Damsan
07-01-2009, 07:16 PM
HỘI ĐÂM TRÂU
Cũng như các dân tộc thiểu số khác ở Tây Nguyên, đồng bào dân tộc M’nông ở Đắk Nông, Đăklak đến nay vẫn duy trì được lễ đâm trâu ( hay còn gọi là lễ ăn trâu ), một lễ hội truyền thống của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên. Lễ hội thường diễn ra vào những ngày nông nhàn, mọi người được nghỉ ngơi, vui chơi để chuẩn bị cho mùa rẫy mới, thường rơi vào tháng 3 hoặc đầu tháng 4 âm lịch.
Theo các già làng người M’nông thì địa điểm tổ chức Lễ đâm trâu thường được tổ chức tại sân nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng của các bon làng. Theo truyền thuyết, thần thoại của một số dân tộc Tây Nguyên thì con trâu biểu hiện cho tín ngưỡng vật tổ (đây là hình thức tín ngưỡng sơ khai nhất của các bộ tộc cổ đại). Phần lớn các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer đều có tục đâm trâu hay còn gọi là “ăn trâu”, “chém trâu” để hiến tế thần linh trong các lễ hội lớn của gia đình hoặc cộng đồng. Đồng bào M’nông “ ăn trâu” để tạ ơn thần linh, để được tổ chức vui chơi, giải trí và cũng để khẳng định uy tín, danh vọng của gia đình chủ lễ và của bon làng. Những năm được mùa, lúa chất đầy kho, đồng bào tổ chức lễ đâm trâu để cúng mừng. Nếu không tổ chức lễ đâm trâu hàng năm để cúng thần Lúa thì ít nhất đủ ba năm phải tổ chức lễ đâm trâu một lần.
Lễ hội đâm trâu phải chuẩn bị ít nhất khoảng 5 đến 10 ngày. Đầu tiên phải mời các già làng đến để bàn bạc, nói lý do ăn trâu của gia đình mình. Sau đó phải mời nghệ nhân giỏi, biết chế tạo nhạc cụ dân tộc để làm ra chiếc kèn Rlet. Loại kèn này chỉ dành để thổi gọi thần linh trong lễ đâm trâu chứ không dùng trong các trường hợp khác, khi xong lễ hội thì kèn Rlet cũng bỏ luôn, cấm không ai được thổi nữa. Các già làng còn cử ra một số thanh niên đến giúp việc cho chủ lễ như: chặt cây, bửa củi, giã gạo, sửa soạn, dọn dẹp nhà cửa, kho lúa. Một tốp thanh niên khác vào rừng kiếm dây mây về để tết thừng buộc trâu, chặt ống nứa nấu thịt, đổ nước vào rượu. Trong suốt cuộc lễ, mọi vật dùng đều phải làm mới. Trong nhà nơi cửa ra vào và cửa kho lúa, nơi đặt ché rượu cúng cũng được bố trí những tấm gỗ nhỏ có chiều dài gần 1 mét có khắc hoa văn để trang trí cho đẹp. Lễ đâm trâu thường được đồng bào làm một cây nêu to đẹp, trên cành cây tre có kết hoa bằng lá non cây Sra và trên ngọn cây nêu cắm một con chim Phượng Hoàng làm bằng gỗ có tô nhiều màu. Cây nêu được xem là lễ đài của toàn bộ buổi lễ, do đó cây nêu chẳng những phải cao vút, bề thế mà còn phải có tính nghiêm trang, đầy chất huyền thoại. Trên cây nêu luôn có đủ các hình tượng và hoa văn. Đó là hình tổ ong, hình chim én, cánh chim cu, xâu lục lạc bằng nứa, tượng người…Các ché rượu cần phải được chuẩn bị đổ nước, nhét lá, cắm cần đầy đủ.
Cũng theo các già làng người M’nông thì nghi thức lễ đâm trâu thường diễn ra vào buổi chiều tà, gia đình chủ lễ cử một đoàn người đi đón khách về dự lễ đâm trâu. Khi dựng cây nêu nam, nữ phải ra đứng đánh cồng chiêng múa vui vòng quanh cây nêu. Tiếng chiêng càng vang hơn, mọi người càng hớn hở hơn, nhất là lúc con trâu được buộc vào cọc nêu. Suốt đêm đó, dân làng vui chơi, uống rượu, đánh chiêng, chờ đợi ngày mai bắt đầu lễ chính. Đến gà gáy ( khoảng 4 giờ sáng) người đàn bà chủ trâu hoặc người đàn bà hàng xóm ra đứng gần cây nêu hát bài gọi thần Lúa và hát “khóc trâu” để vỗ về, an ủi, tiễn biệt con vật yêu quý này trước khi nó bị giết để làm lễ hiến sinh. Vừa hát họ vừa lấy nước tưới vào đầu con trâu. Trời vừa tảng sáng, họ mang một ché rượu nhỏ giết một con gà để cúng hồn con trâu. Bên đoàn khách được mời đến dự lễ cử ra một người đâm trâu. Trong khi đâm trâu, hai dàn nhạc cồng chiêng của hai bên chủ, khách nổi lên để làm cho người chém trâu, đâm trâu thêm phấn chấn, can đảm.
