trung gian của nhiều người khác nhau mà Thiên Chúa ngỏ lời với con người. Nói như thi sĩ Pau Claudel, Thiên Chúa viết bằng những đường cong.
Những đường cong mà Thiên Chúa không ngừng viết để ngỏ với chúng ta chính là cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Mỗi một biến cố xảy đến, mỗi một cuộc gặp gỡ là một lời ngỏ của Thiên Chúa. Chính qua trung gian của những biến cố đó mà Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta. Do đó, người Kitô sẽ không ngừng thức tỉnh để lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa. Trong giấc ngủ say như cậu bé Samuel, trong một buổi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh như trường hợp của Jean Marie Lustiger, trong niềm vui của gặp gỡ, của thịnh đạt, trong đau khổ của bệnh tật, mất mát: tiếng nói của Thiên Chúa vẫn vang dội trong lòng người.
Chúng ta cũng biết rằng cuộc đời của mỗi người chúng ta là lịch sử của một ơn gọi. Mỗi người chúng ta không phải là một con số trong năm tỷ người đang sống trên mặt đất, nhưng là một lịch sử các biệt trong Tình Thương của Chúa. Tiếng Chúa gọi chỉ ngỏ với từng người mà thôi. Tên gọi của từng người chúng ta có một âm vang đặc biệt trong tiếng gọi của Chúa. Mỗi người chúng ta chỉ có thể nói: Thiên Chúa yêu thương tôi và chỉ mình tôi mà thôi... Trong muôn nghìn đau khổ của cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy lập lại lời tuyên xưng của thánh Gioan tông đồ: "Thiên Chúa là Tình Yêu", Ngài đang yêu thương tôi.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 10:57 AM
31 Tháng Mười Hai
Lẽ Sống

Ngày xưa có một ông vua, tuổi đã quá ngũ tuần mà vẫn chưa xem được một quyển sách nào. Bộ sách mà ông thèm khát được đọc nhất là bộ "Lịch sử loài người". Nhưng khốn nỗi, cuộc đời của ông, từ mái đầu xanh cho đến tóc điểm bạc, không lúc nào được rảnh rang. Ðời ông luôn luôn sống trên lưng ngựa, nằm sương, gối tuyết trên bãi chiến trường. Nay chinh phục nước này, mai ngăn chặn nước kia xâm lăng. Mắt ông chỉ thấy có gươm giáo và máu lửa. Ông rất ân hận vì chưa đọc được một trang sách của thánh hiền... Nay nước nhà đã hòa bình, ông muốn dành thời giờ còn lại để đọc cho kỳ được bộ lịch sử loài người, để xem con người xưa nay sống để làm gì? Nhưng tuổi ông đã cao, mà bộ sách lại quá dày. Biết sức mình không thể đọc hết bộ sách, cho nên nhà vua mới ra lệnh cho viên sử thần làm hộ cho mình công việc ấy. Với sự giúp đỡ của một ban gồm 50 người, viên sử thần mới bắt tay ngày đêm miệt mài đọc sách.
Sau 10 năm cắm cúi đọc sách, viên sử thần đã có thể tóm tắt bộ lịch sử loài người thành 10 quyển sách, và cho mang vào trình lên nhà vua. Nhưng vừa nhìn thấy 10 quyển sách và đo lường tuổi tác của mình, nhà vua lại cảm thấy không đủ sức để đọc hết bộ sách đã được rút ngắn. Nhà vua mới đề nghị cho ủy ban làm việc thêm một thời gian nữa. Sau 5 năm làm việc thêm, ủy ban đã có thể tóm lược lịch sử loài người thành 5 quyển. Nhưng khi ủy ban mang 5 quyển sách vào ra mắt nhà vua, thì cũng chính là lúc nhà vua đang hấp hối trên giường bệnh. Biết mình không thể đọc được dù một trang, nhà vua mới thều thào nói với viên trưởng ban tu sử hãy tóm tắt bộ lịch sử loài người thành một câu mà thôi. Vị trưởng ban tu sử mới tâu với nhà vua như sau: "Hạ thần xin vâng mạng. Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ là: loài người sinh ra để khổ rồi chết". Nhà vua gật đầu. Ðôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở nụ cười mãn nguyện... rồi tắt thở. Và giữa lúc ấy, vị trưởng ban tu sử cũng nấc lên mấy tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng.
Hôm nay là ngày cuối năm. Nhìn lại một năm qua với không biết bao đói khổ, chiến tranh, chết chóc cho nhân loại cũng như cho chính bản thân, có lẽ cũng có nhiều người đi đến kết luận bi quan như viên trưởng ban tu sử trong câu chuyện trên đây: "Loài người sinh ra để khổ rồi chết".
Ði qua một đoạn đường trong cuộc lữ hành trần gian, Giáo Hội muốn chúng ta mặc lấy thái độ hân hoan và lạc quan. Bài ca trên môi miệng của chúng ta trong ngày hôm nay không phải là bài ca bi ai, tả oán, mà phải là bài ca "Te Deum", ngợi khen Chúa, cảm tạ Chúa. Ngợi khen Chúa, cảm tạ Chúa bởi vì vinh quang của Ngài là con người được sống. Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải của người chết.
Không chối bỏ thực tại của khổ đau, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt. Bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết, mà là Sự Sống. Bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.

Còn tâm tình nào xứng hợp trong ngày cuối năm cho bằng cảm tạ và phó thác. Cảm tạ và phó thác cho Chúa bởi vì Ngài vẫn luôn là Thiên Chúa của Tình Yêu, Thiên Chúa của Sự Sống. Cảm tạ và phó thác cho Chúa bởi vì Ngài là Ðường, là Sự Thật và là Lẽ Sống của chúng ta. Cảm tạ và phó thác cho Chúa vì cuộc sống này vẫn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 11:03 AM
1 Tháng Giêng


Chiếc Mốc Thời Gian


Cứ ở mỗi cuối năm, hoặc ở khởi đầu của một năm mới, một thập niên mới, một kỷ nguyên mới, tạp chí Time có thói quen chọn một người nổi bật nhất trong lịch sử nhân loại để làm một cái mốc cho thời gian.
Lần đầu tiên, năm 1927, phi công Hoa Kỳ tên là Charles Lindbergh đã được chọn làm người của năm. Viên phi công này là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thực hiện một chuyến bay liên tục từ New York sang Paris. Người của năm không phải chỉ là một đấng mày râu, mà ngay cả phái yếu cũng được chọn vào danh dự ấy. Trước kia, có nữ hoàng Elizabeth đệ nhị, và năm 1986, tổng thống Aquino của Phi Luật Tân cũng đã được chọn làm người của năm.
Có đàn ông, có đàn bà. Có những người xây dựng Hòa bình như Mahatma Gandhi, như Martin Luther King, mà cũng có những người chỉ biết gây đau thương tang tóc cho nhân loại như Stalin, như Hitler, như Ðặng Tiểu Bình cũng đã từng được chọn làm người của năm.
Gần đây, thế giới nhìn vào chủ tịch Gorbachov như gương mặt nổi bật nhất của lịch sử nhân loại. Năm 1987, ông được chọn làm người của năm vì đã xuất hiện như một biểu tượng của Hy vọng cho Liên Xô. Và với những thay đổi sâu rộng trong khối Ðông Á do chính sách đổi mới của ông mang lại, ông được chọn làm người của năm 1989. Nhưng tạp chí Time còn đi xa hơn nữa khi tặng cho ông danh hiệu "Người của thập niên 80". Trước kia, năm 1949, thủ tướng nước Anh là Winston Churchill cũng đã được chọn làm người của nửa thế kỷ.
Thời gian sẽ vô nghĩa và trống rỗng, nếu không được liên tục bằng những cái mốc của lịch sử. Con người cần có những chiếc ấy để nhìn lại quá khứ và dự phóng cho tương lai.
Người Kitô sống giữa thế giới không thể không dựa vào những chiếc mốc thời gian ấy. Nhưng chúng ta không nhìn vào những chiếc mốc thời gian ấy với đôi mắt bàng quan, hoặc tệ hơn nữa, bằng cái nhìn bi quan. Trong đức tin, tất cả được nhìn bằng đôi mắt lạc quan, bởi vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa là chủ của lịch sử, Thiên Chúa luôn có mặt trong lịch sử con người. Tin vào sự hiện diện và hướng dẫn ấy của Thiên Chúa, chúng ta nhìn vào những chiếc mốc của thời gian như những dấu hiệu của Hy vọng. Ngay cả trong thất bại, rủi ro, tang tóc, thương đau, người Kitô cũng luôn nhận ra những dấu chỉ của Hy vọng. Tất cả mọi biến cố xảy đến đều phải được nhìn trong ánh sáng phục sinh của Ðức Kitô. Cái chết đau thương và nhục nhã của Ngài trên thập giá không phải là ngõ cụt, là đường cùng, là tăm tối mà là đường dẫn về Ánh Sáng.
Tin tưởng ở sự hiện diện của Thiên Chúa trong từng phút giây của cuộc sống và lịch sử con người, cái mốc thời gian của chúng ta có lẽ không phải là đơn vị của năm, thập niên, mà là từng phút giây của Hiện tại. Và người được chúng ta chọn cho từng phút giây ấy phải là Thiên Chúa, chủ của thời gian, chủ của lịch sử.

