PDA

View Full Version : Hội Đâm Trâu



Damsan
07-01-2009, 07:16 PM
HỘI ĐÂM TRÂU
Cũng như các dân tộc thiểu số khác ở Tây Nguyên, đồng bào dân tộc M’nông ở Đắk Nông, Đăklak đến nay vẫn duy trì được lễ đâm trâu ( hay còn gọi là lễ ăn trâu ), một lễ hội truyền thống của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên. Lễ hội thường diễn ra vào những ngày nông nhàn, mọi người được nghỉ ngơi, vui chơi để chuẩn bị cho mùa rẫy mới, thường rơi vào tháng 3 hoặc đầu tháng 4 âm lịch.

Theo các già làng người M’nông thì địa điểm tổ chức Lễ đâm trâu thường được tổ chức tại sân nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng của các bon làng. Theo truyền thuyết, thần thoại của một số dân tộc Tây Nguyên thì con trâu biểu hiện cho tín ngưỡng vật tổ (đây là hình thức tín ngưỡng sơ khai nhất của các bộ tộc cổ đại). Phần lớn các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer đều có tục đâm trâu hay còn gọi là “ăn trâu”, “chém trâu” để hiến tế thần linh trong các lễ hội lớn của gia đình hoặc cộng đồng. Đồng bào M’nông “ ăn trâu” để tạ ơn thần linh, để được tổ chức vui chơi, giải trí và cũng để khẳng định uy tín, danh vọng của gia đình chủ lễ và của bon làng. Những năm được mùa, lúa chất đầy kho, đồng bào tổ chức lễ đâm trâu để cúng mừng. Nếu không tổ chức lễ đâm trâu hàng năm để cúng thần Lúa thì ít nhất đủ ba năm phải tổ chức lễ đâm trâu một lần.

Lễ hội đâm trâu phải chuẩn bị ít nhất khoảng 5 đến 10 ngày. Đầu tiên phải mời các già làng đến để bàn bạc, nói lý do ăn trâu của gia đình mình. Sau đó phải mời nghệ nhân giỏi, biết chế tạo nhạc cụ dân tộc để làm ra chiếc kèn Rlet. Loại kèn này chỉ dành để thổi gọi thần linh trong lễ đâm trâu chứ không dùng trong các trường hợp khác, khi xong lễ hội thì kèn Rlet cũng bỏ luôn, cấm không ai được thổi nữa. Các già làng còn cử ra một số thanh niên đến giúp việc cho chủ lễ như: chặt cây, bửa củi, giã gạo, sửa soạn, dọn dẹp nhà cửa, kho lúa. Một tốp thanh niên khác vào rừng kiếm dây mây về để tết thừng buộc trâu, chặt ống nứa nấu thịt, đổ nước vào rượu. Trong suốt cuộc lễ, mọi vật dùng đều phải làm mới. Trong nhà nơi cửa ra vào và cửa kho lúa, nơi đặt ché rượu cúng cũng được bố trí những tấm gỗ nhỏ có chiều dài gần 1 mét có khắc hoa văn để trang trí cho đẹp. Lễ đâm trâu thường được đồng bào làm một cây nêu to đẹp, trên cành cây tre có kết hoa bằng lá non cây Sra và trên ngọn cây nêu cắm một con chim Phượng Hoàng làm bằng gỗ có tô nhiều màu. Cây nêu được xem là lễ đài của toàn bộ buổi lễ, do đó cây nêu chẳng những phải cao vút, bề thế mà còn phải có tính nghiêm trang, đầy chất huyền thoại. Trên cây nêu luôn có đủ các hình tượng và hoa văn. Đó là hình tổ ong, hình chim én, cánh chim cu, xâu lục lạc bằng nứa, tượng người…Các ché rượu cần phải được chuẩn bị đổ nước, nhét lá, cắm cần đầy đủ.

