PDA

View Full Version : Theresa Hài Đồng VN:TÌNH YÊU KHÔNG THỂ CHẾT



littlewave
17-02-2009, 08:15 PM
Xin giới thiệu bản tự thuật rất tuyệt vời của Thầy Marcel Văn, một vị thánh đơn sơ lặng thầm chưa được tôn phong nhưng cuộc đời là cả một trường ca dạt dào yêu mến. Lòng yêu được vun trồng từ những năm tháng ấu thơ tận lúc còn bú mớm cứ cháy sáng cho khi từ biệt cõi gian trần.
Xin Thầy giúp mỗi người chúng ta biết tận hiến cho TY Thiên Chúa như thầy, biết ngon lành tuyên bố như chị Thánh Théresa Hài Đồng: “TỪ KHI 3 TUỔI TÔI KHÔNG HỀ LÀM BUỒN LÒNG THIÊN CHÚA”

lit sẽ post dần dần nha ACE.

Tự thuật của thầy Marcel Văn

Thầy Marcel Nguyễn Tân Văn, Dòng Chúa Cứu Thế, sinh ngày 15.03.1928 và qua đời ngày 10.07.1959 tại Việt Nam, đang là một "hiện tượng lạ" trong đời sống của người Công Giáo trẻ tại Âu Châu, cách riêng ở Pháp. Cuộc đời ngắn ngủi của Thầy Marcel Văn theo gương phó thác và tin tưởng của Chị Thánh Têrêxa Hài Ðồng Giêsu đã lôi cuốn nhiều người trẻ Công Giáo ở Châu Âu đang chới với giữa những bấp bênh của một xã hội tiêu thụ khám phá lại hình ảnh Thiên Chúa từ nhân luôn quan tâm chăm sóc đến con cái của Ngài. "Tự Thuật" của Thầy Marcel Văn được viết ra vào những năm 1945-1946 theo lời yêu cầu của Cha Giáo tập Antonio Boucher sau khi ngài đã sớm nhận ra nơi Thầy Văn một tấm gương sống đạo đức, nhiệt thành và phó thác.


Một Cánh Hoa Rơi của Chị Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu


Lời Nói Ðầu:

Cha đáng kính,

Thoạt khi xem đến cái nhan đề của câu truyện, trong trí cha, con tưởng đã hình dung ra được tất cả một cuộc đời mong manh, tàn úa của cánh hoa bạc phận ấy rồi?

Thưa cha vâng, cánh hoa ấy đã rơi; mà nay cha càng thấy nó có vẻ xinh lành tốt đẹp, là nhờ bởi sức sống của Tình yêu Chúa thông cho. Tuy nhiên nó đã bao lần cay đắng, đã bao phen chịu áp bức, đè nặng dưới những luồng gió phũ phàng. Song nó vẫn sống; và nay nó đã có thể đem thân phận mình ra để minh chứng lòng yêu thương vô cùng của Chúa.

Vào Truyện Cuộc Ðời

Sau bóng tre

Ðã mang thân phận là một cánh hoa rơi, đời con tưởng không còn gì là êm tươi lắm nữa. Ðau thương là hình ảnh cả đời con. Vâng, thưa cha quả thế, đời con đau khổ sớm lắm và hầu hết là đau khổ.

Nói thế, nhưng con chưa vội đem những khúc truyện buồn thảm của đời con ra mà tả. Vì như cha đã thấy, cánh hoa trước khi lìa đài rơi xuống, cũng đã hưởng được một thời xuân u ấp, một mùa hương thơm, đẹp.

Ba giai đoạn cuộc đời

Con xin chia cuộc đời trước khi vào dòng của con làm ba giai đoạn. Ba giai đoạn ấy tương tợ như ba giai đoạn cuộc đời chị Thánh Têrêsa. Vả lại, theo kiểu nói đơn sơ, con muốn lấy chính truyện của chị thánh làm kiểu mẫu. Nên giả như trong câu truyện con có chỗ nào giống hệt, cha đừng cười và bảo con hái trộm. Nhưng đó thật là những chỗ gặp gỡ của hai tâm hồn. Hoa nào hương ấy; Têrêsa là bông hoa, con là một cánh hoa bởi bông hoa ấy, lẽ nào sai chệch được những mối tương đồng.

Thầy Marcel Nguyễn Tân Văn, CSsR

Trầm Hương
18-02-2009, 11:03 AM
Mong mỏi nên Thánh như Têrêsa , từ việc rất nhỏ mỗi ngày mỗi ngày.Khiêm nhu như Thầy Marcel Văn "con chỉ là một cánh hoa" .

littlewave
18-02-2009, 11:22 AM
I. Giai đoạn đầu


Tình Mẫu Tử

Kể hồi con có trí khôn cho đến ngày lên bẩy, hay cho đến lúc con lìa biệt gia đình.

Thời kỳ này bẩy năm, như bông hường dưới ánh nắng ấm của mùa xuân.
Quanh con, cảnh vật điều vui, mọi sự điều tỏ ra cho con thấy vẻ xinh lành tốt đẹp, nhất là ở chốn gia đình, không bao giờ con có thể tả hết được những thú êm đềm của tuổi trẻ, và những sự thương mến của mẹ cha. Lại vì Chúa đã sớm ban cho con có trí khôn nên bao nhiêu những kỷ niệm hồn nhiên ấy còn ghi khắc trong lòng con. Ðó cũng là một may số như cô bé Têrêsa. Và hồng ân Chúa ban cho con trong thời kỳ này cũng tương tợ như chị Thánh. Nhưng cảnh gia đình có khác.

Trong khung khổ nhà tranh vách đất ở làng quê, thày con làm thợ may, còn mẹ con, ngoài sự chăm lo việc nội trợ, còn lo thêm việc đồng áng để tránh cho nhà khỏi sự ăn đong.

Sau bóng thày mẹ, anh Gioakim Liệt là anh cả, rồi đến chị Anna Lê, và con là thứ ba.

Tả về đứa con thứ ba ấy mẹ đã nói làm sao? Nó ngộ nghĩnh lạ, ưa vui, thích nghịch, nhưng lại dễ mũi lòng, động một tí là khóc. Với cái tâm tình ngộ nghĩnh ấy con đã được nhà thương yêu và chú ý đến một cách đặc biệt. Mẹ còn nói thêm: Không ai đến nhà mà không ưa lại chọc trêu đứa bé, nhưng có lúc thì đó lại là một lẽ làm khổ tâm cho mẹ, vì khi nó vui thì không sao, nhưng đến lúc nó đã khóc thì, ôi chao, có mà giời dỗ.

Giời mới dỗ được con? Câu mẹ nói chắc không phải không có lý, nhưng mẹ cũng phải công nhận rằng, con mến mẹ một cách không thường như các anh chị con. Con theo mẹ suốt ngày, và hễ khi nào người ta bắt con xa mẹ, là những lúc người ta không thể nào dỗ được cho con nín khóc. Con yêu mẹ con lắm, và khi đã được ở bên Mẹ, thì con không còn lấy gì làm thích thú hơn. Vì mẹ con, một người mẹ mà Chúa đã ban cho có một tình yêu nồng nàn, lại vừa khôn ngoan, vừa nhân đức, mẹ rất khéo chiều con, lại cũng biết luyện đức con trong khuôn khổ thánh thiện.

Gia đình đã thuật lại rằng: khi mẹ tập nói các con cái của mẹ, thì mẹ đã khéo dùng nhiều câu đạo đức, hơn là những lời nói bông đùa nhảm nhí. Do đó, hồi tập nói cho con, mẹ đã uốn cho đầu lưỡi con bật ra ba tên cực trọng Giêsu - Maria - Giuse trước hết. Vì khi con vừa nhận được tiếng con nói, thì luôn luôn con chỉ nghe con kêu: Giêsu.Giêsu, Mẹ. Mẹ, Ðức Mẹ, Ông thánh Giuse. - Và khi tay con có thể cầm được vật gì, biết giơ lên đặt xuống, mẹ đã khôn khéo uốn nắn cho con quen làm dấu thánh giá ngay. Con biết làm dấu thánh giá có lẽ hồi con mới biết bò, nghĩa là con chưa hiểu dấu thánh giá là gì, nhưng con vẫn làm, vì thói quen mẹ đã dậy. Rồi ngay khi con đã biết nói rồi, con được mẹ dạy thêm cho một câu nguyện tắt, để trước khi cho con bú, hoặc ăn uống vật gì thì bắt con quì gối trên lòng mẹ, hai tay chắp lại, đầu hướng về ảnh Ðức Mẹ mà đọc: Lạy Ðức Mẹ, xin cho con bú tí, hoặc ăn tí. tuỳ theo lúc cho con ăn hoặc bú. Ăn hoặc bú xong lần nào con cũng phải theo cách như thế mà nói : Con cám ơn Ðức Mẹ đã cho con bú no v.v... Thói quen ấy làm cho con thêm sung sướng, nên có nhiều lúc con chẳng được mẹ cho ăn gì con cũng nói.

Không bao lâu, mẹ đã dậy cho con thuộc lòng được những kinh Lạy Cha, Kính mừng và Sáng danh. Từ đấy Mẹ bắt đầu dậy cho con biết lần hạt, và từ khi con biết lần hạt, thì theo lời mẹ minh chứng con một khi một trở nên ngoan ngoãn, nhu mì. Mẹ lại bảo: hễ lúc nào cậu ấm buồn buồn là lại rủ mẹ lần hạt cho vui.

Thưa cha, quả thế, hồi ấy tuy con còn bé lắm, nhưng Ðức Mẹ đã thương ban cho con một ơn biết cảm khái khi con dâng lên cho Người những chùm hoa thiêng liêng ấy. Bao giờ lần hạt con cũng cảm thấy linh hồn con sung sướng, dường như Ðức Mẹ ở bên con lúc ấy, mỉm cười và hôn con một cái thật yêu. Ơn ấy con rất dễ cảm thấy, nên con cứ thích mẹ lần hạt luôn. Tiếc vì con phải có mẹ thì mới lần hạt được, mà mẹ thì cứ mắc việc luôn. Có lúc nào con vòi quá thì mẹ lại phải vừa làm vừa lần hạt với con.

A ! Ðược một người mẹ tốt lành như thế, con đâu có thể lìa xa được? Và chắc chắn khi con có thể lìa xa mẹ được, là khi con đã có một bảo đảm nào vững chắc lắm cho đời con rồi. Không, nhất định là con không thể rời khỏi mẹ con được, dầu cớ đó đã nên như một thánh giá nặng nề cho mẹ. Hồi ấy mẹ kể: Bắt đầu sinh con ra là mẹ đã phải lo tìm một cô vú em, để giữ em thay mẹ. Nhưng trái lại ba năm trời đằng đẵng, mẹ luôn luôn phải đóng vai vú em, và để cô vú em lo việc nội trợ thay cho mẹ. Ba năm, mẹ tiếp: Tôi không hề ló mặt được ra đến ngoài chợ, và không bao giờ nấu chín được một nồi canh.

Ôi! Yêu con, mẹ đã phải hy sinh biết bao là cái sướng ! Nhưng có thế mới rõ tấm lòng hiền mẫu khoan dung đến độ nào. Cô ở, theo ý mẹ, cô không phải là người vô giá trị, trái lại cô rất tốt, lòng đạo đức cũng dồi dào, và cũng rất mực thương mến con. Một đôi khi, thấy mẹ phải quá nhọc nhằn vì yêu đứa con "khó nết" ấy cô đã bạo tấn công, lôi con ra khỏi tay mẹ, rồi đem con đi chơi rõ xa. Nhưng không lần nào cô thắng nổi; cùng lắm là cô chỉ đem con được ra đến đầu ngõ, hoặc lâu lắm là nửa giờ, thì cô phải đem con về trao cho mẹ. Một lần, mẹ thuật: cô ở muốn đem con đi chơi, con không chịu, hỏi vặn:
- Mẹ có đi không?
- Mẹ còn bận.
- Không, thế thì em không đi.
- Không đi mà được à? Thế rồi cô ôm phắt con đi.
Mấy phút sau cô lại phải ẳm con về, và mặt cô bị đầy vết cấu.

Câu truyện này mẹ thuật lại hồi con sắp rước lễ lần đầu. Con cảm thấy lòng ân hận vô cùng, và tuy cô đã xa con lâu ngày, con cũng xin mẹ, khi nào gặp cô, hãy xin cô tha lỗi ấy cho con. Lòng ăn năn của con đã được cô tha thứ cho một cách rất dễ dàng, và ngày con được rước Chúa ngự vào linh hồn, cô đã đến chúc mừng bằng một lời hoan hỉ: "Mong em lớn lên, và một ngày một thêm lòng yêu mến Chúa Giêsu, như sự em ao ước từ thơ ấu." (Ngày nay cô đã có chồng, và chỉ có mẹ biết chỗ cô ở.)

Ðây con lại xin trở lại lòng mẹ. Thưa cha, được quyện quanh bên mẹ, vì luyến ái mẹ. Song với tấm tình lưu luyến ngây thơ ấy con có làm mẹ yên ủi phần nào chăng?

Ôi, đã nhiều khi con ân hận, vì nghĩ lại, hồi ấy con đã chẳng làm cho mẹ được phần yên ủi nào, để xứng với những ngày mơn trớn con.
Hồi ấy, mẹ thuật: "Nó bé tí, mà đã ương ngạnh kỳ để, đanh hanh đệ nhất, cứng đầu, cứng cổ không ai bằng, nó không giống anh chị nó được một phần nào, trái lại nó vẫn tỏ ra là một đứa trẻ ghê gớm lắm., chẳng rõ sau này nó sẽ ra sao?"

Thưa cha,
Thế đủ biết lòng mẹ phải cực phiền vì con biết bao. Nhưng còn có chỗ khổ tâm cho mẹ hơn nữa, theo lời mẹ kể, thì con giống cô bé Têrêsa ở chỗ cứng đầu, cứng cổ, nhưng lại không giống một phần nào ở nơi biết hối tội. Phần đó càng làm cho mẹ phải cực phiền hơn biết mấy.

Có điều này mẹ ïnói kín lắm, và rất thận trọng, chỉ sợ con nghe thấy. Tuy vậy nó cũng dễ lọt vào tai con, mặc dầu tai ấy nhỏ:"Hay cho nó là có cái này, và tôi cũng rất lấy làm yên ủi, là tuy nó vậy, nhưng khi tôi đã dùng lời êm nhẹ mà sửa dậy, tức khắc nó nghe ngay, mà khi nó đã nghe thì bảo gì nó cũng nghe."

Tuy mẹ giấu con điều ấy, vì một lẽ muốn con khỏi điều tự ái quá lẽ, nhưng cứ nhận xét con cũng rõ, hồi ấy và bất cứ khi nào, muốn cho con nghe, mẹ chỉ có thể dùng cách mềm dịu, chứ cứ bẳn gắt với con thì chỉ thêm lỳ thêm khó. Vì con, Chúa đã chúc phúc cho một tấm lòng dễ cảm, gặp đe loi con chỉ biết sợ hơn là ghét, nhưng khi gặp yêu đương hiền dịu, con rất dễ lưu luyến. Ði đôi với tâm tình ấy, con lại được một người mẹ vừa giầu năng lực, vừa sẵn lòng yêu thương làm mẫu mực, thật con không còn biết lấy lời mà tả hết tấm lòng yêu thương rộng rãi của Chúa.

Năm con lên bốn, mẹ có nói khen con câu này, và khi ấy mẹ không còn sợ nói khen cho con nghe thấy nữa: "Từ hồi nó lên bốn, tính nết nó dần dần biến đổi, và lòng tôi từ ấy mới nhú lên được một mầm hy vọng về tương lai nó."

Ô, thưa cha, lời công minh ấy chẳng làm con tủi hổ chút nào, vì con cũng nhận thấy hồi ấy tính nết con tự nhiên đổi hẳn, con biết chiều lòng mẹ, ăn ở hiền lành ngoan ngoãn. Và hễ khi nào con biết nghe lời mẹ thì lòng con rất vui. Ðó chẳng khác một phần thưởng Chúa ban để cảm khích những con trẻ biết vâng lời mau mắn.

Con khôn chẳng qua cũng nhờ mẹ. Con còn muốn nói, tất cả những cái hay cái đẹp con có, thảy điều nhờ bởi tấm lòng hiền mẫu mà ra. Nuôi con, đã đành là một nỗi khó khăn không vừa, nhưng giáo hóa được đức cho con trở nên một người tốt, đó còn là một kỳ công, ngoài một người mẹ nhân đức, không còn một người mẹ nào có sức làm nổi.

Con nói thế, vì con đã hiểu mẹ là người thế nào rồi, và lắm lần con đã chẳng ngần ngại gọi mẹ là: Bà Thánh, ngay khi mẹ còn là người sống trên dương thế. Và câu: Mẹ nào con ấy, đã ứng hợp cho đời con từng mảy may. Vì tuy con là một đứa trẻ không ngoan, nhưng với bao nhiêu những mầm xấu đã được mẹ cắt tỉa cho đi hết. Tự khắc cây hồn con đâm trổ cành, xinh lá đẹp, rồi khi tháng mùa lại, cây đã có thể hiến cho thiên nhiên những chùm hoa hương sắc xinh tươi và ngào ngạt..

Nguyên Xuân
19-02-2009, 08:40 AM
Người đơn sơ, trong sáng quá !
Em đang chờ lời tự thuật những giai đoạn sau đấy .
Tiếp đi chị Lit nhé !

littlewave
19-02-2009, 11:50 PM
Người đơn sơ, trong sáng quá !
Em đang chờ lời tự thuật những giai đoạn sau đấy .
Tiếp đi chị Lit nhé !

22222222222, đồng chí đồng minh đồng cảm đồng lòng đồng tâm đồng đạo...
Nguyên Xuân biết hông, lit yêu mến thầy Marcel lắm lắm, nhờ Thầy bầu chủ đủ điều..., mà nhờ là được đó! Mọi người xúm vào nhờ vả đi nèo... :3::3::3:

littlewave
19-02-2009, 11:52 PM
Tình Cha: Thương, chiều, nghiêm, đạo đức

Lòng mẹ đã ấp ủ đời thơ con êm thắm lắm, và yêu đương đã khéo nắn con nên một đứa trẻ ngoan, biết yêu lại, cũng biết kính sợ. Lòng mẹ đã là nơi ghi gắn cho con biết bao là kỷ niệm đầy lưu luyến!
Nhưng ngoài mẹ, con lại còn được tấm tình phụ tử bao la. Ðó chẳng khác làn gió hiu hiu nhẹ, phe phẩy cho đời xuân con thêm ý nghĩa.

Thưa cha, nếu con đã có thể nói mẹ là người con lưu luyến hơn hết, thì con cũng có lẽ mà nói: Thầy là một người nuông chiều con hơn cả.
Vâng, thưa cha, thủa ấy thú vui gia đình đã làm cho con say mê dịu dàng lắm; đối với con, ngoài sự mơ ước thiên đàng, thì con không còn một sự mơ ước nào khác hơn sự được sống yêu trong gia đình.

Thày con, trong ngày, phải lo toan công việc bề bộn, nhưng hôm nào cũng thế, nhất là về mấy tháng hạ, hễ cứ cơm chiều xong là thày đem con đi dạo chơi cùng làng, khi thì xuống bà, lúc lại đi ra đồng hóng mát.

Cái thú con ưa thích đặc biệt trong lúc đi dạo, là không phải đi bằng hai bộ giò non của con. Theo cách muông chiều, thày cho con ngồi lên trên cổ thày, hai chân bỏ thõng về đằng trước, hai tay ôm đầu thày, rồi thày phóng nước đại như thể ngựa chạy, cho đến khi nào con muốn thày đi chậm lại. Con gọi cách đi như thế là "đi ngựa". Thày lại còn tỏ ra những cách nuông chiều khác, như là đặt tên nọ tên kia cho con vui. Hồi ấy, để tỏ ra chí nam nhi, anh hùng tứ xứ, thày thường gọi đùa con là "Ông Ðại Tướng". Thật ra ông đại tướng non ấy chẳng có làm được ra cái trò trống gì, chỉ được cái nước nghịch là ai cũng phải hàng, nên thày đã gọi cho cái tên "đại tướng" cho thiên hạ khiếp.

Rồi mỗi chiều đi chơi, hễ con muốn, là thày lại phục sức cho như một ông tướng đi duyệt binh. Coi đến chững. Lại được ngồi ở trên vai thày, thật không còn gì thú bằng. Ðôi khi mẹ con cho thế là quá nuông, nhưng mẹ cũng lại được thày trả lời cho một câu cũng như câu Ông Martinô trả lời cho bà Guérin rằng: Thì truyện, thế nào là ông đại tướng? Nhưng chắc là thày không có ý chiều để có thể làm cho con hư; vì tuy chiều thì chiều thật, nhưng không bao giờ thày chịu để cho con có những cử chỉ phụng phịu, làm nũng. Mà thoảng hoặc có khi nào những cử chỉ ấy phát lộ ra, tức khắc thày liền đem bà chúa mây [roi mây] ra để cạnh đấy, tất nhiên mọi sự điều ổn thoả; đại tướng dầu có ương đến mấy, trước cái thái độ thẳng thắn ấy, đều phải im phăng phắc. Tuy nhiên không bao giờ con bị bà chúa ấy va chạm phải da thịt, nhưng con rất am hiểu, và rất khiếp sợ.
Hồi ấy những buổi chiều vui thú nhất, là những buổi chiều hạ, con được thày đưa đi dạo ngoài đồng.

Tình lúc bé

Những cánh đồng xanh tươi năm ấy chưa có bén động lòng con chút nào, cũng chẳng gợi nên cho con một chút cảm tình gì âu yếm. Con thích, chẳng qua vì sự thênh thang bát ngát của cỏ hoa, hay đồng lúa chín, thích hái hoa, đuổi bướm, thích reo hò đùa nghịch với gió chiều phe phẩy. A! Con thích, thích với trăm ngàn cái thích, nhưng chỉ thích vì hay vì đẹp, chứ còn những thú vui thiêng liêng, như kết hợp với Chúa trong đồng cỏ, hay nghe tiếng lòng nỉ non với muôn hoa; thì con chưa có, chưa có một cảm giác nào về những thú vui thanh tú ấy. Phải, vì linh hồn con còn bé bỏng, như chồi hoa non dại, ánh mặt trời chưa dõi thấu, hương sắc còn ẩn nấp trong khuôn khổ hồn nhiên.

Nhưng thầy thì lại khác; sau khi đã đặt con xuống đất, thày đi thong thả trên khắp cánh đồng, hai tay khoanh lại trước ngực, và vừa đi vừa đưa mắt xa xa theo chiều gió lướt. Có khi thày dừng lại, đứng ngắm ánh nắng chiều tan rã, vòm mây lơ lững. Có lúc con nghe như thày cầu nguyện, và nhiều khi nhận thấy thày như say chìm trong cõi mênh mông của sự vật. Lại có lúc con nghe thày ngâm thơ, và diễn tả cho con nghe những sự thuộc về Chúa một cách rất mê man.

A! Giá khi ấy con được một chút am hiểu như thày, thì biết bao êm thú con đã gặp được ở trong lòng Chúa !

Nhưng chiều mau chóng lắm. Khi nắng đã là là sườn đê xanh, trên tháp chuông nhật một đổ hồi, cha con dắt nhau về, mà lần nào con cũng lại được thày cho về "ngựa" cho mau hơn. Vừa đi con vừa nhún mình theo bước thày, vừa ngêu ngao hát: Nhong, nhong, nhong, ngựa ông về ăn, cắt cỏ bồ đề cho ngựa ông ăn. Và hễ cứ về đến cổng là đã có mẹ chực đón con đi nhà thờ rồi.

Êm tươi quá, những chiều con thấy mình được cha yêu!

littlewave
21-02-2009, 10:15 PM
Bà cháu

Tuổi non lòng dại; tuổi là tuổi được yêu, nên quanh con vẫn có trăm nghìn tình yêu ấp ủ.

Hai bà con, bà nội và bà ngoại đều còn cả. Hai bà, bà nào cũng là yêu cháu lắm. Nhưng mỗi bà lại có một cách yêu khác biệt.

Bà nội con, thì thường chỉ yêu cháu quá về những vẻ tốt bề ngoài. Lần nào tới thăm con, bà cũng chỉ khen: Thằng Văn nó có cặp môi xinh quá đi, vừa đỏ vừa mịn - gớm! Hàm răng của nó sao mà đều đặn thế? Rồi bà bảo con: Cười đi cho bà xem nào. Hễ lúc con vui mà cười được như ý bà, thì bà ôm ghì vào lòng, hôn lấy hôn để, rồi thì quà bánh bà moi ra, không biết sức nào cầm được cho xuể.

Nhưng những kiểu khen ấy không bao giờ đẹp ý mẹ con cả; nên hể cứ bà khen là mẹ lại chê, bà khen một, nhưng mẹ lại chê mười, và hễ lúc bà về, mẹ lại phải đính chính những lời bà khen lại ngay. Mà con thì khi nào cũng cho lời mẹ là đúng cả. Rồi chẳng kỳ là tốt hay xấu, hễ cái gì con muốn là bà cũng chiều hết. Hồi ấy, bắt chước bà con đã tập hút thuốc lá, thế mà hễ con chìa tay xin là bà moi cho liền.

May thay, con còn có một người mẹ kỷ luật, nên con chưa đến nỗi phải ân hận. Luôn luôn mẹ kìm hãm con, và ngăn cản bà những nố chiều có hại. Phần con tuy yêu bà lắm, song lời mẹ vẫn như là một điều răn con không bao giờ dám lỗi.

Trái lại, bà ngoại con, thì rất mực hiền từ, yêu cháu rất tận tình, nhưng không bao giờ nêu cớ cho con ra tự phụ quá đáng. Bà rất nhân đức. Thường khi gặp cháu bà chỉ hỏi thăm cháu về sức mạnh thiêng liêng, như hỏi:

- Thằng Văn nó có ngoan không?
- Biết làm dấu thánh giá chưa?
- Thuộc kinh gì rồi?
- Ta là con ai? Cháu ai? Dòng dõi ai?
- Quê ta ở đâu?
- Có yêu Ðức Mẹ không?

Bao nhiêu những câu hỏi ấy, nếu con thưa được thì bà thưởng xu, bằng không thì bà lại dậy cho con biết. Nhưng có cái phần thưởng cao quí nhất, lần nào bà cũng hứa cho, là hứa sẽ xin Ðức Mẹ cho cháu được về quê thiên đàng. Cho nên khi ở với bà ngoại thì bao giờ con cũng được hiểu rõ về Chúa hơn, cũng như ở với mẹ vậy. Tình âu yếm Chúa do đó, mỗi khi một tăng thêm trong tâm hồn con.

Tuy nhiên, cả hai bà đều đã chiếm được phần trong trái tim con. Lại con cũng tỏ nhiều cách để tỏ lòng trìu mến hai bà. Có lần con cũng chúc cho bà nội mau được về thiên đàng như cô bé Têrêsa chúc mẹ cô. Con cũng thích để bà ấp con trong áo bà để bà sưởi ấm, thích để bà hà hơi thuốc vào cho con ho, để bà cười, và với bao nhiêu thế nữa, con thường theo những cử chỉ trẻ con để làm cho các bà được vui. Tóm lại một điều, theo lời mẹ, thì bà nội yêu cháu chỉ vì tính con vui, kháu khỉnh, nghịch ngợm, nên bà thường gọi đùa là: Cậu ấm tí hon của bà, hay là "Chú cuội con". Nhưng bà ngoại thì lại yêu vì cháu có tấm hồn thanh bạch, đơn giản, và đạo đức, nên khác với bà nội, bà lại gọi đùa con là: "Ông thiên thần".

Con ra đi, khi hai bà còn sống, nhưng khi đã lìa biệt gia đình được non một năm, cả hai bà điều được về chầu Chúa. Khi ấy con lên tám.

Tình huynh đệ

Gia đình con, trong có ba anh em, con vẫn còn là bé út. Hai anh chị con thì ngày ngày cắp sách đến trường làng, còn mỗi mình con ở nhà với thày mẹ. Những lúc ấy thật là buồn, nhưng con rất chú ý, hễ động nghe tiếng ra chơi, là con thoăn thoắt chạy ra cổng trường để đón anh chị, những lúc ấy con được rất nhiều hình, những hình ảnh voi ngựa bé bủn, tuy chẳng có gì là ý nghĩa, thế mà cũng làm con vui thú lắm. Rồi tức tốc con chạy về đem khoe mẹ những món quà kỳ khôi ấy, và hễ mẹ có cho bánh kẹo gì, con cũng chạy đem chia cho các anh chị con ngay.

Ô, hồi ấy chúng con sống có những ngày rất yêu thương, mặn nồng. Ngoài những giờ phải đi học, còn thì lúc nào con cũng được anh chị quây quần nô giỡn. "Em bé" cái tên cưng nhất con được nghe mỗi khi anh chị gọi con đi chơi, hay cho tặng một món quà.

Trong các ngày thứ Năm, ngoài giờ mẹ dậy bổn, vì con tuy bé nhưng cũng phải có chương trình học hành như hai anh chị, chỉ khác có một điều là các anh chị thì học chữ còn con thì học bổn, hay tập chào hỏi, ăn nói lễ độ.v.v. và chính mẹ làm bà giáo dậy con. Nhưng hễ hết giờ học ấy thì con lại được chị Lê đem lại bên án thư để dậy con học chữ. Nhưng đó chỉ là một lẽ để chị dành phần giữ con, thế cho cô ở mà thôi, chứ thật ra chị chỉ dậy con vài ba chữ A B C qua quýt rồi đùa nghịch với con, hay giở hình ra cho con coi. Rồi chúng con, cả ba đem nhau ra vườn rước kiệu, hoặc dựng nhà dựng cửa, xây thành đắp lũy, đào ao, tát chuôm, làm làng lập ấp, rất là vui thú.
A! con nhớ đến những cuộc rước kiệu chúng con tổ chức, thì thật là buồn cười; đôi khi có cả trẻ con hàng xóm đến dự. Những vật dụng trong cuộc rước kiệu thì rất sơ sài; kiệu nặn bằng đất sét, chuông cũng bằng đất sét, mà những thứ đó thì tuyền là do bởi bàn tay khéo léo của anh Liệt tạo ra. Tuy nhiên, không kém phần mỹ thuật. Cờ quạt thì toàn bằng lá chuối chen lẫn với những cánh hoa tươi đủ mầu, chăng trải từ đầu nọ đến đầu kia, thật không khác gì những sợi tơ màng nhện được trang điểm. Tất cả được bày giãi do trí tưởng tượng non nớt của chúng con. Duy chỉ có mẩu ảnh Ðức Mẹ là lấy ở đầu giường đem ra.

Khi việc trang hoàng đã xong, chúng con đánh trống bằng miệng, thổi kèn cũng bằng miệng, triệu tập tất cả lại chung quanh kiệu Ðức Mẹ, bé bằng nắm tay; rồi chúng con hát; hát xong thì cắt phần việc cho mỗi người; anh thì làm cha, anh thì làm đồng nhi, anh thì làm phường trống; anh thì thổi kèn; còn các cô con gái phải đóng vai học trò, và bà dòng để đọc kinh. Nhưng có nhiều lúc thiếu chân, nên một người mà đóng hai ba vai, như anh làm cha, thì một thể phải khiêng kiệu, và làm phường trống; phải chia quãng ra mà hành sự; phải đọc kinh lìu xìu một tí, rồi thỉnh thoảng phải đánh trống "tung tung" để mọi người đi theo đều. Lúc nào lần hạt thì kiệu ngừng lại một chỗ. Sau cùng đến cuộc chầu phép lành. Chúng con không có "hào quang" nên chỉ rung chuông và cúi đầu trước ảnh Ðức Mẹ mà thôi.

Ô, cái cảnh tượng hồn nhiên ấy, nếu các thiên thần trên trời có đưa mắt nhìn xem, chắc các đấng không thể khỏi nín cười được, và với cặp mắt Mẹ hiền dịu, không thể nào không theo dõi từng cử chỉ bé bủn của lũ bé chúng con. Con cảm tưởng như khi ấy Mẹ đã mỉm cười với đàn con thơ bé ấy, và biết đâu, chính Mẹ cũng đã đến dự cuộc rước ấy với chúng con.

Thưa cha, những cuộc rước ấy rất vui, không những xác, mà còn làm cho cả hồn con càng có một giây thân mật bền chặt với Mẹ trên trời nữa. Bởi thế, có bao giờ thày mẹ cấm chúng con rước kiệu đâu? Chỉ có cô ở là không bằng lòng, vì cô phải quét sân.

Sau những cuộc rước ấy, con còn được anh đưa di chơi xa. Có thể nói được là đi săn. Thưa cha thú lắm. Muốn dễ dụ con theo, anh cũng thường lấy cái mốt cho con "đi ngựa" như thày, để anh đưa đi bắn chim, hoặc săn chuột.
Anh con có cái tài bắn ná cao su đặc biệt, và tìm hang chuột rất giỏi. Thường là về mùa gặt, các cánh đồng khô cạn và quang đãng, anh thường đem con vện đi ra đồng săn chuột. Các chú chuột nhắc bé tí, nhũn nhặn, hiền lành, coi rất dễ thương. Thường con rất ưa chơi với những con vật ấy, nhưng ít khi chơi được lâu, vì bà mèo thường hay ghen, nên đã cướp mất của con bao nhiêu là sự vui thú ấy. Các chú chim cũng phải trong cơ hội ngặt nghèo như thế, nên đã làm cho chúng con mất cái thú nghe chim hót trong nhà.

Nhưng những cuộc đi săn thường hay quyến dũ anh em nhà thiện xạ đi xa quá trớn. Lắm lần bị trẻ con làng bên đón đường đột kích, cùng ý của chúng chỉ là muốn bỏ bụng vài ba chiếc bánh, hay gói kẹo, mà không cần phải xin ai, nên hễ cứ thấy trẻ lạ mặt là ào ra hạch họe để thỏa sự thèm khát.

Nhưng anh em chúng con lắm lần cũng chả sợ. Cái sức mạnh đã làm cho anh hiên ngang lắm, và đã chiến thắng nhiều phen, là chiếc ná cao su. Nhưng cũng có lần phải cấp tốc rút lui, vì lực lượng chúng đông. Khổ một nỗi, là cuộc giao tranh như vậy thường xẩy ra, nên về sau mẹ đã ra lệnh cấm anh em nhà thiện xạ không được xông pha quá trớn nữa.

Thưa cha, chắc cha cũng thừa hiểu rằng: những câu truyện đánh đấm nhau ấy, có thể đưa con trẻ đến một chỗ vô giáo dục được, vì thế mẹ đã cấm. Nhưng cũng tỏ ra tình anh em rất bền chặt.

Anh con chẳng khi nào chịu lùi bước khi chưa lấy lại được cho đứa em chiếc bánh đã bị cướp, hoặc gói kẹo đã bị xâm chiếm. Dầu nguy hiểm mấy anh cũng cứ xông pha. Có lần bị sưng cả mặt lên vì kháng chiến cho em. Mà con, cũng thấy lòng dũng cảm, tuy bé thì bé, con cũng biết nhặt đá cho anh bắn, và khi có thể, con xông vào đám chiến như con chó dữ, dùng răng để cắn, nhất là khi thấy anh đã bị thương. Và sau mỗi lần bình chiến là anh em lại thấy giây thân mật ghì kết chặt chẽ đôi lòng lại.

Song thảm thay! ngày vui đang tươi sáng, thì đột nhiên, một vòm mây đen xám vụt đến xô che ánh mặt trời. Anh con, Chúa đã sớm dắt vào con đường đau khổ. Vừa được 13 tuổi, thánh giá tàn tật đã đặt để trên vai anh. Anh bị đau mắt một dạo, rồi nhìn không rõ, mắt anh cứ bị mờ dần đi, và cho tới ngày nay anh vẫn còn phải ở trong cảnh huống u mờ ấy. Song với sức can trường anh vẫn nói: Nếu Chúa không muốn anh lành lặn, anh xin vui lòng chịu cho đến ngày được gặp ánh thiều quang trên quê hằng sống! Ðời anh thế là đã chìm mờ trong bóng tối như đôi tròng ngươi mất sáng.

Ôi! Thánh ý Chúa! Thánh ý Chúa là tất cả mọi sự đẹp đẽ của lòng người yêu Chúa!

Trong lòng con từ đây khuyết hẳn một nụ cười.

littlewave
23-02-2009, 09:28 AM
Hai Chị Em

Anh Liệt sống trong bóng tối. Chị Lê từ nay biến thành người tâm phúc của con. Ðối với đứa em bé nghịch ngợm, không bao giờ chị chịu thua ai trong cách tỏ tình âu yếm. Chị cũng có cái cách chiều con quá đáng như bà nội, lại hay làm tốt cho con lắm nữa. Chị thật có tấm lòng rộng rãi, và hay tha thứ như người mẹ, cho nên con rất quí mến chị và vẫn thường gọi là "Mẹ nhỏ".

Ngày ấy đi đâu chúng con cũng phải có hai chị em, mà thường hễ gặp ai con cũng nghe họ hỏi:
- Hai chị em sau này lớn thì sẽ làm gì?
Mà lần nào con cũng nghe chị Lê đáp:
- Cháu đi tu.
Và con tuy chả hiểu tu là gì con cũng theo chị đáp:
- Cháu cũng thế, cháu sẽ đi tu với chị.
- Không, cháu là con trai, phải ở nhà làm thợ may với bố chứ?
- Chả, cháu thích đi tu hơn.
Những câu trả lời ấy đã rất được gia đình chú ý, và hay nhắc tới để đợi xem đứa bé hay "hám mẹ" ấy, sẽ có thể lìa xa gia đình bằng cách nào?
A ! bằng cách nào? Một khi Chúa đã muốn tuyển lựa một linh hồn, thì dù nhiêu khê đến mấy, sức Chúa vẫn kể nó là như không. Sau này khi con đã hiểu tu là gì rồi, tự con không còn lấy cái phải xa mẹ làm khổ nữa, tuy nhiên con biết nó sẽ sâu xé lòng con luôn mãi. Nhưng câu truyện về sau ấy chưa đến, con xin tiếp lại cái câu truyện chị em hiện thời.

Hễ cứ chiều, sau lúc tan học là chị em đem nhau ra vườn trồng hoa; chính chị đã dậy con cách cầm cuốc xới đất và tưới cây. Vườn hoa của chúng con có cái vẻ đẹp ngây thơ lắm; hoa tươi thì sáng nào cũng nở đầy vườn, nhưng chiều lại, thì bao nhiêu hoa điều đã mất sắc và tàn ỉu hết. Vì sáng nào cũng thế, muốn cho vườn của chúng con có vẻ là trồng hoa, nên chị em cứ ra đồng lượm hoa về để cấy.

Thưa cha, câu truyện cấy hoa ngày nay nó chỉ tỏ ra một trong những cử chỉ hồn nhiên của tuổi trẻ, nó ngây thơ và ngộ nghĩnh thật, nhưng đã đượm một ý nghĩa sâu xa cho đời con; nó đã gợi cho con liên tưởng đến một ngày sau đây, qua cái buổi mai tưng bừng của tuổi thơ xinh đẹp này, con sẽ phải qua một thời mưa nắng và tàn khô, như bông hoa con cấy, đã tàn tạ dưới nắng chiều.

Chỉ còn đợi một ngày mai trên quê hằng sống. Mai ấy mới là mai vui vẻ trọn niềm thôi.

Con cũng còn nhớ những ngày trong tháng năm được chị đem đi hái hoa về để dâng cho Ðức Mẹ.

Ngày tháng năm! A, ngày ấy là những ngày xinh tươi độc nhất của tuổi con. Ngày ấy mưa phùn đã tạnh, các cánh đồng về đầy hoa bát ngát; cảnh vật xinh tươi, gió đưa nhè nhẹ, và như xông hương thơm ngát vào lòng người. Cảnh vật ấy quyến rũ chúng con không sức nào gượng được. Ngày nào chúng con cũng phải có mặt ở ngoài đồng để hưởng cái thú thiên nhiên, cái thú mà người nhà quê thường gọi là cái thú quyến dũ của Ðức Mẹ. Thật, tháng năm là tháng của Ðức Mẹ, và Ðức Mẹ đã reo rắc vui tươi xinh đẹp vào cảnh vật để thúc đẩy chúng con cách ân tình tríu mến. Vả Hội Thánh đã chọn tháng năm để dâng kính Ðức Nữ Trinh Maria, thật không còn gì phải lẽ hơn. Mà Mẹ lại đã được gọi là Mẹ muôn hương thơm nghìn sắc đẹp.