Xin chọn Người làm trung tâm điểm của cuộc sống, xin chọn Người làm Sự Sống, xin chọn Người làm Lý Tưởng, xin chọn Người làm Cảm Hứng, xin chọn Người làm tất cả cho cuộc đời, xin chọn Người trong từng phút giây của cuộc sống.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 11:07 AM
2 Tháng Giêng
Ðóng Thuế Cho Năm Mới

"Ðóng Thuế Cho Năm Mới: 15 người thiệt mạng, khoảng 1,500 người bị thương, gần 2,500 người lâm cảnh màn trời chiếu đất". Trên đây là hàng tít lớn của hầu hết các nhật báo xuất bản tại thủ đô Manila Phi Luật Tân, trong số ra ngày mùng 02 tháng Giêng mỗi năm, tức là số báo đầu tiên trong năm. Dường như đây là công thức quen thuộc mà bất cứ nhật báo nào cũng đưa ra số báo đầu năm. Ðó cũng là điều mà dân chúng chờ đợi sau một đêm đón giao thừa trong tiếng nổ liên tục của pháo và trong khói bay mịt mù.
15 người xấu số trên đây đều là nạn nhân của những vụ đâm chém, bắn giết vì say sưa quá chén trong đêm giao thừa. 1,500 người bị thương khác là nạn nhân của bất cẩn trong khi đốt pháo.
Chỉ riêng ở thủ đô Manila thôi, chưa tính số tiền được đốt đi trong tiếng pháo, số thiệt hại vì hỏa hoạn và những thiệt hại khác lên đến cả triệu Mỹ kim.
Hôm nay thì mọi người đều trở lại với sinh hoạt bình thường của mình. Ðọc bảng tin về những gì đã xảy ra trong Ðêm Giao Thừa và Ðầu Năm, ai cũng bàng hoàng xót xa cho những người xấu số và có lẽ ai cũng thở ra nhẹ nhõm vì bất trắc đã không xảy đến cho mình. Người ta nghĩ rằng may mắn vẫn còn đó. Bảng tổng kết Ðầu Năm và lời kêu gọi đề phòng cho Năm Mới không mấy chốc cũng sẽ đi vào quên lãng. Bánh xe lịch sử cứ lăn và con người cũng sẽ tiếp tục lập lại những lỗi lầm của quá khứ.
Người Á Ðông chúng ta thường nói: "cha ăn mặn thì con khát nước". Kinh Thánh Cựu Ước cũng viết: "cha ông ăn nho xanh thì con cháu phải ê răng". Người tin ở thuyết quả báo thì cho rằng con cái phải gánh chịu những hậu quả do lầm lỗi của ông bà để lại.
Trong một cái nhìn khách quan và sâu xa hơn, chúng ta phải nói rằng lịch sử thường lặp lại. Lịch sử thường lặp lại, bởi vì nó được cấu tạo bởi những biến cố do con người chủ động. Mà bởi vì mẫu số chung của con người ở mọi thời đại vẫn là tự do, cho nên những lầm lẫn giống nhau được lập lại là chuyện bình thường, có khác chăng là khác ở mức độ và hình thức mà thôi. Ở thời đại nào mà không có chiến tranh, ở thời đại nào mà không có cảnh người bóc lột người, ở thời đại nào mà không có tham, sân, si?

Người Kitô chúng ta hãy nhìn vào bản thân và lịch sử của nhân loại với một cái nhìn thực tế và lạc quan. Thực tế để thấy rằng sống là một cuộc chiến đấu không ngừng: chiến đấu giữa thiện và ác, chiến đấu giữa tự do và nô lệ, chiến đấu giữa ân sủng và tội lỗi. Thực tế để thấy rằng cuộc chiến ấy đang diễn ra trong từng phút giây của cuộc sống. Nhưng chúng ta cũng hãy có cái nhìn lạc quan, lạc quan và tin rằng, lầm lỗi thất bại là khởi đầu của những ân ban dồi dào hơn, và trong cuộc chiến từng ngày đó: Thiên Chúa vẫn luôn có mặt để nâng đỡ chúng ta.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 11:10 AM
3 Tháng Giêng


Bí Quyết Hạnh Phúc


Trong một chương trình truyền hình Mỹ, người ta phỏng vấn một cụ già, tuổi hạc rất cao. Người ta đặt câu hỏi như sau: "Thưa cụ, chắc cụ có một bí quyết đặc biệt để được hạnh phúc?"
Cụ già trả lời một cách đơn sơ như sau: "Không, tôi chẳng có bí quyết nào gọi là đặc biệt cả. Trái lại, nó rất đơn giản như chiếc mũi trên mặt ông vậy!". Cụ già giải thích như sau: "Mỗi buổi sáng mai, lúc thức dậy, tôi có hai điều chọn lựa, một là sống hạnh phúc, hai là sống bất hạnh. Ông nghĩ xem, tôi sẽ chọn điều nào? Dĩ nhiên tôi phải chọn được hạnh phúc".
Câu trả lời trên đây của cụ già thật đơn giản. Abraham Lincol đã nói như sau: "Con người sở dĩ có được hạnh phúc, sung sướng hay không cũng tại lòng tưởng nghĩ như vậy". Bạn có thể hạnh phúc, nếu bạn muốn như thế. Ðó là điều dễ thực hiện nhất trên đời. Bạn hãy chọn lựa sự bất hạnh. Ði đến đâu bạn cũng than thân trách phận, chắc chắn bạn sẽ được như ý. Nhưng nếu lúc nào bạn cũng tự nhủ rằng: "Mọi việc đều tốt đẹp, đời vẫn đẹp và đáng sống. Tôi chọn sống hạnh phúc", thì chắc chắn bạn sẽ được điều bạn muốn.
Trẻ con rành về nghệ thuật sống hạnh phúc hơn người lớn. Trẻ em mang vào giấc ngủ của mình vô số những mộng mơ và chúng cũng thức giấc với vô số những mộng ước, trong đó cơ bản nhất vẫn là được vui chơi.

Người lớn mà có được một tinh thần như trẻ thơ lúc tráng niên và vào tuổi già, thì quả là một thiên tài, vì họ nắm được niềm hạnh phúc thật trong tâm hồn mà Chúa đã dành để cho tuổi thanh xuân. Chúa Giêsu quả là tế nhị khi Ngài nói với chúng ta rằng cần phải có tinh thần trẻ thơ thì mới vào được Nước Trời. Nước Trời là gì nếu không phải là được sống hoan lạc trong tình yêu thương của Chúa?



Trích sách Lẽ Sống

hvmobile_dno
12-01-2010, 11:55 AM
Hay!!!!!!!!........ Thanks! ......

hvmobile_dno
12-01-2010, 12:01 PM
Hay ... hay .... thanks!......

Rosa_Huong
12-01-2010, 12:30 PM
4 Tháng Giêng
"Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ"

Nhà độc tài nào sau khi ra đi cũng trở thành bia cho không biết bao nhiêu những lời đàm tiếu của thiên hạ. Năm 1986, người ta nói đến trên 3,000 đôi giày đã trở thành bảo tàng viện của bà Imelda Marcos, phu nhân của cựu tổng thống Phi Luật Tân, ông Ferdinand Marcos. Sau đó, người ta lại bàn tán về những đôi giày của bà Elena, vợ của nhà độc tài Ceaucescu bị hành quyết tại Rumani.
Khi vợ chồng của cựu tổng thống Marcos bị bắt buộc phải bỏ nước Phi, dân chúng đã tuôn đến dinh tổng thống như một ngày hội: họ đến đó chỉ để xót xa so sánh cái cảnh giàu sang quá mức của gia đình nhà độc tài với cái đói khổ mạt rệp của dân chúng. Người dân Phi nói rằng, trong 9 năm liền, bà Imelda Marcos chỉ có thể mang một đôi giày không quá 3 lần là cùng. Sau khi hành quyết vợ chồng Ceaucescu, người ta mới khám phá ra rằng căn nhà mà họ cho là bình thường của họ chính là một biệt thự sang trọng với 40 phòng khác nhau được trang trí bằng những bức tranh đắt giá, phòng tắm được khảm bằng vàng. Mỗi phòng đều có truyền hình và máy video.
Tài sản của ông Ceaucescu cũng không thua kém gì những của cải biển lận của ông Noriega, cựu tổng thống bị truất phế của Panama. Ông tướng này không chỉ có những căn nhà lộng lẫy trong nước, mà còn không biết bao nhiêu biệt thự tại Pháp và các nước khác. Máy bay và những chuyến du thuyền của ông không còn là những phương tiện để di chuyển, mà là cả một thú sưu tầm.
Không có một nhà độc tài nào mà không tham lam tiền của. Người ta nói đến hàng tỷ Ðôla của ông Marcos. Nhà độc tài của một nước nghèo nàn như Haiti cũng có đến 400 triệu Mỹ kim. Somoza, người bị lật đổ tại Nicaragua, thì có đến hàng trăm triệu Ðô la đầu tư vào những kinh doanh đồi trụy như đĩ điếm, cờ bạc. Cựu hoàng đế Pokassa của một nước nghèo nàn lạc hậu như Cộng Hòa Trung Phi bên Phi Châu, đã làm lễ đăng quang năm 1976 với một phí tổn là 20 triệu Mỹ kim. Và hiện nay, người ta ước tính tài sản của tổng thống Zaire là ông Mobutu Sese Seko lên đến gần 5 tỷ Mỹ kim.
Giá của những tài sản bất chính ấy thường giống nhau: một cuộc lưu vong nhục nhã, một cuộc chốn chạy không kèn không trống, một cuộc hành quyết dã man hay một cuộc sống trong lo sợ từng ngày và làm mục tiêu cho những oán ghét.
Mỗi dịp đầu năm, dường như ai cũng muốn làm một quyết tâm. 50% người Hoa Kỳ quyết tâm giảm thiểu sự ăn uống để gìn giữ sức khỏe.
Ðối với người Kitô chúng ta, sức khỏe tinh thần, sự cường tráng tâm linh có lẽ là điều quan trọng hơn cả. Quyết tâm của chúng ta phải là quyết tâm điều chỉnh lại sự lựa chọn cơ bản của chúng ta. Ðâu là cùng đích của cuộc sống chúng ta? Ðâu là lý tưởng của chúng ta? Ðâu là giá trị cao cả nhất trong cuộc sống của chúng ta? Tiền bạc và nhất là tiền bạc bất chính có đem lại hạnh phúc cho đời Người không?



