PDA

View Full Version : CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY



littlewave
21-03-2009, 04:28 PM
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY





Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng, vì tình yêu, muốn cứu độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài.

2Sb 36: 14-16, 19-22
Bài đọc I cho chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến cố và theo đuổi ý định của Ngài qua những thăng trầm của Lịch Sử.

Ep 2: 4-10
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô gợi lên rằng Thiên Chúa giàu lòng xót thương và rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên đã hoạch định chương trình cứu độ chúng ta bởi và trong Đức Ki tô.

Ga 3: 14-21
Trong đoạn trích Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su khẳng định rằng: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời".

BÀI ĐỌC I 2Sb 36: 14-16, 19-22

Hai sách Sử Biên vạch lại lịch sử của dân Ít-ra-en từ những giai đoạn ban đầu cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ (587 trước Công Nguyên).
Bài đọc I là phần cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn trích nầy nhắc nhở cho chúng ta những nguyên nhân sâu xa của tai họa và tấn thảm kịch mà Giê-ru-sa-lem đã sống vào năm 587 khủng khiếp trước Công Nguyên: Đền Thờ và kinh thành bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá.

1. Tội của dân Ngài:

Tác giả đã viết lại những biến cố nầy một thời gian rất lâu sau nầy vào cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên, nhưng ông đọc lại Lịch Sử thánh trong ánh sáng của những viễn cảnh thần học. Đối với ông, những thăng trầm mà dân Ít-ra-en kinh qua gặp thấy lời giải thích ở nơi sự trung thành hay bất trung của dân Chúa chọn đối với Thiên Chúa.

Vả lại, dưới triều vua Xê-đê-ki-a (598-587 trước Công Nguyên) những hành vi vô đạo và thờ ngẫu tượng tràn lan khắp xứ. Sự trừng phạt không thể nào tránh khỏi; nhưng tác giả cho thấy làm thế nào Thiên Chúa "đã kịp thời sai các sứ giả đến cảnh báo họ không ngừng" trước khi trừng phạt dân Ngài.

"Nhưng họ cứ nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, khinh dể lời Người và chê cười các ngôn sứ". Ở những lời nầy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên, nhưng được ám chỉ rất rõ. Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã xé cuốn sách ghi lại những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a thành từng mảnh, và các chức sắc tư tế đã nhục mạ ông, tống giam ông, vân vân. Còn ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Thiên Chúa đã cảnh báo ông: "Chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta" (Ed 2: 3). Lúc đó, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên dân.
2. Ơn tha thứ của Thiên Chúa:

Nhưng cơn thịnh nộ nầy chỉ hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã tuyên sấm rằng cuộc lưu đày sẽ kéo dài bảy mươi năm. Vì lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ dân Ngài và không từ chối những lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý tưởng căn bản của tác giả hai sách Sử Biên nầy. Trước tiên, sách Sử Biên quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy mươi năm tang thương. Cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ được tường thuật trong sách Ét-ra tiếp theo sau. Quả thật, phần cuối của đoạn trích nầy là phần đầu của sách Ét-ra, được lập lại ở đây để đóng lại tác phẩm trên một điểm nhấn chứa chan hy vọng.

Chúng ta lưu ý rằng tác giả hoàn toàn chú ý đến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của dân bất trung bất nghĩa "làm nhơ nhuốc Đền Thờ Chúa đã thánh hiến tại Giê-ru-sa-lem". Nếu Ngài sai phái các sứ giả của Ngài, chính "vì Ngài thương đến nơi Ngài ngự". Hành vi đầu tiên của đạo quân Ba-by-lon xâm lăng là thiêu hủy Đền Thờ. Cuối cùng, khi thử thách qua đi, vua Ba-tư, Ki-rô, tuyên bố "xây một đền thờ kính Người tại Giê-ru-sa-lem".

Mầu nhiệm của Đền Thờ làm phấn chấn tác giả của hai sách Sử Biên. Vào thời đại của ông, Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân ông, dân đã đánh mất nền độc lập chính trị của mình. Dân Ít-ra-en đã được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng tôn giáo, phải là một cộng đồng thánh thiện và trung tín: khởi đi từ cuộc sống của một dân tộc đến việc thiết lập một vương quốc Thiên Chúa. Đây là một bài học lớn lao mà tác giả, vừa sử gia vừa thần học gia, của hai sách Sử Biên muốn nhắc nhở cho những người đương thời của ông.

BÀI ĐỌC II Ep 2: 4-10

Thánh Phao-lô viết bức thư nầy từ Rô-ma ở đó thánh nhân bị giam cầm vào những năm 61-63. Thật ra thánh nhân viết bức thư nầy không chỉ cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô nhưng nhất là muốn bức thư của mình được lưu hành đến các Giáo Đoàn miền Tiểu Á.

Bức thư nầy biểu thị một trong những đỉnh cao tư tưởng của vị sứ đồ. Thư là một tổng đề tích luỹ những vấn đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở nơi khác rồi, nhưng ở đây được bàn đến một cách sâu rộng và nghiêm túc.

Chủ đề chính yếu của đoạn trích hôm nay chính là: ý định của Thiên Chúa liên quan đến ơn cứu độ của nhân loại đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki tô. Dù đoạn trích nầy rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.