Con lại còn có cái cảm tưởng riêng gọi mùa tháng năm là mùa các thiên thần đi tung hoa, vì nhìn đâu cũng thấy hoa, hoa nở la liệt trên khắp mặt đồng.

Dưới nền trời trong dịu của đồng quê, chị em chúng con như hai con bướm, nhởn nhơ chơi giỡn bên những khóm hoa xinh đẹp, lòng đầy êm sướng, tay hái hoa, và miệng ngêu ngao hát những câu ca vãn về Ðức Mẹ. Vì thế những cảm tình về Ðức Mẹ đã ăn sâu vào đáy lòng chúng con. Chúng con đã lượm được ở nơi đồng cỏ những cảm tình đắm yêu đối với Ðức Mẹ. Riêng phần con, con đã quyết rằng con sẽ là một bông hoa không có trái, để trọn đời tung hương thơm trước tòa Mẹ. Ý nghĩ đi tu của con do đó ngày một thêm mạnh mẽ.

Rồi, tối nào cũng thế, chúng con đem hoa đã hái, bày trong một chiếc đĩa nhỏ, rồi đem đến nhà thờ để dâng cho Ðức Mẹ. Chị Lê thì đã vào sổ đồng nhi, nên tối nào chị cũng phải đóng bộ áo "Tiểu nữ" vào để đi dâng hoa. Chị ăn vận coi như một công chúa rất xinh; áo mặc như Ðức Mẹ, đầu lại đội vòng hoa hột, lóng lánh như kim cương. Theo nghi thức tiến hoa, thì những tiểu nữ của Ðức Mẹ phải vừa ngâm vãn vừa tiến hoa theo nhịp trống, văn ngâm đến đâu, nhịp trống sẽ nhắc cho các cô dâng, quì, bái, tiến. Thật không khác gì một cảnh thiên thần vui cả trước tòa Mẹ. Nghi thức ấy rất hay, rất làm cho con thèm ước, chỉ phiền con là con trai, nên không được hân hạnh cầm hoa tiến lên như chị. Nhưng bao nhiêu tâm thành ý tốt của con điều dồn để cả trên bàn thờ Mẹ, con tha thiết nhìn Mẹ, và chỉ mong Mẹ nhận lấy lòng con như một búp hoa non bé nhỏ, gió đời còn nưng niu chiều chuộng. Song con sợ một ngày có lẽ sẽ héo đi, nên con xin dâng ngay tự hồi thơ trẻ này, để nhờ Mẹ ấp ủ chở che, để hồn con lúc nào cũng được vui tươi cho đến mãi cùng đời.

Từ khi ấy trong lòng con thấy nở hẳn một niềm vui chan chứa. Con chắc Ðức Mẹ đã nhìn con, đã nở trong tâm hồn con một nụ cười bí mật, và chính niềm vui ấy là chứng tỏ lời Mẹ đã cam kết bảo vệ hoa lòng con tươi tắn mãi.

A! thưa cha thân mến, con cảm thấy dường như lúc này trí con không được minh mẫn mấy thì phải? Con đã viết chữ lộn xộn, và cũng không hiểu tự sao con có cái lộn xộn ấy? Con xin ngưng bút và để tỉnh táo viết sang câu truyện khác.

littlewave
26-02-2009, 10:10 PM
Lòng Ðạo Ðức

Cha thân ái, trên kia con đã diễn tả cho cha thấy, Chúa đã thương yêu cho con sinh trưởng trong một gia đình ấm cúng cả về phần thể xác lẫn tinh thần. Ðặc biệt nhất là ơn thứ hai, do cái tinh thần đạo đức của gia đình mà con sớm biết hướng chiều về lòng Chúa.

Người lại ban cho con có một tấm lòng mềm mỏng, ưa vui và cũng thích được chiều chuộng. Con xin mạn phép nói đó là cái tâm tình trong con người của chị Thánh Têrêsa Nhỏ. Và đi đôi với tấm lòng mảnh giẻ ấy, Chúa lại ban cho con một người mẹ như con đã kể, là đầy nhân đức và thật khôn ngoan. Trong tay một người mẹ như thế, con cũng đã được uốn nắn theo khuôn khổ ấy.

Một lần con đã nghe mẹ thuật về con rằng: Con càng lớn lên bao nhiêu càng làm cho lòng mẹ được hả hê bấy nhiêu. Vâng, thưa cha, quả thế, lời mẹ nói chẳng có bao giờ đượm một mầu tâng bốc, trái lại cũng không phải là vô giá trị. Chíùnh con khi ấy, con cũng còn nhớ rằng, hễ tính nết con càng sửa đổi, thì lòng đạo đức càng tăng thêm.

Công việc Chúa hành động ở trong con mỗi ngày một thêm rõ rệt. Phải chăng con đã là thánh? Không, song tuy dẫu bé tí, mẹ vẫn khen con luôn mãi rằng: "Cậu ấm bé người, nhưng đanh thép lắm đấy"

Nó không chịu thua ai về một điểm gì hay; trong hết mọi việc nó điều đòi tự làm lấy hết, và hễ nhà làm cái gì thì nó cũng đòi theo và làm cho bằng được. Bởi thế nó không bao giờ đi ngủ sớm cũng không bao giờ chịu dậy trưa, khi nào nhà đọc kinh tối xong nó mới chịu ngủ, và sáng nó xin mẹ gọi nó dậy trước khi nhà đọc kinh mai. Tinh thần đạo đức của nó trổi bật ngay lên giữa hai anh chị nó.

Nó vẫn tự xưng mình là ông thánh Giuse. Một hôm nhà nghe nó nói bảo nó rằng: Ðừng vô phép. Nó đáp ngay: Làm gì mà vô phép? Em nhận mình là ông Thánh Giuse, thì khi nào em ăn ở không ngoan, thì mới là vô phép chứ; còn đây em ăn ở tử tế cơ mà, em chắc ông Thánh Giuse còn thích thế nữa cơ ấy.

Nghe nó nói với một giọng bình tĩnh, thày nó cười, và tặng ngay cho nó thêm một danh từ mới nữa: Ông Thánh Trạng.

Nó nhắc nhở luôn đến việc đi tu. Nhưng đó lại là một căn cớ làm cho nhà có đủ truyện mà cười, vì nó không hề có thể xa mẹ được một giờ. Buồn cười nhất là một bận, cô ở dọn cơm cho nó ăn, nhưng nó không chịu, tự mình đi dọn lấy. Cô ở bực mình hỏi gắt:
- Sao khó tính thế em? Ðể chị dọn cho tử tế.
Nó đáp:
-Không, nay mai em đi tu cơ mà, em phải tập làm lấy cho quen chứ.
Cô ở nín cười, vả sẽ cho nó một cái và nói:
- Tu gì mà tu, miệng còn dính sữa ấy mà tu với tác gì? Rồi cô để mặc nó lo lấy.

Ðến đây mẹ cười rũ, và tiếp:
- Mà có biết anh chàng ăn thế nào không? Nó chỉ ăn có một bát; rồi dấu cơm cho đầy vào hai túi; nó làm một cách kín đáo lắm, không ngờ con cái Lê nó thấy, nhưng vẫn để yên xem thử nó làm gì. Chốc lát thấy nó chạy ra vườn sau, rồi lại chạy về. Hai túi cơm đã biến mất.

Nó vào lại trong bếp và lại nói nhỏ với cô ở:
- Trưa nay em chả ăn cơm đâu chị ạ. Giọng nói có vẻ thận trọng.
Cô ở ngạc nhiên hỏi:
- Sao thế?
Nó lúng túng đáp:
- Em ăn no rồi.
- Thì trưa em lại đói?
- Vâng, nhưng mà...
Rồi nó chạy mất ra vườn sau. Cô ở cũng chẳng hiểu ra sao. Và trưa hôm ấy nó nhất định chơi một mình ở góc vườn dưới khóm tre, chứ không chịu về ăn cơm.

Sau câu truyện mới vỡ lở, thì ra tối hôm qua, thày nó đã đọc cho nó nghe sự tích cụ Thánh Tịnh. Ði trốn vào rừng tu hành, mà nay nó cũng muốn tập tu như thế. Ðến đây thay vì cười, thì mẹ lại ra nước mắt.
Và nhiều lần mẹ còn kể những mẫu truyện buồn cười như thế.

Một hôm em hỏi mẹ rằng:
- Các Thánh đi tu thì đánh tội làm sao nhỉ?
Mẹ chưa kịp đáp thì chị Lê đã xen vào:
- Thì các thánh lấy roi mây mà quất vào lưng ấy, chứ còn làm sao nữa.
Nó thế vì chị Lê biết con sợ roi mây lắm. Lúc ấy con tự nhủ:
- Nếu thế thì em tu thế nào được? Và lộ vẻ lo lo ra nét mặt.
Nhưng mẹ lại vui cười yên ủi:
- Lúc ấy có ơn Chúa chứ.

Tuy thế, chứ hễ cứ nghĩ đến roi mây là con lạnh cả người đi, sờ sợ là.
Con vốn có thói quen lần hạt hằng ngày, thói ấy con đã kể cho cha ở trên kia. Tất nhiên con không thể nào bỏ được cái thói quen ấy, vì lần hạt là câu truyện thân mật giữa con và Ðức Mẹ. Muốn thưa gì với Ðức Mẹ con chỉ biết lần hạt, hoặc bất luận xin ơn gì, hay muốn Ðức Mẹ nhìn xem con cách yêu dấu, con cũng chỉ biết lần hạt. Có những ơn con xin rất ngộ nghĩnh như xin cho chóng lớn, xin cho khỏi mách tục; cầm đũa cho khéo; xin cho có em để ẵm .v.v.

Mà Ðức Mẹ lần nào cũng chiều cho như ý con xin. Có ơn này đặc biệt và còn cho đến ngày nay là trong bất cứ một dịp nào con không hề nói tục bao giờ. Chính mẹ cũng đã công nhận điều ấy từ hồi con còn bé. "Không bao giờ nó nói một lời gì tục tĩu."

Còn một ơn con xin mà Ðức Mẹ cũng ban cho con cách rõ ràng lắm, là không bao giờ để con đến nhà thờ trể một việc đạo đức nào. Nhưng mẹ đã phải nói: Rất lạ, là nó ham chơi hết sức, có thể bỏ cả ăn được. Nhưng hễ cứ gần đến giờ chuông nhất, là đã thấy nó ở đâu chạy về xin mẹ rửa mặt và mặc áo cho để đi nhà thờ. Ngày nào cũng như ngày nào. Và cũng có lần không biết nó chơi ở đâu mà tìm: Nhưng hễ nó ra mặt là biết sắp đến giờ chầu chiều rồi đấy.

Thật ra thì con chả chú ý gì, nhưng con đã xin Ðức Mẹ và Thiên Thần hộ thủ nhắc cho con biết để đi viếng Thánh Thể. Rồi con cũng không biết tự sao, cứ gần đến giờ là con thôi chơi và sửa soạn đi nhà thờ. Ðó cha xem, Ðức Mẹ yêu con thế đấy!

littlewave
27-02-2009, 09:19 PM
Tình Thân Thiết Với Giêsu Bé Thơ

Cha ạ, Ðức Mẹ đã đến chiếm lòng con cách sớm sủa thì một trật mẹ cũng lại mang cả Giêsu Nhỏ của Mẹ đến kết thân với hồn cách thân mật lắm.

Ngày ấy, con chưa biết gọi là Chúa Giêsu Hài Ðồng, cũng như chưa gọi được là Giêsu Nhỏ; con lại gọi theo cách của con là: Giêsu Con.

Con biết yêu "Giêsu con" một trật với Ðức Mẹ, vì mỗi khi thuật truyện về Thánh Gia mẹ cũng đã kể cho con rất nhiều truyện về Giêsu Con. Và con cũng được nhận thấy hình mặt người đang bú nữa, trong một mẫu ảnh ở nhà bà ngoại. Mẹ chỉ cho con và nói: Ðây là "Giêsu Con", mẹ vẫn kể truyện cho em nghe.
Thế rồi, hình ảnh "Giêsu Con" in chặt vào tâm trí con, và con chỉ thích được một "Giêsu Con" để ẵm.

May thay, một hôm bác con ở tỉnh về, làm quà cho cháu một con phỗng thật đẹp, với một bộ đồ chơi hoàn toàn khoa học, trong đó có một chiếc xe hơi vừa vặn cho em phỗng ngồi. Con vừa sung sướng vừa cung kính gọi ngay em phỗng là: "Giêsu Con" của con. Rồi ngay từ hôm ấy chỉ có một mình "Giêsu Con" là người bạn lưu luyến nhất của con. Con chơi với Giêsu Con suốt ngày, và ban đêm cũng không chịu rời bỏ. Ngày ngày con đặt Giêsu Con lên chiếc xe hơi nhỏ bé ấy, đã trang hoàng sẳn; rồi con kéo Giêsu Con đi chơi khắp nhà. Các lối Giêsu Con đi con điều chăng cờ và trải hoa. Công việc đôi khi có thày phụ lực, vì thày cũng thích con chơi ngoan với "Giêsu Con" để mẹ đi chợ.

A ! nói đến "đi chợ" con mới nhớ ra, hễ lần nào mẹ muốn cho con ngoan ngoãn trong lúc vắng mặt mẹ, thì mẹ điều phải nói khéo rằng: Ði chợ để mua quà cho "Giêsu Con" ăn. Như thế con mới chịu để cho mẹ đi, và lần nào cũng phải nói:
- Mẹ đi mau về, kẻo "Giêsu Con" khóc.

Thật ra chẳng bao giờ "Giêsu Con" khóc cả. Nhưng hễ mẹ về mà không có quà để con dâng cho Giêsu Con thì thế nào con cũng khóc, và phụng phịu vòi cho bằng được mới yên. Con nhớ rằng những lúc ấy bà chúa mây có ra mặt để thị oai, cũng là vô hiệu quả, con nhất định là chết cho Giêsu Con cơ mà.

Bây giờ con mới nhớ, con không có tật tham ăn, nhưng bao giờ quà mẹ cho con cũng phải xúy hai phần, một phần cho con và một phần cho "Giêsu Con".

Tuy con vẫn biết rằng Giêsu của con không bao giờ ăn, nhưng tình bằng hữu vẫn thôi thúc con phải ăn ở tử tế với người luôn. Hoặc giả có khi nào quà ít, mà con không chiếm được phần cho "Giêsu Con" thì con lại lấy phần của con, mà chia đôi cho "Giêsu Con" một nửa. Mà khi đã cho "Giêsu Con" không bao giờ con còn đòi lại hoặc ăn lấn. Trái lại con cũng không cho ai lấy. Phải để dành riêng cho "Giêsu Con", để hoặc có kẻ khó thì cho; bằng không, phải giao cho mẹ để tối mẹ xin thiên thần đem về trời, và ghi món quà vào sổ vàng.

A! Sổ vàng, hồi ấy hình ảnh cuốn sổ vàng, đã thúc đẩy con thích hy sinh nhiều cái nhỏ mọn. Và hơn nữa, nó giúp con hướng chiều về Chúa mỗi khi một mạnh.

Ban ngày thì "Giêsu Con" với con là hai người bạn nô nghịch cùng nhau. Tối về con lại hẵm "Giêsu Con" trên ngực mà ngủ. Ô! Giấc ngủ của con khi ấy êm dịu chừng nào! Nhưng con cũng không nhớ có khi nào mộng đẹp nở ra trong những giây phút dịu dàng ấy chăng? Con chỉ nhớ rằng: Sáng nào dậy con cũng đã thấy "Giêsu Con" nằm ngoan bên gối con rồi. Con thường cho đấy là một phép lạ. Nhưng phép lạ ấy, nếu không phải Thiên Thần bản mạnh làm, thì chỉ có tay mẹ làm mà thôi, không thì có lẽ "Giêsu Con" đã bị đè bẹp trong giấc ngủ ngon lành của con rồi.

Con thiết nghĩ, do cái tấm lòng yêu đương thành thật ấy, đã được "Giêsu Con" đáp lại một cách ân tình rộng rãi. Qua hai năm, dẫu tuổi lòng còn măng sữa "Giêsu Con" cũng đã chẳng nề quản tự thân đến kết hiệp cùng hồn con. Vinh dự ấy con xin thuật tả vào khúc sau, hồi con rước lễ lần đầu.

Trong việc tôn kính các thánh, con chưa có lòng tôn kính cách riêng một đấng nào ngoài Thiên Thần bản mạnh. Vì theo lời mẹ dậy, thì người là đấng Chúa sai đến để bảo vệ hồn xác con, thâu góp những việc lành ta làm mà dâng lên trước tòa Chúa. Tóm lại người là một người bạn đường trung tín nhất mà Chúa đã ủy thác việc đưa đường dẫn lối cho ta trong nơi tối tăm đầy nguy hiểm này. Thành thử con yêu mến người lắm. Con thường gọi người theo cái tên riêng của con là "Anh Thiên Thần" và hễ làm việc gì là con nghĩ tưởng đến người trước hết, để nhờ người phù trì giúp đỡ.

Hồi ấy, con chưa nghe nói gì đến chị Thánh Têrêsa Nhỏ. Giả như đã nghe nói, chắc chắn chị Thánh đã chiếm được phần nào trong trái tim con. Và như thế, đời thơ con biết đâu đã chẳng có những cụm hồng yêu tươi thắm như chị?.

Nhưng như thế sự Chúa an bài mới thành ra ý nghĩa. Sau này, khi đời gian lao con đã trải; đau thương đã lão luyện hồn con, khi ấy bông hường tình yêu ấy mới ra mắt đón chào, nhô ra cái thân phận mình và cho hay hy sinh là sự minh chứng của tình yêu thật, nghĩa là yêu Chúa tận tình thì phải có sự vui lòng chiều theo ý Chúa. Mà ý Chúa rất mầu nhiệm, nhiều khi không phải vui cả, trái lại cũng không phải là buồn luôn mãi. Phải đau khổ lắm Têrêsa mới trở nên một vị Thánh.

littlewave
01-03-2009, 05:02 PM
Em Anna Maria Tế

Gần lên bốn, lúc ấy con mới được Chúa thương ban cho con một em gái.
Một nỗi vui, mà con chưa biết lấy lời để tả. Thì đột nhiên con lại phải đeo một mối sầu ly cách.

Vài tháng trước khi em sinh, hôm nào lần hạt, mẹ cũng dặn con nhớ cầu nguyện cho em bé. Con cũng rất mong được có em bé nên ngày nào con cũng sốt sắng xin Ðức Mẹ cho con mau có em bé để hẵm. Và ngày nào con cũng hỏi Mẹ:
- Em bé sắp đến chưa?
- Sắp rồi, nếu em cứ chịu khó xin Ðức Mẹ.
- Nó có đẹp không?
- Ðẹp lắm, và mẹ cười.
Con còn tò mò hỏi mẹ nhiều nữa, như:
- Ðức Mẹ để em bé của em ở đâu?
Mẹ cũng lại cười đáp:
- Ðức Mẹ giấu kỹ lắm, bao giờ em ngoan đủ, Ðức Mẹ mới cho thấy.
- Thế còn em, ngày trước Ðức Mẹ giấu ở đâu?
- Ở trên trời.
- Ồ, sao em không thấy Ðức Mẹ, và các Thánh Thiên Thần?
- Tại hồi đó em chưa mở mắt.
- A, thế thì chắc em bé của em cũng đang ở trên trời. Vậy em phải xin cho nó biết mở mắt trước mới được.
Thế rồi một buổi sáng, lúc con vừa thức dậy, chị Lê đã chạy lại ghé miệng vào tai con và nói khẽ:
- Chúng ta có em bé rồi cơ Văn ạ, nó xinh lắm cơ.
Con vội vàng vùng dậy, quên cả đọc kinh dâng ngày, vừa chạy vừa hỏi chị Lê:
- Nó ở đâu hả chị?
- Ở trong buồng mẹ ý; cơ mà mẹ không cho vào đâu.
- Mặc kệ, em bé của em chứ có phải của mẹ đâu?
Rồi con cắm đầu chạy thọc vào buồng mẹ, lúc ấy đang có các bà con và mấy người láng diềng đến thăm mẹ. Con hỏi cách nóng nẩy:
- Em bé của em đâu mẹ?
Và ngay lúc ấy sự ồn ào của con đã làm em bé đang ngủ giật mình dậy và khóc oe lên. Mẹ vội bịt miệng con lại và đáp:
- Em bé nào là của em? Muốn sống đi chơi ngay cho em bé ngủ đã, đến chốc rồi mẹ cho xem.
Con nhất định không chịu vùng vẫy nói:
- Không, em bé của em chứ.
Nhưng tức khắc con bị một bà láng giềng lôi ra khỏi buồng, bà đưa cho hai quả chuối bảo:
- Ðấy, quà của em bé đấy, ăn đi, rồi chốc em bé dậy hẵng xem.
Con lại vùng vẫy chạy vào lần nữa, mà lần này con đến ngay bên em bé. Nhưng chỉ kịp nhìn chưa được nửa phút, cô ở đã lại đến lôi cổ con đi.
Chị Lê lúc ấy còn ngấp nghe ở cửa, thấy con bị lôi ra chị chạy mất. Sau mãi mới dám lại gần và hỏi con:
- Nó thế nào?
Con hiên ngang đáp ngay: Nó xinh xinh là, nhưng mà chưa mở mắt.
Từ bấy giờ con vẫn tự hỏi? Tại sao nó lại chưa mở mắt? Và như thế chắc nó cũng chưa thấy Ðức Mẹ và các thánh Thiên Thần. Uổng quá! Thôi, thế là hết hy vọng hỏi em về Ðức Mẹ có xinh không.


Ngay ngày hôm ấy người ta đem em đi chịu phép rửa tội, và nhờ ơn bà nội, con được hân hạnh lại gần và hôn em một cái sau lúc người ta đem em ở nhà thờ về. Lúc ấy hết mọi vẻ ở nơi em con điều xinh đẹp cả, chỉ phiền một nỗi là chưa thấy em mở mắt.

Và cũng từ ngày hôm ấy, con lại càng bám xít lấy mẹ hơn. Con chỉ sợ người ta đến ăn trộm mất em, mà như thế những định ước, con sửa soạn để chung sống với em bé ra thì hỏng mất. Những định ước ấy không ngoài những điều con sẽ kể như mong em mau biết nói để cùng con lần hạt, mong em mau biết đi để mỗi lần rước kiệu khỏi phải nhờ cô ở làm học trò. A! Tóm lại là con mong em rất nhiều cái. Mong cả cái sẽ rủ em đi tu thật xa, như Mẹ Thánh Têrêsa. Nhưng có mỗi một cái con mong hằng ngày, là mong em mau mở mắt, để con cho em xem "Giêsu Con" xinh đẹp của con, và những món đồ chơi mà con đã dự tính để tặng em.

Thế mà, bỗng một ngày người ta đến bắt con đi ở chỗ thật xa, không cho sống quây quân bên em bé thân yêu của con nữa.

Con được tin phải sang ở với bá Khánh ở mãi tận bên Từ Sơn. Không hiểu ra duyên do vì đâu mà con bị mẹ khép cho cái án đầy bất công ấy. Con lăn ra la khóc om sòm, và đòi mẹ một điều kiện là phải cho em bé đi theo. Nhưng mẹ, chẳng những đã không cho, lại còn công khai tuyên bố: nghịch như giặc ấy, em bé nào chịu được mà cho đi theo anh chàng.

Ồ, thì ra người ta bảo, tại con nghịch, làm rầy rà cho em bé, nên mới bị đem đi ở xa? Như thế thì oan con quá! Con nhất định là con chỉ yêu em bé thôi, chứ không có ý phá rầy em. Nhưng có lẽ những cử chỉ yêu của con không được ai hiểu. Ví như những lúc được quà, con nhường cho em bé một phần, giấu rất kỹ, đợi khi nào không có ai thấy, nhất là lúc em đang ngủ, con sẽ sẽ lại bên cạnh, đánh thức em dậy, và nhét quà vào miệng em và giục em: ăn đi cho chóng nhớn. Cũng có lúc, muốn cho em mau mở mắt, con đến vành mắt em ra và giơ "Giêsu Con" lên để khoe "Giêsu Con" của anh đây này, có xinh không? Có lúc như thế, con thấy em nhoẻn miệng cười vui vẻ, như thích chí lắm. Nhưng cũng có lần em không cười, lại oa lên khóc, làm cho mẹ phải vội vàng chạy đến như là em sắp chết! Ô, những lúc ấy con buồn làm sao! Và nếu không mau mau trốn đi cho xa, thì thế nào cũng được mẹ thưởng cho mấy cái vả. Nhưng vả, thì con chả lấy làm đau bằng lúc mẹ phát bẳn mà quẳng "Giêsu con" của con xuống đất.

Do những cái yêu ấy mà con bị mẹ lên án đi đầy.

A! thế là từ đây mất em bé. Con không còn thể hãnh diện như một ông đại tướng nữa, mà chỉ còn một bộ mặt ủ rũ như tên tù bị đưa đi Côn đảo mà thôi: Ô, con nhớ con khóc lắm, và đã dỗi không ăn hai bữa cơm liền. Sau phải nhờ đến kế làm cho em bé khóc một tí, rồi mẹ bảo:
- Tại em dỗi không ăn cơm, nên em nó buồn nó khóc đấy.
- Con thương em bé quá, nên phải ăn cơm cho em nín. Mà lạ! con ăn là nó nín ngay.
Mặc dầu, án bắt con phải sang ở với bá Khánh, vẫn phải thi hành như thường.

littlewave
02-03-2009, 11:59 PM
Nhà Bá - Nơi ở mới

Con bị đem đi bằng một kế rất khôn. Thường lệ, sáng nào sau khi đọc kinh sáng, con cũng được vào buồng mẹ để thăm em bé. Nhưng sáng nay con vào mà không thấy em bé đâu cả. Con vừa khóc vừa gọi mẹ inh ỏi. Nhưng cũng chẳng thấy mẹ đâu.

Lúc ấy cô ở, ở đâu chạy lại bảo:
- Ơ! Văn khóc gì thế? Mẹ đem em đi sang bá rồi còn đâu mà tìm?
Thật sự, mẹ chỉ đem em xuống bà dùng mưu bắt con sang bá mà thôi. Con vừa nghe cô ở nói, em đã sang bá. Con thích quá reo lên:
- Thế em cũng sang bá. Cô lấy áo đẹp mặc cho em đi. Em thích mặc quần áo trắng như em bé cơ. (Từ ngày em chịu phép rửa tội, mẹ vẫn để em mặc áo trắng luôn.)
Cô ở vội vã đi lấy quần áo thay cho con; cô làm một cách sốt sắng lắm, và vừa làm vừa nói:
- Mau mau kẻo em nó trốn mất!.

Cô ở mặc áo cho con xong đâu đấy, con định chạy theo. Nhưng kìa ở ngoài sân người ta đã dọn sẵn cho con một đôi quang thúng, một bên để ít thóc nếp, còn bên kia để trống cho con ngồi. Và đã thuê sẵn một bác nhà quê cục mịch gánh con đi. Trước khi cất gánh, bác ta theo mật lệnh của mẹ, nạt nộ con đủ cách, làm cho con khiếp vía đi, chả dám ho he gì. Bác ta chau mày, vểnh râu, chóp chép miệng vài cái, rồi biến giọng è è nói:
- Liệu hồn nghe không! Muốn đi theo em phải ở cho thật ngoan, nếu khóc tao sẽ quẳng xuống sông.
Con vừa sợ, vừa tức mình, chỉ thưa lại có một câu cụt ngủn:
- Ư!
Thế rồi bác ta cất gánh lên vai, chạy phăng phăng một mạch. Cô ở nhìn theo vỗ tay cười:
- Ô hô, thế là Văn hôm nay được đi ôtô. Rồi cô còn dặn bác gánh: "Bác đi mau mau kẻo sợ không kịp em nó nhé."
Con ngoái đầu lại nhìn cô ở, và nhún mình theo nhịp bước của bác nhà quê với vẻ mặt hân hoan thích chí.
Ði theo con, có bá Khánh và mấy người đàn bà khác ở quê bá nữa.
Ra khỏi cổng làng, con chú ý nhìn lên phía đê và hỏi bá:
- Em cháu đâu bá nhỉ?
- Nó đi xa rồi, ta phải đi cố lên cho kịp mới được.
Rồi bá lại dặn bác gánh:
- Lúc nào bác trông thấy em, bác bảo nó chờ cháu Văn với nhé! để anh em đi với nhau cho vui.

Mọi người lại yên lặng đi, thỉnh thoảng bá lại cất tiếng lên đọc kinh, ngắm đàng thánh giá, hoặc lần hạt.

Làng Ngăm cứ dần dần thụt lùi lại. Sang bên kia sông, con chỉ còn có thể thấy mỗi cái chỏm tháp nhô hẳn lên khỏi các lũy tre. Rồi cũng từ từ biến mất.

Con ngạc nhiên, mãi không thấy em. Nghĩ đã muốn khóc. Nhưng bác gánh lại dọa:
- Ông quẳng xuống sông bây giờ.
Tức khắc con lại phải yên.

Ði trên sườn đê được một quãng xa. Người ta gánh con tắt qua các đường ruộng. Lúc ấy tất cả con điều chìm lỉm dưới lúa xanh. Con không thể nhìn xa hơn được nữa, chỉ thấy lúa cao xanh và thỉnh thoảng nghe tiếng gió lướt rào rào trên ngọn lúa.
- Em đâu mãi không thấy? Con đã ấm ứ khóc, và đòi quay trở về. Nhưng bá lại dỗ và yên ủi:
- Cố chút nữa, ra khỏi đồng lúa này là khác thấy em.
Con thấy yên tâm, và với tay ra hứng những giọt sương còn đọng trên lá lúa để uống, hoặc đập rụng, coi chơi cho vui. Rồi không biết làm sao, con ngủ mất. Ðến lúc nghe chó sủa, và tiếng ồn ào gọi:
- Văn ! ha, mẹ đem Văn sang. con giật mình thì ra đã đến nhà bá rồi.

Các anh chị con xúm xít lại bên con, kẻ bế, người ôm, đủ cách thân mật, làm con quên bẵng ngay em bé đi. Mãi đến lúc ăn cơm con mới nhớ đến những bữa con được ngồi cạnh mẹ, con mới nghĩ đến em bé và mẹ. Con hỏi:
- Em cháu đâu hở bá?
- Cháu cứ ăn cơm đi đã, em bé có lẽ còn đang đến. Gớm! nó nhỏ thì nó phải đi chậm chứ.

Nói rồi bá nháy một cái cho các anh chị con hiểu. Chẳng may, chính con lại hiểu cái nháy ấy hơn ai hết. Con liền oà lên khóc, vứt cả bát cả đũa đi, và đòi về cho bằng được với em bé.

Bá lại phải dỗ dụ con mãi, con mới chịu nín. Rồi sau đến các anh chị con bày hết cách thế để làm con quên nhớ đến em bé đi.

Mặc dầu, con vẫn nhè, và suốt một tuần lễ, ngày nào con cũng đòi về. Nhưng qua tuần lễ ấy, con thấy mình bất lực, nên đành chịu ở với bá vậy, đợi cho đến khi nào em mở mắt sẽ về thăm.


* * *

Ở nhà bá, tất nhiên, con không bao giờ thấy mình được thỏa thích như ở gia đình nhà. Một đàng nhà bá còn nghèo, lại thêm nỗi mẹ góa, con côi. Chồng bá mới chết, để lại cho mình bá bốn đứa con còn dại, tuy nhiên, ba anh chị lớn, hai anh trai, và một chị gái, đã có thể giúp bá trong công việc đồng áng.

Nhưng không vì đấy mà con bị gia đình bá nhửng nhưng. Trái lại, con rất được thương yêu chiều chuộng, đôi khi còn có thể hơn ở nhà nữa.

Bá lúc nào cũng sẵn sàng chiều theo ý con, và nhiều khi còn đi quá những sự con mong ước. Một cử chỉ như thế này, con thuật lại đây, chắc cha cũng không thể khỏi cảm động:

Như con vừa nói, nhà bá nghèo. Do sự nghèo nàn ấy, khiến bá phải tiết kiệm đến từng hột gạo. Nhà bá bao giờ cũng phải ăn cơm trộn, hoặc với khoai, hoặc ngô (bắp). Thế mà đối với con, bá thổi hẳn cho một niêu cơm riêng không có pha lẫn một hột ngô hay củ khoai nào. Bữa ăn nào con cũng có món đặc biệt. Sự biệt đãi ấy đối với con xem ra không có gì là biệt đãi cả. Con chỉ cho là sự thường, vì ở nhà con cũng ăn như thế.

Nhưng sau này khi con đã biết rộng lượng, đắn đo, con mới rõ, đó là một ơn đặc biệt, mà vì yêu cháu, bá đã chú ý cho cháu đến từng hột cơm.

Thêm vào những cử chỉ thương mến, nồng hậu của các anh chị con nữa. Lúc nào, và bao giờ con cũng được các anh chị ấy coi con như một đứa em cưng nhất của gia đình. Con muốn gì được nấy. Và hầu như có lúc các anh chị phải hy sinh một sự thiếu thốn nào, để thỏa lòng chiều đãi đứa em cưng.

A ! có bao giờ hồi tưởng lại mà con khỏi cảm động, khỏi sa một vài giọt nước mắt vì cảm mến những tấm lòng độ lượng ấy.

Các anh chị con, phần lớn đã phải sống khó khăn trong cảnh nghèo nàn, nên thường những cái hy sinh kia không làm cho các anh chị phải cực phiền lắm. Song đối với con, con cho thế là đã to tát lắm rồi, và đời con sẽ không còn biết lấy gì mà đền bồi cho cân xứng được. Chỉ có một nơi cho con nương dựa vào mà đền ơn đáp ngãi. Ấy chính là lòng Chúa hay yêu thương vậy.

Ðến đây, dường như con đã lạc đề? Trên kia con vừa nói: Sự thoả thích ở bên bá, đối với con không được như ở gia đình nhà. Cớ ấy đã đành vì ở bên bá các gia đình công giáo phần thì ít và sống chung lộn xộn với những gia đình bên lương, lại là một họ lẻ không có cha xứ. Thành thử sự đạo khô khan, và hầu như không có.

Trái lại, ở quê con thì khác, lòng đạo của dân làng bao giờ cũng tấp nập, sầm uất đi đâu cũng chỉ nghe văng vẳng bên tai những lời đạo đức sốt sắng. Trẻ con phần đông vui vẻ lễ độ và chăm chỉ trong việc đọc kinh, xem lễ. Cho nên trong gia đình cũng như ngoài làng mạc, ở đâu con cũng cảm thấy một thú vui thanh lịch. Con lấy làm thỏa thích, là sự được hưởng những thú vui của một làng quê công giáo, sống dơn sơ với một tinh thần tươi sáng của đức tin.
Bên quê bá thì không có thế. Tuy gia đình bá vốn vào hạng những gia đình đạo đức, nếu không, mẹ đã chẳng đời nào dám liều lĩnh gửi con vào một nơi như thế. Nhưng đối với một đứa trẻ như con, bị gò bó luôn trong gia đình cũng là một cái khổ lớn. Mặc dầu nó vẫn được trăm nghìn sướng khác bồi đắp cho.

Các anh chị con, cũng như con, không bao giờ bá cho phép bén mảng đến chơi với những trẻ con vô đạo, vì hầu hết chúng là những phường vô luân, ăn nói tục tằn, không biết một chút lễ phép nào. Bởi vậy chúng con vẫn phải sống quây quần với nhau trong nhà mà thôi, ít khi được phép đi ra đến làng.

Nhưng các anh chị con thì ngày ngày phải ra đồng làm việc, chỉ trừ một anh, là con bé út của bá, suýt soát tuổi với con, được ở nhà làm bạn với em. Tuy thế, chơi với anh, con chẳng được vui hơn một tí nào. Anh sống hầu như chưa hiểu một tí gì về Chúa, kinh hạt đã chẳng thuộc, lại còn ăn nói ngọng ngược, chả ra đâu vào đâu. Nhất lại có thói hay nói tục. Anh vẫn chưa quen làm dấu Thánh Giá, thế mà hễ hơi phật lòng một tí là anh văng tục ra trơn như húp cháo.

Một hôm, lần đầu tiên con nghe anh chửi con mèo, con lấy làm khiếp quá, nói với anh:
- Anh mách tục thế, sau có phải xuống địa ngục, thì quỉ nó bắt uống lửa đấy.
Anh đáp:
- Ai ảo ày ế? (Ai bảo mày thế?)
- Mẹ em bảo thế.
- Ỷ ói áo, ẹ ày ã uống ịa ục âu à iết (chỉ nói láo, mẹ mày đã xuống địa ngục đâu mà biết).
Chẳng may bá ở trong bếp nghe tiếng Bá liền gọi anh lại, và bảo:
- Há miệng ra. Rồi bá lấy cái đầu que đòi còn đang cháy, giơ lên trước mặt anh, và tiếp:
- Ta không cần phải bắt mày đợi cho đến lúc xuống hỏa ngục. Hôm nay ta hẵng cho mày thử lửa xem có chịu được không đã.
- Ậy ẹ, ong in ẹ a o (lậy mẹ, con xin mẹ tha cho)
- Thế ngày rầy đã chừa nói tục chưa?
- Ong ừa ồi. (con chừa rồi)
- Mày có tin rằng quỷ nó sẽ bắt những đứa trẻ nói tục, phải uống lửa không?
- Ưa ẹ ó. (thưa mẹ có)
Từ đấy hễ lần nào con nghe anh nói tục, con đe mách bá, là anh khiếp liền.


* * *

Ở bên bá, lâu lâu con lại được về thăm em bé. Lần đầu tiên về, con thấy em bé đã mở mắt, con vui sướng quá. Bao nhiêu những đồ chơi đẹp, cả "Giêsu Con" của con nữa, con cũng đem ra khoe và tặng cho em. Song em rất khờ khạo, không biết gì đến những cái hay cái đẹp trong những món đồ chơi quí hoá ấy, dĩ chí đem đập bẹp cả "Giêsu Con" ra mà không biết tiếc xót. Con thì con ân hận vô cùng, và lấy làm tội nghiệp cho "Giêsu Con" hết sức. Mới hôm nào, còn ở trên tay con, mắt mũi còn vui tươi, tay chân lành lặn. Nhưng khi đã chuyển sang tay em bé thì thôi, mặt mũ méo mó, tay chân rời rụng, không còn có vẻ gì là đẹp nữa. Con thương tiếc và khóc "Giêsu Con" mãi. Về sau mẹ phải mua cho một "Giêsu Con" khác, lớn hơn, nhưng lại bằng đất, nên con ít thích hơn.

Người ta đã đặt tên cho em con là Tế. Cái tên ấy đã được lựa lọc để nối sau cái tên Văn cho đầy đủ nghĩa.

Ngày nào con được ở nhà, thì con cũng chỉ thích quây quần chơi chung với em Tế, con tập cho làm dấu và kêu tên Ðức Mẹ. Con mong nhất là em mau biết nói để chúng con có thể lần hạt chung với nhau. Nhưng những giây phút được sống bên em bao giờ cũng vắn vỏi. Cùng lắm là con được ở nhà một tuần lễ bên em, rồi lại phải rời xa hằng hai ba tháng ở bên bá.

Lâu dần, cái thú đi lại làm con bớt nhớ nhung. Con lấy sự ở bên bá cũng thỏa thích bằng ở nhà. Vả lại, ở bên bá con còn được cái thú đi leo núi, và đi chơi thuyền trong mùa nước lớn.

Thỉnh thoảng gặp những buổi trời đẹp, bá cho phép con theo các anh chị ra đồng chơi. Các anh chị con thì mải làm việc, còn con một mình leo núi.