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 12:37 PM
5 Tháng Giêng


Chiếc Áo Rách


Một linh sư Ấn giáo nọ rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử. Nhận thấy rằng người đệ tử không cần đến sự dìu dắt của ông nữa, cho nên ông mới bỏ mặc anh trong túp lều tranh rách nát bên cạnh một bờ sông. Một buổi sáng, khi thức dậy, người đệ tử xuống dòng sông thanh tẩy theo đúng nghi thức, rồi giặt chiếc áo rách rưới của mình. Ðây là tài sản duy nhất của anh ta.
Ngày nọ, anh đau đớn vô cùng khi nhận ra chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn tả tơi. Không còn cách nào nữa, người đệ tử đành phải vào làng gõ cửa để xin một chiếc áo khác. Cái áo lần nữa cũng bị chuột gặm nát. Anh mới xin được một con mèo. Lần này anh khỏi phải lo lắng về mấy con chuột nữa. Nhưng không xin áo mặc, thì người đệ tử cũng phải xin cơm, bánh mà thôi.
Ngày ngày phải vác bị đi khất thực, người đệ tử cảm thấy mình như một thứ gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, cho nên anh mới tìm cách tậu cho bằng được một con bò để lấy vốn làm ăn. Nhưng có bò thì cũng phải có cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu, anh còn tự mình cắt cỏ cho bò ăn. Về lâu về dài, nhận thấy không còn thì giờ cho sự cầu nguyện nữa, cho nên anh đành phải thuê người cắt cỏ cho bò. Bò càng ngày càng sinh sản ra nhiều, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Không mấy chốc, mảnh đất xung quanh túp lều của anh đã biến thành một nông trại. Con người đã một thời muốn bỏ đi tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ nay nghiễm nhiên trở thành một chủ nông trại giàu có. Có tiền, có mọi sự, cho nên anh cũng muốn có người chia sẻ công việc của anh. Anh đành phải cưới vợ. Và không mấy chốc, anh đã trở thành một trong những chủ nông trại giàu có nhất trong làng.
Vài năm sau, khi có dịp trở lại thăm ngôi làng cũ, vị linh sư đã một thời dẫn dắt anh, ngạc nhiên vô cùng vì thay cho túp lều nghèo nàn bên bờ sông, nay là cả một cơ nghiệp đồ sộ. Dò hỏi được tung tích của người chủ nông trại, vị linh sư mới lên tiếng hỏi người đệ tử của mình: "Thế này nghĩa là gì hả con?". Người đệ tử mới trả lời: "Có lẽ thầy không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này hiện hữu là cũng chỉ vì con đã không làm cách nào để giữ được chiếc áo rách".
Vì chén cơm manh áo, người ta có thể đánh mất lý tưởng của mình. Vì chén cơm manh áo, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác. Vì chén cơm manh áo, người ta có thể chối bỏ niềm tin của mình. Ðó là mối hiểm nguy mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Ðầu một Năm Mới, tiến thêm một bước trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm sáng suốt để thấy được bậc thang giá trị trong cuộc sống của chúng ta. Xin Ngài ban thêm can đảm để trong khi mưu cầu của cải vật chất, chúng ta có đủ sức khước từ mọi hành động bất chánh, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian trá. Xin Ngài ban thêm lòng quảng đại để chúng ta biết mở rộng quả tim và đôi bàn tay để chia sớt, để san sẻ với mọi người khốn khổ.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 12:41 PM
6 Tháng Giêng
Vị Vua Thứ Tư

Hôm nay lễ Ba Vua. Phúc Âm chỉ nhắc đến ba vị vua. Thế nhưng văn sĩ Joergernen người Ðan Mạch thì lại tưởng tượng ra một vị vua thứ tư. Vị vua thứ tư này đến chầu Chúa Giêsu sau ba vị vua khác. Triều bái Hài Nhi Giêsu nhưng mặt ông tiu nghỉu bởi vì ông không còn gì để dâng tặng Ngài.
Trước khi lên đường, ông chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông, thế nhưng dọc đường gặp bất cứ ai xin, ông cũng mang ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp là một cụ già rét run vì lạnh. Ðộng lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ viên ngọc thứ nhất. Ði thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông đành mang viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lính do vua Herôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Vị vua thứ tư đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, vị vua thứ tư chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình.
Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra đón nhận quà tặng của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ.
Mùa Giáng Sinh là mùa của những bất ngờ. Bất ngờ của một Thiên Chúa hóa thân làm người. Bất ngờ của một thiên Chúa giáng hạ trong hang súc vật. Bất ngờ sự việc những người nghèo hèn nhất trong xã hội đã nhận ra Tin Mừng. Bất ngờ của những người dân ngoại tìm đến triều bái Vua các vua. Nhưng điều khiến con người sẽ không bao giờ ngờ đến: đó là Ðấng Thiên Chúa hóa thân làm người ấy lại tự đồng hóa với mỗi một con người sinh ra trên cõi đời này, nhất là những con người bé mọn nhất trong xã hội. Ngài đã nói: tất cả những gì các người làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất là các người làm cho chính Ta. Từ đây, người ta chỉ có thể gặp gỡ được Ngài qua tha nhân. Tất cả những gì người ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngài. Lễ dâng làm đẹp lòng Ngài nhất chính là những gì người ta trao tặng cho tha nhân, nhất là những người nghèo hèn túng thiếu hay bất cứ ai cần sự giúp đỡ.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 12:46 PM
7 Tháng Giêng
33 Năm Sau

Với tựa đề "33 năm sau", đó là một câu chuyện thuật lại như sau: "Những gì đã xảy ra cho đứa bé năm nào?". Một trong ba vua đã đi triều bái vua Do Thái mới sinh tự hỏi. Suốt cuộc đời mình, nhà vua không thể nào quên được cuộc hành trình cách đây khoảng 33 năm, một cuộc hành trình dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn ông đến hang đá Bêlem.
Câu hỏi: "Liệu đứa bé ấy có trị vì dân Israel được không?". Làm cho nhà vua bồn chồn đứng ngồi không yên. Rồi chẳng dừng được, một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường đi đến Palestine. Tại Giêrusalem, những bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ, nhưng không ai biết gì đến đứa bé được sinh ra dưới điềm lạ ấy. Còn tại Bêlem mọi người được hỏi đều lắc đầu, ngoại trừ một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử "tử hình thập giá".
Thất vọng ê trề, nhà Vua thẫn thờ nhập vào đoàn những người hành hương trở lại Giêrusalem, vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần. Chen lấn vào đoàn lũ đang mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà Vua chú ý đến một đám đông đang bu quanh một nhóm người. Tò mò ông lấn qua đám đông để đến gần và nghe có kẻ nói: "Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm xàm".
Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: "Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?". Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: "Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài".
Trong lúc Phêrô đang nói, bỗng có một luồng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa một lần nữa thổi tràn xuống mọi người. Nhà Vua bỗng lại thấy ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia ra nhiều ánh sao khác rơi xuống mọi người. Trong tâm hồn, nhà Vua chợt hiểu: Mỗi người phải trở nên máng cỏ nơi Ðức Giêsu sinh ra và mỗi người phải mang Ngài đến cho mọi người xung quanh.
Câu chuyện trên nối liền ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ðồng thời câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của mọi người Kitô, là những kẻ phải trở nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay của Ðức Kitô để mang Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng tác hằng ngày.

Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 12:50 PM
8 Tháng Giêng
Sứ Giả Hòa Bình