Cũng theo các già làng người M’nông thì nghi thức lễ đâm trâu thường diễn ra vào buổi chiều tà, gia đình chủ lễ cử một đoàn người đi đón khách về dự lễ đâm trâu. Khi dựng cây nêu nam, nữ phải ra đứng đánh cồng chiêng múa vui vòng quanh cây nêu. Tiếng chiêng càng vang hơn, mọi người càng hớn hở hơn, nhất là lúc con trâu được buộc vào cọc nêu. Suốt đêm đó, dân làng vui chơi, uống rượu, đánh chiêng, chờ đợi ngày mai bắt đầu lễ chính. Đến gà gáy ( khoảng 4 giờ sáng) người đàn bà chủ trâu hoặc người đàn bà hàng xóm ra đứng gần cây nêu hát bài gọi thần Lúa và hát “khóc trâu” để vỗ về, an ủi, tiễn biệt con vật yêu quý này trước khi nó bị giết để làm lễ hiến sinh. Vừa hát họ vừa lấy nước tưới vào đầu con trâu. Trời vừa tảng sáng, họ mang một ché rượu nhỏ giết một con gà để cúng hồn con trâu. Bên đoàn khách được mời đến dự lễ cử ra một người đâm trâu. Trong khi đâm trâu, hai dàn nhạc cồng chiêng của hai bên chủ, khách nổi lên để làm cho người chém trâu, đâm trâu thêm phấn chấn, can đảm.

Khi con trâu chết người ta lấy chiếc chiêng mẹ đặt lên mình trâu, có khi dùng chăn mới dệt chất lên mình trâu. Xong, người ta lấy máu trâu phết vào cây nêu cúng vái, đọc lời khấn thần, cúng xong, xẻ thịt trâu. Chiếc đầu trâu dùng để dành cúng lúa, hàm trâu là phần của chủ nhà. Các món khác như xương, thịt và lòng đều chia đôi, đoàn bên chủ do chủ chia, đoàn bên khách do khách chia. Người ta chia đều phần thịt trâu cho mỗi bên chủ và khách, chỉ để lại một số thịt trâu nhất định để cùng ăn chung trong lễ hội. Ngoài thịt trâu, đồng bào còn giết thêm một số heo lớn để lấy bộ lòng làm dồi cúng, thần giữ kho lúa. Nghi thức cúng thần giữ kho là nghi thức bắt buộc trong các lễ hội cúng có đâm trâu. Chia thịt xong, chủ nhà dọn cơm mời khách. Ăn xong cơm, cúng ché rượu rlung với huyết trâu, cúng ché rượu xong, chủ nhà cùng khách cùng nhau uống rượu đến sáng hôm sau.

Lễ đâm trâu của đồng bào M’nông nói riêng, của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung là một lễ hội truyền thống được lưu truyền từ muôn đời nay. Việc tổ chức lễ đâm trâu hiện nay không chỉ mang ý nghĩa tâm linh là cúng thần Lúa, mà còn là dịp để bà con trong bon làng quây quần bên nhau vui chơi, ca hát sau một năm lao động vất vả và chuẩn bị bước vào một vụ mùa mới. Đồng thời qua đó còn tăng cường tình đoàn kết gắn bó giữa đồng bào trong bon và các bon làng lân cận, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc.
Vài hình ảnh Hội Đâm Trâu

http://www.cinet.gov.vn/uploadImages/article/20060327/CONG%20CHIENG%20-%20LE%20DAM%20TRAU%20TRONG%20AM%20THANH%20CONG%20CHIENG.jpg

http://www.dulichvn.org.vn/nhaptin/uploads/images/lehoidamtrau.jpg

http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/original/images480679_damtrau.jpg

gioanha
08-01-2009, 11:44 PM
Năm Sửu Nói Chuyện Trâu
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Uploaded/thanduong/Nam%202008/Thang%204/Ngay%2007/3.jpg



Nguyễn Phú Thứ



Sau khi năm Mậu Tý chấm dứt, thì đến năm Kỷ Sửu được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm chủ nhựt , 25-01-2009 để cầm tinh đến 24 giờ đêmthứ bảy13-02-2010.

Năm Kỷ Sửu này cũng thuộc hành Hỏa và mạng Tích Lịch Hỏa tức Lửa Sấm Sét, năm này thuộc Âm, có can Kỷ thuộc mạng Thổ và có chi Sửu thuộc mạng Thổ. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm này "Can tương hòa Chi" Bởi vì, Can = Thổ và Chi = Thổ.