Lần đầu tiên được leo núi, con cảm thấy hơi sờ sợ. Nhưng sau con dạn dần, lại chỉ thích trèo lên những chỗ thật cao, để nhìn được xa hơn, và những chỗ ấy con cho là gần trời nhất, để con có thể lần hạt một cách gần gụi với Ðức Mẹ hơn. Khi ấy con chưa biết nhìn trời mây để suy gẫm, con chỉ biết nhìn trời mà lần hạt. Trong ý tưởng con bao giờ cũng chắc chắn Ðức Mẹ nhìn con cách dễ dàng hơn khi con ngồi ở nhà. Rồi hễ hết lần hạt thì con lại tìm cách chơi bắt chước các thánh tu rừng, vừa đi nhặt củi vừa đọc kinh to tiếng, hoặc nhặt đá để xây đền Ðức Mẹ. Con không thể dựng lều một mình được, nên chỉ chọn những bóng rợp của cây cối làm lều trú chân. Con dựng ở gốc cây ấy một cây thánh giá, làm bằng hai đẫn củi, rồi con quì gối chấp tay cầu nguyện, hoặc đấm ngực ăn năn như một ông thánh tu rừng đặc biệt. Con chơi, tuy chỉ có một mình, nhưng những cách chơi ấy đối với con không bao giờ chán. Cũng có lần thầy tu rừng ấy chơi mệt, rồi lăn ra gốc cây ngủ quên cả giờ giấc, đôi khi phải có các anh chị lên đánh thức mới biết giờ ăn đã điểm.

Bá có thói quen này, là hễ ngày cho con đi chơi đâu, thì tối về bá lại gặn hỏi con từng điều tỉ mỉ, và bắt phải diễn tả tất cả những cách con chơi và ăn nói thế nào, cho bá nghe. Thành thử tối nào nhà bá cũng có truyện vui để mà cười.

Sau khi đã làm trọn phận sự cho mọi người vui, con mới được các anh chị đọc truyện các thánh cho mà nghe. Con rất ham nghe đọc truyện các thánh và nhớ kỹ cả từng điều tỉ mỉ. Và hễ con nghe đọc truyện thánh nào thì con dốc lòng ngay, mai em sẽ bắt chước ông hoặc bà thánh ấy. Do đó, các anh chị con thường gọi giỡn con là thánh bỏ túi, có nghĩa là thánh tí hon. Nhưng con thì con lại tưởng mình sẽ không bao giờ là thánh, vì còn sợ đánh tội lắm.

A! thưa cha đáng kính, tất cả những câu truyện tỉ mẩn tương tợ như trên con có thể kéo dài ra hằng mấy trăm trang. Nhưng con thiết tưởng không cần phải dài dòng đến thế. Nên con chỉ xin kết tóm lại rằng: Ði đôi với cảnh sống bên ngoài, linh hồn con cũng được những thú vui thiêng liêng vỗ về mơn trớn. Con có thể nói: Con đã sống với Ðức Mẹ, luôn luôn bên Ðức Mẹ. Nên đã được bàn tay Mẹ dịu dàng ôm ấp; ban cho con ơn ham chuộng những cảnh sống thanh bình như các thánh, xui ý con luôn luôn hướng về Mẹ; và đã gạt ra khỏi lòng con hết mọi nổi u buồn sầu thảm.

Ôi! Nhưng có phải là con đã trung thành luôn được như thế mãi. Cha đáng kính, thật con quả đã đáng phải chịu một thời u ẩn. Vì đã một thời tuy không lâu, con đã trễ tràng trong việc lần hạt, sức sống hằng ngày của con; có lẽ vì con ham chơi. Cớ đó, tự nhiên con cảm thấy mất vui, cái thú vui mà con cảm thấy nó như một động lực mạnh mẽ làm cho đời con nên tươi sáng và hoạt động. Nhưng từ ngày con quên lãng việc lần hạt thì cái thú vui ấy cũng sa sút dần ở trong con. Ðến nỗi bá và các anh chị con đã e ngại, sợ con có lẽ đã sắp sửa ngã bệnh nặng. Con lại trở về với cái tật làm nũng, ưa vòi, bất nhẫn, và nhất là hay ra nước mắt.

Nhưng Ðức Mẹ đã vội vàng cho con tìm thấy căn do và thôi thúc con mau mắn buộc lại mối giây thân mật với Mẹ bằng sự chịu khó lần hạt.

Con chịu khó lần hạt hằng ngày, thì Ðức Mẹ lại đưa mắt dịu dàng nhìn xem con, lại ban cho con có những ngày sống êm tươi; con lại được vui, lại cười, lại hăm hở tiến lại gần Chúa là mạch sống con hằng tìm kiếm chẳng khi đừng.

A! Ðức Mẹ thương con thế, đời nào con lại có thể quên không mến Mẹ!

littlewave
04-03-2009, 10:25 AM
Rước Lễ Lần Ðầu

Thấm thoát, con đã lên sáu. Em Anna Maria Tế cũng đã gần lên ba. Cái án đi lưu của con đến đây mới chấm dứt. Con lại được về nhà, và từ đây được sống luôn bên em bé thân yêu. Nhưng cái sướng của con còn lớn lao hơn nữa, là con được sửa sang lòng để đợi chờ đón tiếp Chúa Giêsu lần đầu tiên.
Kỳ hạn này dài đến sáu tháng. Không ai có thể thấu nổi sướng vui tràn ngập trong linh hồn con, Giêsu đã để con sống trong bao lo âu, hồi hộp.

Thưa cha, quả thế, trước khi lòng con được mãn nguyện chào đón Chúa, con đã phải qua một thời thử thách liên miên. Dĩ chí đến phải nhờ có phép lạ, con mới trông được sự lòng con khao khát.

Trước hết, cái cản trở đầu tiên, là ai cũng bảo con còn quá nhỏ, chưa chắc đã hiểu đủ để xứng đáng chịu lấy phép bí tích cao trọng dường ấy. Chỉ có mẹ là người dám bảo đảm con là một đứa trẻ tuy bé bủn, nhưng rất có thể xứng đáng và luôn luôn sẵn sàng. Nhưng mẹ không dám quyết đoán, nên mẹ phải đem con vào hầu cha xứ Nghĩa, mà thưa trình mọi nhẽ.

Cha Ðôminicô Nghĩa sau khi đã hỏi con sơ lược về lễ Misa và phép Thánh Thể, thấy con thưa được rành mạch, thì người tỏ ý tán thành; còn việc cho con rước lễ vào dịp tới này, thì người lại lưỡng lự, nói với mẹ con rằng: "Thằng bé tinh khôn đáo để, y như con chị của nó (chị Lê). Nhưng cha thấy nó còn nhỏ tuổi quá, sợ sinh điều bất tiện. Tuy vậy, con hãy để cha thử. Nên từ nay, mỗi tối con cho nó vào nhà khách với các trẻ khác để cha cho người dẫn dụ thêm, và thử xem nó có chắc chắn đủ không.

Với câu nói ấy không thêm cho con được một chút lạc quan. Con lủi thủi theo mẹ về, vừa đi con vừa tỏ vẻ áy náy lo âu, con không thể cầm nổi nước mắt khi nghĩ: Việc con ao ước có lẽ chẳng thành.

Mẹ nhìn thấy nỗi lòng con âu sầu phiền muộn, liền đem lời lẽ phân giải ý nghĩa lời cha xứ nói cho con yên tâm. Lúc ấy mẹ con đang đi ngang qua nhà thờ. Mẹ liền dẫn con tạt vào và nói: Thôi mọi sự đã có Chúa lo. Mẹ con ta hãy vào đây lần hạt xin Ðức Mẹ lo liệu việc ấy cho ta. Phần em, em cứ sẵn sàng, và xin Ðức Mẹ giúp em dọn lòng cho sốt sắng. Em hãy đoan hứa với Người, sẽ không bỏ qua một dịp đau khổ nào, mà không vui lòng chịu, và dâng lên cho mẹ, để nhờ Mẹ trang điểm hồn con nên xinh tốt, cho đáng được Chúa Giêsu Con Mẹ đến viếng thăm và ngự trị.

Con gạt nước mắt, theo mẹ vào nhà thờ. Lần hạt xong, con thấy lòng nhẹ bỗng ngay đi. Con đoan hứa với Ðức Mẹ theo lời mẹ chỉ dậy. Con còn dám ra điều kiện cho Ðức Mẹ rằng: Nếu ngày hôm các trẻ được rước lấy Giêsu, mà lòng con bị bỏ trống, thì hẳn con sẽ bị một nỗi u buồn có thể chết đi như chị Thánh Ymêđa, chứ không sức nào mà sống cho đành được.

Thế nghĩa là con nài van Mẹ một phép lạ. Con gắn bó thiết tha xin Mẹ ẵm Giêsu đến với hồn con. Mà nếu chẳng thế, Mẹ sẽ phải ẵm con về trời ngày hôm ấy, để một là ở dưới đất, hai là ở trên trời, ngày hôm ấy phải có một nơi cho hai chúng con được hiệp nhau. Nếu Mẹ ẵm Giêsu xuống, thì Mẹ khỏi phải bồng con lên.

Ngày tháng trôi, lòng con cứ chập chờn trong hai mối vui, buồn. Con chỉ có thể tin vào lòng Mẹ Maria. Ngày nào con cũng đến van xin người, cũng dâng cho người những chuổi hạt yêu đương thắm thiết. Nhất nhất con chỉ lấy Mẹ là chốn cậy trông.

Mối cản trở thứ hai, không kém phần quan trọng, nhưng cũng đã làm cho lòng con lắm lần tê mê, và hầu như muốn bỏ dở. Ðó là việc phải đi học bổn mỗi tối với các trẻ ở trong cha xứ. Ðối với con học bổn thì chẳng có gì là khó. Nó chỉ khó cho con ở chỗ người ta không biết giáo dục con trẻ; người ta cũng không thèm đếm xỉa gì đến sự bộc lộ những tư tưởng tự do của chúng ra. Thành thử con trẻ thuộc thì nhiều, mà trái lại hiểu rất ít; ít là những lý lẽ căn bản cần phải biết.

Hết mọi trẻ tụ tập tới đây, chen chúc nhau như ngồi trong máy ép. Ðứng trước mặt là một ông trương râu vểnh, tay cầm chiếc roi mây quặt lại đằng sau, oai vệ đi đi lại lại như con hổ cáu. Mắt ông ta rất tinh , hễ thấy đứa nào hơi nhúc nhích, ngủ gật, hoặc không há miệng to mà gào thét những câu kinh bổn là ông ta vung roi vút liền. Cử chỉ ấy không làm cho con yêu chút nào. Ðã đành là con không dám ghét, nhưng con rất khiếp sợ trước cái vẻ oai dữ tợn ấy. Mỗi lần con nghe ông đánh đứa trẻ nào thì cả mình con nóng ran lên như bị rôm cắn, và phải lấy hết sức bình sinh mới giữ được vẻ tự nhiên trên nét mặt. Con xin thú thật rằng: Ở đây con không học thêm được một tí nào hết. Bao nhiêu những điều con học được, bởi những lẽ con thấu hiểu, chỉ là nhờ mẹ dẫn dụ cho con ở nhà mà thôi, chứ còn ở đây người ta chỉ làm con quên đi chứ không thể học thêm được.
Ôi! Như thế thì còn đâu hy vọng để con được Giêsu!

May thay, tối nào trước khi ra về, cha xứ cũng ra khảo sát chúng con. Người râu ria rậm rạp, nhưng vẻ không dữ tợn như ông Trương; bao giờ hỏi chúng con, người cũng dùng kiểu nói đơn sơ đượm vẻ dịu dàng thân mật, khiến chúng con ai cũng mến, và thưa được cách dễ dàng trôi chảy. Không như ông Trương, hễ hỏi đứa nào là đứa ấy xám cả mặt lại như gà bị cắt tiết. Ðối với cha xứ, hễ anh chị nào người khảo thuộc, thì người ban quà, hoặc khuyến khích bằng những lời lẽ thân mật; còn những anh chị kém cỏi thì người thôi thúc phải chịu khó. Còn ông Trương thì chả thôi với thúc gì cả, hễ ông hỏi mà không thưa được thì ông cứ nọc ra cho một trận là xong cả, đứa trẻ ấy về sau có nên hay chăng, ông không hề để ý đến. Cha nghĩ, giáo dục như thế đời nào có thể tạo nên cho con trẻ một chí hướng tốt đẹp được!

Phần con, cha xứ ít khi hỏi đến, chỉ có những lúc có anh chị nào thưa sai, người mới gọi đến tên con để giải thích hộ. Vinh dự ấy làm con trổi hẳn giữa các anh chị lớn, vì lần nào con giải thích cũng đầy đủ. Chị Lê cũng được liệt vào hạng đặc biệt như thế. Do đó một lần cha xứ nói với chúng con rằng: Thằng con của con mẹ Mầu (tên mẹ con) thì ta phải để ngoài sổ.

Câu nói lưng chừng ấy, làm con rất áy náy. Con không rõ ý cha xứ muốn nói gì về con. Nên con phải thuật lại cho mẹ câu người nói. Mẹ con nghe cũng lấy làm lo lắng. Nhưng mãi mấy hôm sau ra chơi nhà người mới bảo: "Cha không ngờ mà thằng bé nó tinh khôn và sắc sảo đến thế." Mẹ con lúc ấy mới an lòng, và hiểu câu người nói với con, chỉ là câu nói khen, mà đã khéo giấu ý nghĩa của lời khen.

Sáu tháng qua đi như dòng nước chẩy. Mà giờ càng lại, con càng cảm thấy lòng mình hồi hộp. Con vẫn chưa được tin cho rước lễ. Nhưng mọi sự con điều vẫn sẵn sàng, chu tất; áo mới đã may, và linh hồn phục sức đã chỉnh tề, con chỉ còn đợi tin Chúa đến. Mà sao giờ càng gần, tin ấy càng xa xăm ắng vắng! Con đã gần như chán nản, nhất là những buổi tối phải vào học bổn trong nhà xứ.

Tuy nhiên con vẫn tin vào lòng Mẹ nhân lành, và ngày nào cũng chỉ biết chạy vào lòng Mẹ để thở than. Nhờ đó, nỗi lòng đã được Mẹ thấu hiểu, và đã ban cho quá sự con ao ước.

Cha xứ vốn chưa cho con hay biết người đã ưng thuận cho con rước lần đầu, người chỉ bảo con hãy sẵn sàng và cho phép con xưng tội lần đầu một lượt với các trẻ khác. Nhưng chiều ngày áp, cũng là ngày con bước chân vào tòa mà xưng tội lần đầu tiên. Và cũng là lần đầu tiên trái tim con hồi hộp không thể nói. Lại thêm nỗi bé bủn, con phải đứng nghển cổ mà chưa thấu cửa tòa. Cha xứ thì tính vốn nóng nẩy, người không ngờ con là thằng Văn, tưởng đứa trẻ nào nghịch ngợm, vào phá rối, nên người đuổi thẳng, và lập tức ra khỏi tòa để xem. Thấy con, người mới hay, và bảo lấy ghế quì cho con đứng lên. Lúc ấy con mới dám rụt rè nhưng thành thật xưng thú hết mọi tội lỗi của con. Con xưng thú hết, cả tội cào mặt cô ở, hồi còn nhỏ của con nữa. Nghe xong, cha xứ ra việc đền tội cho con, rồi người nói: Các điều con vừa xưng thú chưa có điều gì làm cho Chúa phải buồn phiền. Mặc dầu, muốn được đẹp lòng Chúa luôn, thì con phải ra công gắng sức giữ gìn linh hồn con cho trong trắng vẹn tuyền. Người khuyên con tận tình yêu mến Ðức Mẹ. Rồi ban phép lành cho con. Sau cùng người thêm: Mai cha cho phép con rước lễ.

Ha! Mai. Rước lễ. tiếng ấy như một sóng lớn xô ập vào tai con, như luồng quang tuyến thấu suốt cõi lòng mờ mịt tối đen của con. Con sung sướng quá, quên hết cả mọi sự, đến nỗi con phải hỏi đi hỏi lại cha giải tội đến hai lần mới nhớ được việc đền tội, và giá người không nhắc con quì xuống ăn năn tội, thì con cũng quên nốt.

Ở phía ngoài, mẹ đứng đợi con, thấy vẻ con hơi lúng túng, mẹ đã tưởng có việc gì xẩy ra. Nhưng khi thấy con quay ra với vẻ mặt vui khác thường, mẹ hỏi ngay:
- Sao em?
- Ha! Cha cho phép em rước lễ ngày mai.
- Ồ, đó, mẹ đã bảo em cứ tin vào Ðức Mẹ là xong cả mà.

Rồi mẹ con dắt nhau vào nhà thờ cám ơn.
Phần con, mong tin Chúa đến đã hầu như hết hơi. Nay tin ấy đã được, thật con không biết lấy gì để nói ra cho hết nỗi lòng mừng. Chiều ấy, gặp ai cũng khoe: Mai em được rước lễ. Dĩ chí chạy về nhà, con thấy con vện chạy ra đón con cũng ôm đầu nó mà khoe mai ta được rước lễ rồi vện ạ.

Tin Chúa đến còn làm cho con no say. Sung sướng làm cho con quên cả đói, con không nghĩ gì đến bữa cơm chiều và chỉ ao ước cho ngày mai mau đến. Con lại dốc lòng sẽ không ăn gì cho đến khi rước được Chúa. Con muốn giữ lòng không để khi Chúa đến, người được tự do chơi giỡn với hồn con, vì con đã xin người lấy hình con trẻ mà đến, để con được tự nhiên trao đổi tấm tình yêu bé bỏng của con. Nhưng mẹ thì lại sợ con không chịu thấu đến ngày mai, nên cứ nài ép con phải ăn cơm chiều. Con ngại ngùng, cho lời nài ép của mẹ là nghiêm khắc quá. Sau mẹ phải lập kế nói:
- "Em không ăn cơm thì thôi, em ăn cháo vậy, ăn cháo chóng tiêu, đến mai Chúa đến sẽ không còn gì nữa."
Con cho là chí lý, nên vâng lời mẹ con ăn một bát cháo cá.

Rồi từ đây, con không nô giỡn với ai nữa, con phải ở cạnh mẹ để nghe lời mẹ dẫn dụ và giúp con dọn mình; hoặc con vào nhà thờ lần hạt để xin Ðức Mẹ giúp con thêm sốt sắng.

Ðêm ấy, con nằm mà cũng chẳng chợp đi được bao nhiêu. Luôn luôn con nghe trong tâm hồn rạo rực, mơ nghĩ đến ngày mai, và giờ phút được bước lên bàn thánh để kết hiệp cùng Chúa. Ðang đêm, chốc chốc con lại dậy hỏi mẹ:
- "Ðã sáng chưa hở mẹ?"

Ô, đêm ấy sao mà nó dài thế! Con nằm mà chỉ mong cho gà gáy sáng sớm bắt đầu.

Thế rồi sáng ấy lại, và giờ ấy đến. Giờ đến để hiến cho con nguồn hoan lạc tình ái. Giây phút này, hồi tưởng lại những ngày tháng lo âu trên con đường mờ; nào những nỗi e ngại khi phải đi học bổn, lo lắng lúc đứng trước vẻ oai vệ của ông trương; những giây phút hồi hộp không biết có được Chúa đến viếng thăm? Ô, bao nhiêu ấy nay đối lại, con không còn thấy khiếp sợ nữa. Trái lại nó còn làm cho con thêm vui sướng, và coi như những lễ vật tuyệt hạng để dâng hiến cho Giêsu trong buổi lễ sáng hôm nay.

littlewave
06-03-2009, 09:41 AM
Phép Thêm Sức

Rước lễ lần đầu được ít lâu, con lại được phúc rước Ðức Chúa Thánh Thần. Em Anna Maria Tế cũng chịu phép thêm sức cùng một lượt với con. Ngày ấy, em vui mừng không thể nói; từ sau lễ cho đến chiều tối, gặp ai em cũng khoe:
- Hôm nay em được chịu phép "thêm sức", Ðức Cha vả em.
-Nhưng em có sợ Ðức Cha không?
-Không, Ðức cha vả em sẽ...

Ơn Chúa, không những đã làm cho tâm hồn em thêm mạnh giàu, lại cũng biến đổi tâm tính em trở nên ngoan ngoãn hơn. Từ đây, em mất hẳn cái thói ưa làm nũng.

Phần con, ơn Chúa sắp đặt đã không ngoài một mục đích kén chọn vào đoàn tinh binh dũng cảm. Mà vì thế, trước khi đưa con vào đời tranh đấu, Người đã khôn khéo liệu cho con có đủ mọi phương thế thần hiệu, để giúp con chiến thắng sau này. Nên vừa sau lúc ban Thịt Máu Người làm của ăn hằng ngày cho con, Người lại ban thêm một bảo đảm vững bền là ơn sức mạnh của Ðức Chúa Thánh Thần.

Cuộc lễ hôm nay không khác gì một cuộc lễ trao gươm. Lòng con tràn trề sung sướng khi bước lên trước mặt Ðức Giám mục, để lĩnh lấy dấu Thánh giá Ngài in trên trán và chính thức nhận con vào đoàn binh dũng cảm của Chúa Kitô. Dấu thánh giá ấy là biểu hiệu sự toàn thắng của Ðấng Cứu Chuộc, là sức mạnh, và là bửu kiếm của Ðức Chúa Thánh Thần; dấu ấy đã in trong linh hồn con, và rồi sẽ không khi nào mờ phai đi được.

Ô, vinh dự chừng nào! Thế là ngày hôm nay con đã được chính thức mang gươm của Chúa Thánh Thần như người hiệp sĩ, và được mệnh danh là chiến sĩ của Chúa Kitô.

huy vu
06-03-2009, 09:57 AM
:laughs:Khi con chào đời trong số phận đầy éo le. con đã bị cha mẹ bỏ nơi sọt rác.
và được một sơ nhặt về nuôi. bây giờ con đã khôn lớn nhưng đôi chân của con không thể sử dụng được vì nó đã bị tàn tật bẩm sinh. thế nhưng tình yêu Thiên Chúa ở trong con không bao giờ mất. vì trong thánh vịnh có câu
"dù cha mẹ có bỏ con đi nữa
thì hãy còn có Chúa đón nhận con"

littlewave
09-03-2009, 12:55 AM
Nhà Trường

Ðang lúc đợi thời lớn lên, con bắt đầu phải đi học. Nhưng chỉ trong vòng hai tháng, con ngã bệnh, và phải bỏ trễ việc học.
Con mắc bệnh chỉ vì một lẽ phải đi học, có thế thôi.
Ðể cho cha rõ căn do cơn bệnh, con xin thành thật kể hầu cha rành mạch từng chi tiết.

Thưa cha, dầu đây là ý Chúa, nhưng trước hết con phải buộc tội cho nhà trường đã làm cho con sinh bệnh. Bệnh con mắc phải đây, không phải là một thứ bệnh ngoài thân xác, nhưng là thứ bệnh tinh thần, và do đó nó đã làm cho thân xác con cũng phải ra hao mòn kiệt quệ.

Con muốn nói: Chính vì cái mốt giáo dục quá khắt khe của nhà trường, làm cho con bị đè nén như quả dưa trong vại muối; và theo chính sách hành động của nó, con không có thể gọi nó là một nhà trường, mà phải nói là một trại tập trung của các con trẻ, và trong đó, chính ông thày là một tên lý hình độc ác.

Hồi ấy, nghĩ đến nhà trường, con không có cảm tình gì hết. Trái lại chỉ làm cho con thêm ghét. Con không muốn đến, và chỉ ao ước người ta phá đổ nó đi.

Ở trong lớp cũng như ngoài sân chơi, ông thày là một chướng ngại vật, không cho phép chúng con được tự do. Con có ý nói tự do trong khuôn khổ tốt đẹp của tuổi trẻ. Trong lớp, luôn luôn mặt ông vểnh lên trời; cặp mắt soi mói của ông không hề rời khỏi từ góc nọ đến góc kia; ông thường đi đi lại lại, hai tay bẻ quặt lại sau lưng với chiếc roi mây chấp tư, đó là chiếc roi hạng nhẹ, ông thường cầm để đi lại cho dễ, còn một cái nữa chấp tám, nặng và dài hơn, đầu có quấn thép, ông thường dùng vào việc để tra tấn những anh học sinh nào dám biếu thày những món quà "không ngon".

Những món quà "không ngon" đây cha nên hiểu là những hòn đá nện vào lưng thày trong những buổi tối chập choạng; hay những gói "bẩn thỉu" nhét vào hộc bàn của thày. Mà những món quà ấy phần nhiều chỉ có các anh học sinh lớn mới dám chơi.

Khổ một cái, là mỗi lần ông đi lại, thì thế nào cũng phải có một vài anh chịu để cho ông thử vài roi. Anh này ngồi viết không ngay ngắn, ông lôi ra sửa lưng cho mấy vọt. Anh kia ngồi đọc sách chống cằm, ông cũng gọi ra dậy dỗ cho mấy roi. Chỉ có những cái lặt vặt thế thôi, mà ông đánh cũng mỏi tay. Thế rồi ông la, ông quát, ông đập bàn giậm chân, ông rủa, ông riếc, tụi chúng bay đầu hoi như chó cún, dậy dỗ thêm mệt cả người ra.

Bởi thế, trong chúng con, anh nào cũng nem nép, sợ ông như sợ quỉ. Trong giờ chơi, nếu có mặt ông ở sân trường, đố có anh nào dám ho he; hễ thấy ông đâu là anh em bảo nhau lẩn đi như cắt. Chơi ở chỗ khác, chứ chả thèm chơi ở trước con hùm xám ấy.

Ðối với tụi bé như con, còn thảm hại hơn thế nữa. Nhiều khi chỉ vì thấy ông đánh các anh lớn thôi, mà cũng chết khiếp đi, la khóc om xòm, có anh tính bậy cả ra vì sợ. Cha sẽ cười vì nghe con tả. Nhưng đó là những câu truyện thường xẩy ra. Mà thật là tội nghiệp! Nhiều khi chỉ vì sợ cái vẻ oai của ông thày, mà có nhiều em bé không dám đứng lên xin phép đi ra ngoài một tí, đành nín yên, cứ cố đợi cho đến lúc tan học, nhưng nhiều khi nhịn không thấu, phải để "tự do" ra quần áo. Thật đáng mỉa mai cho cái oai của ông thày. Rồi nhân những cơ hội ấy, các anh lớn lại có dịp biếu thày những món quà "không ngon". Thế mà thày giáo của chúng con vẫn cứ cho cái cách oai của mình là có giá trị.

Nhưng mà nào đã hết. Ông còn bày ra lắm cách phạt đến oái oăm, vừa dã man vừa tồi tệ. Chẳng hạn: Ông bắt những anh không thuộc bài phải chui qua háng các chị; đối lại, các chị cũng phải chui qua háng các anh; đang lúc chui, anh hoặc chị phải giạng chân ra, tay cầm chiếc roi mây, vụt lấy vụt để vào mông người bị chui, để cho người bị chui vừa sỉ nhục, vừa bị đau. Còn thày giáo của chúng con thì đứng cười khanh khách, như xem một vai hí kịch đặc biệt.

Nhưng cách phạt ấy chỉ tổ làm cho các chị con gái thêm xấu hổ, chứ đối với các anh con trai thì chẳng lấy gì làm khó. Các chị thường lấy việc bị chui làm dễ hơn việc để cho các anh chui dưới chân mình. Có nhiều chị vì mắc cỡ quá phát khóc lên, nhưng cũng phải chịu, vì nếu không thì thày giáo lại ra kiểu mẫu cho, thì càng khốn hơn nữa.

Thưa cha, đó là một trong những cách phạt mà con thường thấy diễn đi diễn lại hằng ngày trong nhà trường. Mà con chỉ có thể tả ra một cách mờ mờ vậy, nhưng con tưởng nó cũng đã quá tục tĩu mất rồi.

Thật là mỉa mai cho cách giáo dục của một nhà trường. Mà còn mỉa mai hơn thế nữa cho một nhà trường đã được gọi là hoàn toàn Công Giáo!

Nếu cha đem so sánh hai cử chỉ vô giáo dục như con đã kể ông thày và học trò. Học trò thì lấy phân để làm quà cho thày, và thày, thì ra cho học trò những cách phạt vô luân ấy, thì cử chỉ nào vô giáo dục hơn? Mà nếu ông thầy đã vô giáo dục, thì học trò còn có giáo dục làm sao được?

Cho nên, theo lời Chúa phán: Ngươi gieo giống nào, thì sẽ gặt giống ấy.
Vậy phải kết luận: Ông thày vô giáo dục thì phải chịu đựng những tư cách vô giáo dục của học trò.

Ðối với một ông thày như thế, một đứa học trò dù dễ tính đến đâu, cũng không hề có một chút cảm tình gì. Quả thế, sau ba năm đè lưng hà hiếp lũ đầu non, đang là một thày giảng bệ vệ, ông sa ngã một cách nặng nề, rồi cuốn gói đi theo một cô bắt ốc. Cho đến nay, mỗi lần nhắc đến là môn sinh của ông lại bĩu môi:
- Giáo với giếc gì cái thằng quỉ sứ ấy!
Ðó là câu ân nghĩa, do sự giáo dục của ông.

Phần con, ơn Chúa thương, may mà sớm được thoát khỏi cái ách giáo dục vô luân ấy, bằng không, nếu cứ tiếp tục ở đấy ba năm, không biết rồi con sẽ ra làm sao?

Nhưng may mắn, con đã bị bệnh. Do sự tai ác và vô luân ấy, con phải cầm cự với biết bao là cái khổ. Ðàng khác, con không thể làm một việc gì trái với lương tâm con được. Con cứ phải chịu cho sự đè nén ấy chất nặng trên trái tim non nớt của con.

Luôn luôn con nghĩ đến nhà trường mà nhà trường lại là cái hình khổ nặng nề cho con. Cho nên hễ nghĩ đến là con sợ. Rồi cái sợ ấy làm con ra thất đảm, không còn nghị lực để hoạt động. Con tự dưng trở nên một đứa trẻ lười nhác, con lười bất cứ trong một việc gì, cả đến việc ăn việc ngủ, con cũng biếng làm. Hễ cứ trưa về, con nghĩ đến chiều lại phải đi học, rồi chiều về con lại nghĩ đến mai phải đi học, và cái nghĩ ấy làm cho con sợ hãi không sức nào ăn hoặc ngủ cho yên. Người con ngày một trở nên gầy còm xanh xao, thẩn thờ, ít nô chơi, dễ tủi thầm, có những câu truyện chẳng đáng gì, cũng làm cho con sụt sùi một cách không hổ thẹn.

Tự nhiên hằng ngày con vẫn lên bàn thánh để đón của ăn sức mạnh. Và sáng nào con cũng chỉ xin Chúa Giêsu cho con được lên trời với em con, để con khỏi phải đi học. Vì ít tháng trước đây con mới được một em trai, nhưng em chỉ phải sống trong sũng khốc khốn nạn này có vài ba tháng, rồi được Ðức Mẹ đón lên trời ngay. Em chết cách yên lặng như một cánh hoa rơi, và sau khi chết mặt em tươi tốt hồng hào đẹp không khác gì những giấc ngủ ngon lành của em khi còn sống.

Ngày nay con cũng chỉ khao khát được hạnh phúc chết như em, để về trời cùng Ðức Mẹ, nô chơi với các thánh Anh Hài, và nhất là để được Chúa Giêsu thơ bé ôm ghì vào lòng mà yêu dấu. Rồi từ đây, mỗi khi con nghĩ tưởng đến nhà trường, thì con lại nhớ đến thiên đàng, và ao ước cho lý hình thể xác mau mau làm cho hồn con đoạn tuyệt với cái sống khổ não ở trần đời để được về cùng Chúa trên cõi sống vô biên!

Nhưng cái chết còn xa con quá! Chúa Giêsu còn muốn con chịu nhiều đau khổ nữa ở thế gian này, mà đây mới là một cơn gió đầu mùa, báo trước cho những ngày giông tố sẽ tới sau. Người còn muốn dùng thân xác con để chịu đau đớn, nhục nhã, và hao mòn, để làm cho ngọn lửa ái tình đang bốc cháy mạnh mẽ trong Trái Tim Người được lan tỏa trong tâm hồn mọi người trên thế giới. Nên con có thể nói: Bệnh con không có thể chết, mà chỉ để làm cho Ái Tình Chúa được rạng chói.

Thày mẹ thấy sức con tiêu hao mau chóng quá, lại giở những chứng khó tính lạ. Một hôm mẹ đem con đến nhà cụ lang để thăm mạch. Thăm rồi cụ bảo con yếu thần kinh hệ.
Nhưng con thì con cãi rằng:
- Bẩm cụ, cháu chả thấy đau gì cả, cháu chỉ có cái là sợ phải đi học thôi, vì thày giáo ác lắm.

Nhưng cụ lang dường như không chú ý đến câu con nói. Cụ nhìn con qua đôi mục kính, rồi gọi mẹ con ra một chỗ riêng để nói những gì con không biết.
Sau đấy, về nhà, mẹ lại đem con vào hầu cha xứ, và xin cho con thôi học, vì lẽ thày lang bảo con yếu thần kinh hệ, phải cho thôi học tạm ít lâu.

Ha! được nghe nói không phải đi học nữa, con thích quá, tự nghĩ: bây giờ con tha hồ mà lần hạt, mà đi viếng Thánh Thể, tha hồ nô chơi với em Tế, và nhất là không còn cái khổ phải thấy cái bộ mặt dữ tợn của ông thày nữa.
Không những thế, mẹ còn hứa với con: Nhân dịp này mẹ sẽ cho em đi hầu cha xứ Nhã ở Hữu Bằng.

Cha Yoseph Nhã là thày dậy mẹ con khi xưa, hiện đang làm chính xứ Hữu Bằng. Theo mẹ thuật thì cha là một linh mục nhu mì hiền hậu, và rất sốt sắng. Mẹ cũng đã hứa sẽ dâng con cho người để giúp đáp việc tông đồ, và cũng có ý nhờ người làm quan thày chỉ giáo cho, để một mai, nếu đẹp ý Chúa, con sẽ có thể trở nên một vị tông đồ hữu ích.

Theo ý mẹ thì mong dịp nầy mẹ chỉ có ý cho con đi thăm cho biết người mà thôi, chứ chưa có ý định để con ở lại với người. Nhưng con thì con ao ước, giá được mẹ cho ở liền thì vui thú biết bao! Vì con chỉ thích được đi tu ngay, chứ đợi cho đến lớn thì sợ uổng mất.

Vậy khoảng độ trung tuần tháng năm 1935, mẹ con cùng với người mợ họ, đưa con đi hầu cha Nhã. Nhân tiện mẹ cũng có ý đem con đi chơi cho khuây khỏa. Nên mẹ đã đưa con lên tỉnh Bắc Ninh trước, cho con biết nhận xét cái thành thị nó ra làm sao.

nenhongnho
09-03-2009, 06:45 AM
Ðã mang thân phận là một cánh hoa rơi, đời con tưởng không còn gì là êm tươi lắm nữa. Ðau thương là hình ảnh cả đời con. Vâng, thưa cha quả thế, đời con đau khổ sớm lắm và hầu hết là đau khổ.
Cám ơn Lít nhá, mình sẽ save lại và print. Thánh Têrêsa HĐ là bổn mạng của mình và mình rất rất yêu mến Chị Thánh, nhưng học tập nhân đức mới chỉ được chút xíu (mắc cỡ quá). Lít cầu nguyện thêm nhe.

littlewave
09-03-2009, 11:21 PM
Ðã mang thân phận là một cánh hoa rơi, đời con tưởng không còn gì là êm tươi lắm nữa. Ðau thương là hình ảnh cả đời con. Vâng, thưa cha quả thế, đời con đau khổ sớm lắm và hầu hết là đau khổ.
Cám ơn Lít nhá, mình sẽ save lại và print. Thánh Têrêsa HĐ là bổn mạng của mình và mình rất rất yêu mến Chị Thánh, nhưng học tập nhân đức mới chỉ được chút xíu (mắc cỡ quá). Lít cầu nguyện thêm nhe.

Vâng, "cầu nguyện, cầu nguyện, và cầu nguyện" phương châm sống của lit đó.
nenhongnho còn được chút xíu, lit thì... chưa thấy được gì nhưng hông mắc cỡ đâu, xin thêm thêm mãi nhân đức cậy càn để biết yêu mến và tín thác trong mọi sự!
Cùng hiệp ý nha nenhongnho! :icon8:

littlewave
11-03-2009, 02:16 PM
Ly cách bất ngờ

Ngày vui qua, không ngờ mà nó đi mau chóng thế. Ở Hữu Bằng hơn một tuần rồi, mẹ còn muốn đưa con đi Dân Trù để thăm cha Yoakim Thận là người bà con. Nhưng bỗng mẹ cảm thấy nóng lòng, và chỉ liên tưởng về em bé Tế, có lẽ ở nhà đã không an. Vả lại, sức yếu của con nay đã trở nên khá lắm rồi, có thể lại gọi được là chú cuội con của bà nội rồi. Nên mẹ thu xếp đưa con về.

Thảm thay

Tình mẫu tử chia ly không báo trước! Có lẽ Chúa đã khôn khéo lựa dịp này mà dứt con ra khỏi lòng mẹ!
Vậy trước lúc ra đi, mẹ con đưa nhau vào từ biệt cha xứ. Ðang lúc vui câu truyện , mẹ cười vui nói chơi với con thế này:
- Văn ơi! mẹ và mợ về đây, còn em ở lại với cụ nhá.
Rồi mẹ nháy mợ, để thử xem con thưa lại làm sao. Và có lẽ trong thâm tâm mẹ đang nghĩ: thế nào Văn chả òa lên khóc khi nghe mẹ nói thế. Trái lại, vừa nghe mẹ nói, con thích chí reo lên:
- Ha, vâng! mẹ cho em ở lại đây tu với cụ, bao giờ em làm cha đã, rồi em mới về.
Mẹ đã bỡ ngỡ nhìn mợ, rồi quay nói với con:
- Ơ kìa Văn, gan thế à? Mẹ nói chơi đấy, hẳng về chơi với em cho lớn tí nữa đã, bao giờ em nó lớn, mẹ sẽ cho hai anh em đi một thể.
- Em chả! em lớn thế này là đủ rồi, mẹ về đi, bao giờ em Tế lớn, mẹ sẽ gửi lên đây tu với em.
Thưa xong em chạy mất...
Thế là giờ mẫu tử chia ly. Lòng con không vấn vương một chút u buồn, thương nhớ...
Ðó là lần đầu tiên và cũng là độc nhất trong đời, con có một thái độ cứng rắn trước một cuộc ly biệt mà nhẽ ra, nó có thể bắt trái tim con ngừng đập.
A! phải có sức mạnh của ơn Chúa! Nếu giờ ly cách ấy Chúa chẳng làm cho mạch tình cảm của con tê liệt đi, con dám chắc, con sẽ không có thể có một thái độ cương quyết ấy.
Chín giờ sáng hôm ấy, con được tin mẹ đã đi, và chuyến xe hỏa 10 giờ đã đưa về quê cũ. Trái tim con vẫn nhẩy đập đều hòa, mắt con vẫn khô và lòng con vẫn tê mê trong sự theo gương Chúa ở lại đền thánh...

Còn lòng mẹ thì sao?
Sau năm năm xa cách, gặp con trốn về nhà lần đầu hết, tấm lòng mẹ mới giãi mở ra trong một buổi chiều thân mật.

Ngày ấy, lời mẹ kể, lòng mẹ chua xót biết bao khi mẹ tưởng đến đứa con yêu nhất đời của mẹ. Mẹ không thiết gì đến những phong cảnh dọc đường, vì tất cả nhữnh hình tượng ấy điều gợi nên cho mẹ nhớ đến cái đứa con thiên thần của mẹ. Khi bước chân lên tầu mẹ chỉ biết lần hạt. Mẹ tưởng cỗ tràng hạt sẽ làm cho mẹ quên ảnh hình đứa con của mẹ đi, nhưng do đó lại là một sự nhắc nhớ não ruột, vì cổ tràng hạt mẹ đã cùng con trao đổi biết bao lần trên lòng mẹ. Mẹ nói thật, mỗi một kinh kính mừng là một hạt nước mắt rơi xuống lòng mẹ. Vì tay mẹ khô khan, không còn thấy đụng chạm vào những ngón tay nhỏ bé của con mẹ nữa!...
- Giêsu, lậy Chúa!...
Mẹ vẫn thở than, và xin Chúa ban thêm sức mạnh cho lòng mẹ... Những lúc ấy mẹ không còn nghe thấy tiếng con hỏi mẹ:
- Mẹ ơi mẹ! Mẹ khóc gì thế? Thôi nín đi, vì ta là con của Chúa, mà từ trước mẹ vẫn được con yên ủi mẹ. Con là thiên thần bằng an, Chúa sai đến để yên ủi mẹ trong những ngày sầu thảm.