Thánh Phanxico Assisi, vị sứ giả Hòa Bình, không những đã có một tình bác ái cao độ đối với con người, Ngài còn trải dài tình yêu thương ấy đến cả muôn vật, cỏ cây.
Cây cỏ gợi lại cho Thánh nhân chính Cây thập giá của Chúa Giêsu, do đó, Thánh nhân cảm thấy thương tâm vô cùng mỗi khi có người hành hạ cây cỏ. Ngài nói với người làm vườn như sau: Anh hãy để lại một góc vườn nguyên vẹn. Ðừng sờ đến cây cỏ, hãy để cho chúng sinh sôi nảy nở và lớn lên, ngay cả cỏ dại và hoa dại.
Mỗi lần đi qua góc vườn ấy, Ngài bước đi nhẹ nhàng và cẩn thận để không sát hại bất cứ một loại sâu bọ, côn trùng nào. Gặp người ta mang chiên và chim rừng ra chợ bán, Ngài mua hết để rồi phóng sinh chúng.
Ngài nói với chim chóc như sau: "Hỡi những người anh em nhỏ bé của tôi, anh em phải ca ngợi Ðấng Tạo Hóa hơn ai hết, vì Ngài đã ban cho anh em bộ lông đẹp, giọng hát hay cũng như lúa thóc anh em ăn thỏa thuê mà không phải gieo vãi".
Với chú chó sói, thánh nhân nhắn nhủ: "Anh sói ơi, anh quả thật đáng chết, vì anh đã cắn xé trẻ em. Anh hãy làm hòa với loài người. Từ nay, anh hãy ăn ở hiền lành và mọi người sẽ cung cấp đầy đủ cho anh". Chú sói ấy đã cùng với thánh nhân lên tỉnh và trở thành người bạn thân của các trẻ em ở Gubbio.
Một con người có tâm hồn như thế quả thực xứng đáng được chọn làm sứ giả Hòa Bình qua mọi thời đại.
Năm 1979, Ðức Gioan Phaolô II đã công bố Thánh Phanxico là quan thầy của những người khởi xướng phong trào của những người bảo vệ môi sinh. Ngài nói trong phần mở đầu sứ điệp Hòa Bình năm 1990 như sau: "Ngày nay, con người mỗi lúc một ý thức rằng Hòa Bình của thế giới không những chỉ bị đe dọa vì cuộc chạy đua võ trang, vì các xung đột giữa các vùng và những bất công liên tục giữa các dân tộc và quốc gia, nhưng còn bởi vì thiếu tôn trọng đối với thiên nhiên nữa".
Ðức Gioan Phaolô II đã nói đến việc bảo vệ và tôn trọng môi sinh như một nghĩa vụ luân lý.
Người Kitô nhận thức được nghĩa vụ ấy, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn vật tốt đẹp và để con người hưởng dụng một cách hợp lý. Trong phần kết thúc sứ điệp, Ðức Thánh Cha đã nhắc đến Thánh Phanxico Assisi như mẫu gương của sự tôn trọng đối với thiên nhiên vạn vật. Thánh nhân đã mời gọi vạn vật dâng lời chúc tụng và thờ lạy Thiên Chúa. Trong sự bình an của Thiên Chúa, Thánh nhân kiến tạo ngay cả sự hòa hợp với thiên nhiên và sự hòa hợp ấy cũng là điều kiện tiên quyết để được hòa bình với tha nhân.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 12:52 PM
9 Tháng Giêng
Cánh Cửa Sổ

Trong nhiều năm qua, cứ mỗi lần mùa Giáng Sinh đến, một đài truyền hình bên Phi Luật Tân đều cho trình chiếu một phim ca vũ nhạc kịch mang tựa đề: "Tiếng âm nhạc".
Trong cuốn phim, một nữ tập sinh thủ vai chính mang tên là Maria phải trạm trán với một quyết định quan trọng có thể thay đổi cả hướng đi của cuộc đời cô: Một là tiếp tục đường tu, hai là chấp nhận đóng vai trò làm mẹ của 7 đứa bé mồ côi. Cô đã thốt lên một câu mang đầy ý nghĩa: "Khi Thiên Chúa đóng cửa chính, thì ở đâu đó trong gian nhà, Ngài luôn mở một cánh cửa sổ".
Trong cuộc sống, hàng triệu nguời mang niềm tin Kitô hình như cũng phải đương đầu với những cửa chính bị đóng kín mang nhiều hình thức của: những thử thách, đàn áp, nghi kỵ, thất bại, bệnh tật v.v… Nhưng họ luôn luôn ngẩng cao đầu lên để thưa: "Amen", một lời thưa, một câu nói biểu lộ niềm tin không bao giờ xao xuyến, lung lay bất chấp mọi nghịch cảnh.
Họ có thể so sánh với những vĩ nhân trên thế giới đã từng thực hiện được những kỳ công bất chấp những khó khăn có thể so sánh với những then cài: - Họ giống như văn sĩ John Milton hoàn thành hai tuyệt tác văn chương mang tựa đề là: "Thiên Ðàng đã mất" và "Thiên Ðàng được tìm lại", trong lúc đã sống hoàn toàn trong đêm tối dày đặc, không thấy được một tia sáng mặt trời, không ngắm được các màu sắc sặc sỡ của một cánh hoa cũng như không thể thả hồn theo mộng trước những vẻ đẹp của thiên nhiên, - Họ giống như nhạc sĩ Beethoven sáng tác những khúc đại hòa tấu xuất sắc nhất, kể cả đại khúc giao hưởng thứ 9, trong lúc ông đã không nghe được một tiếng chim hót, một tiếng suối chảy róc rách hay một tiếng khóc của trẻ thơ vì đôi tai ông bị điếc hoàn toàn.
"Khi Thiên Chúa đóng cửa chính, thì ở đâu đó trong gian nhà, Ngài luôn mở một cánh cửa sổ".
Bước vào cuộc sống hằng ngày của năm mới, chúng ta, những người mang niềm tin Kitô, phải khám phá ra những cửa sổ bé nhỏ Thiên Chúa luôn hé mở để cho chúng ta thấy:
Một tia sáng trong những vấn đề chúng ta tưởng là hoàn toàn đen tối. - Một luồng gió mát trong những hoàn cảnh chúng ta tưởng là hoàn toàn ngột ngạt khó thở. - Một tia hy vọng trong những trường hợp chúng ta tưởng là hoàn toàn tuyệt vọng.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 12:56 PM
10 Tháng Giêng
Hạt Giống Của Hy Vọng

Văn hào Shakespeare của nước Anh đã nói rằng: liều thuốc duy nhất còn lại cho những người khốn khổ chính là niềm Hy Vọng. Bao lâu còn hy vọng, bấy lâu con người muốn tiếp tục sống.
Những người Mỹ tại một thành phố nọ thường truyền tụng cho nhau nghe câu chuyện nuôi niềm hy vọng của một gia đình nọ như sau: Có một đôi vợ chồng nọ vừa yêu người cũng lại vừa yêu thiên nhiên. Ngoài năm đứa con ruột thịt ra, họ còn nhận thêm năm đứa con nuôi. Niềm vui chung của mọi người trong nhà là được săn sóc vườn hoa và những thứ cây cảnh trong nhà. Người vợ tưởng chừng như không biết thế nào là đau khổ. Nhưng cả bầu trời như sụp xuống, vườn hoa trở thành hoang tàn, khi người chồng ngộ nạn, qua đời. Kể từ đó, người đàn bà không còn muốn ra khỏi nhà nữa. Thiếu bàn tay săn sóc của bà, ngôi vườn cũng mỗi lúc một tàn lụi.
Mùa đông đến càng làm cho ngày tháng thêm ảm đạm hơn. Thế nhưng, một bữa sáng nọ, người đàn bà bỗng nghe tiếng cười nói và cào xới trong ngôi vườn. Kéo tấm màn cửa sổ phòng ngủ lên, bà thấy các con của bà đang hì hục xới đất. Trước sự ngạc nhiên của bà, người con cả trong gia đình chỉ mỉm cười đáp: "Má sẽ biết khi mùa xuân đến". Và nguyên một mùa đông, ngày nào các con của bà cũng ra vườn để xới đất.
Thế rồi khi mùa xuân đến, bao nhiêu hoa đẹp đều nở rộ trong vườn. Những hạt giống mà những người con đã âm thầm gieo vãi trong mùa đông nay thức giấc bừng dậy làm cho ngôi vườn trở thành tươi mát, sặc sỡ.
Cùng với hạt giống của các thứ hoa, những người con đã gieo vào lòng người mẹ một thứ hạt giống khác: đó là hạt giống của Hy Vọng. Chính niềm hy vọng đó đã đem người đàn bà trở lại cuộc sống và đánh tan mọi buồn phiền trong tâm hồn bà.
Câu chuyện trên đây có lẽ cũng chính là bức tranh của không biết bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống hiện tại của chúng ta. Có những ngày tháng, mọi sự xem chừng như vô vọng. Có những lúc mây mù của khổ đau bao phủ kín khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát. Chính trong những lúc đó, chúng ta hãy nhớ đến hạt giống của niềm Hy Vọng. Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi cho các tín hữu Rôma như sau: "Chính trong niềm Hy Vọng mà chúng ta được cứu thoát. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng hãy nhìn thấy Sức Sống đang chờ đợi chúng ta. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng ta hãy nhìn thấy những hoa trái của những hạt giống mà chúng ta đã vất vả gieo vãi.
Một người Hòa Lan và một người Mỹ bàn về ý nghĩa của hai lá cờ quốc gia. Người hòa Lan phát biểu một cách mỉa mai như sau: lá cờ của chúng tôi có ba màu: đỏ, trắng, xanh. Chúng tôi tức giận đỏ cả người lên, mỗi khi chúng tôi bàn đến thuế má. Chúng tôi run sợ đến trắng bệch cả người mỗi khi chúng tôi nhận được giấy thuế má. Và chúng tôi xanh như tàu lá sau khi đã trả hết các thứ thuế. Người Mỹ cũng nói lên một cảm tưởng tương tự mỗi khi nhận được các thứ giấy đòi nợ, nhưng lại bảo rằng: bù lại, chúng tôi chỉ thấy toàn các thứ sao.
Sao trên bầu trời là biểu hiện của chính niềm Hy Vọng. Bên kia những vất vả thử thách, bên kia những mất mát, bên kia những thất bại khổ đau, phải chăng người Kitô chúng ta không được mời gọi để thấy được các ngôi sao của niềm Hy Vọng.

Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 12:59 PM
11 Tháng Giêng
Kho Tàng Ẩn Dấu

Chúng ta có biết rằng trong cơ thể của con người chúng ta, những yếu tố nhỏ nhất lại đóng vai trò quan trọng nhất không?
Lá lách của chúng ta chỉ tiết ra một lượng men rất nhỏ, nhưng rất cần thiết để giúp tiêu hóa chất Protin, chất béo trong thức ăn của chúng ta. Lượng dưỡng khí kết hợp với hồng huyết cầu để làm cho máu thành đỏ chỉ là một số lượng nhỏ. Tuyến não thùy nằm ở trong bộ não của chúng ta chỉ là một tuyến nhỏ nhưng vô cùng cần thiết bởi vì nó tiết ra một kích thích tố cần thiết cho sự tăng trưởng của con người. Những âm ba được truyền đến màn nhĩ trong lỗ tai là nhờ ở ba đốt xương nhỏ li ti nằm giữa lỗ tai của chúng ta. Những tế bào hình nón nằm trong võng mô của đôi mắt là những trạm tiếp nhận ánh sáng nhờ đó chúng ta mới thấy được. Mỗi một tế bào trong cơ thể chúng ta chứa đựng những nhiễm thể mà chức năng chính là quyết định về sự di truyền hay phái tính của mỗi bào thai. Tất cả những cơ cấu nhỏ bé và ẩn tàng ấy đóng vai trò xem ra quan trọng nhất trong sự sống và hoạt động của cơ thể con người.
Lại nữa, những tác nhân gây ra không biết bao nhiêu bệnh tật giết người cũng là những sinh vật nhỏ li ti mà mắt thường không thể nào trông thấy được. Phải chăng những cái nhỏ li ti nhất lại không là những cái chứa đựng nhiều sức mạnh nhất? Và phải chăng những công việc tầm thường vô danh nhất lại không là những công việc có giá trị nhất trong cuộc sống con người?
Có lẽ không phải do ngẫu nhiên hoặc vì chờ thời mà Con Thiên Chúa làm người, đã sống âm thầm ẩn dật trong 30 năm trước khi công khai đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. 30 năm âm thầm ấy cũng có giá trị cứu rỗi như chính cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Với 30 năm âm thầm ấy, Chúa Giêsu muốn nói với con người rằng tất cả mọi sinh hoạt trong cuộc sống con người, từ cái ăn, cái uống, cái ngủ nghỉ, tất cả đều được mặc cho một giá trị cao cả và trường cửu.
Sống một cách trọn vẹn, sống với tất cả niềm tin - tất cả những sinh hoạt tầm thường và nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống âm thầm, có khi độc điệu, buồn chán: đó chính là bí quyết để được hạnh phúc và bình an. Tất cả các vị thánh đều đi qua con đường nên thánh ấy.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 01:03 PM
12 Tháng Giêng
Tiên Vàn, Hãy Tìm Kiếm Nước Chúa

Năm 1923, tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ đã gặp gỡ nhau trong một khách sạn tại miền Viễn Tây. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh và hình như muốn khẳng định câu châm ngôn thường tình của con người ở khắp mọi nơi là: "Có tiền mua tiên cũng được". Thế nhưng 25 năm sau, những gì đã xảy đến cho tám nhà kinh doanh giàu có này?
Charles Schwab, giám đốc của một trong những công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong năm cuối cùng, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay mượn của người khác. Samuel Insull, giám đốc của một công ty chuyên sản xuất các vật dụng cần thiết trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương không một đồng xu dính túi. Hơưard Hopson, giám đốc của một hãng gas lớn trở thành điên loạn. Arthur Cutten, chuyên xuất nhập cảng lúa mì, cũng chết ở nước ngoài không một đồng xu dính túi. Richard Whitney, giám đốc một phòng hối đoái lớn tại New York, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên. Albert Pall, một nhân vật cấp cao trong Chính Phủ, vừa ra tù vì dính líu vào một vụ tham nhũng. Người cuối cùng trong danh sách tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ khoảng thập niên 20 cũng tự kết liễu cuộc sống của mình.
Bức tranh trên đây không hẳn đã là số phận tất yếu của những người giàu có. Có biết bao nhiêu người giàu có đã có một cuộc sống an lành hạnh phúc? Tiền bạc của cải tự nó không phải là một điều xấu. Ai trong chúng ta cũng cần có tiền bạc của cải để sống xứng đáng với nhân phẩm. Sự túng thiếu bần cùng là một sự dữ mà Thiên Chúa không bao giờ muốn cho con cái Ngài phải lâm vào.
Tuy nhiên, tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng như một phương tiện, tiền bạc sẽ giúp cho con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình hơn. Nếu trái lại, con người chạy theo tiền của như một cứu cánh trong đời người, nghĩa là con người có thể tôn thờ nó như thần tượng để quên đi tất cả những giá trị khác trong cuộc sống, thì lúc đó, sự phá sản về vật chất cũng như tinh thần là điều tất yếu với con người.

Khi kể lại dụ ngôn của người quản lý biết dùng tiền của để mua chuộc bạn bè, Chúa Giêsu muốn kéo chúng ta trở lại với chân lý nền tảng trong cuộc sống: hãy chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu, hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống vĩnh cửu. Hãy hướng tất cả mọi sự vào cùng đích của cuộc sống. Hãy dùng tiền bạc, hãy cư xử thế nào để luôn có những người bạn luôn chờ đón ta trước cổng Thiên Ðàng



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 01:07 PM
13 Tháng Giêng
Tiếng Chó Sủa

Những người có chức vụ và quyền hành trong bất cứ xã hội nào cũng thường bị chỉ trích và chống đối.
Có một nhà lãnh đạo quốc gia kia thường bị những người đối lập tấn công và thóa mạ một cách bất công, nhưng lúc nào ông ta cũng tỏ ra bình thản như không có gì xảy ra. Một hôm, có người bạn hỏi lý do tại sao ông có thể tỏ ra bình tĩnh được trước không biết bao nhiêu khiêu khích của người khác, ông đã giải thích như sau:
"Tôi đã học được bí quyết giữ bình tĩnh ngay từ lúc nhỏ. Chúng tôi sống bên cạnh một nhà láng giềng có nuôi một con chó khó tính. Cứ mỗi lần trăng tròn, con chó lại sủa một cách giận dữ vô căn cứ, có khi cơn sủa của nó kéo dài đến cả tiếng đồng hồ. Tất cả những người xung quanh đều tỏ ra bực bội đối với con vật khó tính ấy, chỉ trừ có người chủ của nó. Ông không bao giờ tỏ ra bực bội, bởi vì ông ta là một người điếc.
Tất cả bí quyết của tôi nằm ở đó. Trăng sáng, con chó sủa. Một lúc sau, nó lại mỏi mệt và thôi sủa mặc dù trăng vẫn cứ sáng".
Kiên nhẫn chịu đựng thường bị xem như một thể hiện của tính thụ động, tiêu cực. Có người còn gọi đó là nhân đức của người nghèo. Thế nhưng, trong cuộc sống, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, có lẽ chúng ta cần đến nhân đức này hơn bao giờ hết.
Thiên Chúa là đấng kiên nhẫn. Kiên nhẫn vẫn là nét đặc thù trong công trình sáng tạo của Ngài. Chúng ta có biết rằng trái đất của chúng ta có bao nhiêu tuổi chưa? Các nhà địa chất nói với chúng ta rằng trái đất đã được cấu tạo qua từng thời kỳ kéo dài đến cả triệu triệu năm. Ðịa chất học quả thực là môn học của sự kiên nhẫn của Thượng Ðế. Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn đối với con người. Toàn bộ Cựu Ước là một quyển ký lục về những nhẫn nhục chịu đựng của Thiên Chúa đối với sự yếu đuối, khờ dại cũng như hung bạo của con người. Ngài phải chờ đợi đến cả trăm năm để cho lụt Hồng Thủy trút xuống trên con người. Ngài chờ đợi đến cả mười năm mới trừng phạt vua Saolô.

Tân Ước lại càng cho chúng ta cảm nhận được bằng xương thịt. Tình yêu thương nhẫn nhục, chịu đựng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy chiêm ngắm sự nhẫn nhục của Chúa Giêsu đối với các môn đệ, đối với kẻ thù của Ngài và nhất là đối với đám đông nghèo khổ, lạc lõng. Nhưng nhất là những đau khổ, bách hại mà chính bản thân mình gánh chịu, Chúa Giêsu chỉ biết giữ thinh lặng, thinh lặng không phải của căm hờn, oán trách mà là của yêu mến, tha thứ cho đến cùng.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 01:10 PM
14 Tháng Giêng
Xuống Ðường

Thông thường, hai chữ "Xuống Ðường" gợi lên cho chúng ta hình ảnh của những chống đối, biểu tình, đôi khi mang tính cách bạo động trong đường phố. Nhưng cũng có những trường hợp người ta "xuống đường" là để gặp gỡ, cảm thông với người khác, nhất là những người không nhà không cửa, những người sống bên lề đường, những người bị đẩy ra bên lề xã hội cách này hay cách khác: Ðó là trường hợp "xuống đường" của một số giáo dân thuộc xứ Saint Leu Gilles thuộc phận 16 của thủ đô Paris Pháp quốc.
Từ 8 năm qua, một số giáo dân thuộc xứ trên đây đã tụ họp lại để thành lập một hiệp hội có tên là "Giải phóng kẻ bị giam cầm". Thật ra đây không phải là một chương trình xã hội quy tụ các nhà giáo, các cán sự xã hội để săn sóc cho những người đầu đường xó chợ, mà chỉ là một nhóm nhỏ gồm những tín hữu chỉ muốn xuống đường, ra khỏi bốn bức tường nhà thờ, hoặc mái ấm gia đình để đến gặp gỡ, trò chuyện với những người đứng đường như các cô gái điếm, những người nghiện ngập. Mục đích duy nhất của những gặp gỡ này chính là thiết lập tình thân hữu với những người mà ai cũng ghét bỏ.
Một thanh niên thường xuyên đến gặp gỡ với những cô gái điếm ở đường Saint Denis đã giải thích như sau: "Trước mặt Chúa, chúng ta cũng như những cô gái điếm đứng đường, nhưng chúng ta biết rằng Chúa yêu thương chúng ta bên kia tất cả những hành động đĩ diếm của chúng ta. Các cô gái điếm đánh động lương tâm đang ngủ yên của chúng ta. Họ mời gọi chúng ta hãy tự đặt vào trong cái nhìn của Chúa và đừng bao giờ kết án ai."
Mục đích của những người xuống đường trên đây không hẳn là thuyết phục những người lầm đường lạc lối, ăn năn hối cải và quay về với chính lộ. Tất cả cố gắng của họ chỉ là nói với các cô gái điếm, những người nghiện ngập, những kẻ lang thang đầu đường xó chợ rằng: Thiên Chúa là Tình Yêu, Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ðể bày tỏ sứ điệp ấy, những người làm công tác tông đồ này chỉ có mỗi một động tác là lắng nghe, hỏi han với tất cả yêu thương và cảm thông.