Trường hợp này, giống như các năm Kỷ Mùi (1919-1979-2039-2099) có Can Chi tương hòa lại có cùng mạng Thổ giống như năm Kỷ Sửu này hoặc là các năm Nhâm Tý (1912-1972-2032-2092) có Can Chi tương hòa đều có cùng mạng Thủy. Vì vậy, người hay năm Kỷ Sửu này xem như tổng quát rất thuận lợi, bởi vì Trời Đất được giao hòa nhau, không khác trong nhà có đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc vậy, cho nên có thể nói là năm được thăng tiến từ vật chất đến tinh thần được vững chắc trong sự nghiệp tương lai. Được biết năm Sửu vừa qua là năm Đinh Sửu thuộc hành Thủy, nhằm ngày thứ sáu, 07-02-1997 đến 27-01-1998.

Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2009 = 4646, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 77 và số dư 26 năm bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Kỷ Sửu 2009 này là năm thứ 26 của Vận Niên Lục Giáp 78.

Năm Sửu tức Trâu cũng là Ngưu, cho nên trong bàn dân thiên hạ cũng thường nhắc nhở luôn trong sinh hoạt xả hội hằng ngày, từ đó mới có những từ ngữ liên quan, xin trích dẫn như sau :

Sửu là con Trâu đứng hạng thứ 2 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, vì lớn con kình càng, lại còn mang cặp sừng trên đầu nên không thể sánh bằng con Chuột lanh lợi nhỏ con đến trước.

Giờ Sửu = là giờ từ 01 giờ đến đúng 03 giờ sáng hôm sau.

Tháng Sửu = là tháng Chạp của năm âm lịch.

Hoàng Ngưu = Hỏa Ngưu = con Bò.

Thủy Ngưu = Con Trâu.

Ngưu Dương = Trâu Dê.

Ngoài ra, chúng ta còn thấy cây cỏ mang tên Ngưu, xin trích dẫn như sau :

Ngưu hoàng = Vật vàng vàng mà cứng ở trong cái mật con Bò, người ta dùng để làm thuốc trị phong đàm.

Hắc Sửu = là loại cây bìm bìm lông, hột nó đen, dùng để làm thuốc trị hạ nhiệt.

Ngưu bàng tử = Hột cây muồng hoè để làm thuốc trị ghẻ.

Ngưu tất = Rễ cỏ xước dùng để làm thuốc trị chứng bịnh đau gân cốt.

Khiên Ngưu = Loại dây hắc sửu, dùng để làm thuốc trị hạ nhiệt.v.v.

Đặc biệt, có những Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ, xin trích dẫn như sau:


Trâu Bò ở với nhau, quen chuồng quen chỏi ( cây chắn ngang ở cửa chuồng)
Người ở với nhau lâu, inh ỏi đủ điều

Trâu kia kén cỏ bờ ao,
Anh kia, không vợ đời nào có con.
Người ta con trước con sau,
Thân anh không vợ như cau không buồng.
Cau không buồng như tuồng cau đực,
Trai không vợ cực lắm anh ơi!

Người ta đi đón về đôi,
Thân anh đi lẻ về loi một mình.
Mất Trâu thì lại mua Trâu,
Những quân cướp nó có giàu hơn ai.

Trâu Bò được ngày phá đổ,
Con cháu được ngày giổ ông.

Nhịn thuốc mua Trâu,
Nhịn trầu mua ruộng.

Muốn giàu, nuôi Trâu cái,
Muôn lụn bại, nuôi Bồ Câu... (Ca Dao).