Mợ Sửu vẫn luôn luôn chú ý mà yên ủi mẹ. Nhưng luôn luôn mẹ càng cảm thấy nỗi mẹ cô đơn, và chỉ có thể nói được rằng: Chúa thấu! ...
Rồi mẹ lo lắng cho con, không biết rồi ra con tu được không, hay chỉ vì ham thú vui lúc đầu, rồi lại bỏ giở, thì lẽ đó sẽ làm cho mẹ cực lòng hơn. Vì lìa con, mẹ đã phải chịu biết bao là phiền sầu cay đắng. Mà mẹ thì mẹ muốn cho sự cay đắng ấy được phần vui cho Chúa, nghĩa là sẽ làm cho em có đủ sức mà tu cho đến cùng...

Phần sau này, chỉ là những lời mẹ sửa bảo con.

littlewave
14-03-2009, 11:07 AM
II. Ðoạn Ðường Thứ Hai - Ðời Tu Chú Bé


Cha thân ái! đến đây, đời con bước sang giai đoạn thứ hai. Giai đoạn này đằng đẵng năm năm chìm ngập trong đau thương thử thách. Cuộc đời đã biến chuyển từ năm sự vui sang năm sự thương!... Ðến đây ánh xuân hồng đã lần lần mờ nhạt, và giông bão mùa thu đã ầm ầm nổi dậy lay vật cánh hoa rơi...

Con vào cuộc đời tu chú bé, không ngoài một vọng tưởng là được gần gụi Chúa hơn, được yêu Chúa chí thiết hơn. Và sự con mong ước hết lòng là được cộng tác trong việc phụng sự lễ nghi hằng ngày ở trên bàn thờ Chúa. Con biết rằng: Con khao khát làm linh mục lắm, nhưng trước khi làm linh mục, con còn phải học làm chức vụ của linh mục. Nên trên hết mọi việc, hằng ngày con chỉ chăm chú về lễ nghi và học hành.

Ði đôi với sự vọng tưởng ấy, sau khi đã nhận con vào cuộc đời tu chú bé, và mặc dầu con còn nhỏ bé, cha Y. Nhã cũng giao con cho một chú lớn dậy con cho biết kinh giúp lễ, và tập các lễ nghi cho. Trong vòng một tuần lễ, con được liệt ngay vào hạng giúp lễ nhì, và hằng ngày con được diễm phúc phục dịch trên cung thánh. Tuy tầm thước con chưa cao quá bàn thờ bao nhiêu, và chưa đủ sức vác nổi quyển sách lễ; mặc dầu, con cũng được giúp lễ, vì con đã thuộc kinh, và đã thông thạo các lễ nhạc. Một điều làm cho con sung sướng hết sức là buổi lễ nào con cũng được rước lễ vừa sau lúc thày cả chịu Máu Thánh xong. Hạnh phúc ấy làm cho con sung sướng một cách hiên ngang, nên con thường nói giỡn với các thày giáo của con rằng: Trong nhà này, ngoài cụ ra, chỉ có con là lớn nhất, bởi vì ngày nào cũng thế, hễ cụ già chịu lễ xong là đến lượt cụ con thôi.

Câu nói ngây thơ và thành thật ấy đã thành một bản án tuyên cáo tội con sau này. Vì nó đã va chạm vào lòng tự kiêu của mấy thày kẻ giảng trong nhà xứ. Vì thật ra, cả trong nhà xứ, chỉ có một mình con là người rước lễ hằng ngày. Cho nên sau cha xứ thì chỉ có con lên bàn tiệc thánh với Chúa Giêsu thôi.

Ngoài việc phụng dịch ban sáng, con không còn phải làm việc gì khác nữa, chỉ còn việc học hành kinh nghĩa và văn chương. Nên buổi sáng thì ở nhà học kinh. Trong hai môn ấy, môn nào con cũng giỏi hết, và đối với con môn nào cũng dễ. Giờ học, đối với con không những đủ, mà còn dư ra cho con chút ít thì giờ để lần hạt riêng. Ban sáng con dâng cho Ðức Mẹ năm chục để nhờ mẹ cám ơn Chúa Giêsu đang ngự trong lòng con. Buổi chiều, con lại dâng năm chục nữa để xin Mẹ dọn lòng con, để mai con lại đến rước Chúa Giêsu. Ðó là theo cách mẹ đã chỉ cho con từ hồi con rước lễ lần đầu.

Cứ thế ngày tu của con êm đềm không thể nói. Ngoài Chúa ra, con không còn nghĩ tưởng đến ai, con cũng không mơ ước thấy mặt nhà. Ôi! con thấy lòng con êm sướng lạ lùng.!...
Ðàng khác, cha Y. Nhã hết sức chiều nuông, ngày ngày hai bữa con được ăn cơm riêng với người. Tuy không đồng bàn, nhưng người dùng gì thì con cũng được hưởng nấy. Người thường gọi con là Bengiamin, và lấy gương con mà khiển trách mấy thày kẻ giảng khô khan lười nhác. Do đó, giữa các thày ấy với con lại có một mối thâm thù.

Rồi từ trong nhà xứ, cho đến ngoài dân họ con đã nghiễm nhiên là một ngọn đèn bắt buộc mọi người phải nhìn vào ánh sáng. Các bà dòng (dòng ba Thánh Dominico) thường gọi con là: Cậu bé thiên thần. Và khen cha xứ thật xứng đáng có một chú bé tốt lành như thế. Mà tại sao, cha có biết các bà gọi con là cậu bé thiên thần không? Con xin thưa: Vì ít ngày đầu các bà ấy không rõ tung tích con ở đâu đến. Nên có mấy bà gọi con lại mà hỏi:
- Quê cậu ở đâu? Mẹ cậu thế nào?
Nhưng con, một đứa trẻ rất hóm hỉnh. Con vui cười đáp lại lời các bà rằng:
- Quê cháu ở trên trời. Mẹ cháu là Ðức Mẹ.
- À, thế ra cậu là thiên thần hử?
Thế rồi từ đấy các bà cứ quen miệng gọi con là: Cậu thiên thần.
Rồi thỉnh thoảng các bà lại biếu cho con vài món quà chợ.

Trong các bạn trẻ, con đã chiếm được phần đa số. Các bạn thích con, vì con ăn nói lịch thiệp; không bao giờ mách tục. Nhưng con cũng biết khiển trách những bạn hay láo xược, và yên ủi những bạn yếu đuối, tàn tật trong tâm não hoặc thân xác. Cho nên sáng nào ra sân trường con cũng bị các bạn xúm lại để hỏi thăm.

littlewave
18-03-2009, 07:31 AM
Thử thách đầu tiên - Mối thù phải trả cho xong

Ngọn đèn lòng con sáng luôn, không lúc ngớt. Ma quỉ thấy vậy hận trào không thể nói, nó đã quyết nghị giao chiến một phen với đứa con cưng của Ðức Mẹ.

Năm ấy, lại gặp vào năm thánh, cha xứ đã tổ chức một cuộc đi viếng các nhà thờ toàn xứ để lĩnh ơn toàn xá. Và do đó, cuộc đi viếng đã làm cho hết mọi người trong xứ biết đến câu truyện hy sinh can đảm của đứa trẻ lên bẩy, và lòng đạo đức sốt sắng của nó đã đánh động lòng nhiều người trở về cùng Chúa. Con đi đâu người ta cũng hỏi, và cũng nói:
- Cậu bé nào thế? Gan nào mà đu tu sớm thế? Cậu bé mảnh khảnh quá nhỉ? Thế mà tu được cũng đáo đễ thật. Thế rồi những người biết kể cho người không biết đời sống tu của con chu đáo như thế nào.

Hết những câu truyện ấy điều qua tai con, làm cho con e thẹn. Nhưng không khêu gợi một chút kiêu căng nào.

Cái không khêu gợi một chút kiêu căng ấy mới làm cho ma quỉ hậm hực. Nó cho đó là một cử chỉ thách chiến hết sức tàn nhẫn.

Thế rồi Satan quyết chiến!
Theo chương trình tác chiến, Satan muốn tuyệt đường tiếp tế lương thực thiêng liêng vào hồn con, mà lương thực độc nhất ấy, chỉ có là Mình Thánh Chúa Giêsu thôi.

Ðược ít lâu, nghĩa là sau khi ngọn đèn tình ái nơi lòng con đã được nhiều linh hồn nhìn thấy, và nhắc nhớ tới. Trong số các thày kẻ giảng khô khan trong nhà xứ, có một thày ghét con một cách đặc biệt. Con thì cứ được coi là gương sáng hoài, mà thày ấy thì cứ bị cha xứ khiển trách luôn, nên đã tức lại càng thêm ghét.

Vậy ma quỉ đã dùng thày ấy để tấn công con. Vì là thày giáo, thày ấy vẫn có quyền gọi con lên phòng riêng để sửa dậy. Nên thày ấy cứ lợi dụng gọi con lên phòng luôn. Mà lên để làm gì? Dậy kinh à? Hay học chữ?

Không, để tập tu cho con. Mà cách thày ấy tập tu cho con thì thày ấy giao hẹn chỉ có một mình thày ấy với con biết mà thôi. Cấm nói ra với ai, nhất là với cha xứ, mà hễ nói ra là bị chôn sống lập tức.

Mỗi sáng sau lễ, thày ấy gọi con lên phòng để hỏi thăm về sức khỏe, mà những câu hỏi thăm ấy thì thày ấy nói thật to, đứng đến gần trăm thước cũng nghe rõ.
- Thế nào? Ðêm qua em có ngủ được không? Có nhớ mẹ không? Thôi nhớ làm gì đi tu ý mà...

Sau một hồi hỏi và yên ủi rõ to như thế thày ấy mới âm thầm chỉ cho con nằm xuống đất, và vút cho con một thôi roi mây, mà vừa vút thày ấy vừa hát rõ to. Rồi ra lệnh bằng mắt: Cấm khóc!.

Sau một tuần lễ tập tu cho con, người con khô quắt ngay đi như tầu lá héo. Mông con phồng lên như phải bỏng, không thể ngồi cũng như không thể nằm ngửa được. Ở nhà thờ luôn luôn con phải quì một giờ rưỡi đồng hồ. Ăn cơm con phải đứng; và đi ngủ phải nằm sấp, hoặc nghiêng. Nhưng không đêm nào con ngủ được!. Thế mà ngày nào con cũng phải đi tập tu, mà không dám nói cho một ai hay hết, Cha Xứ cũng không biết.

Mãi cho đến hai tuần lễ, chính Chúa đã tố cáo hành động dã man ấy. Một hôm, bà giúp việc lo giặt giũ áo quần cho con, thấy có những vết cứng khả nghi trên vải; bà tọc mạch bắt con phải khai ra, đã bị ung độc gì mà không nói. Con nhất định từ chối không nói, vì sợ phải chôn sống, mà nhất là sợ không được rước lễ nữa. Vì mấy ngày trước thày giáo lại bắt con phải thề rằng: Nếu nói những điều ấy ra, con tự buộc mình sẽ không được rước lễ ngày mai. Mưu ấy thật phải nhờ Luxiphe mới có thể nghĩ ra được. Vì chỉ có Luxiphe mới biết từ nhỏ cho đến bây giờ con chưa hề dám nói dối một lần. Nên hễ ngày nào con bỏ rước lễ thày biết ngay rằng con đã lỗi lời thề. Bà giúp việc thấy con chối, liền đi mách với Cha Xứ rằng: Cậu Văn bị ung độc gì ở sau lưng mà không cho xem.
Tức khắc Cha Xứ bắt con lột trần hết, và nhân đó, mới rõ phần thân sau con đã bị phổng, nứt và chảy nước vàng. Cha Xứ tức mình định giơ tay tát cho con vài cái, vì bị như thế mà không nói. Nhưng rồi lại thôi, Người quay đi gọi tất cả các cậu, các thày lên để cho xem đứa trẻ bị lột da. Rồi Người hỏi: Nếu ai còn một chút lương tâm, mà không thảm hại, thì người đó là lý hình.

Và từ đấy thày giáo của con không còn được phép gọi con lên phòng để tập tu cho con nữa.

Nhưng chưa phải là đã hết oán thù. Khi nào con còn là một đứa trẻ đạo đức, và nên gương sáng cho nhà; khi ấy ma quỉ còn hậm hực tức tối.

Sau vụ tập tu ấy; vừa lo thuốc thang, chạy chữa cho con xong, Cha Xứ phải đi về sở Ðức Cha để cấm phòng năm.

Các thày kẻ giảng trong nhà, vừa bị Cha Xứ cho một vố điên ruột; nhân cơ hội này, lập ra tòa án, xét xử việc thằng bé con dám lột trần ra để cho "chúng ông" xem.

Thày giáo đã tập tu cho con được bầu làm cụ tiên chỉ, đứng đầu việc xét xử. Tòa án bao giờ cũng họp vào lúc sau nhà thờ đọc kinh tối. Khi đem con ra trước tòa án nhân dân, họ lột hết áo quần, rồi bao cho một chiếc khố bằng bẹ chuối, nhưng cũng có hôm không có bẹ chuối trước sự bẻn lẻn của con, các thày ấy còn tán tỉnh: Các thánh tu rừng ngày xưa còn chả có bẹ chuối mà mang cơ. Nhưng họ chỉ có ý bày truyện ra thế để bắt con làm trò cho vui. Bao giờ các thày ấy cũng hỏi con về những điều lăng nhăng bẩn thỉu, nghe đến phải giùng mình lên. Nhưng bao giờ con cũng nín thinh, hoặc thưa vắn tắt:
- Con còn nhỏ, chưa bao giờ được nghe đến những truyện bẩn thỉu ấy.

Rồi rút cục, con bị án treo, mười ngày chỉ được ăn cơm không với nước lã; phải ngồi ăn với chó; không những thế mỗi bữa chỉ được ăn có một bát, y như khẩu phần đã dành cho một con chó.

Cụ tiên chỉ, và là chủ tịch tòa án nhân dân rao án con như thế này:
- Sự thực thì mày không có tội gì cả. Nhưng bấy lâu nay đi tu mà mày chẳng thực hành được một điều tu nào. Vậy để cho mày biết hãm mình tao ra lệ cho mày mỗi bữa chỉ được ăn một bát cơm với nước lã, và ngồi ăn với chó để đền tội mày đã làm nũng với cụ bấy nay. Lệ rước lễ hằng ngày từ nay phải dứt, nếu còn, mỗi ngày phải nộp ba roi, tao mới cho phép rước lễ.
- Ba roi?
- Ừ, ba roi, nghe rõ không?
- Bẩm... xin đổi cho con nhịn đói buổi chiều.
- Không được, ba roi thẳng cánh nghe chưa?
Con chỉ biết nấc lên từng hồi!

Thế là từ đây, muốn rước lễ hằng ngày con lại phải chịu ba roi đòn thẳng cánh mỗi buổi chiều? Ôi sức con đâu có sống nổi được!

Mặc dầu, con cũng xin Chúa ban ơn sức mạnh cho con, và nhờ bàn tay Mẹ Maria phù trì, ngày nào con cũng can đảm đi nộp thuế để được phúc kết hiệp với Chúa hằng ngày.

Ma quỉ thấy con vẫn hiên ngang đối phó với những áp lực của chúng. Chúng thấy rằng thân xác đứa bé dầu non nhưng lực lượng tinh thần của nó không phải vừa. Nó biết lực lượng vô song ấy chỉ bởi phép Thánh Thể, nên nó lại lập kế làm đứt đoạn.
Một thời gian ngắn, thày giáo Vinh vẫn thấy con trung thành rước lễ hằng ngày. Lại một lần nữa, thày ấy muốn dùng con vào một việc như lần trước. Con hết sức phản kháng, mặc dầu thầy ấy đe chôn sống.

Thế rồi, thày ấy đe con:
- Tao tuyệt cấm mày rước lễ hằng ngày. Rồi tối đó thày ấy xin họp hội đồng nhân dân để xin đề nghị việc cấm hẳn con, không phép rước lễ hằng ngày nữa.

Hội đồng chấp thuận ngay, và lên án treo cho con, từ nay cấm rước lễ.
Con cãi:
- Các thày không có phép cấm con rước lễ.
- Nhưng ai cho phép mày rước lễ.
- Cụ.
- Thằng này chỉ láo, mày dám thưa nhát gừng với chúng ông như thế à?

Nói xong thày giáo Vinh rút roi mây ở trên đầu giường ra vút cho con một thôi một hồi, không kể kịp là bao nhiêu roi. Con chỉ nhớ rằng, con hết đứng lại nằm, vừa nằm vừa lăn để tránh roi, nhưng không thảm hại, chiếc roi mấy cứ vút lên mình con bất chấp chỗ nào.

Sau trận đòn, con đứng không vững nữa. Các thày ấy cho phép ngồi; hai tay bị trói quặt vào chân giường. Rồi các thày ấy tiếp tục khủng bố tinh thần. Các thày ấy cho ra những câu hỏi rất khó về phép Thánh Thể, về sự rước lễ, dường như khảo sát một người dự thí về khoa thần học vậy.

Ðành rằng thế, những có nhiều câu con thưa đúng, mà họ lại bắt ra quẹo để có ý làm con lúng túng.
Sau cùng con cũng phải thưa:
- Bẩm con chưa bao giờ được nghe nói đến những điều bí ẩn ấy; con chỉ biết như mẹ đã dạy con rằng: Chịu lễ là chịu Mình cùng Máu thật của Ðức Chúa Giêsu. Nên sự ao ước của con không phải là được ăn một miếng bánh tráng, mà là được ăn Thịt và Máu Thánh con Ðức Chúa Trời... Thịt và Máu Thánh ấy sẽ hòa hiệp với thịt và máu con, và làm cho linh hồn và thể xác con nên thanh tịnh và thánh thiện như linh hồn và thể xác Chúa Giêsu.
- Ừ, chúng ông biết hết cả những cái ấy rồi, không cần phải dậy khôn cho ông nữa. Nhưng mà chúng tao đang hỏi mày là dọn mình thế nào mà dám cả gan rước lễ hằng ngày mà? Mà nếu đã không biết thì chúng tao cấm rước lễ.
- Cấm thế nào được con? Việc ấy chỉ có cụ mới có quyền cấm, còn dọn mình làm sao thì mặc kệ con, Ðức Chúa Giêsu vui lòng đến với con là được rồi, cần gì con phải nói.
Bốp! Bốp!
- Cãi hử, quân chó ngăm này! Láo toét! Bốp! bốp! bướng! cãi! bốp! ...
- Con có dám cãi đâu, nhưng mà cấm rước lễ thì con không thể sống được.
- Hự! ai bảo mày hễ không rước lễ thì không thể sống được? Chúng tao đây là tụi chết cả đây à?
- Bẩm, con không dám bảo là các thày chết nhưng nếu các thày tự hiểu được mình làm sao thì càng hay.
- Hừ ! được, mai tao cho mày rước lễ nhưng cấm ăn cơm, để thử xem mày sống hay chết ? Có dám hứa không?
- Bẩm dám ạ.
Hôm sau con được phép rước lễ; nhưng đến chiều thì kiệt sức. Con đói lả nằm há hốc miệng ra trên giường. Thầy giáo Vinh sợ con chết mới chạy đến cấp cứu; nhờ được chút cháo, con đã hồi lại được, và sáng hôm sau con lại lên rước lễ. Nhưng đây là ngày rước lễ cuối cùng của con.

littlewave
20-03-2009, 02:24 PM
Thử thách đầu tiên - Mối thù phải trả cho xong (tt)

Hôm nay chịu lễ xong con cảm thấy lòng con khô héo hơn thường và buồn bực không thể tả, con bối rối hết sức về những câu con đã bị hạch hỏi, mà phần thì mệt, phần thì quá lắt léo, con đã phải trả lời rằng con không biết. Trong các câu hỏi, các thày ấy nhấn mạnh về những điều này:
1- Mày có biết chắc Ðức Chúa Giêsu ngự thật ở trong hình bánh mà hằng ngày ngự vào lòng mày không ?
2- Mày có dám cả quyết rằng mày đã dọn mình cho thật xứng đáng không ?
Rồi không muốn cho con trả lời đúng, họ đem cuộc đời các thánh ngày xưa ra mà sánh ví với đời con, họ nói:
- Các thánh ngày xưa chịu lễ một ngày, cám ơn một năm, dọn mình hằng tháng, thế mà đến khi lên rước lễ còn đấm ngực thình thình than rằng: Chưa dám. Thế mà mày đây, thắt quần chưa chặt, miệng còn hôi sữa ... v.v. mà dám tự cho mình là xứng đáng thì thật táo bạo, liều lĩnh.

Rồi các thày ấy đem truyện các thánh đọc cho con nghe. Con thấy quả thật rằng, ngày xưa các thánh thường chịu lễ rất ít, và thường lại hay dọn mình cách nhặt nhiệm; chẳng hạn ăn chay hoặc làm những việc đền tội khắc khổ. So sánh với con thật chẳng khác một trời một vực. Con đâm ra lo lắng và chắc rằng mình đã liều lĩnh thật.

Nhưng con lại nghĩ: Không nhẽ mẹ đã dậy con sai? Bởi vì theo lời mẹ thì hễ khi biết mình không mắc tội trọng, và khi linh hồn có ơn nghĩa Chúa, có lòng ước ao rước Chúa thật, thì vẫn được tự do bước lên bàn thánh mà rước Chúa.

Mẹ nói quả thật không sai một tí nào. Nhưng lời mẹ bây giờ không còn đủ hiệu lực để làm con an dạ nữa. Con bối rối và đau khổ quá sức vì nghi ngờ mình đã không xứng đáng như các thánh, mà còn cả gan dám rước Chúa hằng ngày.

Búi tơ càng gỡ càng rối, vết thương sầu mỗi ngày một thêm sâu, con không biết đến cùng ai để tỏ bầy tâm sự. Bao nhiêu lẽ giả dối đã làm con suy nghĩ liên miên, cho đến lúc con thôi không còn dám rước lễ hằng ngày nữa.

Nguồn an vui đứt đoạn từ đây. Lòng con âu sầu không thể nói. Luôn luôn con nghĩ tưởng đến nhà. Nỗi biệt ly bây giờ mới ray rứt cõi lòng con. Con mong mơ thấy lại mặt mẹ để tỏ ra nỗi lòng con cay đắng, để mỗi khi âu sầu con tìm được bàn tay thoa dịu. Nhưng bây giờ mẹ đã xa, xa lắm...

Có mơ mong cũng là một lẽ để thêm đau. Ðôi khi con muốn tìm đường trốn đi. Nhưng toại nguyện của con bao giờ cũng là bơ vơ trong rừng thẳm.!...

Thế là hết hy vọng! Giờ đây con chỉ biết phó mình con cho Chúa. Con xin Chúa, dù có phải cất sự sống con đi chăng nữa xin đừng để con xa ngã theo đàng tội, vì ở trong nhà xứ này hiện nay không còn một tí hình dáng đức thanh tịnh, nó đã trở nên nhà tội lỗi, say sưa, cờ bạc và dâm ô...

Phần con thà nép mình trong đau thương để giữ lấy tấm lòng trong trắng, chẳng thà vì một chút yêu đương tạm bợ, mà buông mình theo dòng nước đục.

Thưa cha đáng kính, chắc chắn Chúa đã nghe lời con, vì năm năm trường bị giam hãm trong nhà xứ này, không ngày nào là ngày con gặp được sự an vui ngoài thân xác, luôn luôn bị hành hạ, luôn đau khổ. Nhưng cũng luôn luôn con cảm thấy tâm hồn mạnh dạn, chống chọi với Satan. Và con dám chắc rằng, chưa bao giờ con đã tự ý để cho ma quỉ va chạm đến tấm áo thanh sạch của con.

Từ ngày con thôi không dám rước lễ hằng ngày nữa, lòng con cảm ngay thấy một nỗi buồn không thể tả. Suốt ngày con ngao ngán, như mong mỏi một sự gì xa xăm... Và do sự buồn phiền khó nói ấy đã đưa con đến một cơn sốt rét kinh hoàng. Luôn luôn con nói sảng, và đòi về với mẹ.

Cơn sốt mặc dầu mau qua, nhưng không bao giờ làm cho con hết mối ưu phiền. Và sau con sốt ấy, đã làm cho thân xác con cũng như tâm hồn con tiêu hao một cách mau lẹ, con biếng ăn, ít ngủ, và thường hay cảm xúc, gương mặt con trở nên hốc hác, xanh bủng.
Cha xứ cũng không biết việc con, tự sao mà ra ốm yếu bệnh tật như thế, chỉ hay rằng: Con không còn năng rước lễ nữa. Và từ đó, cái tên yêu quí Bengiamin cũng không còn được người nhắc đến luôn nữa.

Chỉ có những lúc con lần hạt mới cảm thấy lòng con âu yếm, và tiếp nhận được sự an vui ở nơi lòng Mẹ Chí Ái Maria thôi. Nhưng để con trung thành lần hạt hằng ngày, con cũng đã phải chiến đấu gắt gao lắm. Cổ tràng hạt của con vô cớ bị tịch thu. Con bèn tìm ra cách lấy 10 hột đậu đen cho vào túi để lần. Cứ mỗi một kinh kính mừng, con rón một hột bỏ qua túi bên này; cho đến khi rờ thấy túi nhẵn là con đọc kinh sáng danh. Rồi lại bắt đầu lần tiếp. Cách ấy tưởng đã kín đáo! Thế mà rồi con cũng bị họ tóm được và tịch thu mất. Con lại bày ngay ra cách lấy giây thắt quần nút lại thành mười nút giấu kín vào mãi phía bên trong, rồi khi dùng con mới dám rút ra. Phải một hôm con sơ ý quên, thày giáo của con thấy được, bắt con phải khai rõ sự thật ra. Rồi thày ấy cũng lại tịch thu mất cái giây thắt quần quí hóa ấy của con, lại còn thưởng cho ba cái bớp, bảo rằng:
- Mày dám vô phép với Ðức Mẹ, lấy giây thắt quần để mà làm tràng hạt à?

Sau nghĩ không còn cách nào nữa, con phải dùng đến cách đếm bằng đốt ngón tay. Cách ấy xem ra tiện, và đi đâu con cũng có thể lần hạt được mà không ai biết. Tuy vậy con cũng tự nhủ: Giả như con có phải hy sinh cả mười đầu ngón tay đi chăng nữa, lòng con sẽ không bao giờ bỏ không khăng khít với Ðức Mẹ bằng sự lần hạt. Vì do sự lần hạt, Ðức Mẹ hằng bang trợ con, khiến cho ma quỉ hãi hùng, không bao giờ chiến thắng nổi con, mà hơn nữa nó còn gặp phải những vố bất thần làm cho bại hoại cả mưu thâm sảo kế của nó. Cho nên mối hiềm khích giữa ma quỉ và con chưa bao giờ được đoạn tuyệt.

littlewave
21-03-2009, 04:13 PM
Số phận người đã làm gương xấu.

Ðến đây cha cho phép con ngừng lại khúc truyện con, để tả cho cha hay về cái số phận hẩm hiu Chúa đã dành để cho những kẻ đã làm ô gương.

Thày giáo Vinh, sau khi đã hành xích con đủ điều, đã ra cho con cái án bất công nhịn đói và ngồi ăn với chó, rồi lại tìm cách tuyệt cấm con rước lễ hàng ngày.

Sự thực, theo tư cách bề ngoài, ý nguyện của thày ấy đã được coi là đầy đủ. Nhưng thày ấy không biết rằng: Chúa sống trong con bằng muôn vàn cách... Nếu mỗi sáng con không dám trực tiếp bước lên bàn thánh để đón lấy bánh các Thiên thần, thì cái sự khát khao, trìu mến của con cũng đủ Chúa thân đến với con cách âm thầm kín nhiệm, mắt thịt tuy chẳng ai thấy một cách rõ ràng và êm sướng.

Nay kỳ hè đã tới, tuy cha xứ đi cấm phòng năm chưa về, nhưng thày ấy cũng mạn phép đi chơi hè. Với một vẻ mặt kiêu căng, tự tín, thày ấy đã tỏ rằng: mình có sai thì cha xứ cũng chẳng dám làm gì quá...

Thế rồi, thày ấy đã đi chơi quá học hè. Ngày khai trường đã đến mà mãi đến 15 hôm sau thày giáo mới lệ khệ vác bụng về. Ðã thế, lúc cha xứ hỏi:
- Ði chơi đâu mà về trễ thế?
Lại chặc môi nói bướng:
- Ði chơi!

Do sự bướng bỉnh ấy, cha xứ phải buộc lòng viết thư về phàn nàn với cha Chính. Và cha Chính đã đáp lại cho cha xứ được tùy quyền xử đãi, và ra hình phạt nào mặc ý. Cha xứ y lời, ra cho một hình phạt đúng hạn 15 ngày.
1. Mất chức thày, xuống ngang hàng với chức bõ.
2. Phải làm bếp, đọc sách ở nhà chung, phải ăn cơm sau, ngồi chỗ cuối cùng trong hàng các bõ.
3. Hết hạn 15 ngày phải chịu 15 roi đòn.

Có thế thôi, thế mà ông còn kiêu căng không chịu nhận, lại còn lần về sở Ðức Cha để khiếu nại. Nhưng đi đâu cũng bị đeo cái hình phạt như ở trên, thành thử ông đành cạo râu mép, rồi rút lui có trật tự. Từ đó cái oai của Hitler biến mất trên khuôn mặt ông, và ông đã trở nên một tên côn đồ đi lường gạt đủ truyện. Rồi ít lâu nghe mất tích. Thiên hạ bàn tán, có lẽ ngài đã sang Mốt-cu để cầu cứu?

Ông đi được ít lâu, cha phó Năng cũng có lệnh đổi đi nơi khác. Số các thày kẻ giảng trong nhà bỗng rụt hẳn đi, và do đó số gương mù cũng lần lần hạ xuống. Những thày đã dính tay vào vụ án bất công của con, điều đã bị những hình phạt do tay Chúa trừng trị. Người thì bị bệnh tật, người khác cũng trở nên côn đồ, đầu trộm đuôi cướp, dâm đãng đủ điều, rồi cũng phải trục xuất ra khỏi nhà tu.

Thưa, chắc cha cũng hiểu rằng con không có ý nói những hình phạt này ra để nguyền rủa những kẻ đã làm thương tổn đến thân xác hoặc tinh thần con. Mà con chỉ có ý nhắc cho đời hay, nếu con bất lực thì chính Chúa đã là sức mạnh để bảo vệ cho sự bất lực của con. Con chẳng có ý ước ao cho họ chịu những hình phạt ấy. Nhưng nếu họ cứ chấp mê, thì Chúa sẽ chẳng nhịn mãi được. Người phải thi hành theo ấn định của Người.


Lên tám

Kỳ này con không còn phải chống chọi với nhiều gương xấu nữa. Tuy nhiên hình ảnh dâm ô nó vẫn còn phảng phất trong mấy kẻ còn lại. Họ vẫn uống rượu, vẫn cờ bạc, và vẫn có các chị học trò đi lại trong nhà xứ như thường. Mặc dầu không có ai ép buộc con phải can dự vào những công việc ấy. Cho nên con cảm thấy dễ chịu, và bắt đầu tìm lối tu như trước. Kỳ nầy có thể gọi là:"Tạm đình chiến". Chúa đã biết sức chịu đựng mong manh của cành hoa yếu ớt, và người đã khiến cho thời giông tố bớt sức mạnh, và để cho hoa kịp vươn mình thêm cứng cát.

Nhưng đời con điêu đứng, có khi nào được yên vui cho trọn? Chúa đã để con phiêu bạt trong rừng vắng, và chỉ có bóng tối dẫn đường cho con đi. Bao nhiêu những sự mơ ước đến tương lai linh mục của con, con đều nhận thấy nó vô cùng trống trải. Không ai lo cho con về đường học vấn, cũng như đào luyện về tinh thần. Trái lại, con thấy mọi người điều đi ngược với tôn chỉ nhà tu. Và tất cả những cái đảo ngược ấy đã trở nên nguồn cớ xâu xé trái tim con. Cho đến nỗi một ngày kia con cũng phải tư tưởng như họ rằng: Chúa công thẳng, mà loài người thì tội lỗi; do đó, chúng ta không thể đến gần Chúa được. Mà bởi không thể gần Chúa được thì họ buông mình theo ma quỉ.

Ở đây con cảm thấy có những chỗ rất khó nói. Nhưng để khỏi phải khó nói, con xin thưa rằng: Ở đây không bao giờ con được nghe ai nói về lòng nhân từ của Chúa, dầu cho những bài giảng dậy trong nhà thờ con cũng không hề tìm thấy một câu nói khích lệ lòng tín nhiệm vào Chúa. Mà cái sự tín nhiệm ấy lại phải là một điều kiện rất cần cho tâm hồn người giáo hữu. Con cảm thấy mỗi ngày, con một bị cái hấp lực lôi cuốn con đi xa Chúa. Thực hành những điều như con tư tưởng thì con không dám, vì con không tìm được một ai để tỏ bày những sự con tư tưởng.

Cho nên con cứ phải âm thầm chịu đựng cho đến ngày gặp gỡ Chị Thánh Têrêsa bên đồi Quảng Uyên, nghĩa là 5 năm sau.

Con không dám rước lễ hằng ngày nữa, cũng là do mối e ngại ấy.
Về đàng thiêng liêng con cứ phải sống trong e ngại; đường học vấn không có người lo, bằng tuổi ấy giả như ở nhà thày mẹ, con chắc không thể là một đứa trẻ toi cơm như thế.

Cha xứ, người còn đang lo xây cất nhà thờ, và do đó người quên lửng ngay cái đền thờ bằng xương máu, mà người đã đảm nhận công việc dựng bàn thờ, và gây nên một ngọn lửa yêu dâng kính Chúa đêm ngày. Không bao lâu người cũng quên cả cái ý định tương lai mà thày mẹ con đã ước lòng về con. Người đã liệt con vào một hạng bồi, vừa tiện lợi mà lại khỏi phải mất tiền công.

Con đã trở nên một đứa trẻ đi làm bồi cho cha xứ, chứ không còn gọi được là đi giúp việc nhà Chúa nữa. Tương lai linh mực của con là một đêm tối dầy đặc!

littlewave
24-03-2009, 01:27 AM
Một Chiều Cảm Xúc


Con ở nhà bà bá trong vòng sáu tháng mới khỏi hẳn được chỗ chân đau. Thời gian ở nhà bà bá, con luôn luôn được coi như một đứa con cưng của bà. Không một điều nhỏ mọn nào con ngỏ ý mà bà không lo cho thỏa ý con. Trong vườn của bà, thứ quả gì con thích, thì bà dành riêng ngay cho con thứ cây ấy, con có đặc quyền hưởng dụng và ai lấy phải có phép con cho mới được. Nhưng trong các thứ cây quả, con chỉ thích nhất có một cây bưởi ở đầu nhà. Nó là một thứ bưởi lai, nửa ngọt nửa chua,lắm nước, lại có một mùi vị riêng. Nó rất sai quả, giả cứ để một mình con dùng thì cứ cả năm cũng chả hết một mùa trái. Nên con đã cho các cô ở được phép tự do. Ngoài bà bá, con còn có riêng một cô ở lo sạch sẽ cho con. Nhưng thường thường con chỉ sai "cô ở gia", và đáng mến nhất của con thôi, tức là bà bá.

Một lần bà hỏi con:
- Sao con lại thích thứ bưởi lai ấy thế? Con mỉm cười đáp:
- Thưa mẹ, bởi vì đời con cũng tương tợ như trái bưởi ấy, nữa vui nữa buồn... Chúa pha vui tươi vào đời chua chát của con, cho con dễ sống...
- À, thế thì con khôn lắm.
Con nhận thấy, hễ lúc nào con vui cười mà xưng hô bà là "mẹ" thì bà tỏ vẻ sung sướng lắm.


* * *

Một chiều, về cuối thu. Cảnh trời làm con ngao ngán. Con bâng khuâng nghĩ tưởng đến trăm điều dĩ vãng: con nghĩ đến hồi còn nhỏ, ở nhà thày mẹ, những năm êm đẹp của tuổi hồn nhiên, đến những nụ cười âu yếm, những cái vuốt mịn mà của đôi bàn tay mẹ thân yêu, cả đến những đêm trăng xinh đẹp cùng em A. Tế nô giỡn dưới bóng cau, ẩn nấp trong khóm chuối... Ô! tất cả, tất cả điều là êm tươi, xinh thắm...

Lần lượt, tâm trí con đi đến quãng đời ly cách, những ngày sống ảm đạm, khô khan trong nhà xứ, cuộc đời tu chú bé vô cùng nhục nhã, vất vả. Ở đấy thay vì yêu thương, chỉ toàn có những tấm lòng bủn xỉn, những bộ mặt cau có, những bàn tay hiếp tróc, phủ phàng. Nhiều khi chỉ vì theo một ý tưởng cao thượng hơn, là không theo gương xấu, mà con đã bị chúng bạn cười chê, đập đánh và bỏ rơi...

Ôi! đau đớn quá! lòng con nghe như có tiếng động chạm khô khỏng như tiếng gió cuối thu sột soạt tầu lá chuối bên kia hè!...

Con cảm động muốn khóc quá. Nhưng con trấn tĩnh được và tìm cách xóa nhòa những tư tưởng buồn vừa gợi lên. Con quay sang phía phản bên cạnh, và chú ý nhìn bà bá đang lọc thuốc cho con. Không ngờ cử chỉ của bà, còn làm cho con xúc động hơn.
Con nhận thấy dường như tất cả tâm trí bà điều chú ý vào cái chai thuốc bà đang cầm lọc trên tay. Ðôi lần, bà ngừng đổ, lấy ngón tay chặn ngang miệng chai, và khều ra từng miếng lá vụn vặt còn sót lại. Rồi bà lại tiếp tục lọc thêm.

Cử chỉ làm con không thể cầm lòng được. Con tự nghĩ: Giả như mẹ ta có lo công việc này cho ta, chắc cũng không có thể kỹ lưỡng hơn người quả phụ này được đâu. Ôi! Chúa! sao bà ấy thương con thế? Nếu Chúa chẳng phân phát lòng từ bi của Chúa trong tâm hồn người quả phụ này, thì con đâu có bao giờ gặp được sự yêu thương hiền dịu ấy!...

Và con không thể cầm mình được. Con nấc lên một tiếng lớn, rồi gục mặt xuống khóc... Bà bá vội vàng chạy về phía con, ôn tồn bà hỏi:
- Sao thế con?
Bà cứ hỏi đi hỏi lại con như thế đến ba bốn lần. Nhưng bà càng hỏi, càng làm cho nước mắt con chảy nhiều hơn. Có khi tiếng khóc của con át cả lời yên ủi của bà.

Lúc ấy, có lẽ bà đoán con có điều gì cực lòng lắm? Thấy con không trả lời được bà yên lặng đứng nhìn con như để cố dò ra căn do đã làm con tủi cực rồi bà ngồi xuống bên con ôm đầu con vào ngực, vừa vuốt ve vừa yên ủi.
- Có gì sao con chẳng nói? Hoặc vì con đau? Hoặc vì con không được điều gì thỏa ý? Hay có khi con nhớ mẹ đẻ của con? Thế nào, sao con không nói?...

Bà hỏi, hỏi nhiều, nhưng đang cơn nước mắt con không sao hãm nổi để trả lời cho bà. Con hiểu lòng bà lắm. Nhưng mỗi câu bà hỏi, con chỉ có thể lắc đầu và thưa được một tiếng: hông! - Mãi sau con mới gượng được mà nói:
- Thưa bà, con muốn thưa cho bà hay ý con lắm, song con chưa thể nói được.
Tuy thế, bà đáp:
- Con cũng đừng nên khóc làm gì. Con trai đi tu rồi mà còn ngủ nhè mãi thế ý à? Sáu nó biết nó cười cho... Bà đứng dậy vừa bế con ra giường nằm và nói:
- Thôi, nín đi con, nay mai chân con khỏi, thì tha hồ mà chạy nhẩy, lúc ấy con sẽ hết buồn, hết tủi... Con sẽ lại được đi học, rồi mai sau con làm cụ, thì ối chà!... Bà vừa reo vừa cúi áp má vào trán con.
Sau khi đặt con xuống giường bà mỉm cười đưa hai tay vỗ má con, rồi lẳng lặng đi ra bàn lọc thuốc. Con vẫn khóc, và thỉnh thoảng lại nấc lên một tiếng thật to.
Tối ấy bà tới buông màn cho con, và âu yếm, bà lại nhắc đến câu truyện lúc chiều.