Nếu có một thứ hoán cải, thì chính những người trong xã hội phải là những người đầu tiên hoán cải: hoán cải trong thái độ sống đối với người khác, hoán cải trong cái nhìn đối với người khác. Chúa Giêsu đã từng nói: Các cô gái điếm sẽ vào Nước Chúa trước các ngươi. Phải chăng, khi xuống đường đến với người khác, những người bị bỏ rơi trong xã hội, chính chúng ta không là những người cải hóa cho Tin Mừng?


Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 01:13 PM
15 Tháng Giêng
Bình An Cho Các Con


Có lần người ta hỏi đại thi hào Dante của nước Italia rằng: đâu là điều mà ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc sống. Bậc vĩ nhân đã trả lời như sau: "Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: đó là sự bình an".
Ðó là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố: trên bia mộ nào, chúng ta cũng luôn ghi lời cầu xin: xin cho họ được an nghỉ nghìn thu. Phải chăng trong cuộc sống hiện tại thế này, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được hòa bình và an nghỉ? Trong những phút giây cuối đời, Chúa Giêsu đã hứa hẹn với chúng ta: "Ta ban bình an cho các con. Ta ban thứ bình an mà thế giới không thể ban tặng cho các con".
Thế giới của chúng ta dường như chưa bao giờ được hưởng những giây phút thái bình thực sự. Hòa bình chỉ là những khoảnh khắc tạm bợ đầy những rình rập của chiến tranh và lo sợ.
Trước Chúa Kitô 600 năm tai Roma, một đền thờ đã được xây lên để kính nhớ thần Janus, vị thần mà người ta đã lấy tên để đặt cho tháng đầu tiên trong năm. Theo ước mong của toàn dân trong đế quốc La Mã, đền thờ này chỉ được mở cửa trong thời bình. Trong vòng 600 năm ấy, dường như các cửa của đền thờ này chỉ được mở trong ba giai đoạn ngắn ngủi. Cánh cửa Hòa Bình đóng mãi đối với con người ở mọi thời đại. Thời đại nào thế giới cũng mong đợi hòa bình, thời đại nào con người cũng mong đợi hòa bình. Khát vọng của Hòa Bình ăn rễ sâu trong lòng người, ngay cả những người suốt đời chỉ gieo rắc chiến tranh và đau thương cho người khác. Chúng ta thích khung cảnh tịch mịch thư thái, chúng ta ngây ngất trước ánh bình minh tươi sáng, chúng ta vui thỏa trước buổi chiều tà êm ả, chúng ta yêu thích những cánh hoa tươi mát v.v… Chúng ta thán phục những con người luôn tỏ ra bình thản trước những hoàn cảnh xáo trộn. Chúng ta đi tìm những tư tưởng bình an, những dòng nhạc êm dịu, những con người hiền lành.
Chúa Giêsu đã nói đến hai chữ bình an không biết bao nhiêu lần. Ngày Ngài sinh hạ, các Thiên Thần loan báo sứ điệp của bình an. Ngài là Vua của những người xây dựng Hòa Bình.

Thánh Phaolô luôn mở đầu và chấm dứt các lá thư của Ngài bằng những lời cầu chúc bình an nồng nhiệt nhất


Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 01:16 PM
16 Tháng Giêng
Giấc Mơ Của Mẹ Têrêxa Calcutta


Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 và là người sáng lập viện của dòng Nữ Tử thừa sai Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo và hấp hối, đã kể lại ơn gọi phục vụ của Mẹ trong một lá thư viết từ Calcutta như sau:
"Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng. Ngài nói như sau: "Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng. Thiên Ðàng không có nơi cùng khổ".
Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: "Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng".
Tội nghiệp thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ ấy, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho Ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên Ðàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.
Giai thoại trên đây của Mẹ Têrêxa Calcutta như muốn nói lên một chân lý: không ai nên Thánh một mình, không ai lên Thiên Ðàng một mình.
Ðức Cha Fulton Sheen, vị diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình tại Hoa Kỳ, đã có lần phát biểu như sau: "Không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Ðàng, nếu ở đó không có ai nói với chúng ta: chính tôi đã giúp đỡ để bạn được vào Thiên Ðàng".

Ai cũng có thể là một trợ giúp để đưa chúng ta vào cửa Thiên Ðàng. Họ có thể là những người cùng khổ mà chúng ta chìa tay để san sẻ, để giúp đỡ. Họ cũng có thể là những người cách này hay cách khác làm cho chúng ta đau khổ. Nhưng ưu tiên hơn cả vẫn là những người mà chúng ta cố gắng làm cho họ hạnh phúc. Chính những người đó là kẻ giúp đỡ chúng ta được vào Thiên Ðàng. Nhưng Thiên Ðàng không đợi chờ ở đời sau. Hạnh phúc cũng không chỉ dành lại cho đời sau: Thiên Ðàng và Hạnh Phúc có thể đến với chúng ta ngay từ cõi đời này. Và Thiên Ðàng và Hạnh Phúc ấy là gì nếu không phải là mỗi lần chúng ta cố gắng làm cho người khác được hạnh phúc.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 01:21 PM
17 Tháng Giêng
Cứ Ðể Yên Như Thế


Trong một tác phẩm có tựa đề "Quyển Phúc Âm thứ 5", một tác giả người Italia là ông Mario Pomilio có tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Sau thời kỳ bách hại tại Roma, các tín hữu bắt đầu xây cất nhà thờ. Ðâu đâu người ta cũng thấy mọc lên nhà thờ. Tên của Ðức Mẹ và các Thánh được đặt cho các nhà thờ. Nhưng người ta vẫn chưa thấy có nhà thờ nào mang tên của Ngôi Lời. Thấy thế thánh Gioan mới đến báo cáo với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bèn ra lệnh cho thánh Phêrô khởi công xây cất một nhà thờ dâng kính cho Ngôi Lời.
Con người đã có một thời được mệnh danh là người xây dựng vĩ đại của Giáo Hội mới đi rảo khắp nơi để thu tập vật tư. Thánh Mathêô đã cung cấp đá. Thánh Marcô mang vôi đến. Thánh Luca tặng những cây trụ lớn. Còn Thánh Gioan thì cúng đá cẩm thạch để làm bàn thờ và vàng để làm nhà tạm..
Với tất cả những vật liệu cần thiết, Thánh Phêrô hớn hở bắt tay vào việc xây cất. Nhưng thời gian trôi qua, công sức đã tiêu hao quá nhiều mà người thợ xây Phêrô mới chỉ hoàn tất được việc đặt nền móng cho ngôi nhà thờ. Thấm mệt, vị thủ lãnh các tông đồ mới cầu xin Chúa: "Lạy Chúa, xin ban thêm cho con đủ sức để hoàn thành ngôi Nhà Thờ".
Chúa Giêsu mới trả lời: "Cứ để yên như thế. Ngươi hãy nhớ rằng cứ mỗi người đi ngang qua công trình này đều có thể mang đến một viên gạch, một ít vôi để xây tường và thế hệ này qua thế hệ khác, những cột trụ Ðền Thờ sẽ được dựng lên".
Có hai sự kiện xem ra tương phản nhau: tại Tây Phương, nhiều nhà thờ bị đóng cửa hoặc đem ra bán đấu giá, vì giáo dân không đủ cấp số hoặc không còn người lui tới nhà thờ. Trong khi đó thì tại Việt Nam, nhu cầu sửa chữa hoặc xây nhà thờ mới mỗi ngày một gia tăng.
Có thể có hai quan niệm sống đạo đằng sau hai sự kiện ấy. Nhiều người Tây Phương cho rằng sống đạo là sống Công Bình và Bác Ái, chứ không nhất thiết phải đến nhà thờ. Trong khi đó thì có người lại trách cứ rằng nhiều người Việt Nam chỉ giữ đạo hình thức, họ thích biểu dương tôn giáo, họ thích rước sách, họ đọc kinh làu làu, họ siêng năng đến nhà thờ, nhưng họ xem thường những đòi hỏi của Công Bình và Bác Ái.
Kỳ thực, giữ đạo trong nhà thờ mà không sống đạo bên ngoài nhà thờ là một thiếu sót, nếu không muốn nói là một thái độ giả hình mà Chúa Giêsu đã lên án gắt gao. Nhưng sống Công Bình và Bác ái mà không múc lấy sức sống từ việc gặp gỡ Chúa nơi nhà thờ cũng là một thiếu sót. Người Kitô đích thực múc lấy sức sống từ Ðức Kitô và diễn đạt sức sống ấy qua cuộc sống thường ngày. Có nhà thờ để cầu nguyện nhưng cũng có chợ đời để gặp gỡ Chúa. Người Kitô hướng về Trời cao, nhưng vẫn còn bám lấy cõi Ðất. Người Kitô đến nhà thờ, mà để quay trở lại cuộc sống. Và cuộc sống cũng sẽ trở nên cằn cỗi, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng lương thực Thần Linh.