Trâu chậm uống nước đục.
Trâu ngơ ăn cỏ héo.
Trâu lành không ai mặc cả (trả giá để mua).
Trâu ngả lắm kẻ cầm dao.
Trâu đạp cũng chết, Voi đạp cũng chết.
Trâu hay ác thì Trâu vạt sừng.
Trâu bịnh cũng bằng Bò khoẻ.
Trâu toi thì Bò ngả.
Trâu lấm vẩy quàng.
Trâu trắng đi đâu mất mùa đến đấy.
Trai mười bảy, bẻ gãy sừng Trâu.
Thân Trâu lo, thân Bò liệu.
Có ăn có chọi mới gọi là Trâu.
Thở hơn Trâu hạ địa (Trâu bịnh lâu ngày).
Mua Trâu vẽ bóng.
Máu đâu, Trâu đó.
Không có Trâu, bắt Bò thế, (đi đẩm).
Thà chết vũng chân Trâu, hơn chết khi dĩa đèn.
Tham bong bóng bỏ bọng Trâu.
Thật thà lái Trâu.
Thở như Trâu Bò mới vực (tập kéo xe hay cày bừa)
Trâu Bò húc nhau Ruồi Muổi chết.
Trâu cày, Ngựa cởi.
Trâu chết chẳng khỏi rơm.
Trâu chết mặc Trâu, Bò chết mặc Bò.
Trâu cột ghét Trâu ăn.
Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy.
Trâu già đâu nệ dao phay.
Trâu nghiến hàm, Bò bạch thiệt (lưỡi trắng).
Trâu tìm cột, cột chẳng tìm Trâu.
Dắt Trâu chui qua ống.
Ngưu tầm Ngưu, Mã tầm Mã.
Thọ hóa thanh Ngưu.
(Cây lâu năm hoá thành Trâu xanh)... v.v. (Thành Ngữ).
Con Trâu là đầu cơ nghiệp... v.v (Tục Ngữ).


Xuyên qua Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ có liên quan đến Trâu đã dẫn ở trên kia, chúng ta không thể ngừng ở đây, mà còn thấy rất nhiều sách viết về những huyền thoại Trâu, xin trích dẫn để quý bà con đồng hương nhàn lãm như sau :

Trâu là gia súc, loài nhai lại, trên đầu có cặp sừng hình vòng cung, nó chính là người bạn chân thành của những nhà nông từ xa xưa, đã từng đổ mồ hôi, sót con mắt trên luống cày hay bừa trên thửa ruộng, để cho có những hạt lúa, nương khoai nuôi dưỡng gia đình tộc Việt chúng ta. Ngày nay, nhờ cơ giới hóa có máy cày thay Trâu, nên Trâu bớt cơ cực hơn ngày xưa. Đối với thời xưa, dân tộc mình xem Trâu là một trong ba việc hàng đầu căn bản cho gia đình và xã hội cần phải sắm, cho nên trong dân gian thường nhắc nhở như sau :


Tậu Trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy lọ là khó thay!


Ngoài ra, đất nước chúng ta là nông nghiệp, cho nên trong dân gian cũng thường nhắc đến Chồng cày, Vợ cấy, con Trâu đi bừa trên đồng ruộng. Đó chính là hình ảnh thân quen của những nông gia, có đời sống rất chất phát, cần cù lại êm đềm và hạnh phúc trong sự phân công giữa người và Trâu, xin trích dẫn như sau đây:


Rủ nhau đi cấy, đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu,
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con Trâu đi bừa.
hoặc là :>
Trâu ơi, ta bảo Trâu cày,
Trâu ra ngoài ruộng, Trâu cày với ta,
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây, Trâu đấy ai mà quản công,
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng Trâu ăn.


Khi viết về cái Cày và con Trâu, tôi lại nhớ trong ngạn ngữ (Proverbe) Pháp cũng có câu như sau : Mettre la charrue devant les bœufs (Đặt cái cày trước con Trâu). Ý nói, bất cứ việc gì chúng ta đừng bao giờ làm việc trái đời, ví như đặt cày cái trước con Trâu, thì không thể thực hiện để thành công được.

gioanha
08-01-2009, 11:47 PM
http://ngonnennho.net/images/admin_03.gif
Trong dân gian mình có những huyền thoại tương truyền về Trâu, xin trích dẫn như sau:


Tại sao Trâu ăn cỏ !

http://farm2.static.flickr.com/1009/1210180819_0b5c271fd6.jpg

Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị Bồ Tát xuống trần gian mang theo 1 bao hạt giống lúa và 1 bao cỏ để phổ độ chúng sanh. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống lúa trước để dân có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật.

Nhưng khi vị Bồ Tát đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mãi mê xem mà quên lời căn dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được.

Còn lúa phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ.

Bởi lỗi ấy của vị Bố Tát, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đày vị Bồ Tát này xuống trần gian hóa thành con Trâu để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát kiếp. Do lý do trên, nên Trâu thường đi cày bừa giúp nông gia và ăn cỏ.

Trong dân gian xem Trâu là vị Bồ Tát, có tánh tình hiền, nên ít ăn thịt hơn Bò là thế.