Nhưng khi ấy có nhiều người đến thăm con quá, nên con xin bà cho con khất đến mai hẵng nói.
Trưa hôm sau, lúc mọi người đã đi làm đồng vắng cả, và lũ trẻ ở nhà bà cũng rủ nhau đi chơi tiệt, chỉ còn mình con và bà ở nhà, bà mới lại gợi nên câu truyện và hỏi vì sao con đã khóc như thế.

Thấy bà thật là tử tế quá, nếu con không bày tỏ có lẽ sẽ làm cho bà áy náy. Con mới thành thật kể cho bà nghe, những gì đã xui nên cơn cảm xúc chiều tối hôm qua. Bà chăm chú nghe con thuật truyện mình như nghe kể một thiên tiểu thuyết lý thú. Thỉnh thoảng bà lại âu yếm nhìn con. Có lúc con thấy vành mắt bà rưng rưng đôi ngấn lệ, và ngạc nhiên vì thấy con là một đứa trẻ không thường. Thế rồi, bà thường hay nói với những người đến thăm con rằng:
- Tôi rất lấy làm lạ, chưa bao giờ tôi gặp thấy đứa trẻ nào ăn nói rắn rỏi, mà lại lắm cảm tình như cậu ấy...

Với cách con ăn nói, và lòng đạo đức sốt sắng của con, bà rõ biết con chắc đã phải có một người mẹ đạo đức và khôn ngoan lắm. Ðôi lần, bà hỏi con về gia đình, mà lần nào con cũng lấy làm sung sướng thuật tả cho bà nghe quảng đời ngây thơ êm thú của con. Những ngày con được gia đình yêu thương ấp ủ, cả những mẫu truyện ngộ nghĩnh vụn vặt trong thời thơ trẻ của con với tấm lòng mẹ thật là nhân ái. Nhất là con năng xen vào tấm lòng yêu thương hiền dịu của Ðức Mẹ. Con khoe bà rằng:
- Mẹ con yêu mến Ðức Mẹ lắm, người đã tập cho con biết lần hạt từ ngày con mới biết nói...
Do đó mới có lần bà cảm động thốt ra câu:
- Tôi thật phải kể mình là đặc biệt lắm mới được cái hân hạnh Ðức Mẹ gửi cậu ấy đến cho tôi nuôi ít tháng.

A! thưa cha thân ái, con cứ muốn nói mãi đến những sự thương yêu chiều chuộng con đã được ở nơi tấm lòng bà góa ấy. Lần được coi cuốn phim Marie Louise, cô bé Pháp tị nạn ở Thụy Sĩ, con đã thấy số phận hẩm hiu của cô, tương tợ như của con. Nhưng sự hẩm hiu ấy đã đưa cô vào một nơi ấm cúng, không kém gì ở gia đình cô.

Ðứa con nhỏ của cha hồi ấy cũng từ chỗ rủi ro mà gặp được may mắn như vậy. Nếu không, cả một đời tu chú bé của con không có đến một ngày yên ủi. Và những ngày lao khổ, có thể làm cho con tủi cực suốt đời, nếu khi ấy Chúa chẳng gửi đến cho con một bàn tay ân tình nâng đỡ.

Con xin dâng lên một lời cảm mến không cùng để đời đời ngợi khen lòng từ bi lân ái Chúa.
Ngày nay, mỗi bước con đi, là mỗi lần nhắc cho con nhớ đến đôi bàn tay, và tấm lòng rộng rãi, đã thương giúp con thủa trước. Con xin dâng nó để nên lời cám ơn liên lỉ trước tòa Chúa.

Bà bá đã thương con bằng tình yêu mẹ, thì con cũng đã lấy mối tình con mà đáp ngãi. Ðôi tình yêu thắm thiết ấy đã biểu lộ ra trong bất cứ một dịp nào. Cho nên sau người ta đã đặt tên cho chúng con là: Hai mẹ con.

Sư thật có gọi như thế mới đúng nghĩa. Ngày nay, người mẹ thân quí ấy đã về trời rồi. Lòng con còn nặng nghĩa tri ân. Mỗi khi tưởng nhớ đến người đã quá vãng, tâm trí con còn hình dung ra được tất cả những bộ điệu yêu thương, mềm mại của đôi bàn tay nhỏ nhắn. Tiếng nói của người dường như còn nhỏ nhẹ bên tai con. Với những cái người đã làm cho con quyến luyến, nay vẫn còn dào dạt trong ký ức!...

Ôi, thưa mẹ quí mến! để khi con về trời cùng mẹ, con sẽ tỏ cho mẹ hay lòng hiếu nghĩa của con tận tình đối với mẹ, những cảm tình chua xót con phải chịu đựng khi lìa biệt mẹ...

Nhưng con chắc chắn rằng, ngày nay mẹ đã ở trên trời, mẹ đã hiểu con hơn ai hết, mẹ đã hiểu con cần phải thuộc về Chúa hơn cho thế gian. Ngày nay mẹ sẽ không còn buồn phiền khi nghe con nói đến việc "con phải đi theo Chúa" nữa. Trái lại mẹ đã vui mừng vì con đã chiến thắng những cảm tình hằng bồng bột trong con người yểu điệu của con.

Mẹ! Khách đầy đau khổ lắm!... Trước tòa Chúa, xin mẹ hãy giúp con được bền gan cho đến cùng.

littlewave
27-03-2009, 02:24 PM
Bị Ðuổi

Sau khi nhận thấy thái độ bất công của cha xứ cứ ngày một găng, những anh cậu lớn thấy khó mà chịu đựng nổi, nên đã cuốn gói và xin về. Thế nghĩa là họ phải mang cái tiếng là "phá giới." Vì quan niệm số đông bổn đạo khi ấy còn cho việc tu xuất là kém cỏi, là... lôi thôi, và thường, ít là một thời gian, họ coi rẻ nhưng người tu xuất lắm. Nên thường những người tu xuất mà không có lý chứng nào biện bạch cho thì rất nhục. Lại thường thường bổn đạo vì lòng thành kính chức bậc thày cả, nên ít khi họ dám chú ý đến những cái bất công, mà con dám nói, là "có" ở phần đông các linh mục thời ấy. Và do sự thành kính ấy, các linh mục ấy đã lợi dụng rất nhiều, mà những người biết, và bị ở trong những cảnh huống bất công ấy, không hề dám hé miệng thở than một lời nào. Do đó đã xẩy ra những vụ đáng buồn. Nhưng những sự đáng buồn ấy cha cho phép con miễn kể ở đây và nếu có cần con xin kể vào một dịp riêng.

Bởi thế, những anh cậu xin về, là phải chịu một điều tiếng không hay trước mặt người đời. Chứ họ không thể làm cho người ta tin được rằng: Vì cha xứ thế nọ với thế kia nên họ phải xin về...

Những anh xin về, được cha xứ chấp thuận ngay, và họ phải ra đi với một sự nghèo khó và khổ sở rất mực. Cha đừng tưởng cha xứ sẽ cho họ đủ số tiền tiêu về đến nhà tùy xa gần? Không, có chăng, chỉ đủ được vài xu uống nước chè. Nên có anh phải bán áo xống đi để lấy tiền lộ phí về nhà quê.

Họ vừa ra đi, thì trong nhà xứ lại có câu truyện lộn xộn. Cha xứ thấy vậy, liệu chừng những anh cậu nhơ nhỡ có anh nào biết điều một tí, người cho thải hồi về nhà quê ngay. Trong số 15 cậu, thế là còn vỏn vẹn có 8 nữa thôi.

Nhưng trong số 8 ấy, mấy ngày sau cũng hụt mất ba, còn năm. Trước khi ấy, cha Yoseph Nghĩa, phó xứ tỉnh Thái Nguyên có viết thư xin cha Nhã cho mấy cậu lên giúp xứ trên ấy. Và cha Nhã đã hứa cho 4 anh. Nhưng nay thấy "chiến tranh" làm hụt đi mất hai phần ba, nên người đành phải bớt đi hai, còn hai.

Trong số hai ấy không có tên con, mặc dầu con đã ao ước hết sức, vì con cảm thấy gương tội lỗi ở trong cái nhà xứ tồi tàn này đã chất nặng trên tâm hồn con, và con hầu như không thể đành sống như thế mãi được nữa. Con chỉ muốn thoát ly. Và hàng ngày con cũng chỉ xin Ðức Mẹ mau mau cứu con thoát khỏi nơi này. Nhân dịp này con cũng đã làm tuần chín ngày kính Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp để xin Người liệu cho con được đi Thái Nguyên.

Ðức Mẹ đã nhận lời con van xin, nhưng đã đưa đến cho con một dịp may bất ngờ. Ðược đi Thái Nguyên, con gọi được là một dịp may, nhưng để được cái may ấy, con đã phải chịu nhục nhã biết bao điều!

Vậy ngày hai anh cậu được chọn đi Thái-nguyên giúp cha phó Nghĩa, thì cũng là ngày cha xứ sai con đi giúp lễ cho người ở Tam Lộng. Sáng ấy là lễ hai thánh Phêrô và Phaolô, bổn mạng họ Tam Lộng, cha xứ sửa soạn lên làm lễ cho họ, và người bảo con đi theo.

Thường thường, được theo cha xứ đi về các họ lẻ là một đặc ân hiếm hoi lắm, và anh cậu nào cũng thích được đặc ân ấy, kể cả con cũng rất thích được "đi họ."

Vì ở đó, dầu mà cho thế nào đi chăng nữa, có nghèo khổ đến đâu, thì đồ ăn thức uống và những cánh người ta xử đãi còn bằng mười ở nhà "cụ xứ." Và khi bỏ đó ra đi, thế nào cũng kiếm được dăm ba hào để mua xà phòng, hoặc bút giấy tiêu dùng. Nên dịp này, tất nhiên con cũng thích như con thường thích. Nhưng chỉ khổ có mỗi một nỗi, làm con phải từ chối, là vì con không có quần.

Tất cả gia nghiệp con hiện giờ chỉ còn một cái quần và một cái áo mà thôi. Thế mà đã nghèo, lại còn thêm khổ nữa! Chiều hôm qua con phải đi chăn vịt, bị trời mưa, làm ướt hết cả cái bộ đồ độc nhất của con. Thế là con phải đi thuê quần bằng một giá "đun nước hai tuần lễ" cho anh cậu đã cho con thuê quần. Còn quần của con thì con đem giặt và phơi trong bếp cho chóng khô.

Nhớ lại cái thời phải thuê quần, mà con lại phải buồn cười nôn ruột. Nhưng muốn khỏi cởi truồng thì phải chịu đựng tất cả những nông nỗi khó khăn do tụi đầu cơ quần gây ra.

Và để cha giải trí một tí, con xin để lại câu truyện trên, mà kể hầu cha câu truyện đầu cơ quần để cho thuê.

Có lắm anh lợi dụng lòng tốt của con mà "cuỗm" mất cả cái gia tài áo xống của con. Ban đầu thì họ mượn xong rồi họ xin. Mà xin rồi họ trữ lại đó, để khi anh nào thiếu, họ đem cho thuê. Họ cho thuê bất cứ là bằng tiền, hay là bằng công việc làm. Nhiều khi, muốn cho công thuê cao lên, họ tìm đủ cách chê bai anh đến thuê là: "ghẻ tầu" với lại:"anh lắm rận lắm," hay hoặc: anh có tật hay "tháo cống" ban đêm lắm...v.v. để bắt anh đến thuê phải chịu một cái giá cao theo ý họ. Trước kia con giầu có lắm, và cũng tưởng sẽ chẳng bao giờ con lâm vào cảnh đi thuê quần. Nhưng từ ngày chạy trốn hụt, con đã mất gói áo quần. Rồi sau lại bị cha xứ phạt, không phát cho đồ gì che mặc trong năm ấy theo lệ thường. Thế là con vỏn vẹn chỉ còn có một bộ đồ mặc từ ngày chạy trốn về đến nay. Nên tuần nào con cũng phải đi thuê quần để giặt quần của con.

Những anh trước đã được con thương giúp đỡ họ tận tình, nay thấy con đã ra nghèo túng, đàng khác, còn bị cha xứ "thanh trừng" luôn nên họ chả ơn với huệ gì, còn dúi thêm đau khổ cho con. Họ cũng bắt con phải thuê quần của họ như ai... và...v.v. ôi con xin mạn phép khỏi tả...

Ðến hôm ấy, anh cậu cho con thuê quần đã trông hòng được cha xứ cho đi, vì quê anh ta cũng ở gần Tam Lộng. Anh ta mong có dịp để về thăm mẹ. Nhưng khi thấy cha xứ sai con đi, mà lại không sai anh ta đi. Anh ta đâm ra bực tức, giở quẻ đòi quần con lại.

- Không, theo lời hẹn, tớ đã chịu đun nước hầu cho anh hai tuần lễ, thì tớ có quyền mặc quần của anh cho đến lúc quần của tớ khô.

- Không được, nhưng bây giờ tớ cần quần... Con hiểu ngay ý anh ta, nên con bằng lòng làm vui lòng anh ta, con đáp:

- Ðược, tớ sẽ lên xin cụ cho anh đi Tam Lộng, còn tớ ở nhà cũng được...

Rồi con lên thưa cha xứ:

- Trình cha, xin cha cho cậu Tôn cậu ấy đi Tam Lộng.

- Thế còn "quan tướng Văn" ở nhà làm gì? Người ngừng một lát, trợn mắt nhìn trừng trừng vào con, rồi người tiếp:

- Tao bảo thì phải nghe... thằng nào tao bảo đi thì phải đi. Sao mày lại đùn cho thằng Tôn?

- Bẩm cha vì con...

- Con con cái gì?

- ... Con không có quần...

Con biết, đôi co với cha xứ là vô phép, nên con đành ngậm câm, lấy vạt áo gạt qua đôi mắt ướt, đi xuống nhà dưới, cởi trả quần anh kia, vào lấy bộ quần ẩm của con mặc vào, rồi xách điếu lẽo đẽo theo cha xứ. Trời vẫn âm ỷ mưa, như xui gợi một nỗi buồn không bờ bến trong cõi lòng khổ não của con.

Trời mưa, quần ẩm, gió lạnh tạt vào... chỉ đi được một quảng đường từ nhà xứ ra khỏi cổng làng thôi, con phát lên cơn đau bụng dữ dội. Mặc dầu thế con vẫn gắng đi, hy vọng rằng nhờ hơi ấm trong người toát ra, quần con sẽ mau khô, và có lẽ sẽ hết đau bụng. Song chỉ được một quãng, cơn đau quặn lên làm con không thể nào gượng bước được nữa. Con phải ngồi sang bên vệ đường, đợi cho đỡ cơn đau rồi sẽ đi. Lúc ấy con không làm sao cho mắt con khỏi ướt được. Con nghĩ đến thân phận mình thật là quá tủi nhục!...

Bỗng cha xứ nhìn lại. Người đã đi cách con một đỗi khá xa. Khi thấy con ngồi úp mặt khóc bên vệ đường, người liền quay trở lại, đến bên con người hỏi:

- Thằng này, không đi, sao lại ngồi đây làm gì?

Con đứng dậy vòng tay đáp:

- Trình cha, con đau bụng quá, con ngồi đợi cho đỡ đau một tí rồi con đi sau.

- Ðau bụng à? Thằng này nó khéo chèo chống lắm đây.

Thế là người giơ ngay gậy lên, nện vào lưng con hai cái, rồi lại lấy đầu gậy còn dính đầy bùn, dúi vào đầu con một cái nữa, làm con loạng quạng xuýt ngã.

Khi ấy, không nói, cha cũng có thể đoán, con đau khổ, và bực tức đến độ nào? Con toát cả mồ hôi trán ra, và khóc nức nở.

Ðánh con xong, cha xứ đuổi con trở về nhà xứ, người cũng theo con về, bảo cậu khác đi Tam Lộng thay cho con. Còn con thì người tống cổ lên Thái nguyên với hai cậu kia. Người dặn quan trương dẫn chúng con đi Thái Nguyên rằng:

- Lên đấy, hễ cha Nghĩa không nhận thằng Văn thì anh cứ tống nó về giả bố nó... Thằng, thằng, thật mất dậy thật.

Cơn cực trong lòng con đang ứ lên đến tận cổ. Nhưng vừa nghe cha xứ lên án tống cổ con lên Thái Nguyên, con thích chí quá, có thể tươi ngay nét mặt lên được, mặc dầu con vẫn còn đang đau bụng.

Con tự nghĩ: Thế là từ nay hết phải thở cái không khí nặng nề ở cái nhà xứ tội lỗi này nữa. Con cũng không quên cám ơn Ðức Mẹ đã lo liệu cho con được gặp may đến thế.

Con vội vàng thu xếp đi Thái Nguyên ngay sáng ấy. Con cũng không quên nhắn lời từ tạ bà bá Sáu, người mà con thường gọi là "người mẹ nuôi quí mến."

Con ra đi với một sự nhuốc nha không ai bằng. Vì ngoài những lời nhiếc mắng thậm tệ của cha xứ, con không còn được một sự yên ủi nào khác nữa, cả đến một đồng xu cha Nhã cũng không cho. Người bảo: Con đã ăn cắp của người nhiều rồi, nên bây giờ người không cho. Tuy thế, cứ nghĩ đến sự may mắn được thoát ra khỏi nhà này, lòng con đã vui reo lên, và không còn một sự nhục nhã nào có thể làm con buồn được nữa.

Khi đã bước chân lên xe lửa, con thở mạnh một cái thật dài, rồi bắt đầu hát bài: Mẹ ơi! con cám ơn Mẹ dường bao...

Hai anh bạn cùng đi với con, thấy con có vẻ khiêu đời quá. Họ bảo con:

- Người ta nhiếc mắng anh thế, mà anh còn có vẻ điềm nhiên được như thế à?

Con không trả lời. Họ lại tiếp:

- Chắc anh không phải là một người biết cảm xúc hơn nữa, anh là một đứa... mặt dầy.

- Phải, nếu như mặt tôi không dầy, không chắc tôi đã chịu đựng nổi những cái mà người ta xỉ nhục tôi. Nhưng bởi vì mặt tôi dầy, nên người ta tát tôi, mà lòng tôi vẫn cứ sẵn một nụ cười tươi tỉnh...

Từ giây phút ấy, hai anh bỏ lảng con đi. Họ rủ nhau đi ăn quà. Còn con thì đến Thái Nguyên mới được cha Nghĩa cho năm xu đi ăn phở.

Nhưng giả như có tiền mà họ ăn quà, thì con cũng chả nghĩ ngợi gì cho lắm. Có điều làm con phải rớt nước mắr ra, là họ vừa ăn vừa nhem nhẻm nhèm nhem, có thèm ta cho cục đá!..., làm con bị nhục nhã hơn là thèm khát những miếng bánh họ cầm ở trên tay.

Thưa cha, thế mà, hai anh đó mới đây còn đi xin mặc ghẹ quần của con đấy... Nhưng khi họ đã được lòng cha xứ rồi thì họ không còn phải lụy ơn kẻ đã cho họ quần nữa.

Tình đời là vậy. Con may vừa đã được Chúa sớm cho hiểu thấu lòng người đời nông cạn làm sao, con đã nhìn thấy ở nơi họ những cái thâm hiểm thật đáng gớm. Nhưng càng hiểu thấu tình đời nông cạn, càng thôi thúc bước con tiến sâu vào lòng Chúa.

Con chỉ biết tin vào lòng Chúa, và đời chỉ là một bài học làm cho con tín nhiệm vào lòng Chúa hơn.

littlewave
29-03-2009, 11:52 AM
Trốn Lần Thứ Hai

Trước khi đến Thái Nguyên, con vẫn đinh ninh rằng: Thái Nguyên là một nhà xứ có cha Dòng Thánh Ða Minh Y Pha Nho làm chính xứ, thì chắc đấy có thể là một nhà xứ kỷ luật, và có lẽ sẽ dồi dào tình thương yêu nhau hơn?

Nhưng khi đã ở đó mấy ngày, con mới nhận thấy rõ mọi cái con nghĩ điều lộn ngược lại. Mà cái tệ hơn hết, là cái phân giai cấp giữa Tây và Việt.

Một thí dụ bé nhỏ con muốn dùng để khỏi phải va chạm đến các cố Tây Y-pha-nho. Một thằng cậu bé con cha Y-pha-nho, nó có quyền độc nhất trên lũ cậu con cha phó Việt Nam, mặc dầu nó là một thằng cậu mới vào tu, mà chúng con là những người đã đi tu trước hắn những hai ba năm. Theo luật, thì không kể con cha chính hay là cha phó, hễ cứ anh nào đi tu trước là được ở địa vị trên. Nhưng đây ngược lại. Và bởi thế, con phải chịu tòng phục tất cả những cái ngoại lệ, nhưng vì quan trên ép.

Ấy là con chỉ xin dùng một thí dụ nhỏ nhoi như thế, để cha hiểu về những vấn đề to tát hơn, phân tách hẳn, và rất chênh lệch giữa cố Tây và Việt.

Cái đó đã là cái khó chịu. Và con bắt đầu "ghét" các cố tây từ đấy. Rồi con chỉ ao ước khi nào con làm Ðức Cha, thì con sẽ "tẩy chay" hết các "cụ Y-pha-nho" về nước. Và con lại ao ước tìm lối "ra đi".

Trưa hôm sau con trốn. Trước khi ra đi, con có vào nhà thờ chào viếng Chúa, phó mình cho Ðức Mẹ, và khấn xin các linh hồn luyện tội phù trì che chở cho con về đến nhà bằng yên. Luồn lỏi qua hai ngày đàng con mới về được đến nhà. Lòng vừa mừng lại vừa lo. Con nghĩ mãi không biết nói cách làm sao để cho cái tội trốn của con nó ra nhẹ trước mặt thày mẹ?

Sau con tính nước đôi thế này: Hễ về nhà mà xem tình hình có thể yên được, thì con sẽ thú thật là con trốn. Bằng không thì cứ nói là cụ cho về chơi... Nhưng lòng không thể định yên được khi gian nan đến...

Vừa bước chân vào đến cổng, thoạt trông thấy con thân hình tiều tuy, bẩn thỉu, áo quần tơi tả, mặt mũi lấm lem, tay chân sạm nắng, thày có lẽ đoán ngay ra sự thật, là con đã trốn. Thày liền lên tiếng mắng nhiếc om sòm, và xua đuổi con đi như một đứa ăn mày. Cũng may, hôm ấy giá không có bà trẻ Khóa con ở đấy can thiệp thì thế nào con cũng bị thày cho con một trận đòn nên thân. Bà lại ôm con vào lòng, mơn trớn và dỗ con đừng khóc nữa.

Vừa khi ấy mẹ đi chợ về, con hy vọng còn chút yên ủi nơi lòng mẹ. Con liền chạy ra định ôm choàng lấy mẹ, nhưng mẹ giật lui lại, hai mắt căm hờn nhìn con. Như không một chút thương hại, mẹ lên tiếng hạch con:
- Ðã đâm đầu trốn về phải không? Vô phúc cho cái đồ khốn nạn!

Rồi mẹ cứ tiếp tục giảng cho con một bài thật dài, và cứng rắn cũng chẳng kém gì bài của thày. Con lấy làm nhục nhã quá, ngồi bên một gốc cột, và chỉ biết lấy nước mắt để minh oan. Con muốn thú thật là mình trốn lắm. Nhưng vừa rồi, vì sợ thày đánh, con đã cố gắng bênh chữa cho mình là được phép về thăm nhà.

- Cái mặt như thế mà mày dám nói là được phép về thăm nhà à?
- Vâng, thật ạ, nhưng dọc đường con bị người ta bắt nạt, và cướp hết cả đồ đạc của con.

Tuy thế, trong nhà không ai tin là con nói thật. Và cho được rõ thực hư, mẹ con nhờ cậu Nhượng viết thư ngay lên hỏi cha phó Nghĩa xem sao.

Ở đây, con nhớ lại một cử chỉ rất thân mật của em Anna Maria Tế. Xa em lâu ngày, nay mới được gặp em, thật không thể nói được sự sung sướng của con. Trốn đi từ Thái Nguyên, trong túi con vỏn vẹn chỉ có năm đồng xu. Con đã dành lại được một xu rưỡi, để mua lấy năm cái bánh phong nhỏ bằng ngón chân cái, đem về làm quà cho em. Còn ngoài ra con phải đi ăn xin độ đường, nhờ vả xe cộ để chạy trốn. Năm chiếc bánh bé nhỏ ấy là một sự hy sinh cao quí của con. Vì con phải đi bộ từ Bắc Ninh đến bến đò Hồ, trên con đường 12 cây số, dưới sức nóng nực của tiết hè. Con đã bao lần muốn dùng một xu rưỡi ấy vào việc giải khát. Nhưng nhớ em, con lại quên, và nhất định nhịn khát để mua cho em một chút quà. Có lẽ em Anna Maria không biết đến nông nỗi cay cực ấy!...

Nhưng em rất thảm hại, khi thấy anh vừa về, thân thể đã tiều tụy, mà còn bị nhà mắng mỏ thậm tệ như thế. Em không nỡ lìa anh. Và từ lúc gặp anh, em cứ ôm choàng lấy anh, vỗ về, hôn hít, dụ dỗ anh nín đi, đừng khóc nữa.

Con xin thú thật, giả như không có những cử chỉ thân ái ở nơi đứa em yêu quí ấy, con không còn thể tưởng được, đây là gia đình quí mến của con. Tuy vậy những cử chỉ thân mật của em Anna Maria không làm cho mắt con khô ráo được phần nào. Con khóc suốt ngày hôm ấy, và vẫn tiếp tục khóc cho đến mấy ngày sau. Em Tế chỉ chịu buông con khi phải đi học mà thôi (lớp học kỳ hè).

Nghe hai bài giảng dài liên tiếp, con cảm thấy mệt mõi quá sức. Lúc đầu thì con toát mồ hôi, sau lại cảm thấy ớn lạnh, và buồn ngủ. Con bèn ngả lưng lên chiếc chõng tre, và đánh một giấc.

Bấy giờ con mới thấy dễ chịu, và thèm ăn. Và tuy con chưa dám hở miệng xin, nhưng mẹ cũng đã dọn sẵn cho con một bát chè đậu đen, và hai cái bánh dầy nhân đỗ. Mẹ đem đến bàn, và bảo con ngồi dậy ăn. Nhưng vừa thấy mẹ, và nghe tiếng mẹ nói, lòng con lại cảm thấy cái gì làm cho con tủi nhục... con lại gục xuống khóc, và trả lời:
- Em không đói.

Mẹ lại giảng cho con một bài nữa. Nhưng bài giảng này mẹ nói hết sức nhỏ nhẹ, trách con chẳng thành thật một tí nào. Chiều ấy, con chỉ đi đến nhà thờ viếng Thánh Thể chốc lát, rồi tối con đi ngủ sớm. Con chẳng muốn truyện trò với ai cả, và ai có hỏi, con cũng chỉ trả lời vắn tắt. Còn ngoài ra con chỉ khóc. Trong hai ngày liên tiếp con cũng ăn uống rất ít, và chỉ có một mình em Tế bảo con ăn thì con mới ăn, còn ai đến mời con, con cũng từ chối rằng: Em không đói.

Sau ba ngày không cầm được nước mắt, hai mắt con sưng húp lên. Rồi tiếp đấy con bị một cơn đau mắt nặng. Luôn một tuần lễ con phải nằm trong xó tối, không thể có một chút ánh sáng nào lọt thấu được, vì chỉ hơi có ánh sáng một tí là mắt con nhức chói lên, như nóng bỏng. Cả ánh đèn dầu ban đêm mẹ đem lại giường con để soi muỗi, cũng làm cho mắt con tuôn ra hằng dòng nước.

Chỉ có một điều gây nên nông nỗi ấy, là con quá tự tủi. Con cứ nghĩ ngợi mãi có một câu: Biết là con trốn, sao thày mẹ không hỏi cho biết căn do tại sao mà con trốn? Ðể đôi lời con có thể giãi bày được sự thể khiến con phải trốn.
Ðằng này, chưa gì cả, cũng chưa kịp chào hỏi ai, đã bị thày mẹ la mắng om sòm... Ðã đành thày mẹ có quyền phạt tội con trốn. Nhưng cũng nên hiểu cho đứa con đau khổ ấy rằng: Người ta không bao giờ trốn cái được yêu cả. Nên việc con trốn, ít ra cũng có phần nào có lý?

Thật ra, con cũng không có phép ra điều kiện cho thày mẹ xử đoán việc con. Nhưng vì như con đã thưa thật rằng: Con hay tự tủi lắm. Một khi con đã có ý ngay mà bị hiểu lầm, thì con không tài nào cầm nổi được nước mắt. Con cũng hiểu, chịu oan ức vì Chúa thì được công nghiệp. Nhưng làm gì con đã có nhân đức cao đến độ ấy?

Linh hồn con còn như cây non, gió lay chiều nào, ngã theo chiều ấy, chứ đâu đã cứng rắn đủ để có thể tự chủ được mình? Khi con mới về nhà, và nghe đủ điều thày mẹ la mắng, con đã tưởng đến và thèm khát một tấm lòng như người mẹ nuôi con mấy năm trước. Nhất là khi con vừa bị bệnh, con ước ao, giá có mẹ nuôi của con ở đây thì yên ủi biết bao!

Nhưng không nhẽ vì lỗi con trốn, mà thày mẹ đã nỡ dứt đứt mối tình yêu con đi!
Nước mắt của con chảy ra ba ngày, tiếp đến cơn đau mắt dữ dằn của con, đã làm cho thày mẹ nguôi giận, và hiểu con một phần nào rồi. Bây giờ thay vì la mắng, thì yên ủi, thay vì lãnh đạm, thì chăm nom săn sóc.

A! con nói lãnh đạm, có lẽ là hơi quá? Thật ra, mẹ không khi nào lãnh đạm với con cả. Từ hôm con trốn về, mẹ vẫn lo lắng cho con từng ly từng tí. Nhưng chỉ có cái con tủi, là mẹ chẳng tin con một cái gì hết.

Những ngày con chịu bệnh, chính tay mẹ lo cơm cháo cho con. Theo lệnh bà lang, con phải kiêng khem đủ thứ. Nhưng mẹ còn nhặt nhiệm hơn, bắt cả nhà phải kiêng không được nói truyện gì về việc con trốn cả. Ðàng khác mẹ cứ rót mãi vào tai con những lời yêu đương. Làm cho không còn tài nào chẩy nước mắt ra được nữa.

Do đó bệnh đau mắt của con thuyên giảm rất mau lẹ. Khi mắt con đã khỏi, mẹ lo tìm thuốc dưỡng mục cho con dùng. Ðàng khác, mẹ lại sắm sửa để đưa con lên tạ lỗi cha Yoseph Nhã, và xin để con ở lại với người.

Chuyến đi này, con hoàn toàn phải nghe theo ý mẹ, còn phần con lúc nào cũng chỉ là từ chối. Con không muốn sống trong cái nhà xứ tồi tệ ấy nữa...

Trái lại, mẹ thì mẹ không có thể tin được cha Yoseph Nhã lại có những thái độ bẩn thỉu như con nói. Mẹ cứ ghè con mà nói:
- Thày Cả là thánh, là đấng thay mặt Chúa, có bao giờ lại ăn ở như thế được? Chẳng qua vì con "khốn nạn" quá rồi, không còn muốn tu tỉnh gì nữa thì con nói thế...

Thế là con lại phải theo mẹ lên Hữu Bằng để chịu "tù" ở trong nhà xứ.

littlewave
01-04-2009, 04:16 AM
Vượt Ngục Lần Thứ Ba

Con muốn nói, nhà xứ Hữu Bằng là một đề lao cho những đứa trẻ nào muốn đến tu tại đây. Ở đây chỉ có tội lỗi, và hình phạt. Mà hình phạt thì hầu như chỉ để dành riêng cho những đứa trẻ nào không thích đua đòi phạm tội.

Cho nên con lại muốn gọi nó là một đề lao cưỡng bách. Theo lời yêu cầu của con, mẹ nán ở lại nhà xứ Hữu Bằng ít ngày để xem tình hình có thật như con nói không. Sau ba ngày quan sát kỹ lưỡng, con mới nghe mẹ than thở với cha J. Nhã một câu. Ðó là một câu rất thông thường, nhưng mẹ con đã ngụ một ý nghĩa rất sâu xa:

- Thưa cha, con nhận thấy chưa đầy năm năm, mà nhà xứ của cha đã thay đổi rất nhiều...

Quả thật, về hình thức nó cũng có thay đổi nhiều lắm. Nhưng mẹ không có ý nói nguyên về hình thức, mà còn gồm cả đến tâm tính con người của cha Y Nhã nữa.

Hôm mẹ ra về, con cũng tiễn mẹ ra đến bến đò. Và lúc ấy mẹ con mới tỏ lời than phiền, vì thật ra mẹ cũng không ngờ rằng đến thế!...

Trên quãng đường vắng ấy, con khóc nức nở, xin mẹ cho con theo về. Mẹ thấy con khóc, mẹ cũng cảm tâm chia sẻ nỗi lòng cùng con. Mẹ vừa lau mắt con rồi lại thổn thức lau mắt mẹ... Hai mẹ con vừa chậm chạp bước đi, vừa tâm sự nỗi buồn. Sau mẹ áp đầu con vào ngực mẹ, và ôn tồn mẹ nói:

- Nhưng con cũng có thể hiểu được lòng mẹ một tí chứ? Con có biết nỗi khổ ở gia đình do thày con gây nên không? Nếu con đã biết, thì mẹ xin con chia sẻ cùng mẹ một đôi phần. Mẹ xin con hẳng chịu khó gắng ở tạm đây được ngày nào hay ngày ấy, rồi mẹ sẽ liệu cách tìm cho con một chỗ tu khác. Con hãy vui lòng chịu đựng và dâng cho Chúa hết mọi nỗi khó khăn con sẽ gặp phải trong nhà xứ này. Còn mẹ, mẹ sẽ cầu xin Chúa và Ðức Mẹ gìn giữ con khỏi sa vào những dịp nguy hiểm, mà mẹ đã thấy có rất nhiều ở nơi này. Nguy hiểm, nhưng con cứ vững tâm tin cậy vào Chúa và Ðức Mẹ, thì không hề gì hết. Ðàng khác, con cũng nên hiểu rằng, đưa con đi, rồi lại dắt con về, người đời họ sẽ bàn tán thế nọ với thế kia. Mà như thế là bắt buộc mẹ phải nói những cái không hay mà mẹ đã thấy có nơi cha Nhã. Mà con thì con đã hiểu rằng: Chúng ta cần phải giữ tiếng tốt cho địa vị của một thày cả. Cho nên mẹ xin con hãy nán ở lại đây, chịu cay cực ít lâu nữa. Về nhà rồi mẹ sẽ liệu cách khác cho con.

Nói rồi, mẹ đặt một cái hôn trên trán con, xin con quay trở lại nhà xứ. Rồi mẹ mau bước tiến về phía ga. Con thổn thức đứng nhìn mẹ sang đò, và mãi cho đến lúc thấy bóng mẹ khuất trong đám rừng Nội, con mới chịu lui bước trở về nhà xứ. Lòng chua xót như bị xé đôi! Ngày hôm ấy, con nhớ mẹ liên miên, và chỉ muốn trốn theo mẹ về. Song nhớ lời mẹ khuyên con lại cam tâm ở lại.

littlewave
04-04-2009, 11:57 PM
Trốn tiếp

Công việc của con xuôi trôi được hai tháng, thì lại xẩy ra một cuộc đàn áp bất công. Và vì thế con mới lại phải trốn ra đi một lần nữa.

Không được xử cách thẳng thắn nơi người có quyền xử. Lại phải một anh cậu lớn, nhân thấy con trái mà ăn hiếp, để trả thù cho những câu con trả lời không được vừa ý anh ta.

Hôm ấy, mùa gặt đã xong. Nhưng trong sân phơi, rơm, lúa còn bề bộn. Nhân buổi chiều vắng cha xứ. Cha xứ đi chơi tổ tôm ở nhà cụ tiên chỉ. Cơm chiều vừa xong, thày già và cánh cậu lớn dắt nhau đi dạo làng...

Lũ cậu bé chúng con, cả thảy bẩy anh, kể cả những anh cha mẹ giữ để đi học lợi dụng được một buổi chiều hiếm hoi. Chúng con rủ nhau chơi cách "giàn trận" và "tác chiến." Chia người làm hai nước Nhật Pháp ra đánh trận giả. Những anh có vẻ bệ vệ cho nhập vào quốc tịch Pháp, còn những anh hom hem, nhỏ nhắn, cho xung vào đoàn quân Nhật. Tất nhiên, con được liệt ngay vào đoàn quân anh dũng của Nhật-bản. Hơn nữa họ tôn con lên làm tướng, vì có cặp mắt thẳng thắn như "ông Nhật" mọi đàng.

Sau khi đã chia địa giới, lấy các ụ rơm trong sân làm ranh giới. Chúng con bắt đầu gây truyện tác chiến. Bên quân Pháp có một anh làm đại tướng đội mũ lưỡi trai có đến hằng chục chiếc ngôi sao gắn trên vành, và ba anh lính. Còn bên Nhật chỉ có một ông đại tướng, và hai tên lính. Thế nhưng họ yêu đại tướng của họ đáo để. Họ vừa là lính, mà cũng vừa làm ngựa cho đại tướng cưỡi nữa. Mà đại tướng của họ cũng yêu họ như đại tướng cả. Hễ khi thấy họ chạy mệt thì đại tướng lại chịu khó làm ngựa cho lính đại tướng cưỡi. Nhưng không khi nào hai tên lính dám ngồi lên vai của đại tướng sốt cả. Họ thấy đại tướng tử tế với họ, nên họ càng tử tế với đại tướng.

Con bên các anh Pháp, anh nào cũng chỉ thích cưỡi ngựa và bắn súng, nên cứ cãi nhau hoài. Chúng con dùng khí giới bằng gươm gỗ, còn súng thì dùng bằng pháo, súng máy dùng bằng thứ pháo xiết.

Hai bên kháng chiến kịch liệt. Máy bay cứ từng đoàn "một chiếc" đi bỏ bom lung tung. Tiếng súng nổ lạch đạch làm phấn chấn quân sĩ. Ban đầu, Nhật thua, rút lực lượng về thủ đô ở một góc sân. Sau, may hạ được hai chiếc máy bay đi thám thính. Bởi vì họ đi sâu vào địa giới Nhật quá, đến lúc bị máy bay của đại tướng Nhật đuổi, họ mở hết tốc lực mà cũng không kịp trốn thoát. Ðành phải hạ cánh, xin đầu hàng.

Ðại tướng thấy cần quân, nên cho họ tự do, không bắt làm tù binh. Thế là họ xin xung vào quân đội Nhật. Lực lượng của đại tướng Nhật do đó thêm mạnh và phản công một cách đắc lực. Pháp thua, bỏ cả kho khí giới, chạy tuốt xuống rừng. Ðại tướng Nhật lúc này mới kịp vặn khăn làm một chiếc mũ "xung phong" đội lên đầu. Tuốt gươm trần, nhẩy phắt lên ngựa, rồi hô quân: đuổi!

Quân Nhật, nhất định là phải bắt sống ông đại tướng Pháp, hoặc làm cho ông ta phải ra hàng, mới chịu thôi.

Ðang lúc ấy, một chiếc máy bay Nhật, bay quá trớn, lọt vào rừng một cách lẻ loi, bị quân Pháp thọp mất. Ðại tướng Nhật nóng gáy, hò hét thật lực. Quân sĩ của đại tướng cũng chẳng kém hùng hổ, họ mím chặt hai môi lại, gầm lên như tiếng máy bay, và xe tăng, rầm rộ, dọa nạt đối phương kịch liệt.

Cuộc chơi đang vui, và đang có trớn. Không may, một anh cậu lớn đi dạo làng về sớm, thấy lũ bé chơi nghịch dại dột. Cậu ta trừng trộ tiến thẳng về phía đống rơm cạnh rừng la mắng om sòm.