"Hãy trở nên những viên đá sống động". Ðó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Hãy trở thành những viên đá sống động không chỉ để xây dựng ngôi nhà thờ bằng gỗ đá, nhưng là để xây ngôi Ðền Thờ của cuộc sống. Cuộc sống có trở thành Ðền Thờ để gặp gỡ Chúa qua những gặp gỡ với tha nhân, qua những xây dựng Hòa Bình và yêu Thương, thì Ðền Thờ gỗ đá mới sống động.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 01:27 PM
18 Tháng Giêng
Tấm Gương Sự Thật


Theo câu chuyện cổ tích của người Tây Phương về Cô Bạch Tuyết và bảy chú lùn thì Sự Thật chiếu sáng và nói qua một tấm gương. Khi hoàng hậu, người kế mẫu của Bạch Tuyết nhìn vào tấm gương sự thật ấy để hỏi về mình, bà được trả lời như sau: "Thưa hoàng hậu, hoàng hậu là người đẹp nhất hiện nay". Mà quả thật, so sánh với những người đàn bà đương thời, bà ta là người đẹp nhất.
Nhưng công chúa Bạch Tuyết mỗi ngày một lớn và trở nên xinh đẹp. Trắng như tuyết, đỏ như máu, đen như mun: ba màu sắc ấy kết hợp một cách hài hòa để mỗi ngày một gia tăng vẻ đẹp cho cô bé, dù chỉ mới lên 7 tuổi. Ai cũng nhận thấy rằng cô đã vượt xa người kế mẫu về sắc đẹp.
Một hôm, hoàng hậu kế mẫu hỏi ý kiến của chiếc gương Sự Thật một lần nữa. Lần này, tấm gương đã trả lời: "Thưa hoàng hậu, quả thực hoàng hậu là người xinh đẹp ít ai sánh bằng. Nhưng hiện nay, công chúa Bạch Tuyết đã đẹp hơn hoàng hậu bội phần. Ðây là điều mà không ai chối cãi được, 7 chú lùn đã xác định điều đó".
Người kế mẫu không muốn chấp nhận Sự Thật ấy. Bà không thể nào chấp nhận một đứa con riêng của chồng được quyền đẹp hơn Bà. Sự ganh ghét đã bắt đầu gặm nhấm tâm hồn bà để rồi bà chỉ còn có mỗi một ý nghĩ trong đầu: đó là loại bỏ người đối thủ tí hon của bà. Bà sai người cho thuốc độc vào một trái táo rồi mang đến cho Bạch Tuyết. Cô bé bị ngộ độc và đã đi vào cõi chết, nhưng vẫn giữ nguyên nét đẹp trên gương mặt. Một hoàng tử đã say mê nhìn khuôn mặt bất động ấy. Chàng đã đặt trên môi Bạch Tuyết một chiếc hôn. Trái táo độc rớt khỏi môi và Bạch Tuyết đã được hồi sinh. Người hoàng hậu kế mẫu nghe điều đó. Sự oán hận và ganh tức đã dồn lên khiến cho người đàn bà chết tốt.
Tấm gương Sự Thật của chúng ta chính là Ðức Kitô.
Philatô đã có lần hỏi Chúa Giêsu: Sự Thật là gì? Chúa Giêsu đã không trả lời cho câu hỏi ấy. Nhưng hẳn những người môn đệ đã có lần nghe Chúa Giêsu tuyên bố: "Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống" đều có thể trả lời cho câu hỏi ấy.
Chúa Giêsu không chỉ là Sự Thật một cách trừu tượng, một cách trống rỗng, mà là Sự Thật của con người, đối với con người. Cũng chính Philatô, sau khi đã ra lệnh đánh đòn Chúa Giêsu, đã đưa Người ra trước dân chúng và tuyên bố: "Này là Người". Này là người, này là con người, hay đúng hơn là sự thật về con người. Chúa Giêsu đã để lộ tất cả con người của ngài qua những vết thương trên người. Phải chăng con người chỉ để lộ nhân tính và tất cả những nét cao quý nhất của mình qua những lằn roi, qua những vết thương đau vì yêu thương, vì phục vụ?

Chúa Giêsu là tấm gương Sự Thật của con người. Chỉ qua Ðức Kitô, chúng ta mới có thể nhận diện được con người đích thực của chúng ta. Nhìn vào Ðức Kitô, tội lỗi và những bất toàn của chúng ta sẽ hiện ra, nhưng hình ảnh cao quý được Thiên Chúa in trên mỗi người chúng ta cũng tỏ lộ.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
12-01-2010, 01:31 PM
19 Tháng Giêng
Bàn Chân Năm Ngón


Một người thanh niên tên là Tony Melendez bỗng trở nên quen thuộc với nhiều người kể từ khi Ðức Gioan Phaolô II đến viếng thăm tiểu bang California, Hoa Kỳ dạo mùa hè năm 1987. Nhiều người đã chứng kiến buổi lễ tiếp đón Ðức Thánh Cha hôm đó và khó quên hình ảnh vô cùng cảm động khi vị Giáo Hoàng bước xuống từ một lễ đài cao để ôm hôn một người thanh niên đang hát với tiếng đàn Guitar của mình. Ðiều gì đã làm cho khung cảnh ấy trở nên khác lạ và giây phút ấy đã trở nên luyến nhớ cho nhiều người?
Tony là hiện thân của niềm Hy Vọng. Tony đã chào đời không có hai cánh tay. Nhưng Tony đã vận dụng những ngón chân của mình để học đàn guitar. Không những thế, anh còn dùng chân trong nhiều công việc khác như xếp quần áo, vắt một ly nước chanh.
Anh đã biết biến sự tàn tật kém may mắn của mình thành một khả năng thuần thục. Ngạc nhiên trước khả năng lạ lùng ấy của anh, nhiều người đã hỏi anh: "Bí quyết nào đã giúp anh chẳng những chấp nhận chính mình để sống bình thường mà còn sử dụng guitar một cách tuyệt diệu như thế?". Anh đã trả lời như sau: "Tôi đã cầu nguyện: Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo thánh ý Chúa. Tôi đã tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Chúa đã nhậm lời tôi".
Không ai trong chúng ta chọn lựa được sinh ra hay không sinh ra. Không ai trong chúng ta chọn lựa làm đàn ông hay đàn bà. Không ai trong chúng ta chọn lựa được làm người xinh đẹp hay xấu xí, thông minh hay ngu đần, khỏe mạnh hay bệnh tật, giàu sang hay nghèo hèn. Dưới mắt người đời, mỗi người chúng ta đến trong trần gian này với cả một định mệnh. Người ta vẫn nói: có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt, có người kém may mắn.
Nhưng trong ánh mắt Tình Yêu của Thiên Chúa, thì số phận nào cũng là một hồng ân cao cả. Trong chương trình Quan Phòng của Ngài, mỗi người, dù nhỏ bé hèn mọn, dù tàn tật bất hạnh đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng. Do những bất trắc của thiên nhiên, hay do hậu quả của tội lỗi, nhiều người phải sinh ra với tất cả một gánh nặng của bất hạnh. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc vì những hư hỏng ấy, Ngài luôn có một chương trình cho mỗi người. Lắm khi chúng ta thấy được những kỳ diệu của Thiên Chúa được thể hiện qua những bất hạnh, mất mát của con người.



Trích sách Lẽ Sống

Rosa_Huong
18-01-2010, 03:04 PM
20 Tháng Giêng
Chuyện Một Khu Rừng


Một câu chuyện có thật đã được kể về nguồn gốc của một khu rừng như sau: Một ông lão người Pháp nọ, sau khi vợ qua đời, đã mang đứa con trai duy nhất của ông đến một vùng đất khô cằn nhất của Miền Trung nước Pháp để lập nghiệp. Thật ra, người đàn ông chỉ muốn quên đi cái quá khứ khó khăn vất vả.
Vùng đất khô cằn nơi ông đặt chân đến chỉ còn vỏn vẹn năm ngôi làng nhỏ với rất ít dân cư sống trong những căn nhà siêu vẹo đổ nát, đa số đã bỏ lên những thành phố lớn để tìm công ăn việc làm. Ông lão trên 60 tuổi đưa mắt nhìn khung cảnh xung quanh và đi đến kết luận: nếu không có cây cối, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, cả vùng này sẽ trở thành sa mạc hoang tàn. Sau khi đã dọn chỗ cho đàn cừu và một số gia súc khác, ông lão bắt đầu đi bộ dọc theo các lối đi và nhặt từng hạt dẻ. Ông chọn những hạt dẻ tốt để riêng và ngâm vào nước. Khi mặt trời vừa lên, ông dùng một thanh sắt nhọn moi những lỗ nhỏ và đặt cứ mỗi lỗ một hạt dẻ.
Ngày ngày như thế, trong liên tiếp 3 năm, ông lão đã trồng được 100 ngàn cây dẻ con. Ông hy vọng rằng ít nhất 10 ngàn cây còn sống sót. Ông cũng hy vọng rằng Chúa sẽ cho ông sống được thêm vài năm nữa để làm cho xong công tác trồng cây này.
Ông qua đời năm 1947, hưởng thọ 89 tuổi. Từ những hạt dẻ ông đã cặm cụi moi từng lỗ bỏ vào, nay nước Pháp đã có được một trong những khu rừng đẹp nhất thế giới. Trong ba khóm rừng mỗi khóm dài 11 cây số, những cây dẻ xanh tươi cao lớn đã có mặt để giữ nước mưa, làm cho cây cối xung quanh được xanh tươi và biến khu đồi khô cằn ngày xưa thành những dòng suối róc rách. Chim chóc đã trở lại. Sự sống cũng chớm nở. Dân chúng từ từ trở lại các ngôi làng cũ để xây nhà và làm lại cuộc đời.
Sự sống của thiên nhiên thường giúp con người bớt cô đơn. Ðồng ruộng, cây cỏ xanh tươi, tiếng chim ca hót thường khơi dậy niềm vui sướng trong lòng người. Ðó là lý do khiến cho những người sống ở thôn dã dễ có tâm hồn thanh thản và lạc quan vui sống hơn người thành thị.
Lớn lên ở thôn dã, chứng kiến cảnh gieo trồng của người nông dân, Chúa Giêsu đã mượn những hình ảnh của những sinh hoạt thôn dã ấy để nói về Nước Trời. Người gieo trồng nào cũng có niềm tin và sự lạc quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác của mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trong bụi gai. Nhưng kết quả cuối cùng vẫn là vụ mùa tươi tốt. Có những hạt rơi vào đất tốt, có những hạt rơi bên vệ đường, có những hạt rơi vào bụi gai. Có những kết quả trông thấy, có những âm thầm đau khổ, có những bách hại dữ dội, nhưng cuối cùng Giáo Hội của Ðức Kitô vẫn tồn tại và sinh ra được nhiều hoa trái của niềm Hy Vọng