Khi con trâu chết người ta lấy chiếc chiêng mẹ đặt lên mình trâu, có khi dùng chăn mới dệt chất lên mình trâu. Xong, người ta lấy máu trâu phết vào cây nêu cúng vái, đọc lời khấn thần, cúng xong, xẻ thịt trâu. Chiếc đầu trâu dùng để dành cúng lúa, hàm trâu là phần của chủ nhà. Các món khác như xương, thịt và lòng đều chia đôi, đoàn bên chủ do chủ chia, đoàn bên khách do khách chia. Người ta chia đều phần thịt trâu cho mỗi bên chủ và khách, chỉ để lại một số thịt trâu nhất định để cùng ăn chung trong lễ hội. Ngoài thịt trâu, đồng bào còn giết thêm một số heo lớn để lấy bộ lòng làm dồi cúng, thần giữ kho lúa. Nghi thức cúng thần giữ kho là nghi thức bắt buộc trong các lễ hội cúng có đâm trâu. Chia thịt xong, chủ nhà dọn cơm mời khách. Ăn xong cơm, cúng ché rượu rlung với huyết trâu, cúng ché rượu xong, chủ nhà cùng khách cùng nhau uống rượu đến sáng hôm sau.
Lễ đâm trâu của đồng bào M’nông nói riêng, của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung là một lễ hội truyền thống được lưu truyền từ muôn đời nay. Việc tổ chức lễ đâm trâu hiện nay không chỉ mang ý nghĩa tâm linh là cúng thần Lúa, mà còn là dịp để bà con trong bon làng quây quần bên nhau vui chơi, ca hát sau một năm lao động vất vả và chuẩn bị bước vào một vụ mùa mới. Đồng thời qua đó còn tăng cường tình đoàn kết gắn bó giữa đồng bào trong bon và các bon làng lân cận, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc.
Vài hình ảnh Hội Đâm Trâu
http://www.cinet.gov.vn/uploadImages/article/20060327/CONG%20CHIENG%20-%20LE%20DAM%20TRAU%20TRONG%20AM%20THANH%20CONG%20CHIENG.jpg
http://www.dulichvn.org.vn/nhaptin/uploads/images/lehoidamtrau.jpg
http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/original/images480679_damtrau.jpg
Cũng như các dân tộc thiểu số khác ở Tây Nguyên, đồng bào dân tộc M’nông ở Đắk Nông, Đăklak đến nay vẫn duy trì được lễ đâm trâu ( hay còn gọi là lễ ăn trâu ), một lễ hội truyền thống của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên. Lễ hội thường diễn ra vào những ngày nông nhàn, mọi người được nghỉ ngơi, vui chơi để chuẩn bị cho mùa rẫy mới, thường rơi vào tháng 3 hoặc đầu tháng 4 âm lịch.
Theo các già làng người M’nông thì địa điểm tổ chức Lễ đâm trâu thường được tổ chức tại sân nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng của các bon làng. Theo truyền thuyết, thần thoại của một số dân tộc Tây Nguyên thì con trâu biểu hiện cho tín ngưỡng vật tổ (đây là hình thức tín ngưỡng sơ khai nhất của các bộ tộc cổ đại). Phần lớn các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer đều có tục đâm trâu hay còn gọi là “ăn trâu”, “chém trâu” để hiến tế thần linh trong các lễ hội lớn của gia đình hoặc cộng đồng. Đồng bào M’nông “ ăn trâu” để tạ ơn thần linh, để được tổ chức vui chơi, giải trí và cũng để khẳng định uy tín, danh vọng của gia đình chủ lễ và của bon làng. Những năm được mùa, lúa chất đầy kho, đồng bào tổ chức lễ đâm trâu để cúng mừng. Nếu không tổ chức lễ đâm trâu hàng năm để cúng thần Lúa thì ít nhất đủ ba năm phải tổ chức lễ đâm trâu một lần.