1. Quyền Tối Thượng của Chúa Cha.

Chính luôn luôn ở nơi Chúa Cha mà thánh Phao-lô quy chiếu công trình cứu độ và lòng cảm tạ tri ân. Đây là nét đặc trưng của đoạn trích thư nầy ở đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt động từ. Chính Chúa Cha giàu lòng xót thương và rất mực yêu thương chúng ta, Đấng đã biểu lộ tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Đức Ki tô, Đấng đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki tô trên cõi trời, Đấng đã tõ cho chúng ta thấy ân huệ dồi dào phong phú của Ngài…

2. Chúa Cha Giàu lòng xót thương.

Diễn ngữ: "Giàu lòng xót thương" đã trở thành chủ đề cho thông điệp của cố Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô Đệ Nhị, và đó cũng là nhan đề của bức thông điệp nầy: "Đức Chúa Cha giàu lòng xót thương". Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng lòng xót thương có nghĩa "quyền năng đặc thù của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi". Chính lòng thương xót của Thiên Chúa là từ then chốt của ý định cứu độ của Ngài, vì chướng ngại phải vượt qua là tội lỗi của con người. Ân ban tuyệt vời của lòng xót thương của Thiên Chúa, chính là Đức Giê-su Ki tô, nhờ Ngài con người "chết vì phạm tội" cũng được sống lại với Ngài. Với vài lời, thánh nhân diễn tả chính xác thành quả mà ơn Cứu Chuộc đem đến: khả năng gặp lại cuộc sống siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki tô.

3. Cuộc sống tương lai:

Còn hơn một bản văn, đoạn trích hôm nay là một bài chiêm niệm. Ở đây cuộc sống tương lai được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân diễn tả ở thì hiện tại niềm hy vọng tương lai của các Ki tô hữu: "cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời". Ân huệ dồi dào phong phú của Người sẽ được "tỏ cho các thế hệ mai sau", nghĩa là một sự liên tục bất tận không hề gián đoạn.

Phải chăng đây là tư tưởng sâu xa nhất của thánh nhân trong những suy niệm của những ngày tháng bị giam cầm? Phải chăng đây là kỷ niệm của người đã chiêm niệm trong những giây phút xuất thần "cho đến tầng trời thứ bảy" ? Phải chăng kẻ tử tù nghĩ đến cái chết sắp đến gần của mình? Hay đơn giản hơn, đây không phải niềm xác tín thần học của vị sứ đồ, niềm xác tín đã đem lại cho thánh nhân những quả quyết dạn dĩ nầy? Đối với thánh Phao-lô, cuộc sống đầy ân sủng, chính là khởi sự của cõi đời đời rồi.

4. Đức tin, việc làm và ân sủng.

Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác họa ở đây. Việc làm của chúng ta tự nó không thể nào xứng đáng với ơn cứu độ nầy. Ơn cứu độ của chúng ta chính là ân ban nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh những sắc thái ngữ nghĩa, việc làm của chúng ta tác sinh hiệu quả vì Đức Ki tô làm cho sống; chính nhờ trung gian của Đức Giê-su mà việc làm của chúng ta có thể thực sự là tốt và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.

Như vậy nhờ lòng nhận hậu vô lượng hải hà của Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự để cứu độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki tô, Đấng trung gian duy nhất, chúng ta mới có thể được có giá trị và được sống đời đời, tóm lại đó là ý nghĩa của đoạn trích hôm nay.

TIN MỪNG Ga 3: 14-21

Đoạn Tin Mừng Gio-an hôm nay được trích từ phần cuối của cuộc trò chuyện giữa Đức Giê-su và ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do thái, thuộc nhóm Biệt Phái, đến gặp Ngài ban đêm.

1. Bối cảnh:

Với đoạn trích nầy, cuộc nói chuyện không còn hình thức của cuộc đối thoại nữa, nhân vật Ni-cô-đê-mô không còn xuất hiện nữa. Diễn từ của Đức Giê-su ngỏ lời ở bên kia người biệt phái thiện cảm nầy, đến với tất cả những ai có cùng một sự lựa chọn phải làm: "tin hay không tin", chọn đứng về phía ánh sáng hay bóng tối. Quả thật, hậu cảnh của "phiên tòa" lộ ra trong Tin Mừng thứ tư, không chỉ vụ án xét xử người Do thái nhưng còn xét xử thế gian.

2. Tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Những dòng nầy gợi lên rất mạnh tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Con. Giáo hội nhận ra ở nơi "tình yêu của Cha và Con" tuôn tràn cho tất cả mọi người nầy cách thế diễn tả Chúa Thánh Thần, Đấng "nhiệm xuất từ Cha và Con", Đấng chuyển thông và lan tỏa cuộc sống thần linh. Vì thế, bản văn này cũng được chọn để cử hành lễ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi.

3. Tấn thảm kịch của sự chọn lựa:

Ơn cứu độ nghĩa là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ dự phần vào của sống của chính Thiên Chúa. Ơn cứu độ này được dâng hiến cho con người nhưng phụ thuộc vào câu trả lời của họ. Đó là tấn thảm kịch: tấn thảm kịch của sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đức tin và sự từ chối. Phần sau cùng nầy cô đọng Thần Học Gio-an.

Trong hậu cảnh ẩn hiện thái độ của Do thái giáo không nhận biết Đức Ki tô: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng". Nhưng sự chọn được đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy đức tin không phải là một điều dể dàng, việc ông Ni-cô-đê-mô ngần ngại là một bằng chứng.

Trong những viễn cảnh phổ quát Tin Mừng Gio-an, có một khía cạnh lạc quan hay đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua việc chọn sống theo sự thật: "Những ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng".

Cuối cùng, một chủ đề khác của thần học Gio-an: Đức Giê-su đã đến chỉ như Đấng Cứu Độ chứ không một quan tòa. Chính con người tự kết án mình nếu họ từ chối ánh sáng, nghĩa là nếu họ từ chối nhận biết ở nơi Đức Giê-su Con Một của Thiên Chúa.

Lm. Ignatiô Hồ Thông