Thấy vậy, con nói một câu khôi hài cho cậu ta cười để khuây nóng đi:
- Ả, "me-sừ" đi không gặp "ba đầm" hay sao mà coi bộ nóng nẩy thế? Mấy anh lính Nhật phát lên cười khúc khích. Cậu kia cũng cười, nhưng lại làm nghiêm ngay và nói:
- Thằng chỉ láo toét!...
- Toét? chả biết ai toét đấy?... Tối hôm qua chả biết đứa nào, bá vai đứa nào... ở xó cổng nhà khách ấy..., lại còn... toét?...
Lũ Nhật non lại xao xao nói tướng lên rằng:
- Ê!.. quả tang nhé! Quả tang nhé!...
- Thằng khỉ Văn, trẻ con với mày đấy à?
Con nhíu lông mày, nhẩy xuống ngựa, rút ở trong túi ra một bộ râu "ghi-đông" giả, cắm vào hai lỗ mũi, rồi con đáp:
- Hè! chắc gì anh đã có râu như tôi, mà anh dám bảo tôi trẻ con?...
Cậu kia thấy vẻ ngộ nghĩnh, phát phì cười, nhưng lại lập nghiêm ngay, cậu ta sấn lại gần con hạch:
- Mày gọi ai là anh, và xưng tôi với ai đây?
- Ai gọi tôi là thằng, và xưng tao với tôi trước?
- Tao đây.
Và không để cho con trả lời, cậu ta lên mặt lớn nói ngay với con:
- Muốn sống đem nộp pháo và diêm đây.
- Anh nói thật hay anh nói chơi?
- Tao phải chơi với mày à?
- Thế thì tôi cũng nói thật với anh: Tôi không đưa.
- Thật không?
- Thật. Anh lấy quyền ai?
- Quyền tao.
- Quyền của anh có ở ngoài chuồng ngựa ấy...
- Thật chứ?
- Ừ đấy.
- Quân chó Ngăm, chơi dại, người ta bảo lại còn bướng.
- Anh bảo gì? Anh có muốn chơi pháo, xin thì tôi cho. Chứ anh lại làm ra cái bộ mặt ông lớn đi ăn hiếp, thì có chắp tay lậy, tôi cũng chẳng cho. Tồi ở đâu ấy? Cứ tưởng mình lớn, là muốn hiếp tróc ai cũng được?
Nói rồi, con quay nói với quân đội của con:
- Anh em, tiếp tục...

littlewave
08-04-2009, 07:58 AM
Quân Pháp nhân cơ hội, lại lủi về sân chiếm lại căn cứ. Quân đội Nhật lại phải kéo nhau về kháng chiến. Nhưng đại tướng đã ra lệnh, đừng bắn súng nữa. Cuộc chơi do đó đã bớt vui đi nhiều lắm.

Cậu kia thấy con trả lời thẳng thắn, mặt gầm gầm, vừa quay đi vừa đe:
- Ðược rồi, để thày già về tao sẽ mách. Một chốc, lại thấy anh ta đi gây lộn với đại tướng Pháp. Ðại tướng Nhật, lên ngựa theo quân về thủ đô, và phát thanh cho bên Pháp hay rằng: Quân ai chạy xuống rừng nữa là thua. Rồi hai bên lại kháng chiến.

Một lần nữa, quân Pháp cứ lần lần thụt xuống phía rừng. Gần thua... Thì lại một lần nữa, anh cậu lúc nẩy đến làm cản trở đại tướng Nhật:

- Văn, đã bảo mà mày còn bướng hữ?
- Bướng gì? tôi có đốt pháo nữa đâu? Còn tôi chơi tôi vẫn chơi. Ai cấm chơi giờ này?...

Không trả lời, anh ta hằm hằm chạy đi lấy cái dùi trống, tiến lại gần con. Lũ Nhật sợ, bảo nhau chạy trốn hết, cả con ngựa của đại tướng cũng vứt đại tướng xuống đất rồi tẩu thoát. Chỉ còn một mình đại tướng đứng yên, và cương quyết giữ vững địa vị "đại tướng"

Anh cậu lăm lăm cầm dùi trống trên tay, hạch:
- Bây giờ, giỏi, mày cứ nói bướng đi với ông xem nào?
- Bướng gì? Anh bảo phải thì tôi nghe, chứ ai cho phép anh lạm quyền trên mà cấm chúng tôi thế nọ với thế kia? Anh đừng có giở cái trò cá lớn nuốt cá bé mà hạch lạc tôi làm gì. Tôi đây cũng có quyền bằng anh, nếu tôi giữ đúng địa vị tôi.
- Mày bảo ai là cá lớn nuốt cá bé đấy?
- Anh.

... Bốp!

- Quân chó! chỉ tài ăn hiếp!
- Mày bảo ai ăn hiếp đấy?

Và giơ thẳng cánh giáng cho con hai dùi trống vào bắp chân.

Hết vẻ oai vệ của một vị đại tướng, con ngã khụy ngay tại chỗ. Ðến đây, con chỉ còn biết nằm ôm chân mà rên xiết, hơn là tìm ra lẽ phải để mà kháng cự với anh cậu kia.
Ðánh con xong, cậu ta lủi hủi vác dùi trống đi, miệng còn lẩm bẩm:
- Cho chết..., đại tướng Nhật à! Ông cho què một chân...

Cậu ta còn đe, tối nay sẽ đem mách với thày già về vụ đó. Mà thật tối ấy, cậu ta đem câu truyện đi thưa với thày già và thêm bớt thế nào để cho cái việc quan cậu đánh con là vô can. Theo luật, cậu ấy đánh con là một lỗi nặng. Nhưng ông già thì bây giờ còn luật phép nào nữa?...

Lại mấy anh cậu lớn đã bị nhà trường thử thải về, ăn cánh với ông, thành thử ông tha hồ hoành hành lũ cậu bé. Những đứa trẻ mà đời tu ở đấy đã biến chúng thành một thú đồ chơi có lợi. Ông già đã ghét con sẵn, nay nghe có dịp tốt, ông tính sẽ để cho cha xứ đi làm phúc rồi ở nhà một mình ông làm chúa, rồi ông mới đem vụ "đốt pháo giữa sân rơm" ra xử...

Suốt đêm ấy con nằm suy nghĩ, đắn đo, và cầu xin ơn soi sáng. Con cũng biết trốn đi là nớt đảm. Không nhẽ vì sợ một trận đòn mà con trốn? Vả nữa, ở đây tuy những người trên không ưa con lắm, nhưng phần đông các cậu bé điều có thiện cảm với con, và có lúc dường như họ vẫn cần phải có con sống với họ.

Dẫu thế, nghĩ đến chiếc roi mây bện tám, vung lên, với nét mặt thù ghét của ông già, con lại cảm thấy thất kinh. Rồi con lại tự kết tóm: Ta cần phải trốn thoát nơi này. Ta cần phải tự tìm lấy một nhà tu chính đáng để tu thân, và để sửa soạn cho điều nguyện ước làm linh mục của ta được rõ rệt.

A! Lậy Chúa, nếu Chúa muốn con làm linh mục, thì con quyết sẽ là một cha xứ chiếu giãi tình yêu thương của Chúa cho các linh hồn. Con ước ao được làm linh mục! Con khao khát cho danh Chúa được rạng tỏ. Mà sự khao khát ấy thôi thúc con như nai rừng tìm suối nước trong lành...

Thế mà ở đây, người ta đã cố ý chôn vùi cái ý nguyện tốt đẹp nhất của đời con đi. Thay vì lo cho con thành một vị linh mục, thì người ta lại bắt con phải chăm chú đến đàn vịt, đến địa vị làm bồi cho cụ xứ. Những cái ấy có thể làm con phẩn uất. Con nhất định trốn đi. Và sẽ không về nhà nữa. Con chỉ có ý tìm kiếm một chốn tu chân chính. Lời mẹ khi này có âm vang qua tâm não con. Song nó không còn hiệu lực đủ để cản cái sự quyết đinh đi tu chỗ khác của con nữa....

littlewave
11-04-2009, 11:56 AM
Nhưng nơi nào? Tu đâu? Ðâu là một chốn tu chân chính? Con cũng chưa tìm ra được. Mặc dầu con cứ trốn, và phó mình theo dòng quan phòng của Chúa. Con tin Chúa sẽ đưa con đến nơi mà người đã biết là nơi con tìm kiếm...


Con trở dậy, lấy dầu cù là xoa bóp cho hai bắp chân con đỡ đau, nhất là chân bên trái, tối qua con tưởng nó đã bị ngã hồi xưa. Nhưng con xoa bóp ít lâu, con thấy gân cốt mềm lại. Con xé chiếc áo cũ làm chiếc xà cạp, băng đỡ lấy bắp thịt, rồi con đứng dậy tập đi, tập co duỗi để hòng chạy. Mãi gần sáng, con cảm thấy hai chân đã đễ chịu, con mới ngã mình xuống nghĩ.

Sáng ra, con cáo bệnh. Nhưng khi mọi người đã ra nhà thờ đọc kinh, con chỗi dậy quì đọc kinh dâng ngày. Con trao phó toàn thân con cho Ðức Mẹ, xin người bảo vệ cho bước đường trốn của con được trăm phần an lành. Con cũng xin Thiên Thần bản mạnh con, dẫn đường chỉ lối cho con đi, hầu thoát khỏi mọi hiểm trở của người đuổi bắt, và sau cùng, khi nào con cũng tưởng nhớ đến các linh hồn luyện ngục, và xin các đấng ấy bảo vệ con trên những bước đường cùng.

Trước khi ấy, hai cậu bé giúp lễ đang đợi cha xứ ra làm lễ, họ vào thăm con, và yên ủi con thôi đừng nghĩ đến câu truyện hôm qua nữa. Con đáp:
- Phải, tôi đã quên câu truyện tối hôm qua, và tôi cũng đã tha thứ cho người đánh tôi rồi. Bây giờ tôi không còn oán hận ai điều gì nữa. Nhưng tôi biết, thế nào hôm nay tôi cũng sẽ không còn... ở đây nữa...
- Giêsu! Anh Văn, thật không?
- Anh nói chơi?
- Có lẽ tớ nói chơi đấy, nhưng cũng có thể hiểu ra thật được. Các anh biết, chúng ta sống ở đây thật không khác gì một tên tù khổ sai... người ta muốn xử với chúng ta như thế nào thì xử...
Một anh ngắt lời:
- Anh nói chơi đấy? Chân anh còn đau cơ mà, trốn thế nào được?
- Anh đừng lo...

Có tiếng cha xứ ho hắng ở đầu hè, hai anh vội vã rút lui ra nhà mặc áo. Với các cậu bé, con không bao giờ giấu diếm ý định của con. Tuy thế, con cũng chỉ làm thế với những anh cậu có thiện cảm đặc biệt với con, còn những anh có chân trong ban do thám của cha xứ, và cấp trên, con không hề bao giờ hơi hở một ý định nào ra với họ. Và nếu có, chỉ là để chơi cho họ vài cú, để cho họ lời cáo báo với cấp trên bị sai lạc đi thôi...

Cha xứ ra làm lễ. Con lật đật chạy xuống bếp, không mang một đồ vật gì theo. Bao nhiêu áo xống, con bỏ cả vào hòm khóa chặt, viết mấy chữ nhờ một anh con tin cẩn riêng, giữ hộ. Con giấu cho anh ta một chiếc chìa khóa ở dưới giường anh ta và dặn anh hễ cần vật gì anh cứ lấy mà dùng.

Con đi quanh quẩn trong nhà cơm, để đợi cho mấy người canh điền dắt trâu qua khỏi sân. Rồi con mở chạn vơ vét chút cơm còn dư mà họ vừa mới ăn xong. Con ăn một chút với tương, còn lại phỏng vài bát nữa, con nhét đầy vào hai túi áo. Vì tất cả đây là sức sống của con trong ngày hôm nay. Nhờ có chút cơm ấy, con cũng cảm thấy hơi an dạ.
Vừa xong, thì lễ cũng rồi. Hai anh cậu giúp lễ, từ nhà thờ chạy xông xộc về phòng ngủ. Không thấy con nữa, họ hốt hoảng chạy ra, hô hoán lên với nhau:
- Anh Văn trốn rồi thật?... Trốn rồi!...

Con nhanh nhẹn rút lui ra sau rừng, và nấp trong một bụi rậm. Nửa giờ sau, trong nhà xứ bắt đầu xôn xao vì tin Văn trốn. Lũ cậu bé xông xáo xuống rừng tìm kiếm. Trên nhà thì cha xứ quát tháo inh ỏi cả lên. Nấp trong bụi cây, con vừa nghe ngóng tình thế, vừa sốt sắng lần hạt, kêu xin Ðức Mẹ đừng để con vào tay họ.

Bất ngờ, một cơn lo lắng tiến tới. Một anh cậu bé, có thể gọi được là "cánh hẫu" của Văn. Ðược tin con trốn, anh ta nóng nẩy hơn ai hết, nhất định là phải tìm cho bằng được Văn để bắt Văn phải ở lại cho có bạn. Không hiểu vì sao, anh ta lại tiến về chỗ con nấp, như thể rằng anh ta trông thấy con ngồi ở đó? Thấy thế, con sợ hãi nằm sạp ngay xuống, và cố chui vào sâu hơn trong bụi rậm. Nhưng lại một lần không hiểu làm sao, anh ta đã tiến sát đến bên con rồi, và chân anh ta đã dẵm phải vạt áo trắng dài của con, giả như anh ta chỉ bước thêm một bước nữa là đạp vào đầu con. Thế mà lạ, anh ta đứng yên, lẩm bẩm vài tiếng: Quái lạ, anh Văn? rồi anh ta quay trở lui.

Thấy anh ta đã đi xa khá, con vội vã leo lên một cây thật cao và rậm lá. Ở đây con có thể quan sát được rất xa, và không còn sợ ai nom thấy con nữa.

Xục xạo một đỗi khà lâu, không anh bé nào tìm ra Văn nấp ở đâu. Họ vẫn đoán đúng là Văn còn lẩn ở trong rừng này, chớ chưa dễ đã tẩu thoát ngay ra ga sáng sớm thế? Không tìm được Văn, anh nào anh nấy thất vọng, lần lượt kéo nhau về đi học. Một hai anh có thiện cảm lo lắng về con hơn ai. Họ tỏ vẻ tư lự nhìn vào những bụi rậm, và họ thốt lên lời từ biệt:
- Văn ơi, chúng tôi tạm từ anh đấy nhé!...

Rồi họ cũng phải quay về, vì trống học đã điểm. Các cậu bé về rồi, con mới thấy anh cậu đánh con hôm qua chạy một mình xuống khu rừng tìm kiếm. Coi vẻ anh ta thật rất đáng thương hại! Vừa rồi, anh đã lên thú tội với cha xứ, và đã bị cha xứ quát:
- Hôm nay mà anh không tìm thấy thằng Văn, thì tao cũng tống cổ anh về.

Khốn nạn! Về thì về với ai? Anh ta đã mồ côi hết cả cha lẫn mẹ rồi!...Ở trên cây cao nhìn xuống, con thấy anh ta thật là tội nghiệp! Anh cậu khóc hu hu như trẻ con. Thỉnh thoảng anh ta lấy đá đáp vào các bụi rậm, và cằn nhằn bằng một dọng tức bực:
- Văn ơi Văn, mày làm khổ tao thế à? Muốn sống nấp ở đâu thì ra ngay không thì ông...

Những lúc ấy con coi anh ta lại chẳng đáng thương hại chút nào nữa. Một lúc lâu, anh ta lại chạy về. Trong nhà xứ lại trở nên yên tịnh như thường ngày.

littlewave
17-04-2009, 12:11 AM
Mặt trời từ từ lên cao. Ánh nắng xuyên qua khe lá chiếu dọi vào đến tận mặt con. Ðàn chim ríu rít bắt đầu đọc kinh mai. Lòng bỗng trở nên khoan khoái, con không còn cảm thấy một mối lo buồn nào đặt trên tư tưởng của con hết. Giờ đây con tưởng như mình đã thoát nạn, và con bắt đầu làm dấu thánh giá và đọc kinh mai.
Ðọc xong chuỗi kinh mai, một lần nữa con chắp tay ngửa mặt kêu xin ơn Chúa phù trì, phó mình cho Ðức Mẹ. Rồi con đưa mắt nhìn về bến đò.

Một lúc con thấy trên con đường ra bến đò, một bóng người đang hớt hải đi ra ga. Con đoán ngay là anh cậu đánh con hôm qua đang chạy ra ga để chặn đầu "thằng Văn" không cho nó lên chuyến tầu xuôi sớm (chuyến tám giờ sáng). Nhưng đến bến đò, anh ta đứng nói truyện với lái đò một lát, có vẻ lưỡng lự, muốn quay về. Song lại thấy anh ta bước xuống đò và sang sông. Con vội vã trụt xuống khỏi cây, lội tắt ngang qua cánh đồng, ra đường cái lớn, và bình tĩnh con theo anh cậu kia ra ga.

Ðến bến phà, con giả bộ điềm nhiên hỏi thăm ông lái đò:
- Này cụ, từ sáng đến giờ, cụ có thấy chú bé nào trạc bằng tôi, trốn qua bến đò này không?
- Không chú ạ; vừa rồi có một cậu lơn lớn qua đây, và cũng hỏi thăm tôi về chú bé đi trốn. Nhưng thật tình thì tôi không thấy. Vừa nói ông vừa nâng chiếc sào chống đặt lên phà. Rồi đưa hai tay lên chống nạng, nhìn con, ông lại tiếp:
- Gớm! ai chứ?... tôi thì tôi tinh ý lắm, cứ coi cái bộ mặt trốn là tôi biết ngay...
Con phải hết sức nín cười vì nghe ông nói một cách quá tự đắc. Con tự thầm nghĩ: Thôi thế là cụ nhầm to rồi, bộ mặt trốn là đây chứ còn đâu?... Con bước lên phà, giả bộ lưỡng lự, và tự thốt lên câu khó nghĩ:
- Quái lạ!
Rồi con quay sang nói với ông lái đò.
- Nhờ cụ có thể cho tôi qua ngay, để tôi đi kịp cậu lớn kia có được không?
- Vâng, mà cậu đi nhanh bước lên họa may mới có kịp chứ, vì sang đò là cậu ấy chạy thốc ngay đi như gió.

Sang qua sông, con cám ơn cụ lái đò "tinh ý," vặn quần nai lên đến tận đùi, cởi áo dài ra, thu gọn vào thành một chiếc mũ "đùi lợn," đội lên đầu, giả dạng là thằng bé bắt cua. Rồi con phóng nước đại, đuổi cho kịp anh kia. Khi chỉ còn cách anh ta chừng vài ba trăm thước, con rẽ xuống bờ ruộng và đi chậm lại. Chốc chốc con lại giả bộ lom khom như người tìm cua. Ðợi chừng anh kia tới ga, con theo hút ngay và nấp sau hàng rào cây rậm rạp bên cạnh đường xe lửa, phía sau ga. Ở đây, con cũng nhận thấy rõ mọi cử chỉ tìm kiếm của anh cậu. Anh ta luống cuống chạy đi hỏi thăm người nọ người kia, có thấy một chú bé nào, trạc 12 tuổi, người nhỏ nhắn, đến đây đợi tầu xuôi không?

Anh ta còn chạy vào nhà ga, xin ông xếp ga, cho nhân công sở hỏa xa chú ý hộ, hễ thấy thằng bé nào, như anh ta thường tả, bước lên chuyến tầu xuôi này, thì giữ lại dùm.
Không may, tầu xuôi hôm nay đến trễ. Chuyến tầu ngược đến trước. Con hiểu ý anh cậu, chỉ chăm chú vào chuyến tầu xuôi, nên con nhẩy phắt lên chuyến tầu ngược Vĩnh Yên. Tầu xuôi vừa đến, tầu ngược chuyển bánh ngay. Thế là con thoát khỏi sự chú ý của anh cậu.

Lên tầu, nhưng con không có vé. Cái đó con không lo lắm. Con tìm ngay đến toa nào có nhiều lính Nhật ở là con len vào, vì ở đó, không có nhân viên hỏa xa nào dám xớ rớ đến hỏi vé cả.

Con đi dọc hết các toa hạng tư, không có một toa nào có lính Nhật, con liền tiến đến một toa hạng ba, cửa đóng kín mít. Nhưng con cũng cứ bạo dạn mở, bước vào, thấy toàn là lính Nhật. Con đóng cửa đoàng hoàng, rồi quay mặt vào, đứng thẳng, giơ tay lên chào kiểu nhà binh:
- Ô-hai-yô. (Chào ông)

Con chỉ biết được một tiếng chào ông thôi, và mỗi khi gặp bất cứ một người Nhật nào con cũng nói có bằng ấy, cả lúc gặp gỡ, cả lúc từ biệt. Mấy anh lính Nhật thấy thằng bé táo bạo, họ đổ dồn hết mọi cặp mắt về phía con, rồi họ ồ lên cười.

Chào xong, con ngồi ngay xuống ghế, giữa những tiếng cười ồ ề của tốp lính. Những anh lính ở chung quanh con xúm lại vò vai, vò đầu, và nói liến thoắng những gì con không hiểu. Có lẽ họ đáp lời chào của con, hoặc hỏi thăm con đi đâu?

Cử chỉ ấy càng làm cho con dạn, con không sợ gì ai nữa. Con cúi mặt và nhoẻn cười để tỏ ý cho họ biết là con không hiểu tiếng Nhật. Thật thế, một anh Nhật ngồi cạnh con, xoa đầu và hỏi con:
- Ði đu-âu?
- Thưa ông, cháu đi Vĩnh Yên.
Nhớn mắt, và hơi nghiêng đầu nhẹ một cái, anh ta lắp lại:
- Vĩnh Yên? Tốt, tốt...

Từ đấy, họ để con ngồi yên, không còn ai "xì là xì lô" hay hoặc "đế xừ lạ" với con nữa. Ðến Ðình ấm, sở làm khí giới, một tốp lính Nhật xuống. Anh nào đi ngang con cũng cười híp mắt lại, giơ tay chào, rồi lại bắt tay con tử tế.

Từ giã họ, con lại cảm thấy sự lẻ loi, như mất cả nơi nương dựa. Con đi quanh quẩn ở sau nhà ga, và xuôi chuyến mười giờ về Yên Viên. Từ Vĩnh Yên, đến Yên Viên, con không tìm được toa nào của lính Nhật, nên con phải ở toa hạng tư với mọi hành khách. Ðến quãng từ Phúc Yên con bị hỏi vé, vì không có, nên bị nhân viên hỏa xa bắt nhốt vào một phòng vệ sinh.

Nhưng khi ông ta vừa đi khỏi, thì mấy người hành khách mở cửa cho con ra. Một lúc sau ông kiểm vé lại quay lại, hạch lạc con một lúc, và nhất là nhờ có bao nhiêu người hành khách can thiệp, minh chứng cho con không phải là tụi ăn cắp:
- Không có một lý nào một đứa trẻ hiền lành và đễ thương như thế mà lại buộc cho cái tội đi theo tụi ăn cắp được! Ông ta ngã lý, nên tha cho con, nhưng cấm con không được đi ra khỏi toa ấy. Và đến Yên Viên, ông ta gọi con xuống, cũng cho hay cả con đường xe chạy về Bắc Ninh nữa.

littlewave
22-04-2009, 10:38 PM
Bị Bắt

Không may, ở Yên Viên, con bị gặp mặt hai cô mụ, cùng ở một nhà xứ Hữu Bằng với con, họ cũng cùng xuôi một chuyến tầu về Dạo Ngạn. Gặp họ, con định tẩu thoát ngay. Nhưng họ lại gìm chặt lấy con, và hạch con vì sao mà đi trốn? Con tức mình, cho họ một phen xấu hổ to. Con không sợ trả lời thẳng thắn với họ những gì đã làm cho con phải trốn.

Thấy không còn cách chối cãi, vì con nói đúng gáy. Thành thử họ phải hạ giọng dỗ ngon dỗ ngọt cho con bớt "bốc hỏa" đi. Họ còn chạy đi mua quà và mời con xơi cẩn thận.
Con vui lòng nhận lời họ mời, vì lúc đó kể cũng đã đói mèm... Trên chuyến tầu đi Bắc Ninh, họ khuyên dỗ con đi về Ðạo Ngan chơi với họ. Họ lại còn hứa, nếu không muốn trở lại Hữu Bằng thì họ sẽ liệu cho đi ở nhà xứ khác.

Với những câu nói ngon ngọn và thành thật, con không nghi ngờ họ chút nào. Và con đã ưng chịu lời khuyên của họ. Nhưng khi đến nhà mụ Ðạo Ngạn rồi, con biết mình bị lừa...
May thay, ở đây con có một người chị thân thuộc (chị Ngắm). Chị thấy con bị hành hạ khổ sở và bất công, mới lên tiếng phản đối hai cô kia kịch liệt. Rồi xin bà nhất phải để cho con được tự do, muốn tu ở đâu thì tu, muốn về nhà thì về, còn bắt ép con người ta như thế là ăn hiếp, trái ý Chúa tỏ tường.

Bà nhất, tuy khó chịu, nhưng cũng phải để con tự do, và cho con một số tiền công là hai hào rưỡi.

littlewave
27-04-2009, 02:09 AM
Hai Tuần Lễ Lưu Lạc


Con ra đi với một số tiền không đủ sống một ngày. Chị Ngắm còn cho con thêm hai hào rưỡi nữa là năm hào. Với số tiền cỏn con ấy, giữa thời buổi cái gì cũng là cao giá, con không biết sẽ đặt trên thân phận con cái nghề nghiệp gì để sinh sống?

Thế rồi, con biến thành một đứa trẻ lạc lõng trên đường phố Bắc Ninh... Ra khỏi nhà mụ Ðạo Ngạn, con định trở về nhà thày mẹ để thú tội, và xin đi tu chỗ khác. Nhưng nhớ lại một lời thày đe khi mẹ đưa con lên Hữu Bằng lại, mà con cảm thấy thất kinh.

Giọng thày nói, với cử chỉ thày ra, khi ngăm con một câu: Ði lần này mà còn trốn về nữa, thì ông cứ chém! Ðã làm cho con tưởng thật rằng: Thày có thể chém đầu con một cách dễ dàng, cũng như lời thày đã nói. Mỗi lần nhớ lại lời nói gắt gao ấy, con lại cảm thấy bàng hoàng, và dường như con đã thất vía đi trong giây phút? Giây phút ấy con cảm thấy đầu mình như đã bị rời khỏi cổ, tự nhiên con rùng mình và ghê sợ hết sức. Thỉnh thoảng con lại mơ thấy con bị thày chém, và được người ta tôn kính như vị thánh tử đạo. Cơn mơ ấy sở dĩ có, là vì ban ngày, có lẽ con hay nghĩ đến cái chết oan uổng của con chăng?

Dầu sao con cũng không dám về nhà nữa vì lời đe thép búa ấy. Và do đó lại khơi nên cho tâm hồn con một mối cay cực không tài nào nói ra, trong bao ngày lưu lạc!...
Khi con đã lo lắng không còn dám đương đầu về nhà nữa, thì con nghĩ đến cách đi về nhà bá Khánh, và ở đấy, con sẽ có thể nhờ vả bá lo liệu tìm chỗ tử tế cho con tu, và tiếp tục việc học hành, để cho nguyện ước làm linh mục của con mau được thành đạt.
Song thảm thay, biết bao lần con chỉ toàn gặp phải sự rủi ro! Chúa khiến con hai lần bị nhỡ ô-tô. Quanh quẩn sống ở Bắc Ninh hai ngày, thế là xong cái món tiền năm hào.
Ngày thứ ba con đến kịp giờ xe hơi chạy thì lại không còn tiền nữa. Con hết sức van lơn người kiểm vé làm phúc cho con đi nhờ cho đến Từ Sơn, chỉ có 15 cây số thôi, nhưng ông ta nhất định từ chối.

Con bèn nhất quyết đi bộ theo đường xe hơi để về quê bá. Nhưng lại phải cái nợ, là cứ đi chừng độ nữa cây số, con lại bị tụi trẻ chăn trâu ra bắt nạt. Chúng hạch học đủ điều, rồi đòi lấy áo, lột quần.v.v... Phần vì chúng đông, con kháng cự không nổi, nên lại phải rút lui về Bắc Ninh.

Ở Bắc Ninh, con quanh quẩn sống nội trong khu chợ, với cái nghề đi làm mướn. Con tình nguyện xách nước, rửa bát cho các hàng cơm để sinh sống. Hôm nay con làm cho cửa hàng này, mai con lại đến cửa hàng kia. Khi còn rảnh rỗi thì giờ thì con vào nhà thờ viếng Thánh Thể và lần hạt. Con sống như thế qua ba ngày, mà không kiếm được một xu. Vì chủ hiệu nào cũng chỉ cho con ăn cơm dư thừa của khách ăn, chứ không muốn cho con tiền. Vả lại họ thấy con làm việc tử tế, nên chủ hiệu nào cũng muốn giữ con lại để làm việc. Họ không rõ tông tích con ở đâu mà đến. Họ chỉ cho con là một đứa trẻ bị lạc lõng hồi Nhật tấn công vào Lạng Sơn. Vì khi họ hỏi về lại lịch con, con chỉ đáp:

- Cháu ở mạn ngược trốn về đây.
- Cha mẹ em đâu?
- Hiện giờ cháu chưa tìm thấy.
- Em lên mấy?
- Mười hai.
- Có học hành gì chưa?
- Có, cháu mới thi đậu bằng sơ học yếu lược.

May là họ không hỏi con về cuộc Nhật tràn qua Lạng Sơn, mà họ chỉ thảm hại, khi thấy một đứa trẻ nhã nhặn thế mà bị lạc mất cha mẹ. Có nhiều người muốn nhận con làm con đem về nuôi, và hứa sẽ cho con đi học, kẻo uổng đời đi. Nhưng con không chịu, vì họ là những người không đồng một tôn giáo với con. Con sợ nhất là họ sẽ khuyên hoặc ép con bỏ đạo.

littlewave
02-05-2009, 11:46 PM
Chiều ngày thứ ba, con đến làm thuê cho một bà hàng phở. Bà thấy con ăn làm cẩn thận, xử đối lịch thiệp, ngoan, biết ăn lời, bà đem lòng yêu mến, tỏ ý muốn đem con về nuôi, và hứa sẽ cho đi học nghề với người con cả của bà. Với cách bà ăn nói, con cũng nhận thấy đôi phần, bà không phải là một người chủ mà con đã đến làm thuê cho họ. Bà ăn nói với con một cách hiền từ như mẹ với con:

- Này chú, tôi thiết tưởng chú không phải là con nhà bình thường đâu? Quê chú ở đâu thì tôi không rõ. Nhưng chắc là hiện giờ chú chưa tìm được thày mẹ. Ðấy là một điều chú cần phải quan tâm đến. Người ta sống có cha có mẹ, còn chú thì cứ phải chịu vơ vẩn nay đây mai đó, biết làm sao mà chịu đựng được cho đến cùng?

Cùng là con nhà có đạo với nhau, tôi xin thú thật là tôi rất cảm phục chú ở chỗ chú biết tôn trọng đạo giáo của mình. Mấy người đã đến xin nhận chú làm con nuôi hôm qua, tôi biết họ giầu có lắm nhưng họ rất ghét những người theo đạo ta. Họ yêu chú, chỉ vì họ không có con. Họ dỗ dành cho chú được tự do theo đạo, nhưng đến khi đã vào tay họ rồi, biết đâu chú sẽ không còn cái tự do ấy nữa?

Cho nên tôi cũng không cần phải úp mở. Tôi xin nói ngay là tôi rất thảm hại cho cuộc đời rủi ro của chú. Mà sống như chú bây giờ, chú đừng hòng là sẽ được yên thân mãi. Sẽ có ngày người ta bỏ quên chú, người ta không thèm thủ mướn chú nữa. Lúc ấy chú sẽ biết tìm cách nào mà sống? Vậy không gì hơn là chú nên lo cho mình có chút nghề. Việc ấy tôi sẵn lòng giúp chú. Nếu chú bằng lòng thì tôi đón về nhà nuôi, ngày ngày chú sẽ đi học nghề thợ nguội với thằng cả nhà tôi, năm nay nó mới có mười bốn tuổi, và cũng mới thi đậu bằng sơ học kỳ rồi. Vậy hai anh em có thể dẫn dắt nhau đi học nghề, rồi về sau sẽ giúp ích cho nhau.

Ðể chắc chắn, con bạo dạn hỏi thật bà một câu:
- Thưa bà, cháu hỏi thì thất lễ, nhưng dường như bà cũng có đạo thì phải?

Bà mỉm cười đưa đôi mắt nhìn con cách dịu dàng, và giơ tay lên cổ rút ra một sợi giây đeo ảnh chuộc tội bằng đồng nhỏ tí, với một chùm, bốn năm mẫu ảnh bằng nhôm, đã cũ mòn hết cả. Con đã nhìn thật kỹ mà không nhận ra trong những mẫu ảnh ấy có những hình mặt vị thánh nào. Con cảm phục nhìn bà và đáp lễ:
- Cảm ơn bà.

Bà vừa cho chùm ảnh khuất trong yếm, vừa lắc đầu nói với con:
- Chú đừng nghi ngờ gì tôi cả, về nhà tôi rồi chú sẽ biết tôi là người thế nào. Tôi thì nghèo, nghèo thật! Nhưng con cái tôi, vẫn được tôi lo cho chu đáo cả hồn lẫn xác.

Con ngắt lời bà để xin lỗi:
- Thưa bà cháu không dám nghi ngờ gì đâu ạ. Sở dĩ cháu phải phiền bà như thế là vì cháu muốn tín nhiệm bà hơn. Vậy, cứ như bà nghĩ về cháu như vậy là rất phải. Nên không còn gì hơn, là cháu dám nương cậy vào bà, nhờ bà lo lắng bảo ban cho. Rồi một mai, nếu cháu thành người, cháu không dám quên ơn bà là một đại ân nhân của cháu.

Trong thâm ý con lúc ấy còn nghĩ: Về nhà bà để xem tình hình làm sao, rồi con sẽ thú thật với bà cảnh ngộ đời tu con, và sẽ cậy bà lo lắng cho đi tu, tiếp tục lại việc học mà con vẫn hằng mong mỏi hết sức.

Chiều ấy, bà đưa con về nhà, ở đầu một lối hẻm đi sâu vào vùng ngoại ô. Nhà bà ở khuất sau một dẫy nhà lầu, cao ráo và sạch sẽ. Một căn nhà, mà vừa được bà giới thiệu: Ðây là nhà tôi. Con đã lấy làm thảm hại! Chưa bao giờ con có thể tưởng rằng ở tỉnh mà còn có những căn nhà tồi tệ như thế? Và cũng chưa bao giờ con thấy một căn nhà có một kiểu kiến trúc "đặc biệt" như thế. Kể ra thì là nhà xây, nhưng có đến ba bốn khúc vá bằng những tấm liếp cũ. Ngoại trừ một cửa, con có thể gọi là một lỗ ra vào, còn thì không có một cửa nào khác nữa, kể cả cửa sổ. Trên mái thì lợp bằng ngói, nhưng cũng có đến năm sáu chỗ phải vá bằng tranh.

Chung quanh nhà là những rãnh nước bẩn thỉu, không biết từ đâu dồn về, và chẩy ra đồng, xông nặc mùi hôi hám khó chịu... Bà dẫn con qua một chiếc cầu bằng một tấm ván dầy, dài độ hai thước. Và qua chiếc cầu ấy, cách chỉ đó một bước là vào đến cửa nhà bà. Vừa bước vào nhà, bà lên tiếng:
- Con cái nhà đâu cả nhỉ?
Lũ trẻ ở phía sau reo lên:
- Ô, Mẹ! Mẹ!

Rồi chạy ùa lên ba đứa. Một đứa con trai độ chừng năm tuổi, và một đứa con gái chừng tám tuổi. Ðứa con gái còn cõng một đứa em phòng chừng một năm rưỡi.

Thấy lũ trẻ, con lại còn thảm hại hơn. Ðứa nào đứa nấy điều ghẻ lở, chốc lếch, quần áo rách rưới bẩn thỉu, và hôi hám quá chừng. Con tưởng như tất cả con người chúng điều bị ám hơi hôi thối ở chung quanh nhà chúng ở.

Người mẹ đưa cho mỗi đứa lớn một củ khoai lang luộc, rồi hẵm lấy đứa con nhỏ, hôn lấy hôn để, rồi vạch yếm cho nó bú. Bà cũng bảo con lại đằng giường ngồi chơi. Mấy đứa nhỏ nhìn con cách tò mò. Nhưng đứa con gái bạo dạn hơn. Nó vừa nhồm nhoàm nhai khoai lang, vừa bám lấy mẹ và hỏi:
- Ai thế hở mẹ?
- Anh con đấy. Bà vừa nói vừa tủm tỉm cười.
- Hừ!... Mẹ nói chơi?

Nghe có tiếng xe đạp lạch xạch ở ngoài đường. Nó không còn nghĩ đến việc hỏi mẹ nó về người lạ mặt mà mẹ nó mới đưa về nữa, nó vội chạy ra cửa và reo lên:
- A! Anh Ðịnh về. Ðứa con trai nhỏ cũng chạy ra theo chị.

littlewave
04-05-2009, 11:30 PM
Con ngồi nhìn quanh một lượt, thấy rõ cảnh neo núng của gia đình này. Mặt tường phía trong cũng giữ một lối kiến trúc như phía ngoài, đây một khúc phải che liếp, kia lại một chỗ gạch nhô ra, lốm đốm, có thể tưởng ra được mọi hình thù. Nền nhà không lát gạch giếc gì cả, và ẩm thấp quá gian hàng cá ở chợ. Tất cả gian nhà, chỉ có một chỗ ngồi độc nhất, là cái giường vuông. Không một chiếc ghế, một ngăn tủ.

Ðối chiếu với chiếc giường con ngồi, thì góc kia là một chiếc lò xây cao lên đến chừng ngang lưng. Ðó là một chiếc lò, nhưng cũng còn là bàn thờ của gia đình nữa. Vì ngay trên vách sát với lò, người ta đã treo một tượng chuộc tội bằng gỗ, với hai khung ảnh hai bên, một bên là ảnh Trái Tim Chúa Giêsu, một bên là ảnh Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Tất cả điều bị khói ám đen, coi không còn ra hình tượng. Nhưng theo con nhận xét, thì chỉ có chỗ ấy mới còn là chỗ xứng đáng nhất để treo ảnh, vì những chỗ khác còn tồi tệ bằng mấy...

Ðang lúc con còn nhiều ý nghĩ về gia đình nghèo khó này, thì thằng nhỏ đã bú xong. Nó há miệng cười hề hề. Thỉnh thoảng nó lại đưa tay lên đầu gãi những mụn chốc. Người mẹ hình như còn chú ý đến đứa bé hơn là chú ý đến đứa con nuôi mới đưa về. Ðột nhiên con lên tiếng hỏi bà:
- Thưa bà, ông nhà đi làm đâu chưa về ạ!

Không nhúc nhích, hay tỏ một thái độ bỡ ngỡ, bà trả lời cho câu hỏi của con một cách thản nhiên:
- Nhà tôi đã mất non một năm nay.

Con bỡ ngỡ vì câu bà trả lời, không có một bằng chứng gì là thật, bởi vì ông mới mất non một năm, mà sao bà, và cả con cái bà nữa, không ai để tang cả? Con định đem chỗ vẩn xúc ấy mà hỏi bà, nhưng bà đã tiếp:
- Nhà tôi bị mất tích hồi Nhật mới qua Viêt Nam.
- Thế ra ông nhà phải tòng quân chứ ạ?
- Không, nhưng vì tình thế tỉnh nhà xôn xao nên nhà tôi đã bị người ta đưa đi đâu mất...

Ngừng một lát, như để nén lại sự cảm xúc, rồi bà tiếp:
- Không biết bây giờ sống chết ra sao?

Ðịnh, anh con cả của bà, đã dắt chiếc xe đạp dựng bên một góc nhà. Và dường như anh đã được nghe hai đứa nhỏ thuật truyện mẹ chúng vừa mới đưa về nhà một đứa con nuôi? Anh chạy lại gần me ôm choàng lấy đứa em út, và hỏi mẹ một câu rất mau:
- Chú nào kia hở me?