Lễ hội đâm trâu phải chuẩn bị ít nhất khoảng 5 đến 10 ngày. Đầu tiên phải mời các già làng đến để bàn bạc, nói lý do ăn trâu của gia đình mình. Sau đó phải mời nghệ nhân giỏi, biết chế tạo nhạc cụ dân tộc để làm ra chiếc kèn Rlet. Loại kèn này chỉ dành để thổi gọi thần linh trong lễ đâm trâu chứ không dùng trong các trường hợp khác, khi xong lễ hội thì kèn Rlet cũng bỏ luôn, cấm không ai được thổi nữa. Các già làng còn cử ra một số thanh niên đến giúp việc cho chủ lễ như: chặt cây, bửa củi, giã gạo, sửa soạn, dọn dẹp nhà cửa, kho lúa. Một tốp thanh niên khác vào rừng kiếm dây mây về để tết thừng buộc trâu, chặt ống nứa nấu thịt, đổ nước vào rượu. Trong suốt cuộc lễ, mọi vật dùng đều phải làm mới. Trong nhà nơi cửa ra vào và cửa kho lúa, nơi đặt ché rượu cúng cũng được bố trí những tấm gỗ nhỏ có chiều dài gần 1 mét có khắc hoa văn để trang trí cho đẹp. Lễ đâm trâu thường được đồng bào làm một cây nêu to đẹp, trên cành cây tre có kết hoa bằng lá non cây Sra và trên ngọn cây nêu cắm một con chim Phượng Hoàng làm bằng gỗ có tô nhiều màu. Cây nêu được xem là lễ đài của toàn bộ buổi lễ, do đó cây nêu chẳng những phải cao vút, bề thế mà còn phải có tính nghiêm trang, đầy chất huyền thoại. Trên cây nêu luôn có đủ các hình tượng và hoa văn. Đó là hình tổ ong, hình chim én, cánh chim cu, xâu lục lạc bằng nứa, tượng người…Các ché rượu cần phải được chuẩn bị đổ nước, nhét lá, cắm cần đầy đủ.
Cũng theo các già làng người M’nông thì nghi thức lễ đâm trâu thường diễn ra vào buổi chiều tà, gia đình chủ lễ cử một đoàn người đi đón khách về dự lễ đâm trâu. Khi dựng cây nêu nam, nữ phải ra đứng đánh cồng chiêng múa vui vòng quanh cây nêu. Tiếng chiêng càng vang hơn, mọi người càng hớn hở hơn, nhất là lúc con trâu được buộc vào cọc nêu. Suốt đêm đó, dân làng vui chơi, uống rượu, đánh chiêng, chờ đợi ngày mai bắt đầu lễ chính. Đến gà gáy ( khoảng 4 giờ sáng) người đàn bà chủ trâu hoặc người đàn bà hàng xóm ra đứng gần cây nêu hát bài gọi thần Lúa và hát “khóc trâu” để vỗ về, an ủi, tiễn biệt con vật yêu quý này trước khi nó bị giết để làm lễ hiến sinh. Vừa hát họ vừa lấy nước tưới vào đầu con trâu. Trời vừa tảng sáng, họ mang một ché rượu nhỏ giết một con gà để cúng hồn con trâu. Bên đoàn khách được mời đến dự lễ cử ra một người đâm trâu. Trong khi đâm trâu, hai dàn nhạc cồng chiêng của hai bên chủ, khách nổi lên để làm cho người chém trâu, đâm trâu thêm phấn chấn, can đảm.
Khi con trâu chết người ta lấy chiếc chiêng mẹ đặt lên mình trâu, có khi dùng chăn mới dệt chất lên mình trâu. Xong, người ta lấy máu trâu phết vào cây nêu cúng vái, đọc lời khấn thần, cúng xong, xẻ thịt trâu. Chiếc đầu trâu dùng để dành cúng lúa, hàm trâu là phần của chủ nhà. Các món khác như xương, thịt và lòng đều chia đôi, đoàn bên chủ do chủ chia, đoàn bên khách do khách chia. Người ta chia đều phần thịt trâu cho mỗi bên chủ và khách, chỉ để lại một số thịt trâu nhất định để cùng ăn chung trong lễ hội. Ngoài thịt trâu, đồng bào còn giết thêm một số heo lớn để lấy bộ lòng làm dồi cúng, thần giữ kho lúa. Nghi thức cúng thần giữ kho là nghi thức bắt buộc trong các lễ hội cúng có đâm trâu. Chia thịt xong, chủ nhà dọn cơm mời khách. Ăn xong cơm, cúng ché rượu rlung với huyết trâu, cúng ché rượu xong, chủ nhà cùng khách cùng nhau uống rượu đến sáng hôm sau.
Lễ đâm trâu của đồng bào M’nông nói riêng, của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung là một lễ hội truyền thống được lưu truyền từ muôn đời nay. Việc tổ chức lễ đâm trâu hiện nay không chỉ mang ý nghĩa tâm linh là cúng thần Lúa, mà còn là dịp để bà con trong bon làng quây quần bên nhau vui chơi, ca hát sau một năm lao động vất vả và chuẩn bị bước vào một vụ mùa mới. Đồng thời qua đó còn tăng cường tình đoàn kết gắn bó giữa đồng bào trong bon và các bon làng lân cận, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc.
Vài hình ảnh Hội Đâm Trâu
http://www.cinet.gov.vn/uploadImages/article/20060327/CONG%20CHIENG%20-%20LE%20DAM%20TRAU%20TRONG%20AM%20THANH%20CONG%20CHIENG.jpg
http://www.dulichvn.org.vn/nhaptin/uploads/images/lehoidamtrau.jpg
http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/original/images480679_damtrau.jpg