Tại sao Trâu chỉ có một hàm Răng !


http://www.mongabay.com/images/indonesia/sulawesi/sulawesi7020.JPG

Cũng tương truyền thuở xưa rằng : Các loài thú vật bốn cẳng như : Chó, Mèo, Trâu, Cọp ...v.v thì có được hai hàm răng, duy chỉ có con Ngựa dù cũng có 4 cẳng, nhưng chỉ có một hàm răng.

Bữa nọ, Ngựa được mời đi dự tiệc, Ngựa nghĩ rằng mình chỉ có một hàm răng ăn rất chậm, nên đi hỏi Chó, Mèo, Cọp ... để mượn hàm răng, thì Chó, Mèo, Cọp ... cũng được mời ăn tiệc, chỉ còn Trâu cũng được mời ăn tiệc, nhưng không muốn đi vì lười, phần làm việc cực nhọc nên thân thể ê ẩm, nên không đi dự tiệc, cho nên Trâu được Ngựa đến năn nỉ và than thân trách phận vì số không có hai hàm răng, rồi hứa chỉ mượn tạm hàm răng của Trâu đi ăn tiệc xong sẽ trả lại liền, còn đền ơn đáp nghĩa cho Trâu.

Trâu nghe bùi tai, động lòng nên gỡ cho Ngựa mượn. Sau khi dự tiệc xong, Ngựa thấy có hai hàm răng ăn rất mau và lại ngon miệng, nên động lòng tham, không giữ gìn lời hứa, bèn trốn lánh Trâu để giựt luôn hàm răng.

Một hôm Trâu gặp được Ngựa đòi lại hàm răng và mắng chửi Ngựa thậm tệ, Ngựa phóng nước đại chạy trốn mất dạng, Trâu rượt theo một hồi không bắt kịp Ngựa,vì thân thể nặng nề nên rất chậm chạp. Từ đó, Trâu dành nuốt hận cho đến ngày nay, chỉ có một hàm răng, trong khi Ngựa lại có hai hàm răng.

Đó là, nguyên do Trâu ăn cỏ, chỉ có một hàm răng và cày bừa giúp nhà nông trồng lúa. Đây là một trong những tương truyền trong dân gian để răng đời đáng quý !

gioanha
08-01-2009, 11:52 PM
Huyền Thoại Về Trâu


http://www2.vietbao.vn/images/vn75/xa-hoi/75175418-168675_lamle.jpg

Những huyền thoại về Trâu còn nhiều, nào là :

Trâu nhà, Trâu rừng, Ngưu Mân (Trâu ngủ), trong Tây Du Ký tác giả Ngô Thừa Ân nói về Ngưu Ma Vương đánh với Tề Thiên Đại Thánh cuối cùng nhờ có Thái Thượng Lão Quân mới thu phục được Ngưu Ma Vương dẹp bỏ được chướng ngại trên đường thầy Trần Huyền Trang tức Tam Tạng phụng chỉ vua Đường Thái Tôn sang nước Thiên Trúc để thỉnh kinh Phật về truyền bá trong dân gian. Ba bộ kinh của Phật Giáo là : Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng gọi chung là Tam Tạng. Trên đường đi xa xôi ngàn dặm, hành trình gian nan, nguy hiểm vì có nhiều yêu quái, nhờ có b học trò giỏi the phò như sau :

- Thứ nhứt là Tôn Ngộ Không tức Tôn Hành Giả, cốt Khỉ tu hành lâu năm nên thành người, có 72 phép biến hóa thần thông, được biệt danh là Tề Thiên Đại Thánh.

- Thứ nhì là Trư Bát Giới, cốt Heo tu hành lâu năm nên thành người, cũng có phép không vừa.

- Thứ ba là Sa tăng, một con quỷ hung tợn được thầy Tam Tạng thuyết phục và thâu dụng làm đệ tử.

Mặc dù thầy Trần Huyền Trang có ba đệ tử tài năng phép luật cao cường, nhưng khi đến Hoả Diệm Sơn đành phải chùn bước, vì trở ngại núi quá cao lại có phun lửa rực trời, sức nóng mãnh liệt. Muốn vượt qua phải dập tắt ngọn lửa này, nhưng phải có cây quạt Ba Tiêu của Ngưu Ma Vương tức chồng của Bà La Sát nắm giữ.