Bà mẹ đem câu truyện thuật cho anh nghe. Nghe xong, anh sung sướng reo lên:
- Ha! thế là từ nay con có một người bạn ở trong xưởng. Rồi anh giơ tay múa như thể là diễn thuyết.
- Ở xưởng, mẹ có biết không? Không có một anh nào có đạo sốt cả, chỉ có mình con, suốt ngày phải nghe chúng mách tục như quỉ sứ, khổ bỏ sừ...
Anh ẳm đứa em đến ngồi cạnh con, vỗ vai con và vui vẻ nói:
- Thôi, chú cứ chịu khó ở đây với mẹ tôi, anh em chúng mình sẽ cùng nhau đi học tập, nay mai thành nghề rồi chúng ta sẽ... tha hồ... nhỉ.
- Vâng, cái đó em cũng xin nhờ vào lòng tốt của anh chỉ vẽ cho.

Ðịnh đưa em cho mẹ, rồi đi nấu cơm. Hai đứa nhỏ vẫn chơi bi với nhau ở ngoài đường cái lớn, gần nhà chúng. Ngoài phố các cột điện đã bật sáng, mặc dầu người đi đường chưa cần phải có ánh sáng đèn.

Tối ấy Ðịnh dẫn con đi nhà thờ. Hai chúng con từ đây như hai anh em ruột thịt. Ðịnh quí mến và nhã nhặn với con hết sức. Anh tâm sự với con không biết bao nhiêu là điều. Anh đã bắt đầu gọi con là em từ sau lúc nhà thờ đọc kinh xong, khi hai người bá vai nhau đi về nhà. Anh mới mười bốn tuổi mà cuộc đời cũng đã chai dạn như một người ba bốn chục tuổi. Anh rất mến mẹ và yêu các em. Có lẽ vì thế mà anh cũng vui lòng chịu một chứng bệnh ghẻ như các em? Anh cứ phải rờ gãi luôn tay, mỗi khi anh không phải dùng tay để làm việc gì. Thế mà anh vẫn vui, vẫn nhẫn nại tha thứ cho những cái ghẻ cắn rứt anh.

Về nhà, anh lo thu xếp chỗ nằm. Chiếc giường độc nhất kia, anh nhường để cho mẹ và hai đứa em nhỏ, còn anh và đứa em gái lớn trải chiếu nằm dưới nền nhà.

Mẹ anh, sau giờ đọc kinh lại phải chạy ra hàng để phụ việc với người em trai của bà, vì giờ ấy rất đông khách đến ăn. Trước khi nằm ngủ, anh họp các em lại quì dưới chân lò, đọc ba kinh kính mừng dâng kính Ð.M.H.C.G. để cầu xin cho ông thân được an toàn tính mệnh. Các em vâng lời anh một cách ngây thơ, không đứa nào dám nói một lời hỗn xược, và tỏ một cử chỉ ương ngạnh. Con rất cảm phục cái tình huynh đệ mật thiết như thế, và lấy làm sung sướng mỗi lần nghe Ðịnh gọi con là em.

Ðọc kinh xong, Ðịnh mời con lên "giường đất." Bỗng nhiên, con cảm thấy gây gây, vì nền nhà ẩm thấp, và hơi đất xông lên một mùi gì khó chịu. Con còn đang suy nghĩ, chỉ sợ anh Ðịnh mà biết sự ghê tởm của con thì phiền lắm.

Nhưng Ðịnh không chú ý đến con, anh còn đang lục lọi trong đống củi lấy một thanh đem ra làm gối đầu, còn chiếc gối đầu của con thì anh chỉ vào cánh tay trái của anh và nói:
- Gối đầu của Văn đây cơ.

Lúc ấy con còn ngồi yên trên giường, cười theo câu nói khôi hài của anh. Nói xong, anh ẵm hai thằng nhỏ lên giường rồi bá vai con anh vui vẻ nói:
- Thôi đi ngủ em, kẻo muộn. Thường thường mẹ về là chúng mình phải ngủ rồi, không thì mẹ không bằng lòng.

Cái gái chẳng cần phải đợi anh nó bảo, tự nó lăn kềng ra chiếu, và ngủ cách ngon lành.
Con vẫn còn ghê sợ vì phải nằm trên đất ẩm. Nhưng con vẫn cố nén sự khó chịu, và phải lấy câu châm ngôn của Thánh Augustinô ra mà vỗ về cái cảm giác khó chịu của con: Anh Ðịnh nằm được, thì tôi cũng nằm được, chứ chết chóc gì mà lo.

Thế mà chốc chốc, con lại phải ngóc dầu dậy để giấu vào góc nhà những miếng nước bọt mà con không còn thể nuốt được vì mùi hôi ở rãnh nước đưa vào. Từ lúc đặt mình xuống chiếu, Ðịnh vẫn ôm đầu con trên cánh tay trái, còn tay phải của anh thì cứ sột soạt đi kiểm soát cái ghẻ từ nách cho đến chân, khiến con vừa thảm hại, vừa nực cười.
Con cũng cầu xin thiên thần bản mạnh đừng để cho cái ghẻ ở bên anh nó sang nguời con, vì con sợ gãi lắm. Mà hai người nằm gần nhau như thế, chắc là không thể nào thoát được sự thèm khát của cái ghẻ. May thay, con chẳng bị lây liếc gì cả.

littlewave
13-05-2009, 12:00 AM
Ðang lúc chờ đợi giấc ngủ đến, Ðịnh đem nỗi nhà ra tâm sự với con. Con không khỏi ngạc nhiên khi thấy anh thành thật với con đến thế? Vì dù sao, sự quen biết nhau chưa quá một buổi chiều. Nhân đấy con mới hiểu rõ về gia đình anh. Anh thuật:

Nhà tôi trước đây có bao giờ phải lâm vào cảnh nghèo cực như thế này đâu. Trước cậu tôi làm giáo viên dậy trường tỉnh Bắc Giang, nhưng vì có chân trong đảng cách mạng, nên bị chính phủ Pháp thải hồi. Ðàng khác họ còn cho dọ thám rình mò cậu tôi, cho nên cậu tôi cứ phải nay đây mai đó dậy tư để kiếm ăn. Còn mẹ tôi với gia đình thì đã có vốn buôn bán lặt vặt ở chợ tỉnh và cũng kiếm được chút lợi kha khá.

Ðến năm Nhật tràn vào Lạng Sơn, cậu tôi nhập vào quân đội phục quốc của Trần Trung Lập, đả đảo Pháp. Thấy thế, lính do thám của Pháp cứ đến hạch hoẹ mẹ tôi luôn. Mà muốn cho yên thân thì lại phải cho chúng xơi ít nhiều, chúng mới chịu để yên. Lâu dần, mẹ tôi bị sạt nghiệp vì lũ lính do thám của Pháp. Khi Trần Trung Lập bị bại, quân đội của ông tan rã. Cậu tôi trá hình trở về với gia đình, và định sống bằng nghề đi bán phở rong.

Nhưng mới được non một tháng, cậu tôi nhận được một bức thư bí mật gói trong một chiếc giò gửi đến tặng. Bức thư nói rằng: đến hôm ấy hôm nọ sẽ có hai người lính Nhật đến đón.

Nhận đích là bức thư của đảng, cậu tôi sửa soạn và đợi chờ. Quả nhiên như hẹn. Hôm ấy có hai người Nhật vận binh phục cấp sĩ quan, đi xe hơi nhà binh đến nhà tôi họ đều nói tiếng Pháp với cậu tôi, mời cậu tôi lên xe. Cậu tôi lúc ấy cũng mặc binh phục Nhật, xách một chiếc valy con đi lên xe với họ.
Thế rồi từ đó mất tích!

Hai tháng sau, chúng tôi được biết cậu tôi đã bị bọn gián điệp Pháp lập mưu bắt đi. Mẹ tôi hốt hoảng, nhưng nhờ có lòng tin cậy mạnh mẽ vào Chúa và Ðức Mẹ, mẹï tôi chỉ sống như người mất trí ít ngày, rồi lại trở nên bình thường, và lập tức lo liệu đưa chúng tôi về đây, mua được chiếc nhà bẩn thỉu nầy để trú mưa che nắng, và chung sức làm việc với người em, để nuôi nấng chúng tôi.
Anh cũng cho con hay, hồi nhỏ, thày mẹ anh có cho anh đi tu chú bé trong nhà xứ. Nhưng chỉ ít lâu, anh thấy cánh nhà tu ở đấy chỉ toàn là hạng tồi cả, nên anh xin thày mẹ cho anh về.
Thấy anh thành thật quá, con cũng định đem nguồn tâm sự ra giãi bầy. Nhưng không hiểu làm sao con lại chưa muốn nói. Và thay vì để nói chuyện con, con lại hỏi anh về cuộc đời người cách mạng, tức là chính ông thân của anh. Mà vì thế con mới có một cái quan niệm hay về người cách mạng, chứ trước đây, cũng như số đông quần chúng, con cho những nhà cách mạng là những tay sai của quỉ vương. Nhưng thật thì không phải thế. Họ là những người yêu dân tộc, quí giống nòi, mà khi họ thấy dân tộc và nòi giống của họ bị nhục nhã, khinh miệt, thì họ lấy làm đau đớn căm hờn, và chỉ lo trăm nghìn cách giải phóng cho dân tộc họ được tự do.

Ðể chiếm lại tự do cho dân tộc, họ đành phải hy sinh sự tự do cá nhận của họ. Họ phải lẩn lút trước con mắt kẻ xâm lăng, và nhiều khi phải hy sinh cả chính bản thân để bảo vệ lý tưởng.
Bỗng nhiên, con cảm thấy lòng cảm mến những nhà cách mạng, con khóc thương những người đã quá vãng, cho dù họ đeo đuổi vì một mục đích phá tôn giáo như nhà cách mạng khả ái Trần Trung Lập.
A! Trần Trung Lập, nhớ đến nhà phục quốc bất thành công ấy, con tự dưng thốt lên một tiếng não ruột trong đêm khuya với đôi mắt dầm lệ.

Ôi! Trần Trung Lập! Phải chi ông tin tưởng vào Thiên Chúa! Phải chi ông đừng loại Thiên Chúa ra khỏi những hành động đáng ghi nhớ của ông! Sao ông lại để lòng thù ghét những người con trung của Thiên Chúa? A! Phải, nếu ông nhầm? Cái đó có thể lắm. Nhưng nếu ý ông ngay, thì giờ đây tôi nguyện xin Chúa cho ông được mau thoát nơi luyện hình.

Ðịnh thấy con tự nhiên khóc nấc lên và ấm ứ những gì anh không hiểu. Anh nghi ngờ hỏi con cách đột ngột:
- Em thương Trần Trung Lập à? Hay là ồ Văn ơi! Hay có phải em là con của Trần Trung Lập không?
- Không, anh không biết sao? Trần Trung Lập làm gì có đạo, còn em có đạo từ nhỏ cơ mà? Sao nói đến Trần Trung Lập em lại khóc?
- Vì em thương Trần Trung Lập là một nhà cách mạng đã bị Tây giết. Hơn nữa em cảm động vì Trần Trung Lập ghét đạo lắm. Em nghe người ta đồn: Khi Trần Trung Lập bị đưa đi chém, có vị linh mục đến yên ủi: ông ta không những đã chẳng biết ơn kẻ thương mình, lại còn xỉ mắng vị linh mục, gọi ngài là "con lợn" là tay sai của Pháp xâm lăng. Em thương Trần Trung Lập lắm. Không biết ông ta có mất linh hồn không?
- Hừ mất quái gì lão ta, hễ không được lên thiên đàng thì phải sa hỏa ngục, chứ đi đâu mà mất.
Bất giác con bật cười vì câu nói khôi hài của anh. Ðịnh thấy con cười, anh có vẻ khoái, vừa gãi sột sột vừa nói thêm.
- Lòng Văn tốt thật đấy, nhưng mà việc gì phải khóc lão ta như con khóc cha thế.
- Em cũng tự hối, vì bây giờ em mới biết thân phận người cách mạng, lao đao chẳng hạn như ông nhà, rồi ra lại bị mất tích.
- Thôi Văn ạ, thương họ thì em chịu khó cầu nguyện cho họ, vì như cậu tôi nói: "Có nhiều nhà cách mạng chỉ biết cách mạng cho một nhóm người vừa ý họ, còn thì ngoài ra họ cho là kẻ thù, phản cách mạng cả."
- Này anh Ðịnh, con ngắt lời anh để hỏi: Sao ông nhà lại theo Trần Trung Lập nhỉ? Vì ông nhà hẳn là một người công giáo tốt?
- Cậu theo chẳng qua vì một lý lo thuận tiện mà thôi.

Nói đến đây anh thôi không nói nữa. Rồi một lúc sau, anh mới lại ngập ngừng nói tiếp: Tuy nhiên, tôi cũng không được rõ lắm, vì thường cậu tôi rất bí mật.

Câu truyện Cách Mạng phải cắt ngang, vì bà mẹ đã về. Bà hỏi chúng con sao còn chưa ngủ. Nhưng chẳng có ý để nghe chúng con trả lời, bà ra phía sau, cất quang gánh rồi về giường nằm. Hai chúng con cũng không còn dám nói truyện nhiều hơn. Ai nấy đều để ý vào giấc ngủ.

Tuy nhiên con vẫn không sao chợp được mắt. Mà dường như con cũng không thiết ngủ, vì trong trí con còn bề bộn những tư tưởng đời sống lao đao của những nhà cách mạng. Con muốn tranh đấu để gây dựng một tương lại đẹp đẽ cho Giáo Hội Việt Nam. Con muốn cải cách các xứ đạo, con muốn ở đó, các chú bé phải được tự do trong khuôn khổ thánh đức, được nâng đỡ trong tình bác ái .v.v... Tóm lại, là con muốn nhiều cái lắm, nghĩa là muốn làm sao cho các xứ đạo có thể gọi được là xứ đạo Công giáo hoàn toàn. Các cha xứ phải thôi uống rượu, cấm đánh người ta .v.v...

Mà thật, hiện nay con đang ở trong hoàn cảnh của người cách mạng.. Nhưng nghĩ lại tình cảnh những chú bé cách mạng như con, có bao giờ được người ta chú ý tới! Ðến đây con cảm thấy bất lực. con lại trào nước mắt ra. Con cảm thấy đau đớn, uất ức vì đời tu chú bé của những đứa trẻ ngay lành không được một ai nâng đỡ, hoặc hiểu cho.

Xa xa có tiếng gà gáy sáng. Con sực nhớ đến đêm đã gần tàn. Con cảm thấy mệt nhoài, con ngồi dậy, làm dấu thánh giá và đọc vài kinh cho khuây khỏa những tư tưởng tủi nhục đi, rồi con lại nằm xuống ngủ.

Nhưng vừa chợp được một tí, thì chuông nhà thờ đổ. Bà mẹ Ðịnh gọi chúng con dậy đi nhà thờ. Tuy con vẫn còn ngái ngủ hết sức, nhưng cũng cố ép mình dậy để theo Ðịnh đi nhà thờ, vì con sợ sẽ phải theo anh Ðịnh đi làm sớm.

littlewave
13-05-2009, 10:44 PM
Bất Bình

Không may, chiều gió lại ngược lại. Hôm ấy, cơm sáng xong, bà Ðịnh bảo con bà khi đến sở làm hãy nói truyện qua với ông chủ về việc cho con đến tập sự. Còn con bà bảo hẵng ra coi hàng giúp bà tạm sáng hôm nay.

Nhưng khi người em trai của bà vừa biết được ý định của bà muốn nuôi con để cho đi học nghề, bác ta phản đối ngay. Bác đuổi con đi, không khiến làm việc gì ở nhà hàng. Thoạt tiên thì bà Ðịnh cũng tưởng rằng bác ta có tật nghiện rượu, nên hay phát xẳng xằng xịt đôi tí, rồi qua cơn say đi có lẽ cũng êm? Nhưng mãi đến trưa, bác ta còn thấy bà sai bảo con làm việc nọ việc kia, hoặc khuyên nhủ cách ăn làm. Bác mới phát khùng quẳng cả dao thớt thái phở đi, rồi đi đâu không biết.

Hai giờ chiều, bác mới về, hai con mắt đỏ ngầu, miệng sặc mùi rượu. Vừa thấy con, bác nhìn trừng trừng, chẳng nói chẳng rằng, bác vớ lấy con dao thái phở, tiến lại chỗ con, chộp ngay lấy cổ, dơ dao lên bác đe bằng một dông quái ác vô cùng:

- Mày muốn chết hay muốn sống?

Tất cả mọi người chung quanh thấy vậy, bỡ ngỡ chạy xúm lại ôm chặt lấy bác ta và gỡ con ra khỏi tay bác.

Thái độ làm cho con khủng khiếp không tài nào tả hết. Con lạnh cả người đi, và mất cả cảm giác như một người sống. Và không hiểu làm sao lúc ấy con không nói được một câu gì, con thở hồng hộc như người kiệt hơi, và nước mắt tràn trụa cả ra mặt.

Bà Ðịnh có lẽ còn sợ hơn con? Bà ôm con vào lòng vuốt ve mơn trớn, bảo con đừng sợ gì. Nhưng tuy nói thì nói đừng sợ gì, mà tiếng bà cũng run run như hết vía, mặt bà tái xanh như gà bị cắt tiết. Lúc ấy có hai người cảnh binh đến can thiệp, và họ định tống cổ bác say kia về sở cảnh sát cơ đấy, nhưng nhờ có anh em bạn hàng che chở cho, bác ta mới được ân xá khỏi vào tù mấy giờ.

Bà Ðịnh thấy không thể để yên con trong nhà bà được, bà lại đem con ra chợ và giới thiệu con cho người khác.

Ra khỏi nhà bà Ðịnh, con thấy lòng nhớ tiếc mãi cái hạnh phúc dưới mái nhà nghèo khó của gia đình bà. Con không tài nào cầm được nước mắt khi từ tạ bà để sống lại với những ngày trơ vơ chật vật ở giữa chợ Bắc Ninh.

littlewave
23-05-2009, 01:53 AM
Thoát Thân





Cơm trưa xong, ngoài trời vẫn còn mưa như thác đổ. Con đã có ý định thoát thân trước khi vợ chồng người phu xe nhận được tiền bán con. Tuy nhiên, con vẫn tỏ thái độ điềm nhiên, hơn nữa, con còn khéo giả bộ ngu ngốc để vợ chồng người phu xe không thể dò thấu ý định của con. Vì đối với họ không lúc nào bằng lúc này, họ chú ý đến con từng cử chỉ nhỏ mọn.

Ăn xong, con ăn no như thường, chứ không e sợ họ bỏ bùa yêu như tối hôm qua nữa. Vì họ có ý giữ con lại đâu mà yêu? Con nằm kềnh ngay ra giường và đánh một giấc ngủ thật dài.

Lúc con giật mình dậy, con còn thấy hai vợ chồng người phu xe ngồi bó gối bên cạnh con, nói chuyện huyên thuyên. Nhưng họ không biết là con đã thức.

Con định ngủ lại để lấy sức thêm vì biết đâu đêm nay là đêm con sẽ phải chong mắt để rình cơ hội "trốn". Nhưng con không tài nào ngủ thêm được nữa. Mặc dầu con cũng nằm yên, và giả cách như ngủ mệt.
Một lúc sau, con nghe thấy anh chồng ngáp dài, vươn vai, rồi nói với vợ:
- Trời buồn quá. mình đi ngủ đây.

Rồi bác ta ngã người xuống cạnh con, nằm ngủ. Không đầy năm phút, bác ta đã kéo gỗ khò khò. Rồi cũng đến lượt chị vợ lần vào phía trong nằm ngủ theo chồng. Trước khi nằm hẳn xuống giường, chị ta cúi mặt xuống sát mặt con nói một cách tự nhiên:
- Thằng bé này mà được con cái Tí con bà cả Hương thì sướng chán.

Con bỗng cảm thấy thẹn thùng, mặt con bốc nóng và khó chịu không thể tả. Con cũng không rõ chị ta có nhận thấy mặt con biến sắc vì câu nói đó không? Có lẽ là không, vì nói xong là chị ta đặt mình đánh thịch một cái xuống giường, làm cho cả giường bị lay chuyển, kêu rót rét.

Con rất khó chịu vì phải nằm giữa đôi vợ chồng họ. Nhưng không làm sao mà tránh. Chừng hai mươi phút sau, con tưởng như chị vợ đã ngủ say như chồng nên con ngổm dậy, rón rén bước qua người chồng để xuống giường.

Bỗng nhiên người chồng ngừng ngáy, làm con hơi lo lo. Nhưng một lúc lại nghe bác ta tiếp tục ngáy như thường. Con ra phản giữa ngồi nhìn ra phía sân. Mưa tuy đã ngớt, nhưng cảnh vật buồn thiu. Con chưa có ý định thoát thân giữa lúc này.

Tuy nhiên, một sự xui giục mạnh mẽ và linh thiêng nào đó bảo con nên trốn đi ngay bây giờ. Con đoán có lẽ là tiếng giục giã của Mẹ Maria. Vì từ lúc con đã bị đem ra mà cả, sự nhớ nhung gia đình gợi nên trong con không tài nào tả hết. Nhất là hình dung của người mẹ thân yêu, luôn luôn lởn vởn trong tâm trí con. Và khi ấy con đã khóc chỉ vì nghĩ đến sự phải lìa biệt hẳn những người con thân mến. Một khi con đã bị người ta đem tiền đến mua, thì tất cả sự gặp gỡ con mong muốn ở nơi gia đình, sẽ chỉ là một cơn đau buốt dài dặc nếu con không thể trốn thoát tay kẻ đã mua con.

Nghĩ thế, nên con đã khẩn cầu Mẹ Maria đến cứu giúp. Con xin người liệu thế cho con trốn trước khi người ta đem tiền đến bắt con.

Cho nên đây là giây phút thuận tiện, mà Mẹ Maria đã xếp định cho con. Thấy hai vợ chồng người phu xe còn ngủ mê, con yên tâm và quyết định trốn ngay, theo sự thối thúc trong tâm hồn. Con liền làm dấu thánh giá và đọc ba kinh kính mừng, cầu khấn Mẹ Maria phù trì, rồi con nhẹ nhàng cất bước ra khỏi nhà người phu xe. Ra khỏi cổng, con cảm thấy lo lắng hồi hộp quá. Con quay lại nhìn xem có ai biết không. Nhưng không thấy gì, nên con lại vững dạ đi ra ngoài đường cái lớn, rồi thẳng con đường ấy con chạy một mạch lên chợ Bắc Ninh.

littlewave
01-06-2009, 12:23 PM
Ở chợ Bắc Ninh các nhà hàng cơm đã thấy vắng mặt con, nên họ đoán là con đã có nơi nương náu tử tế rồi. Nhưng đến khi thấy con trở lại đấy với một bộ mặt sợ hãi, và áo quần ướt như chuột, người ta xúm lại hỏi han.

Sau khi đã nghe con phân trần đầu đuôi về việc vợ chồng người phu xe manh tâm đem bán con cho một người đàn bà nào, họ mới lấy làm tội nghiệp. Tuy thế, con cũng chẳng được ai nghĩ đến việc cứu giúp.

Một lúc sau, khi con còn đang ngồi cạnh lò lửa của một nhà hàng cơm, để sưởi cho quần áo mau khô, chẳng rõ ở đâu chạy lại một bác đàn ông trạc độ ba mươi tuổi, tay còn cầm con dao phay thái thịt, nên con nhận ngay được bác ta là ngươì hàng phở.

Bác ta đến bên con, vỗ vai cách thân mật, gật đầu chào con một cái như chào một ông lớn. Con hiểu là bác ta có ý pha trò. Rồi bác vỗ vào ngực đánh phịch một cái, và tự giới thiệu bô bô ở giữa chợ:

- Tôi có đạo đây. Lậy Chúa tôi chứ, thật là tội nghiệp cho chú quá! Tôi vừa mới nghe người ta kháo láo về chú mà tôi lấy làm cảm tâm hết sức. Vậy thì chú về nhà tôi, tôi sẽ nuôi chú, và tập cho chú có nghề nghiệp mà làm ăn.

Lại một lần nữa, con nghe người ta hứa lo lắng, và chăm chú đến con. Con đã cảm thấy chán ghét những lời hứa tốt đẹp ở miệng đời. Cho nên, mặc dầu bác ta đã phân phô, và giơ cả ảnh chuộc tội bác ta đeo ở ngực cho con coi, con cũng không còn tin bác ta là người nói thật. Truyện đời biết đâu mà tin? Nên con đáp lại với bác ta ngay rằng:

- Cháu cám ơn bác hết lòng vì sự cảm tâm và nuốn lo liệu cho đời cháu có nghề nghiệp làm ăn.

Nhưng hiện nay cháu không còn thể ở Bắc Ninh này lâu hơn được nữa, cháu phải tìm về nhà thày mẹ cháu, hoặc ít là có thể về nhà người quen để họ lo liệu cho cháu. Vậy cháu chỉ xin ở làm cho bác ít lâu, rồi xin bác cho cháu chút ít tiền, để cháu có thể tìm về nhà quê bá cháu được:

- Bá chú ở đâu?

- Ở Từ Sơn.

- Ồ, từ đây về Từ Sơn có mấy, mà sao chú không về?

- Vâng vẫn biết thế, nhưng cháu không có một đồng xu để đi xe?

- Ði bộ? Mười lăm cây số thôi mà.

- Vâng, cháu cũng đã đi thử, nhưng không sao tránh khỏi lũ trẻ chăn trâu chặn đường bắt nạt. Hôm ấy, chúng đã cướp mất của cháu chiếc áo dài trắng.

- Khốn kiếp cho tụi vô giáo dục! Nhưng mà chú đã xin quá giang xe chưa?

- Thưa đã, nhưng bác tài đã từ chối, lại còn riếc cháu? Ðòi đi xe mà không có tiền!

- Ðược chú về nhà tôi, ăn làm ít bữa xem sao đã, rồi tôi khác liệu cho chú về nhà bá chú.



* * *



Ngán thay! Con người như thế mà lại bị kiềm chế do người vợ. Ở giữa chợ thì bác ta ăn nói hùng hổ như ông tướng, nhưng về nhà thì lại thin thít, sợ vợ như sợ cọp.

Vợ bác là một người đạo theo, mới chịu phép rửa tội ngày hôn phối. Vợ chồng ăn ở đã được hai mụn con. Song rủi, đứa con đầu lòng bị chết sớm, làm cho chị ta buồn rầu không thể tả. Và cũng từ bấy giờ, chị ta thôi không giữ đạo nữa. Ðứa con chết được ít lâu, chị ta trốn chồng đi cầu tự ở chùa Lim và nhờ thày bói gieo quẻ cho. Ðược ít lâu, chị ta lại sinh được đứa con trai, xinh đẹp như thằng trước. Nhưng lần này, chị ta nhất định không cho đem đi chịu phép rửa tội, mặc dầu từ nhà chị tới nhà thờ không xa bao nhiêu, cùng lắm là chỉ mất năm mươi bước. Vì chị ta chỉ sợ rằng đem đi rửa tội thì nó lại phải cái vạ chết non như thằng bé trước. Thế mà bác chồng cũng cứ phải "vâng" răm rắp.
Trong nhà, chị ta bảo thu dọn bàn thờ đạo đi, và đừng đọc kinh nữa, bác ta cũng gật thật lực, và tuân hành đúng lệnh vợ truyền.

Bước chân về nhà Bác, chị vợ chỉ không ưa con có một nỗi là con có đạo, nên vừa nghe chồng giới thiệu là chị ta đã bất bình ngay, và cũng xử cay nghiệt với con ngay từ lúc mới bắt đầu giúp việc cho nhà chị. Suốt ngày chị ta cằn nhằn với chồng về nỗi: Sáng thì con đòi đi xem lễ, tối thì lại đòi đi nhà thờ đọc kinh. Rồi chưa được một ngày mà chị ta đã xúi chồng đuổi con đi hai ba lần. Chị ta căm nhất là mỗi lần đưa thằng bé cho con giữ, là con tập làm dấu thánh giá cho nó.

Thằng bé sáng trí lạ, nó chưa đầy một tuổi mà con chỉ tập cho nó mấy lần, rồi bảo nó làm dấu, nó giơ tay làm ngay, và làm thật đúng, nhưng đọc thì không rõ, vì nó chưa biết nói.

Bác chồng, tuy nghe vợ xúi, nhưng không đành lòng đuổi con đi, vì thật ra cũng có lợi. Bác ta mới dở ra trò cám dỗ con:

- Này thôi chú, tin Chúa là đủ rồi, cần gì phải đọc kinh xem lễ cho nó nhọc? Chú nên nghe tôi kẻo bu nó buồn, là từ nay, thôi chứ, đi xem lễ làm quái gì? Mình giữ đạo tại tâm chứ.

Con thì con không chịu chỉ giữ đạo tại tâm thôi, mà còn phải lo phụng sự Chúa ra bề ngoài nữa. Ðang cơn sốt sắng, con diễn thuyết cho vợ chồng bác ta một bài và câu trước hết con hỏi bác ta là lời Phúc Âm:

- Có ai đốt đèn mà lại đem giấu kín trong thùng không?

Con lại còn đe:

- Nếu anh chị chẳng giữ luật Chúa cho trọn, thì thế nào cũng sẽ bị tay Chúa sửa trị. Con cũng khuyên bác chồng phải khuyên răn vợ, và phải liệu cho thằng bé được chịu phép rửa tội cho sớm.

Thấy lý lẽ phải, xem ra bác ta phục. Bác nói với vợ:

- Ðấy, bu mày xem? Chú ấy nói không hay bằng ông cố giảng ở nhà thờ à? Bu mày liệu đấy, người ta đã bảo đem con đi chịu phép rửa tội thì lại.

- Tội tội gì.

Chị vợ nổi ngay tam bành lên, nhiếc cho anh chồng một mẻ kịch liệt. Bác ta lắp bắp chẳng biết đối lại làm sao, đứng dậy lủi đi ra phố, như để tránh cơn thịnh nộ của bà "chúa" vợ.

Trưa hôm sau chị vợ dỗi không ăn cơm, vì bác chồng theo con làm dấu thánh giá và đọc kinh trước khi ăn. Chị ta còn căm hơn nữa, là thấy thằng bé con cũng giơ tay bắt chước làm dấu thánh giá. Chị ta phát ngay vào lưng thằng bé một cái và rủa nó:

- Thằng chết tiệt này, mày cũng theo bố mày mà làm tội cho tao à?

Chị ta bỏ ra sau, không thèm ăn cơm nữa. Bác chồng sợ vợ dỗi, chạy theo ra dỗ, bị bà "chúa" vợ "tung cơn gió bụi" cho một mẻ tím cả mặt lại.

Lần nào cũng thế, khi thường thì bác ăn nói chững chạc., lắm, nhưng hễ bị vợ mắng là bác sinh chứng nói lắp.

Con hết sức nín cười khi thấy bác rặn mãi không được một câu, dang khi chị vợ nói như xỉa vào tai. Và lần nào bác cùng phải tìm đường rút lui ra ngoài phố.
Lần này, bác vừa đi, chị vợ ở nhà không còn ai đôi co với nữa để chị nói cho đã tức. Chị đâm ra khóc tu tu. Rồi nhân dịp chồng vắng nhà, chị ta lên mặt chủ nhân, và đuổi phắt con đi, chẳng tính cho con lấy một xu tiền công. Con ra đi, nhưng chẳng để ý gì đến việc xin trả tiền công. Con chạy ngay vào nhà thờ, và ở đây con lại xin giao phó cuộc đời con cho Ðức Mẹ.

Lần xong một tràng hạt, con bước ra và từ đây con dõi theo thánh Alexis, tu trên bước đường hành khất.

littlewave
02-06-2009, 11:35 PM
Con không trở lại chợ Bắc Ninh nữa. Nghề của con bây giờ là chỉ biết giơ tay xin người qua lại bố thí. Và quãng đường con đi chỉ có từ nhà thờ tới nhà ga, rồi lại từ nhà ga về nhà thờ. Cảnh sống của con rất thất thường. Khi nắng ráo thì không sao, nhưng trời cũng có lúc mưa, nhất là về mùa dễ cảm xúc này (mùa thu). Cho nên lòng dạ con cũng có lúc no lúc đói. Và nỗi buồn dường như không bao giờ có thể rời xa con.

Ðêm đến, con nằm trú dưới các gốc to, hoặc những mái hiên bên đường phố. Năm ngày sau, trông con, ai là người đã gặp con khi trước, nay không còn thể nhận được diện con nữa. Chính con cũng nhìn thấy rõ ràng sự thay đổi trên con người.

Tay chân con teo hẳn ngay lại, da bị sém nắng đen thui. Rờ lên hai má, con chỉ con thấy hai gò xương hàm nhô ra, lấn hết cả thịt. Tóc con dài, và có lẽ bẩn thỉu lắm?.

Mặc dầu không có gương soi, nhưng con cũng có thể thấy thân hình con đã đổi khác rất nhiều. Ngoài thân, con chỉ có một bộ đồ mặc từ hôm trốn ra đi. Cho đến nay nó vẫn chưa bao giờ được giặt giũ, nên nó không còn thể giữ được vẻ trắng sạch như hôm nào. Nó đã hoá ra mầu vàng khè, ăn lộn với mầu đất. Thêm vào đấy những vết nhơ dầu, mỡ, và những thức ăn dư.

Ngoài bộ áo đặc biệt ấy, con chỉ còn một chiếc bao tải, nhặt được ở trước ga Bắc Ninh. Với nó, con dùng làm chiếc áo khoác ngoài, vừa để làm nón che đầu, làm khăn quàng cổ, và một thể cũng là một chiếc khăn gói đựng đồ ăn dư của người ta bố thí. Ðêm đến, nó lại là một chiếc mền tiện lợi, đắp kín được từ bụng đến chân.

Tuy nhiên, con vẫn chẳng lấy gì làm khổ não về cái cảnh sống bần tiện khó khăn ấy. Trái lại, con đã tìm được sự an vui ở nơi được chịu cực vì Chúa.

Con biết rằng con trốn đi đây là trốn tội lỗi. Con trốn những sự làm cực lòng Chúa. Mà như thế phải cực khổ đến mấy con cũng vẫn cứ vui lòng, con chẳng thấy mình sợ đau khổ chút nào. Mặc dù đau khổ vẫn làm lòng con sôi nóng, và mắt con ngập tràn trong lệ.

Trong lúc này con luôn luôn phải tiếp tục giằng co với cái sống. Con vẫn ước ao làm linh mục. Nhưng làm linh mục thế nào được, nếu con cứ phải sống trên quãng đường nghèo khó này? Con rất ước ao tìm gặp một vị linh mục để thố lộ nỗi niềm con. Nhưng biết tìm đâu cho ra được một vị linh mục để có thể thấu hiểu nổi lòng con? Có nhiều lúc con muốn ra mặt, vào nhà chung Bắc Ninh xin gặp một cha để con cởi mở vài lời. Nhưng con lại sợ người ta bắt và đem con trở lại nhà xứ Hữu Bằng cho cha xứ Nhã.

Nghĩ đi cũng khổ mà nhìn về cũng tội. Ðằng nào cũng có cái làm cho con run sợ. Nhưng nhất định là con sẽ không bao giờ chịu tu ở một nhà xứ như nhà xứ Hữu Bằng nữa.

Con rất ước ao được trở về với gia đình, nơi con có thể nương cậy, và mẹ sẽ có thể hiểu thấu nỗi lòng con, mẹ có thể tìm cho con một chốn tu tử tế.

Nhưng than ôi! Lời đanh thép của thày đã dính chặt vào tâm trí con. Cái tiếng: Tao sẽ chém! không khác gì một tiếng sét, đánh vào lòng con, mỗi lần con nhớ tới. Khổ nhất cho con, là từ nhà ga về đến nhà thờ, con phải qua một con đường xe chạy về bến đò Hồ. Con đường về quê con đấy! Ôi! Biết bao lần qua đó, con đã phải chống chọi một cách đau đớn với sự thèm ước muốn theo nó mà về nhà. Ðã có lần không cầm cự nổi, con đã phải xiêu lòng mà theo đi. Nhưng qua phút mê ly, hình dung con mã tấu gợi lại trong tâm trí con với lời thày đe dọa "Tao sẽ chém!" lại làm cho con sợ hãi, và buộc con phải quay lại với bao thương đau nhớ tiếc!

littlewave
05-06-2009, 07:55 AM
Gặp Người Quen





Sự đau đớn trong tâm hồn đã làm cho con thành người ngớ ngẩn. Con đã khóc khi người ta cho con món ăn. Thế mà lại nhe răng cười khi người ta vừa bớp cho một cái chúi đầu.
Tuy nhiên, gặp những trường hợp khó khăn, con vẫn tỏ ra tinh khôn, không hề bị lừa dối, lại còn biết đối phó một cách tinh nghịch.

Hai lần con đã gặp người quen.
Lần thứ nhất, hôm con còn ở giúp việc cho bác hàng phở. Con gặp một cậu sinh viên trường kẻ giảng cùng ở một nhà xứ với con.
Vô tình, tối hôm ấy bác hàng phở đẩy xe hàng phở đến trước sân nhà thờ để bán, và tiện thể bác ta cho con đi đọc kinh, rồi ra giúp bác cho tiện.
Khách khứa ăn mãi cho đến gần mười một giờ khuya mới vãn, hai chúng con định sửa soạn về. Thì đột nhiên, năm cậu công tử bột ở đầu phố tiến lại và đòi ăn.
Vừa thấy họ con đã nhận ngay được ba anh đã quen biết con lắm. Nhưng chỉ có anh cùng ở một nhà xứ Hữu Bằng với con là gần gụi con hơn cả. Anh ta mới xa cách con chừng ba tháng.

Thấy họ, và sợ họ biết, con định tìm cách tránh. Con nói bác chủ:
- Thôi bác, khuya rồi còn gì, vả chúng mình đã thu dọn cả rồi.
Nhưng thấy có mối, bác không chịu thôi, bác bảo con nhóm thêm lửa lên cho nóng nồi nước dùng, và dọn lại bát đĩa ra để làm cho các quan cậu một bữa "tầm bổ".

Ðang lúc đợi ăn, họ cười nói như pháo rang. Nghe câu truyện con đủ hiểu họ vừa mới đi xem tuồng cải lương về. Thế mà luật kẻ giảng vẫn cấm họ đi chơi đêm.

Từ nãy, con vẫn cắm cổ làm, không dám ngẩng lên, và cũng không nói một câu, chỉ sợ anh cậu cùng ở một nhà xứ nhận ra được thì nguy. Thỉnh thoảng bác chủ có căn dặn làm món nọ món kia, con chỉ gật đầu tỏ ý hiểu và làm một cách chớp nhoáng. Cũng may là chỗ xe đậu, cách cây cột đèn cũng khá xa, nên ánh điện lờ mờ không thể làm lộ hẳn nét mặt của từng người. Trong xe cũng có chiếc đèn dầu nam treo lủng lẳng mãi gần chóp. Nhưng con lại đứng khuất mặt sau những miếng thịt treo bên sườn xe. Thành thử con cũng có thể che đậy sự sợ hãi của con được đôi phần.

Sau lúc đã dọn cho họ ăn, con đi hơi xa một tí và ngồi gõ nhịp chân bên lề đường. Bác chủ cũng đi quanh quẩn nói truyện chơi với mấy bạn hàng.


Ðột nhiên, anh cậu cùng ở Hữu Bằng với con lên tiếng hỏi:
- Anh bé nào kia coi như Văn ấy nhỉ?
Con giật nẩy mình, nhưng còn tảng lờ như không biết.
Ngay lúc ấy một anh ở Tử-nê, cháu Cha Cương hỏi lại:
- Văn em Lê chứ gì?
- Ừ, Lê Ngăm Giáo ấy mà.
Anh này tục tĩu, chỉ nghĩ đến Lê thôi.
- .Láo! tao trả lời cho lại còn.
Họ hích vai nhau và cười một cách khoái trá. Nửa phút sau, anh Ðông lại hỏi:
- Thật đấy mà, anh bé kia coi giống Văn quá đi. Này, Văn ngồi đấy có phải không?
Con tảng lờ thưa vào việc khác:
- Dạ, thưa cậu muốn gì ạ?
- Anh có phải là Văn không?
Anh hỏi với một vẻ mặt như là đã chắc chắn con là Văn.
Trống ngực con mỗi lần một đập mạnh, nhưng con cố chấn tĩnh, và làm ra bộ ngớ ngẩn:
- Thưa ông. Văn? Văn gì ạ?
Quái! Tớ coi mình giống Văn ở Hữu Bằng quá.
Hưng Tử-nê buột miệng nói trách Ðông:
- Anh rõ thật lẩn thẩn. chắc anh lại trông gà hóa cáo chứ gì?
- Anh chỉ phá bứa, kệ người ta mà.
Kệ? Anh chỉ nghĩ đến Lê., rồi thì trông thằng bé nào cũng cho là Văn em Lê.
Họ lại hích nhau và cười thật lực.

