Hình ảnh Giáo Phận Hà Nội
Giáo Xứ Ðồng Trì
Tứ Hiệp, Thanh Trì, TP. Hà Nội
Giáo họ Yên Lương
Yên Lương, Thanh Trì, TP. Hà Nội
Xứ Thạch Bích ( Kẽ Lõi )
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/...oi/nthahoi.jpg
Giáo xứ Hà Hồi
Giáo Xứ Trại Mới
Mỹ Hưng, Bình Lục, Nam Ðịnh
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/.../gxtraimoi.jpg
Hạt Nam Ðịnh
Nhà thờ Nam Định
Lịch Sử Tổng Giáo Phận Hà Nội
Lịch Sử Tổng Giáo Phận Hà Nội - Phần 1
11.12.2008 03:32
I/TỔNG GIÁO PHẬN NHÌN LẠI
1/ LỊCH SỬ KHAI SINH
Phần đất thuộc TGP Hà Nội là nơi có kinh đô của đất nước, nơi hội tụ, gặp gỡ giao lưu của nhiều dân tộc và tôn giáo khác nhau từ hàng trăm năm nay, cho nên từ rất sớm đã diễn ra công cuộc truyền giáo và xây dựng GH (GH) ở vùng đất này. Tính đến hôm nay, tương tự như quá trình lịch sử của GH Việt Nam, TGP Hà Nội cũng đã trải qua ba thời kỳ: Bảo hộ, Tông tòa và Chính tòa.
1.1. Thời Bảo hộ (1626 – 1659 )
Thời Bảo Hộ, công cuộc truyền giáo ở Việt Nam diễn ra dưới sự Bảo Hộ của Bồ Đào Nha: Các thừa sai truyền giáo ở Việt Nam, trong đó có đông nhất là Dòng Tên, đã truyền giáo theo sự ủy nhiệm của vua Bồ Đào Nha hoặc đại diện của vua ở Ma Cao.
Năm 1626 cha Giuliano Baldinotti người Ý và thầy Piani người Nhật, là hai thừa sai đầu tiên đã đến Thăng Long truyền giáo. Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn rao giảng và kết quả hầu như chưa có gì, các ngài đã bị chính quyền Lê-Trịnh đương thời trục xuất vào tháng 9/1626.
Ngày 19/3/1627, cha Marques (đến Đàng Trong từ năm 1618) và cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) từ Ma Cao đến Cửa Bạng, Thanh Hóa. Gặp Chúa Trịnh đang trên đường vào Nam giao chiến với Chúa Nguyễn, các ngài được Nhà Chúa tiếp đón nồng hậu. Sau đó, Chúa Trịnh đã mời hai thừa sai về Thăng Long và cho tự do truyền giáo.
Tại Thăng Long, các ngài cư trú tại khu vực gần Ô Cầu Giền, ở phía Đông Nam Kinh Thành, vì đây là nơi gần sông Hồng, tiện bề giao thông đường thủy, cũng là nơi diễn ra nhiều các họat động giao lưu kinh tế và văn hóa hơn các khu vực khác trong Kinh Thành.
Ở Thăng Long, cha A. De Rhodes và cha Marques đã tích cực truyền giảng Tin mừng cho người Việt Nam. Rất đông người đã đến nghe ngài rao giảng. Ngài cho biết mỗi ngày ngài dạy 6 lớp giáo lý cho người dự tòng và mỗi lớp học trong 8 ngày. Nội dung những bài giáo lý này về sau được ngài xuất bản tại Rôma và Paris dưới nhan đề “Phép giảng tám ngày”.
Năm 1929, cha A. De Rhodes và cha Marques bị trục xuất, các thừa sai Dòng Tên khác đến tiếp nối sứ vụ. Vì nhu cầu giao lưu với thương nhân Bồ Đào Nha để mua bán hàng hóa, nhất là mua vũ khí và các đồ xa xỉ, cho nên Chúa Trịnh đã buộc phải tiếp tục cho các thừa sai cư trú và giảng đạo ở Đàng Ngoài.
Từ năm 1631 đến năm 1659, ở Đàng Ngoài, có nhiều thừa sai Dòng Tên đã đến truyền giáo ở vùng đất này, trong đó có các thừa sai đáng kính và tài ba như cha Gaspar d’Amaral (1631-1638), cha Felice Morelli (1636-1647), cha Girolamo Majorica (1632-1656), cha Filippo Giovani de Marini(1647-1663), cha Onofri Borgès (1642-1663).
Công cuộc rao giảng Tin mừng của các Thừa sai Dòng Tên đã đạt nhiều kết quả tốt đẹp. Các ngài đã lập nên các cộng đoàn ki tô hữu sống động, tích cực làm chứng cho tình yêu của Chúa và thu hút những người chưa tin Chúa. Hàng nghìn người đã đón nhận Tin mừng. Cha A. De Rhodes cho biết, từ năm 1627 đến 1629, các ngài đã rửa tội được 5.602 người, trong đó có cả em gái của Chúa Trịnh; bà này xin theo Đạo và lấy tên thánh là Catarina.
Các thừa sai Dòng Tên, cũng đã lập nên Hội Thầy Giảng và gầy dựng các nhóm trinh nữ tận hiến, để mở rộng công cuộc truyền giáo và xây dựng GH. Hơn nữa, các ngài cũng đã góp phần gìn giữ, bảo tồn văn hóa và xây dựng cơ sở khoa học kỹ thuật cho Việt Nam, qua việc xuất bản các tác phẩm chữ Nôm, qua việc sáng tạo chữ quốc ngữ và phổ biến các thành tựu khoa học, kỹ thuật từ trong nhân gian đến chốn triều đình.
Người có công đầu trong việc rao giảng Tin mừng, xây dựng GH và văn hóa khoa học kỹ thuật ở Việt Nam thời kỳ này là cha A. De Rhodes. Các tác phẩm chữ quốc ngữ của ngài xuất bản năm 1651 ở Rôma như “Phép Giảng Tám Ngày”, “Từ điển Việt-Bồ-La” trong đó có phần ngữ pháp tiếng Việt, không những là những công cụ cần thiết cho các thừa sai tiếp cận với Việt Nam mà còn là những tác phẩm quan trọng xác định thời điểm chữ quốc ngữ phát triển hoàn chỉnh và trở thành một ngôn ngữ văn hóa cho xã hội Việt Nam.
(còn tiếp)
Nhóm Biên Tập