Được biết, Ngưu Ma Vương vốn là con Trâu đã tu luyện cả ngàn năm thành người, nên tài phép không thua gì Tề Thiên Đại Thánh. Thầy trò Đường Tăng Tam Tạng tìm đến mượn quạt Ba Tiêu, thì Ngưu Ma Vương không cho mượn, còn nặng lời sỉ vả, cho nên Tôn Hành Giả đánh Ngưu Ma Vương suốt ba ngày ba đêm để chiếm đoạt quạt Ba Tiêu, nhưng bất phân thắng bại. Sau cùng, nhờ Phật Tổ cho bốn Ông Kim Cang tấn công bốn hướng như sau :


* Ông Đại Lực Kim Cang hướng Đông.
* Ông Vĩnh Trụ Kim Cang hướng Tây.
* Ông Thắng Chi Kim Cang hướng Nam
* Ông Bát Pháp Kim Cang hướng Bắc.


Khi đó, Ngưu Ma Vương mới cùng đường chống đỡ, nên phải chạy trốn, nhảy lên cao núp trong mây, nhưng cũng không thoát khỏi được, vì có các sứ thần của thượng đế là Na Tra và Lý Thiên Vương chận đường vây bắt. Cuối cùng Ngưu Ma Vương mới chịu đầu hàng và quy y đầu Phật.

Ngoài ra còn có :

http://images7.dantri.com.vn/Uploaded/phuchung/4%20%28moi%29.jpg

Tục đấu (chọi) Trâu: Tục này xưa kia thường được tổ chức ở một vài nơi như huyện Lập Thạch, Tỉnh Vĩnh Yên hoặc ở Đình Bảng, Hà Đông hay ở Đồ Sơn, Kiến An, cho nên trong dân gian thường truyền tụng để nhớ ngày đấu Trâu như sau :


Dù ai bán đâu, buôn đâu,
Mùng mười tháng tám đấu Trâu thì về.

hoặc là :

Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mùng mười tháng tám nhờ về đấu Trâu.


Đặc biệt, khi nói đến mục đồng(chăn Trâu) ngày xưa, không phải người mục đồng nào cũng nghèo hèn, thất học hết, tối ngày chân lắm tay bùn cơ cực suốt một cuộc đời ở cận kề với Trâu, mà không thể trở thành danh nhân lừng lẩy. Bằng chứng là trong lịch sử đất nước chúng ta có hai danh nhân đã từng là mục đồng. Đó là:

Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ là người mục đồng, quê ở Hoa Lư, huyện Gia Viễn, Tỉnh Ninh Bình. Sau khi đứng lên dẹp được loạn sứ quân lên ngôi trở thành vua Đinh Tiên Hoàng (năm 968) làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi (chết năm 979).

Trong Đại Nam Quốc Sử diễn ca, có đoạn nói về vua Đinh Tiên Hoàng như sau :


Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,
Con quan Thứ Sử ở thành Hoa Lư
Khác thường từ thuở còn thơ,
Rủ đoàn mục tử mở cờ bông lau ...


Đào Duy Từ thuở nhỏ cũng là mục đồng, con của Đào Tá Hán làm nghề hát tuồng và Bà Kim Chi là người hiếu học, nên sau được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được phong chức Nha Úy Nội Tán, tước Lộc Khê Hầu, Quan Quản nội ngoại quân cơ, Tham lý quốc chánh và Cụ Đào Duy Từ là người đứng ra tổ chúc đắp xây lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc và lũy Định Bắc Trường Thành dọc theo sông Nhật Lệ tục gọi là Lũy Thầy Đồng Hới để ngăn chận hữu hiệu quân Chúa Trịnh

Viết huyền thoại về Trâu còn dài dài, nếu kể thêm các lịch sử tương truyền bên Tàu hoặc đi vào vănchương sách vở thì không thể kể hết được, cho nên xin tạm ngưng ở đây, khi có dịp sẽ nói tiếp

Kính chúc tất cả gia đình quý bà con năm mới Vạn Sự Cát Tường.


http://www.viendongdaily.com/images/galary/ChanDungVietNam/LamCamSG407/03-Hinhanhmotcogaingoivong.jpg

_