-Lịch-Sơn Đại Đế là một hoàng đế nổi tiếng của Hy Lạp trong khoảng thế kỷ III trước Tây Lịch. Ông là một nhà quân sự đại tài, đánh đâu thắng đó và được coi là bá chủ thế giới thời cổ Hy Lạp.
Một hôm, khi A-Lịch-Sơn cùng với các cận thận đi trên đường thì có một người hành khất mở miệng xin tiền. Tuy người hành khất này không kể lể, không tán tụng nhà vua nhiều nhưng A-Lịch-Sơn đã quăng cho người này một vài đồng tiền vàng. Một quan cận thần đi bên cạnh, thật ngạc nhiên trước sự độ lượng của A-Lịch-Sơn, đã lên tiếng ca ngợi, “Thưa ngài, một đồng tiền kẽm cũng đã đủ cho nhu cầu của tên ăn xin đó, đâu cần phải đồng tiền vàng!” Với thái độ trịch thượng của một hoàng đế, A-Lịch-Sơn trả lời, “Đồng tiền kẽm thì đủ cho nhu cầu của tên ăn mày, nhưng đồng tiền vàng mới thích hợp với kiểu cách ban phát của A-Lịch-Sơn.”
Câu chuyện này giúp chúng ta hiểu được phần nào ý nghĩa của bài phúc âm hôm nay: vì Thiên Chúa giầu sang nên Người rộng lượng ban phát, và sự độ lượng đó không tùy thuộc vào công trạng của loài người chúng ta.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để giải thích về Nước Trời--được tượng trưng là vườn nho--và tất cả mọi người đều được ông chủ vườn, là Thiên Chúa, mời gọi đi vào làm vườn nho cho Chúa.
Nếu áp dụng vào thực tế ngày nay, chúng ta có thể hiểu những người được vào vườn nho từ sáng sớm là những người được biết đến Chúa ngay khi còn nhỏ, trong các gia đình được gọi là “đạo gốc”. Những người vào làm vườn nho trong các giờ cuối của ngày là những người được biết đến Chúa cách muộn màng, có thể là qua người khác—như bạn hữu, hay vợ/chồng khi kết hôn—hoặc qua các cảm nghiệm cá nhân trong cuộc sống hàng ngày. Và rồi vào cuối ngày, mọi người đều được trả lương bằng nhau. Đây là điểm then chốt của dụ ngôn hôm nay. Chính điểm then chốt này đã khiến người nghe phải sững sờ suy nghĩ và hiểu được điều Chúa Giêsu muốn nói về sự độ lượng của Thiên Chúa.
Với tâm trạng bình thường của một con người, chúng ta nghĩ là ông chủ vườn không công bằng, vì đã trả lương không cân xứng với công việc. Lẽ ra người làm nhiều thì phải được trả nhiều hơn người làm ít, nhưng tại sao đó không phải là kiểu cách của Thiên Chúa? Hay nói cách khác, chúng ta phải hiểu thế nào về lời ngôn sứ Isaiah trong bài đọc một hôm nay, “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55:8)?
Khi nghĩ đến công việc, hầu hết chúng ta coi đó là một gánh nặng vì nó đi ngược với bản tính lười biếng của con người: Ai cũng muốn cơm no áo ấm mà không phải làm việc vất vả. Bởi thế, khi làm việc nhiều một chút chúng ta đã coi đó là một lao nhọc, một mất mát phải được bù đắp xứng đáng, và rồi chúng ta quên đi lòng tốt của ông chủ, quên đi niềm vui của một người có công ăn việc làm nếu so với những người thất nghiệp.
Trong sinh hoạt xã hội, việc làm là để kiếm tài chánh hầu thỏa đáp các nhu cầu của con người, và việc làm cũng nói lên giá trị của một con người, ai có bằng cấp cao hay tài năng giỏi thì được trả lương cao hơn những người khác. Tuy nhiên, công việc “vườn nho” trong dụ ngôn của Chúa Giêsu không phải là công việc xã hội nhưng là công việc bác ái, với động lực là tình yêu chứ không phải tài chánh hay danh vọng, và mục tiêu là mở rộng Nước Trời, làm sao cho mọi người, mọi dân tộc đều được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Một điểm quan trọng khác là công việc “vườn nho” của Chúa không được đo lường bởi bằng cấp hay khả năng hiểu biết, nhưng được đo lường bằng sự hy sinh, đó là điều mà bất cứ ai cũng có, không nhiều thì ít. Cũng vì vậy, phần thưởng cho công việc “vườn nho” không phải là đồng lương nhiều ít, vì tài chánh không thể nào bù đắp cho cân xứng với sự hy sinh, mà chỉ có tình yêu mới bù đắp được cho tình yêu.