Trích sách Lẽ Sống

teresaMK
05-02-2010, 09:01 PM
21 Tháng Giêng
Chiếc Khăn Tay Vấy Mực

Ruskin là một nghệ sĩ, phê bình nghệ thuật kiêm xã hội học người Anh sống vào cuối thế kỷ 19.
Một hôm, có một người đàn bà quý phái mang đến cho ông xem một chiếc khăn tay đắt tiền đã bị vấy mực. Bà ta xuýt xoa tiếc rẻ vì chiếc khăn tay đã hoàn toàn mất giá trị của nó.
Ruskin không nói gì, ông chỉ xin cho ông mượn chiếc khăn tay trong một ngày. Ngày hôm sau, ông trao lại chiếc khăn tay cho người đàn bà mà cũng không nói một lời nào. Nhưng khi trải chiếc khăn tay ra, người đàn bà hết sức ngạc nhiên, bởi vì từ một vết mực trong góc của chiếc khăn, nhà nghệ sĩ đã biến thành một bức tranh tuyệt mỹ.
Chiếc khăn tay có vấy mực tưởng đã bị vứt đi, nay đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật để đời.
Những người có niềm tin vào cuộc sống không bao giờ bỏ cuộc trước những thất bại. Họ luôn biết biến những thất bại ấy thành khởi đầu của một thành công vĩ đại hơn.
Người có niềm tin vào Thiên Chúa cũng luôn nhìn vào thất bại, rủi ro, đau khổ trong cuộc sống như cơ may của một ân phúc cao cả và dồi dào hơn.
Dạo tháng 6 năm 1990, mục sư Anh giáo Michael Lapsley, người Zimbabwe bên Phi Châu, vì là mục sư Tuyên úy của tổ chức Quốc đại Châu Phi bao gồm các lực lượng tranh đấu cho quyền lợi của người da đen Nam Phi, đã bị quân khủng bố đặt chất nổ khiến ông bị cụt hai tay, mù một mắt và hỏng lỗ tai. Trong một tuyên ngôn công bố sau đó, ông đã viết như sau: "Họ đã lấy mất đôi tay của tôi. Nhưng tôi không buồn, bởi vì tôi không dùng đến võ khí để cần phải có đôi tay. Họ đã lấy mất một phần đôi mắt của tôi và thính giác của tôi, nhưng tôi vẫn còn có thể dâng hiến lời nói để tiếp tục rao giảng một cách xác tín và mạnh mẽ hơn".
Người ta vẫn thường nói: Yêu là chết trong lòng một ít. Tình yêu đích thực luôn luôn đòi hỏi hy sinh, mất mát. Nhưng chỉ có đôi mắt tình yêu mới nhận ra giá trị của những mất mát ấy.

teresaMK
05-02-2010, 09:05 PM
22 Tháng Giêng



Người Hành Khất Quảng Ðại


Bangladesh là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, trong một nước nghèo, thì hành khất vẫn là nghề thịnh hành nhât. Một nhà truyền giáo đã thuật lại một trường hợp hành khất lạ lùng như sau:
Sau một ngày làm việc nặng nhọc, một người đàn ông nọ đi về nhà mình không ngoài một phương tiện nào khác hơn là đôi chân. Người đàn ông dừng lại dưới một bóng cây và thiếp ngủ. Dáng vẻ của ông tiều tụy đến độ người qua lại lầm ông với một người hành khất. Không ai bảo ai, kẻ qua người lại đều dừng lại và bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng xu nhỏ. Không mấy chốc, chiếc mũ cũ kỹ đầy tiền.
Vừa thức giấc, người đàn ông ngạc nhiên trước sự quảng đại của khách qua đường. Oâng đếm từng đồng xu nhỏ: số tiền còn lớn hơn cả một ngày công của ông. Người đàn ông mỉm cười về nghề hành khất bất đắc dĩ của mình. Chợt nhìn thấy xung quanh mình có nhiều người hành khất đui mù tàn tật, người đàn ông lặng lẽ đi đến từng người và chia đều cho họ số tiền ông đã thu được và tiếp tục đoạn đường còn lại.
Adam Smith, kinh tế gia nổi tiếng của Tô Cách Lan vào thế kỷ thứ 18 đã nói một câu mà K.Marx đã lập lại trong một tác phẩm của ông. Câu nói đó là: "Một nước giàu có là một nước trong đó có nhiều người nghèo". Câu định nghĩa về sự phồn thịnh ấy vừa nói lên sự nghèo đói về mặt tinh thần mà những người sống trong một nước giàu có thể cảm nghiệm được, nó cũng nói lên những bất công xã hội mà những người nghèo trong một nước giàu phải gánh chịu.
Bần cùng thường sinh ra đạo tặc. Những nước nghèo là những nước có nhiều tệ đoan xã hội. Tuy nhiên, cũng chính trong cảnh nghèo ấy, người ta thường gặp được nhiều tấm lòng vàng. Cảnh nghèo có thể đưa con người đến chỗ giành giật xâu xé, nhưng cũng có thể khiến cho con người dễ cảm thông với người khác và san sẻ quảng đại hơn. Nhưng dĩ nhiên, chỉ có ai có tinh thần khó nghèo đích thực mới hiểu được giá trị của cảnh nghèo và sự thôi thúc của lòng quảng đại. "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó". Chúa Giêsu để lại cho chúng ta điều khoản cơ bản ấy của Hiến Chương Nước Trời. Có khó nghèo thực sự, con người mới cân lường được sự chóng qua của tiền của vật chất. Có khó nghèo thực sự, con người mới có thể mở mắt để nhìn thấy cảnh nghèo xung quanh. Có khó nghèo thực sự, con người mới dễ cảm thông và mở rộng quả tim và lòng bàn tay để trao ban.

teresaMK
05-02-2010, 09:06 PM
23 Tháng Giêng


Chúa Giêsu Ði Xem Bóng Ðá

Một linh mục Aán Ðộ chuyên về huấn luyện tu đức là cha Anthony de Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa được một lần tham dự một trận túc cầu. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin Lành và một đội Công Giáo. Ðội Công Giáo làm bàn trước một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, đội Tin Lành lại làm bàn. Lần này Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung mũ lên trời.

Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Oâng ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi: "Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?". Xem chừng như vẫn còn bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời: "Tôi hả? Tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu thôi". Người khán giả khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, nay lại càng bực bội hơn. Oâng quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: "Hắn là một tên vô thần".

Trên đường trở về nhà, chúng tôi chất vấn Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài: "Thưa Chúa, những con người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng Chúa Giêsu chỉ đứng riêng về phía họ và nghịch lại với những người thuộc tôn giáo khác".

Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: "Ðó là lý do tại sao ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người trọng hơn ngày Sabbat. Chúng con nên biết là chính những người có tôn giáo đã treo Ta lên thập giá".

Câu chuyện tưởng tượng trên đây cho chúng ta thấy rằng một trong những vết thương lớn nhất của nhân loại trải qua mọi thời đại: đó là thái độ bất khoan dung đưa đến những cuộc chiến tranh tôn giáo. Con người ai cũng bị cám dỗ nhân danh Thượng Ðế, thần minh và hệ tư tưởng của mình để triệt hạ, để loại trừ, để bách hại người khác. Kỳ thực, có tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung, lòng nhân từ đối với mọi người?

Chúa Giêsu đến để mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Ngài là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên cho người lành cũng như kẻ dữ. Ngài yêu thương những kẻ nhận biết và yêu mến Ngài cũng như những kẻ chối bỏ và thù ghét Ngài. Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau như anh em cùng một gia đình. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta là Ðấng mà người ta cũng sẽ chối bỏ nếu người ta khước từ chính anh em đồng loại của mình. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải là Ðấng mà người ta cũng sẽ xúc phạm nếu xúc phạm đến con người.

teresaMK
05-02-2010, 09:11 PM
Vậy là trong một năm qua, các bài của lẽ sống gần như hoàn chỉnh, mọi người có thể mở lại xem theo ngày
Em xin cảm ơn chị gấu trúc, chị rosa_hương đã giúp em hoàn thành các bài lẽ sống này.
em xin cảm ơn rất nhiều

JosephMinhTri
19-02-2012, 11:04 AM
Hay quá chị ơi. Tiếp tục post nhe