Ở vỉa hè bên kia, bác chủ thấy khách hỏi đi hỏi lại mãi, mà xem chừng con không hiểu bác ta chạy laị hỏi:
- Bẫm quan cậu thiếu gì ạ?
- Chú bé nào đây mà mọi hôm không thấy nhỉ?
Bác chủ liền thoắng một thôi như thể là người thông thạo thời thế lắm:
- A. dạ, bẩm chú ấy đâu quê ở Lạng Sơn, hồi Nhật tấn công vào, chú ta trốn chạy thế nào chả biết, rồi lạc cả cha lẫn mẹ. Mấy hôm nay nhà cháu thấy vớ vẩn ở chợ, mới đem về nuôi để tập nghề làm ăn cho đấy ạ.

Ngã người về phía sau, anh cười như để chữa thẹn và nói:
- Thế à, thảo nào., tôi trông hắn giống cậu em tôi ở trên kia quá, nên hỏi vớ vẩn thế. may ra thì phải, vì mấy hôm nay tôi được tin nó trốn. Tôi cứ ngờ ngợ mãi.
Hà, phải rồi, ngờ ngợ mà thôi?. Con cảm thấy nhẹ bẫng người đi như trút được trái tạ đang đè nặng trên con tim.

Từ lúc ấy anh ta không chú ý đến con nữa. Tám tháng sau, gặp con ở Hữu Bằng, anh đem câu truyện ấy ra kể laị cho con nghe, và hỏi con cho biết có phải thật là Văn ở đấy không? Tỏ ra anh ta cũng có cái tài nhớ dai. Nhưng chỉ vì anh hơi ngờ ngợ, chứ giá anh đừng ngợ thì hôm đó tóm được Văn ở tại xe bán phở rồi.

Phần con, nghe câu truyện đến lý thú, nhưng đời nào con lại chịu nhận với anh ta về việc con đã đi làm thuê cho anh hàng phở?

littlewave
11-06-2009, 09:05 AM
Cách năm hoặc ba hôm sau, trên quảng đường hành khất, con lại gặp người cậu họ (cậu Hạng). Giữa lúc con đứng ở đầu con đường Bắc Ninh chạy về bến đò Hồ, để xin ăn, thì may mắn gặp được chuyến xe sớm chạy lên. Hành khách xuống xe, và con chạy lại chìa tay trước từng người để xin bố thí.
Thình lình, con gặp ngay người cậu họ.

Lậy Chúa! Lậy Ðức Mẹ xin cứu giúp con! Con vừa nguyện thầm trong lòng, vừa bạo dạn bước lại trước mặt cậu, và cũng chìa tay xin bố thí như mọi người khác.

Cũng lúc ấy, con giả vờ đánh rơi chiếc bao tải con đang khoác trên vai, . Con cúi xuống nhặt, và trùm nó lên trên đầu, để có thể che giấu được phần nào cho cái khuôn mặt của con nó ra khác. Con bước đi, và làm bộ run lẩy bẩy như người đang cơn sốt rét. Cho nên biết, những ngày ấy người ta bảo con bị ngã nước ở Lạng Sơn, thật không phải là vô lý. Bởi vì với sắc mặt, và con người ẻo lả, đã làm cho thiên hạ tự công nhận con là người ở trong cảnh ngộ bị tản cư hồi Nhật chiếm cứ Lạng Sơn.

Mà lạ! Cái ông khách kia thật là kỳ quặc, con đã chìa tay đến hai lần, mà ông ta chẳng thèm đoái hoài đến, không cho mà cũng không từ chối. Ông ta tay dắt chiếc xe đạp, và bỡ ngỡ nhìn con thật lâu. Biết là cậu đang có sự chú ý vào con, con liền hạ tay xuống, cúi mặt và lùi đi nơi khác.

Bỗng cậu gọi giật lại và hỏi con:
- Ô kìa, Văn!. Nghe đâu bảo trốn cụ Nhã mấy tuần nay rồi mà. mà không về nhà à? Cái thằng khỉ này, đi ăn mày à? Ồ! Lại có cái tiếng "nghe đâu" con bắt đầu hết lo, vì cái tiếng "nghe đâu" của cậu nó có nghĩa là chẳng căn cứ vào đâu cả.

Cậu chỉ mới có thể biết con trốn, chứ chưa rõ thật là con trốn. Con quay lại giả vờ thưa:
- Dạ, thưa ông hỏi gì ạ?

Ông khách ngớ người, tưởng câu mình nói vừa rồi là đích xác "thằng Văn" chứ còn ai nữa, mà thằng bé ăn xin nó lại hỏi mình một cách ngớ ngẩn thế.
- Anh có phải là Văn không?
- Thưa Ông. Văn? Văn nào ạ?
- Thì Văn con cụ Nhã ý mà. Mới trốn về đấy chứ gì?

Thở dài một cách lạnh lùng, con lắc đầu và đáp:
- Trời ơi! Ông hay quá đi mất, ông hỏi gì mà cháu không thể hiểu được?

Thấy cảnh buồn cười, hành khách ai cũng ngạc nhiên về thái độ vớ vẩn của ông hành khách nọ. Hỏi truyện gì mà làm cho người nghe phải than phiền lên như thế?

Thèn thẹn, cậu tưởng là mình nhầm thật, nên vội vàng dắt xe đi, vừa đi vừa lẩm bẩm:
- Không hiểu thì thôi vậy.
Trước khi nhẩy lên xe, cậu quây đầu lại chữa thẹn với mọi người:
- Tôi tưởng thằng cháu nó bị lạc, nên hỏi thử thế thôi.
Nhẩy lên xe, đạp vài cái để lấy đà rồi cậu còn cố nhìn vốn lại một lần nữa:
- Sao trông giống thằng Văn quá đi mất?.
Rồi cậu phóng biệt đi đâu.

Một tháng sau, gặp con ở gia đình, cậu lại đem câu truyện gặp thằng bé ăn mày ở Bắc Ninh ra kể, và hỏi con cho đích xác. Nhưng trước danh dự thày mẹ, con đâu lại chịu nhận mình là đi ăn mày bao giờ? Thành thử cho đến ngày nay, những bí mật ấy còn nằm yên trong bóng tối.

Theo đường khác

Ðã hai lần gặp người quen, con bất đắc phải bỏ Bắc Ninh mà đi theo con đường khác để kiếm ăn. Theo con nghĩ, thì chỉ có cách ăn xin trên các toa xe lữa là để tránh người quen nhất. Bởi vì giờ này con ở đây, nhưng một vài giờ sau con đã ở chỗ khác, và một ngày con sẽ có thể đổi chỗ được nhiều lần. Con đem áp dụng phương cách mới, và con đường đi lại của con cũng chỉ từ Bắc Ninh tới Hà Nội, và Hà Nội lộn về Bắc Ninh. Tối đến con ngủ ở Gia Lâm, trên những toa xe không. Tuy con vẫn phải tránh mặt người quen, nhưng ngày ngày con vẫn cố gắng dành dụm lấy chút ít tiền xin được để lấy một vé xe về nhà bá. Bấy giờ con chỉ còn thể hy vọng vào bá, người có thể giúp con và lo lắng cho con thay cho gia đình.

Phần con lúc nào nghĩ đến gia đình cũng lấy làm đau lòng xót dạ, vì là nơi âu yếm nhất của con. Thế mà sự sợ hãi đã làm con đến phải đoạn tuyệt với hết những gì yên ủi con có thể được ở đây!.
Con chỉ còn mong về nhà bá Khánh. Nhưng chẳng khi nào con để dôi ra lấy được một xu, ngày nào sống qua được ngày ấy. Có ngày còn không đủ để sống nữa. Ði ăn xin trên các toa xe không phải là một điều dễ. Luôn luôn phải đề phòng cho khỏi gặp người kiểm vé. Nếu vô tình mà bị bắt gặp thì ít ra cũng được dăm cái bớp với vài cái mũi giầy vào đằng sau, lại còn bị nhốt tù không chừng.
Tuy nhiên, con vẫn phải sống, vẫn cứ phải như mình sống cho qua lần qua hồi. Hy vọng rồi một ngày có thể lo liệu về được đến quê bá.

Một hôm, con đi chuyến xe chót từ Lạng Sơn về Hà Nội. Con chỉ có ý đến Gia Lâm rồi xuống. Nhưng chẳng may con ngủ quên mất, mãi cho đến lúc xe về Hà Nội con mới giật mình dậy. Nhìn ra, con cũng tưởng đây là Gia Lâm, nên con bước xuống, và đi tìm mấy toa xe không.

Con tìm mãi không thấy một chiếc toa không. Con ngợ ngừ, đi vào trong ga, mới biết là mình nhầm. Ðây là ga Hàng Cỏ cơ mà?

Ðang lúc vơ vẫn, con bị một nhân viên trong sở hỏa xa bắt gặp, ông ta nghi con là tên ăn cắp, nên bớp cho con mất cái con vùng chạy. Ông ta đuổi theo, và đe bắt nộp cho "tây đen" con sợ quá vứt cả chiếc bao tải qúi hóa của con lại, và chạy trốn ra ngoài tối.

Con nằm ở bên lề đường cho đến lúc nghe yên ắng, con mới ngỏm dậy để hít lấy chút khí trên cao. Ðêm càng về khuya, sương lạnh xuống càng nhiều. Con cảm thấy lạnh, và nghĩ cứ tiếc mãi cái áo khoác độc nhất mà con đã để rơi, con định trở vào để tìm lại, nhưng lại sợ nhân viên sở hỏa sa bắt được thì khốn.

Chừng mười một giờ khuya, có chuyến tàu chót chạy về sở Gia Lâm, con leo lên để về nghỉ đỡ ở đấy cho êm ả. Trên tàu có lẽ chỉ có mình con là một ông hành khách cuối cùng. Ðến Gia Lâm, người ta đi soát tàu, gặp con ở trên xe, nhưng họ không đánh đấm gì. Ông xếp ga cho con vào ngủ đỡ ở trong ga, và sáng hôm sau chỉ cho con chuyển tàu sớm về Bắc Ninh.

littlewave
20-06-2009, 10:19 AM
Trở gót lại Hữu Bằng

Hôm ấy là thứ Bẩy. Tính ra con đã trốn khỏi Hữu Bằng hơn hai tuần lễ, và đã nếm đủ mùi mặn nhạt, đói no, trong khi lưu lạc. Nhưng đem bấy nhiêu đau khổ mà sánh vì với một ngày chịu nhốt trong nhà xứ Hữu Bằng, con vẫn lấy bấy nhiêu ấy làm hạnh phúc hơn ngàn lần sống với cái cảnh tu xác của một nhà xứ.

Con xin ăn ở Yên Viên suốt cả ngày. Mãi cho đến chiều con mới sực nhớ ra mai là Chủ Nhật. Con định về Bắc Binh để dự lễ ngày mai. Nhưng không còn chuyến tàu nào về đấy nữa. Chỉ còn một chuyến đi Lào Kay.

Suy nghĩ một chút, con quyết định sẽ trở lại Hữu Bằng tối nay, nhưng làm thế nào để có thể dự lễ được mà cha Xứ không biết, rồi luôn tiện mang nốt số áo quần con vẫn để lại. Con còn nhớ mang máng như trong hòm đựng quần áo của con, còn có một số tiền dưới năm đồng, mà con đã dành dụm được từ lâu. Giả như hôm con trốn mà nhớ đem được số tiền ấy đi, thì đời con đã chẳng gặp phải cái giai đoạn ngược xuôi, xuôi ngược này.

Con theo chuyến tàu Lào Kay đến Hương Canh thì đã sáu giờ chiều. Trên tàu con giáp mặt cha Sự, coi xứ Trang Lan, người rất biết con, và con cũng đã giúp lễ cho người nhiều lần. Người thật là một vị linh mục đứng đắn. Người thấy con, lúng túng như muốn hỏi thăm, nhưng dường như người sợ không phải thằng Văn nên người lại thôi. Con cũng biết người nhìn con rất lâu, nhưng không thể nào nhận ra, vì con cởi trần, và đi ăn xin.

Từ nhà ga về đến nhà xứ, con gặp được mấy người đàn bà đi chợ về muộn. Dọc đường họ hỏi thăm nhau xem mai lễ ở đâu. Nhân cơ hội này, con biết được cha xứ đã đi Tam Lộng, và mai làm lễ Chúa Nhật ở đấy. Con đã yên tâm, vì như thế, việc con quay lộn về nhà xứ sẽ không sợ bại lộ nơi cha xứ nữa.

Con lại định tâm rằng, nếu câu truyện được êm thỏa, con sẽ dùng số tiền con có để đi tàu xuôi sớm về dự lễ ở Phúc Yên, rồi sẽ xuôi tàu mười giờ tiếp theo. Như thế con sẽ không bỏ lễ ngày Chúa Nhật, và việc con quay lại Hữu Bằng sẽ chỉ có rất ít người biết.
Nhưng lại một lần, dự tính của con đã đi ra ngoài ý tiền định của Chúa. Con về được đến Hữu Bằng tối ấy, là như cả một sự gắng gượng của con.

Con lội qua cánh đồng sau, lần mò vào nhà xứ giữa lúc nhà thờ đang đọc kinh tối. Vừa đói lại vừa mệt. Con chỉ còn kịp chạy ra phòng đồ lễ, nháy anh cậu giữ chìa khóa hòm quần áo của con, về cho con một bộ để thay, rồi con lăn ra giường đánh một giấc ngủ thật ngon.

Con xin anh cậu giữ bí mật câu truyện này cho, và dặn anh khi nào nhà thờ đọc kinh gần xong thì cho con hay để con liệu cách lánh mặt lũ cậu bé. Nhưng chả hiểu vì sao anh ta lại để con ngủ thẳng giấc cho đến lúc nhà thờ tan kinh.
Khi ấy, hình như con còn đang mơ quanh quẩn trên dẫy phố Bắc Ninh, hoặc đang lải nhải chìa tay xin người ta bố thí từng đồng xu trên toa tàu.

Bỗng con nghe có tiếng hò la inh ỏi, rồi thấy một lũ trẻ chăn trâu chạy xúm lại túm lấy con, thằng thì vít cổ, đứa thì lột áo, đứa lại ôm cẳng vật ngửa con ra. Con giật mình thì ra lũ cậu bé đang vui mừng vì "đại tướng" của họ đã hồi chinh.

Ôi chao! Chúng làm con cáu tiết quá, định bốp cho mỗi anh mấy cái. Nhưng "đại tướng" đã kiệt sức quá rồi, đành phải van lậy họ để họ cho khất đến sáng mai sẽ kể truyện phương cách rút lui có hiệu quả của đại tướng.

Cá Cơm
22-06-2009, 08:12 AM
Cám ơn Littlewave đã đăng tải một câu chuyện về một cuộc đời đức hạnh.
Nó thật sự có ý nghĩa, nhất là trong bối cảnh hôm nay.

littlewave
24-06-2009, 10:15 PM
Câu truyện đã bại lộ


Ngày hôm sau con phải ra mặt với thầy già xứ và xin lỗi. Sau đó mọi người điều đi lễ ở Tam Lộng. Dọc đường con tả cho lũ cậu bé nghe hết mọi mưu cơ trốn của con. Họ tỏ ra bực tức, vì đã để cho đại tướng của họ trốn thoát, và buồn phiền trong những ngày xa khuất đại tướng của họ.


Anh em ai nấy điều vui khi thấy con trở lại. Nhưng họ cũng không hiểu duyên do gì mà con trở lại. Tuy thế, họ cũng khá tỉnh táo, họ đoán là con trở lại vì một án đồ cần thiết, rồi con sẽ lại trốn đi với tất cả đồ đoàn và áo xống. Họ đoán không sai. Nhưng con thì con hết sức bí mật.


Tuy nhiên không lúc nào con khỏi bị họ theo rõi, và cứ cố bám riết lấy con, không hề rời ra lúc nào. Bởi cái tài nói tránh của con, nên con đã giấu được họ tất cả mọi truyện đã xẩy ra cho con trong hơn hai tuần lễ vừa qua. Lễ xong, tuy con không muốn, nhưng thày già xứ ép con phải vào tạ lỗi cha xứ. Hôm ấy con được một mẻ mắng nên thân. Con rất lấy làm xỉ nhục với những lời cha xứ nói:


- Về nhà bị bố nện cho nên mới lại phải vác mặt lên. Sung sướng gì với cái dáng nhà rớt mùng tơi ra ấy! Chắc là nhà hết gạo rồi mới phải mò lên tao kiếm ăn đấy chứ có quái gì?"


Thực sự, con chưa về nhà.

littlewave
01-07-2009, 09:24 PM
Ra đi với một lời thề nguyền không trở lại - Quay về nhà xứ


Trưa ấy con lại lập kế trốn đi. Khó nhất là làm sao đánh lừa được tụi cậu bé, vì chúng cứ bám chặt lấy con, chẳng chịu ngơi ra lúc nào. Cũng may, với năm hào tiền kẹo, con đã tụ tập được họ trên buồng cha xứ. Con mời họ vừa xơi kẹo vừa xem báo. Còn con thì tán phét với họ một hồi theo xã giao, rồi con xin kiếu đi viết một bức thư cần.

Con lại đằng bàn giấy cha xứ, viết một bức thư thật dài để từ giã mấy anh bé quí mến của con, và cho họ biết lẽ gì mà con từ chối không muốn ở đây nữa.

Ðằng kia, mấy anh bé xem báo chán rồi lăn ra ngủ khì cả. Con đi ra ngoài một tí, lại bắt gặp anh canh giờ đang ngồi ngủ gật dưới gốc sấu, con bảo anh ta:
- Thôi cậu đi ngủ đi để tôi canh giờ cho, cậu để tôi đem nước cho thày già một thể.
Anh ta cám ơn con rồi đi ngủ. Con trở lại phòng cha xứ, mở ngăn bàn giấy có ý lấy một bao thư để đựng số tiền đi đường của con, và dó cũng là một mưu phòng ngừa của con, con nghĩ, nếu lúc đi đường, chẳng hạn có gặp người quen, và nếu họ có nghi con trốn, con sẽ giơ cho họ thấy chiếc bì thơ gửi đi, để họ yên trí cho con rằng con đi đưa thư.

Khi rút ngăn kéo để lấy chiếc bì thư, con thấy ở trong đó có 2 đồng 90 xu, con nghĩ một tí rồi cho vào số tiền của con. Thật là một dịp may hiếm có để con lấy nợ của cha xứ. Nhưng với bằng ấy, nó cũng chẳng thấm vào đâu với những ngày còng lưng hầu hạ cụ xứ.

Công việc tươm tất. Con cũng đã làm xong chu đáo mọi việc cho cậu canh giờ rồi. Hai giờ hơn, con lững thững ra đi. Trước khi đi con mặc một bộ đồ thật bảnh. Nhưng không tài nào đem hết áo xống đi được, vì như thế gặp ai, con sẽ bị nghi ngay là đi trốn. Con ra từ giã người bạn thân quí mến nhất trong đời tu chú bé của con là anh bạn Tân, rồi đi thẳng ra ga cho kip chuyến tàu xuôi.

Một lần nữa, con lại phải hết sức nín cười vì gặp ông lái đò tinh ý. Thấy con xin sang sông ông ta không những không nhúc nhích, lại còn tỏ vẻ hăm dọa con như thể là ông ta đã biết con đi trốn vậy. Con đã hơi lo lo, nhưng con chắc rằng ông không có thể mà tinh ý đến thế được. Con cố sức định thần và bình tĩnh nói với ông ta bằng một giọng hơi xẳng:
- Cụ có thể cho tôi qua ngay, để tôi kịp chuyến tàu xuôi bây giờ.

Vừa nói con vừa giơ chiếc bì thơ cho ông thấy.
Thế là chả cần phải nói thêm. Ông lái đò tinh ý ấy đã vội vã đứng dậy chống phà cho con sang sông, ông vừa nói:
- À cậu đi bỏ thư phỏng?

Con móc túi thưởng cho cái tinh ý của ông hai hào, và dặn ông:
- Này cụ, tôi sẽ đi về lối Ngọc Bảo đấy nhé. Cụ đừng ngóng tôi làm gì, và nếu có ai hỏi cụ cứ nói giúp tôi thế.
Thật ra con không nói dối, vì chuyến tàu xuôi cũng đi qua làng Ngọc Bảo. Con ra ga được một chặp thì gặp tàu xuôi. Lần này con vào nhà ga lấy vé cẩn thận, chứ không phải lẩn lút như mấy lần trước.

Ngày hôm sau con về đến nhà Bá Khánh ở Bắc Ninh con chỉ để dư đủ số tiền lấy vé xe hơi về Từ Phong, còn bao nhiêu con vào hiệu mua đồ chơi về làm quà cho em Tế.

Ngày nay cha còn thấy một bình tăm bằng sứ, trong những món quà con mua để tặng cho em. May mà nó còn sót lại bằng ấy, để ghi nhớ chút tình thân mật của con đối với em. Vì ít lâu sau khi con đã về nhà, con bị mang tiếng là ăn cắp một số tiền lớn của cha Nhã.

Khi nghe tin ấy, Tế đoạn tuyệt ngay với con, và có bao nhiêu những món đồ chơi con mua tặng em, em đã đem đập bẹp hết, để tỏ ra lòng em minh chính, không thèm nhận những của do bởi sự ăn cắp mà có.

littlewave
11-07-2009, 10:34 PM
Những nổi khổ thống bởi gia đình

Con về nhà bá được hai tuần, thì được tin mẹ ở bên nhà nhắn bá đưa cháu về. Con xin thú thật rằng, con chẳng vui tí nào khi được tin phải về nhà. Con khóc lóc xin bá cho ở lại nhà bá, và xin bá lo liệu cho đi tu chỗ khác. Nhưng bá vẫn tỏ ra bá không có quyền gì ở trên con hết, nên dù thế nào bá cũng phải làm theo lời mẹ.

Hôm bỏ nhà bá ra về, con khóc suốt dọc đường, và chỉ van xin Ðức Mẹ cứu con cho khỏi bị thày giết.
Thật ra, con đã không bị thày chém. Nhưng chỉ một tí nữa, giá không có bá can thiệp thì thế nào con cũng bị một trận đòn nên thân. Nhưng ngày hôm sau con lại thầm ước, giá con được cái hạnh phúc chết ngày hôm qua, giá hôm qua thày đã chém đầu con, hoặc đã đánh con chết được, thì còn đâu con phải sống để chịu đựng những chuỗi ngày còn đau đớn hơn cái chết! Ngày hôm qua con sợ chết, nhưng sang ngày hôm nay, con không còn sợ nữa, và chỉ ao ước được chết.

Ôi! Thưa cha, giá con được phép bỏ qua khúc truyện này! Giá cha đừng bắt con phải nói!. Nhưng đây, lại một lần con nhận thấy đức vâng lời là chìa khóa bước vào cõi hạnh phúc. Ðến đây con không ngại phải nói nữa, mà con sẽ nói một cách tường tận như con còn nhớ.

Con còn nhớ rằng, từ ngày con về nhà, tình đầm ấm giữa gia đình đối với con cũng chẳng khác gì một đứa con rơi.

Nhà con đã nghèo, nửa phần đất phải đem đi đợ. Tuy thế, nhưng thày vẫn điềm nhiên sống trong sự sung túc, thày vẫn có tiền đi đánh bạc. Nhưng các con của thày không có đủ tiền để sống. Cả nhà ai nấy điều phải làm việc để nuôi thày và lo cho có tiền để thày đi chơi. Em Lục còn bé, cái tuổi thơ của em đã hụt đi mất bao nhiêu là cái sướng, vì em đã sinh vào thời kỳ đang lúc hạnh phúc gia đình bị tan vỡ. Em Tế còn được đi học. Nhưng sự học của nó cũng chẳng được tấn tới lắm. Một đàng vì gia đình nghèo, đàng khác, phương pháp giáo huấn của mấy ông thày còn nghiêu khê lắm. Các ông còn thích để râu vểnh, và chơi roi mây tám.

Còn mẹ thì không cần phải nói. Mẹ đã là cột cái chống đỡ gia đình rồi. Mẹ còn thì gia đình cũng còn, mẹ sống thì gia đình còn sống, ấm no của gia đình là do một mình mẹ điều khiển. Mẹ chẳng có tài nghề gì cho lắm, nhưng nước mắt mẹ là sức sống của gia đình.

Lòng mẹ thì bao giờ cũng là lòng mẹ. Nhưng con nhận thấy mẹ đã rất bất mãn về việc con trốn. Và để phạt tội con, mẹ đã xử với con như không phải là con của mẹ nữa.

Từ bấy giờ cửa lòng con khép kín lại, chẳng bao giờ con dám hở răng nói một lời thân mật gì cùng mẹ. Chỉ có những dòng nước mắt trong bao đêm trường, cho con giữ nỗi niềm vào thời gian!

Non một tháng sau, con không còn đủ can đảm sống ở gia đình nữa. Dạo ấy lại được chị Lê am tường cảnh ngộ. Chị cũng nhận thấy cảnh gia đình buồn tẻ, nên muốn tìm nơi an trú để tu thân tích đức. Hai chị em tâm đồng ý hợp, rủ nhau đi tu cho yên truyện.

Hẹn một ngày chị em cùng nhau ra đi, nhưng chưa có ý định là đi tu ở đâu. Chúng con chỉ biết trốn bỏ gia đình ra đi, còn thì phó mặc ý Chúa định liệu. Rồi một khi con thuyền đã chuyển lái sang tay Chúa, thì Chúa chỉ muốn đưa con vào nơi chiến thắng. Nhưng trước chiến thắng phải qua giai đoạn giằng co, và đau đớn.

Êm thỏa chưa được một ngày, chị em đã có điều bất thuận. Ðến Bắc Ninh rồi thì chúng con không biết đi đâu nữa. Ðằng sau thày đang đạp xe đuổi riết. Chúng con đã thấy thày từ bến đò Hồ, nhưng thày không thấy chúng con ngồi trên xe hơi.

Chị Lê hỏi con cách lúng túng:
- Ði đâu bây giờ hở Văn?
Con cương quyết đáp:
- Sợ gì, chị có thể xin vào tu tạm ở nhà mụ Ðạo Ngạn.
- Thế còn mình?
- Em á? Ðể Chúa lo. Chị không thấy sao, lúc trốn bỏ Hữu Bằng, em đã ở ngoài gia đình hơn hai tuần lễ mà vẫn sống.
- Ðừng tự phụ Văn ơi.
- Em có thể tự phụ được, vì em còn tin Chúa.
- Thày sắp đến, chúng ta phải lên xe trốn lên Ðáp Cầu mau.
Ngồi trên xe, chị Lê vẫn luôn luôn áy náy.
- Văn ơi, làm thế nào mà xin vào tu ở đấy được? Mình đây không có giấy chứng chỉ của cha xứ?
- À thôi chết!
Ðến đây con mới bắt đầu lo, và còn lo hơn chị Lê. Con nghĩ một tí rồi tiếp:
- Nhưng thế này, mình cứ xin bà nhất nhận tạm, rồi xin giấy chứng chỉ sau.
Chị Lê khóc:
- Văn ơi, thế nào chứ thế này thì. lậy Chúa!
- Em thì em chả lo.

Xe đến gần rạp chiếu bóng Ðáp Cầu, chúng con ngừng lại và vào hàng ăn quà.
Ăn xong, chúng con đi dạo chơi vớ vẩn ở chung quanh sân vận động của nhà binh bên cạnh đường.

littlewave
22-07-2009, 01:08 PM
Thoạt khi ấy, chiếc xe thày phóng ngang qua chúng con. Nhưng một lần nữa thày không trông thấy chúng con, và cứ cắm đầu phóng thẳng lên phía cầu. Chị Lê trông thấy thày hãi quá, xanh lè cả mắt ra. Chị lôi con chạy lên cửa hiên rạp chiếu bóng, rồi hai chị em ngồi núp ở trong một bụi cây rậm. Chị em vừa chui vào bụi, trống ngực còn đập thình thình, thì lại một lần hết vía. Con chó tây to tướng tự trong nhà nhẩy xổ ra, gâu gâu sấn đến cắn hai chị em. Chúng con đang không biết làm thế nào. Con sợ quá thét lên một tiếng lớn. May thay, lúc ấy có anh bồi chạy ra, tay vẫn còn cầm một con gà vặt lông giở.
Thấy hai đứa bé nhà quê, anh ta không nỡ mắng. Anh hỏi vài câu, rồi bảo chúng con ra phía trước mà ngồi.

Chúng con đem nhau ra ngồi nấp dưới gốc cây bên vệ đường. Quãng này mới do dự tợn. Một đàng, chúng con không dám tiến về Ðáp Cầu nữa, vì thày đã ở trên ấy rồi, đàng khác về thì cũng không dám trở về. Ðàng nào cũng khổ.

Chị Lê nhớ nhà, chốc chốc lại chẩy nước mắt. Con cũng nhớ nhà lắm, nhưng con cảm thấy không tiếc xót một cái gì ở đấy. Cả nhà không ai còn ưa con nữa. Tình yêu gia đình đối với con như một cái gì khô khan và trống trải. Có lẽ vì con tự ái quá nhiều? Một khi con đã yêu, mà cái yêu kia không được tiếp nhận, cái đó làm cho con đau khổ, rồi tự nhiên con muốn lìa biệt. Nên sự nhớ đến nhà khi này không làm cho con sa nước mắt.

Chị Lê khóc, con không quan tâm đến nước mắt của chị. Nhưng chỉ thích xem tốp lính đang chơi ban dưới sân vận động. Chị Lê không như con, chị buồn và có vẻ nghĩ ngợi nhiều lắm. Hai chị em từ nẫy vẫn không nói gì với nhau cả. Nhưng đang lúc con mãi miết xem tốp lính thao diễn, chị Lê chậm chạp nói:
- Về đi Văn ơi!
- Sao lại Về? Chị Lê!
- Mình đi tu thế nào được?.
Chị gục mặt xuống khóc tiếp:
- Có lẽ mẹ ở nhà đang mong chúng ta.
- Không, chị về thì về, em không về đâu. Về bây giờ mẹ đánh chết.
- Không, mẹ hiền lắm, mẹ sẽ không đánh đâu.
- Mẹ hiền với chị thôi, chứ đời nào hiền với em được? Ðấy. Chị xem.
Ðến đây con mới bắt đầu khóc.
- Không, tại em không hiểu mẹ đấy.
- Em hiểu lắm. Em hiểu, về thì thế nào mẹ cũng sẽ nọc em ra mà đánh trước chị. Thôi, chị có về thì về. Phần em, em sẽ liệu một đường tu, nếu Chúa không muốn cho em tu ở chỗ nào, thì em thà làm một thằng bé bán nước rong chẳng thà về nhà để sống với những. cái gì thì chị đã hiểu em từ trước đến nay rồi.
- Em không về thì chị không thể về được.
- Cái đó tùy chị. Nhưng xin đừng vì em mà chị phải đau lòng. Thôi, chị về thì về đi. Con sang gốc cây bên kia. Chị Lê bưng mặt khóc, con cũng úp mặt vào thân cây để khóc. Hai chị em cũng khóc. Lòng con lúc cảm thấy cái nhớ dào dạt hơn. Con nghĩ: Trốn đi có hai chị em, bây giờ lại phải ly biệt mỗi người một ngả. Khóc chán rồi con ngồi lần hạt. Một lúc chị Lê sang gốc cây con ngồi mà dụ về, con đáp:
- Không, chị về mặc chị, còn em, em ở đây.

Rồi con lại chạy sang gốc cây bên kia. Một lúc chị Lê lại qua bên con. Con lại chạy sang bên chị Lê. Hai chị em bây giờ không khóc nữa, nhưng không thể nói truyện với nhau được. Vì chị thì bảo về, mà con thì sợ về mẹ đánh.

littlewave
03-08-2009, 11:44 PM
Chỉ có cái sợ ấy mà thôi. Chị Lê đã bắt đầu bẳn. Tiếng nhẹ qua đi, bây giờ đến những lời nặng. Sau một cuộc đôi co, chị Lê dỗi, nhất định là về. Chị xách tay nải quay về. Về thật, để mặc đứa em của chị đi đâu thì đi. Nhưng chỉ mười lăm phút sau, chị lại quay lại và dỗ con về. Con thương chị quá, nên bàn thế này:
- Thôi, em xin nghe lời chị về, nhưng đừng về nhà. Chúng ta về nhà bá Khánh.

Chị Lê tán thành ngay. Chị em lại dắt nhau quay trở lại Bắc Ninh.
Ðang đi, đã gần đến Bắc Ninh. Bỗng chúng con nghe có người ngã xe đạp ở phía sau, chúng con quay lại thì ra:
Lậy Chúa! Thày! Tội nghiệp làm sao, thày chúng con bị ngã xe! Nhưng cũng chẳng còn hồn vía nào ngừng lại để chia sẻ cái rủi với thày. Vừa thấy bóng thày là chúng con lôi nhau chạy thật lực để trốn.

Cái ngã của thày chắc là không can gì, nên thày chỗi dậy và đuổi theo chúng con ngay. Chiếc xe còn để nằm bên vệ đường. Chị Lê bị thày bắt được đầu tiên, vì chị mang tay nải. Còn con thì không mang gì cả, và nếu cứ để sức con chạy thì thày khó mà đuổi kịp con.
Nhưng khi con thấy chị Lê đã bị thày bắt được, và bạt tai cho mấy cái, con cảm thương chị quá, nên con quay lại và tự nộp mình cho thày.

Thày mệt lữ, thở tái cả mặt đi. Con vừa đến, thày giơ tay bạt cho con một cái, nhưng lại bớp hụt. Rồi thày không đánh đấm gì chúng con nữa.
Chị Lê khóc. Con đến ôm lấy chị và dỗ chị nín đi

Chị Lê bẽn lẽn bảo con buông chị ra, vì có nhiều người đứng xem. Quay lấy chiếc xe đạp còn nằm ở đằng kia. Rồi thày tịch thu hết tất cả tiền nong, áo xống của chúng con, không trừ lại một trinh, bảo chúng con liệu hồn mà về. Xong, thày lên xe phóng về trước chúng con. Chốc chốc thày ngừng lại để coi chừng. Con bắt đầu khóc khi thày vừa đi. Bây giờ lại đến phiên chị Lê dỗ con.
Chúng con phải đi bộ hơn hai chục cây số. Về được đến nhà thì đã gần chín giờ đêm. Thày đã về trước, và sửa soạn nã cho chúng con một trận thật lực.

Về nhà, chúng con nhận thấy tiếng mẹ đã khàn, và dọng mẹ nói không còn tự nhiên nữa. Chắc mẹ đã khóc nhiều? Tuy thế, mẹ cũng giảng cho chúng con một bài ngắn. Mẹ vừa giảng xong, thì đến lượt thày hạch tội. Roi mây quất đen đét lên phản để thị oai. Con cảm thấy ghê cả người, và nói nhỏ với chị Lê chạy trốn. Chị Lê không chịu, lại gàn con:
- Thôi Văn, ta chịu cho nó xong đi, đau đớn gì mà lo?

Mẹ lên tiếng bênh chị Lê, còn con thì mẹ bảo: Ðánh cho rác xác nó ra. Con gục vào vai chị Lê khóc, và than thở với chị:
- Ðấy, chị xem, em nói có bao giờ sai đâu, mẹ có thương em chút nào?

Thày cầm roi tiến đến chỗ chúng con và quát lớn:
- Trói cổ chúng nó vào cho tao! Nọc nó ra! Chết phen này tao không thương!

Con vùng chạy ra cổng. May thay, cổng vẫn còn mở toang. Chị Lê chạy theo. Ðến lượt thày đuổi theo. Nhưng ra khỏi cổng, chúng con chạy tán mỗi đứa một ngã, làm cho thày không biết đuổi ngã nào, vả lại, trời tối như bưng.

Chúng con thoát được trận đòn đêm hôm ấy. Sáng hôm sau chị Lê đã về nhà làm việc như thường. Còn con không dám về, vì hôm qua con đã nghe mẹ nói một câu như dứt hết mọi tình âu yếm với đứa con trao của mẹ.

Mãi cho đến trưa, con vẫn còn quanh quẩn ở nhà thờ.

Em A.M. Tế bắt đầu gièm chê con, và gọi con là thằng vô phúc. Em không nhìn nhận con là người anh nữa. Em đã bắt đầu gọi con là "thằng" và xưng "tao" gặp em lúc nào con cũng phải rớt nước mắt!

Trưa đến, mặc dầu từ sáng đã có nhiều tin bảo con cứ về nhà, đừng sợ gì. Nhưng con vẫn nghi ngai, chỉ sợ về thày đánh cho róc xác như án mẹ đã tuyên, thì chết! Mãi cho đến lúc chị Lê gọi con ra nhà thờ, thay mặt thày mẹ làm lời giao kết sẽ không đụng chạm gì đến con ngày hôm nay, con mới chịu theo chị về.

Một tuần lễ qua, con không nghe thầy mẹ đã động gì đến truyện phạt chị em chúng con cả. Nhưng không ngày nào là ngày con không phải lau nước mắt. Và như con tưởng, bấy nhiêu ngày chịu xỉ báng, cũng có thể bồi đắp cho cái tội trốn của con rồi. Nhưng nào có phải thế!. Thày mẹ không thể nào miễn thứ cho con một trận đòn.

Bất chợt một buổi tối, đang lúc chúng con ngồi nói truyện vui ở trong buồng. Thày ở đâu về, đóng cổng cẩn thận, và đề phòng đủ mọi truyện cho chúng con không thể nào trốn thoát được. Thày lại quát tháo, và đem roi mây thị oai như lần trước. Thày uống thêm rượu, rồi truyền nọc chúng con ra phản để thày trị tội.

Con bắt đầu run, và trống ngực đập thình thình như vỡ trái tim. Con định chạy lại xin mẹ bênh đỡ. Nhưng thảm thay! Một lần nữa, mẹ lại lên tiếng bênh vực chị Lê, còn con mẹ chỉ có một điều, là đánh cho róc xác nó ra, có chết đem chôn sớm.

Chị Lê bình tĩnh như không cảm thấy cái đau đớn là gì. Ðã rõ, vì chị vừa được mẹ lấy thêm áo xống để độn vào người cho đỡ đau.
Phần con bắt đầu khóc ngay tùy lúc mẹ lên tiếng. Con cảm thấy mình trơ trọi, và vô phương cầu cứu.

Anh Liệt, em Tế, thỉnh thoảng lại dạo lại những lời mẹ đã nói với con:
- Ðánh cho róc xác cái thằng Văn đi. Quân ấy có chết không ai thương.
Thày đã là lý hình. Vậy thì còn ai còn một chút cảm tình với con trong lúc này?

Sự cô đơn nhắc nhủ con nhìn trời. Con chỉ còn đưa đôi mắt tràn lệ nhìn về phía ảnh Ðức Mẹ, con van xin Mẹ, và trông cậy Mẹ sẽ cứu giúp con, ít là cho con có đủ can trường để chịu cho qua tấn đòn đêm hôm nay.

Sung sướng thay! Khi con đã đưa mắt trông nhìn Mẹ cực lành trên trời, thì những biến cố kia sẽ hóa thành êm dịu.

Thày vụt con lia lịa, nhưng roi nào cũng vào thành phản bên kia, vì con nằm trên phản duới, nên bao nhiêu đầu roi giáng xuống điều được thành phản trên cản roi lại. Con không đau đớn gì cả.

Tuy nhiên, con đã khóc suốt đêm, vì tận lòng con khơi lên một mạch sầu không tài nào nén nổi:
Ðối với mẹ từ đấy, con lại cảm thấy xa xôi hơn. Và dường như mẹ cũng hiểu biết rằng: Con không bao giờ dám có một cử động thân yêu nào dù rất nhỏ mọn ra với mẹ nữa. Hơn nữa, con hay tìm đường trốn tránh hết cả mọi người trong gia đình. Kể cả em Lục.