Trong Giáo Hội Công Giáo, các giáo sĩ và tu sĩ nam nữ dấn thân cho công việc “vườn nho” không phải vì đồng lương hay danh vọng, nhưng vì “mến Chúa yêu người”. Bởi thế, nếu có giáo sĩ, tu sĩ nào đi ngược với đường lối ấy, tự nhiên họ sẽ bị đào thải thay vì được giáo dân yêu mến, quý trọng.
Trong gia đình cũng vậy, tình thương yêu giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em phải là động lực chính để chúng ta sống cho nhau, hy sinh cho nhau. Một khi chúng ta dùng đến luật pháp can thiệp vào đời sống gia đình, bản chất của gia đình ấy không còn ý nghĩa, thay vì là một mái ấm, gia đình ấy trở nên một hỏa ngục ở trần gian.
Trong sinh hoạt giáo xứ, cộng đồng hay đoàn thể Công Giáo tiến hành cũng vậy, khi chúng ta coi lợi nhuận, danh vọng như mục tiêu cho sự hoạt động, sẽ có dèm pha, ganh tị, tranh giành, thủ đoạn, và rồi lời Chúa hôm nay sẽ được áp dụng cho chính chúng ta: “Kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót hết” (Mt 20:16a).
Một vài nhận xét trên giúp chúng ta thấy được bản chất thật sự của công việc “vườn nho” của Thiên Chúa, đó là sự hy sinh vì lòng yêu mến. Để có thể hăng say làm việc trong “vườn nho” của Chúa, chúng ta phải nhận ra điểm quan trọng: khi được cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ, đó là một vinh dự, một đặc ân chứ không phải là một gánh nặng. Do đó, hy sinh tiền của và thời giờ cho giáo xứ, cho tha nhân—nhất là những người cô đơn vì mồ côi, vì già yếu, bệnh tật—đó là một vinh dự vì được góp phần với Chúa Kitô trong việc xây dựng Nước Trời và xoa dịu sự đau khổ của nhân loại. Hoặc cầu nguyện sáng tối để tâm sự với Cha chung trên trời là một đặc ân; tham dự Thánh Lễ để Chúa Kitô thêm sức mạnh tinh thần cho chúng ta là một hồng phúc chứ không phải là những hình thức đạo đức nặng nề được thực hiện cho qua lần chiếu lệ.
Ngoài ra, điểm nguy hiểm khác khi không coi công việc “vườn nho” là một vinh dự, một đặc ân, chúng ta dễ quên đi lòng tốt, quên đi thẩm quyền của Người ban phát đặc ân ấy, và rồi thay vì tạ ơn Chúa chúng ta dễ sinh ra ghen tị với người khác khi thấy họ được Thiên Chúa ban cho nhiều ơn lành hơn chúng ta, dù rằng họ mới biết Chúa sau này.
Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại giáo xứ Thánh Justin Tử Đạo thành lập được khoảng 13 năm và trong thời gian ấy, tôi được tham dự trong các lớp Giáo Lý Tân Tòng hàng năm, tuy có thời gian gián đoạn. Tôi thấy lý do người ta trở lại đạo, ngoài việc kết hôn, là vì họ được các ơn của Chúa hoặc của Đức Mẹ, nhất là các ơn lạ. Có lần tôi ngỏ lời với các anh chị dự tòng rằng, “Tại sao Thiên Chúa ban cho các anh chị rất nhiều ơn đặc biệt, mà cá nhân tôi, cũng như nhiều người Công Giáo đạo gốc khác, lại không được những ơn ấy?” Một ông trong lớp đã trả lời rằng, “Những người Công Giáo đạo gốc là các con chiên đã ở trong chuồng chiên. Còn chúng tôi là những con chiên lạc, chưa vào được chuồng, còn lang thang và Chúa phải đi tìm chúng tôi. Khi tìm được rồi, Chúa bồng bế chúng tôi trên tay và đưa vào chuồng. Đó là lý do chúng tôi được các ơn lạ thường hơn những người đạo gốc.”
Câu trả lời của ông rất phù hợp với tinh thần phúc âm và cũng rất phù hợp với thái độ của Thiên Chúa trong dụ ngôn hôm nay. Thiên Chúa là Đấng ban phát, và sự ban phát của Chúa không tùy thuộc vào công trạng của chúng ta.
Trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng thấy không phải các đấng bậc với quyền cao chức trọng là những người được ơn đặc biệt mà chính những người bình thường lại được các ơn khác thường của Thiên Chúa. Thí dụ, Thánh Martin de Porres là một thầy trợ sĩ tầm thường của dòng Đa Minh nhưng đã được Thiên Chúa ban cho rất nhiều ơn lạ. Thánh Faustina là một nữ tu với công việc tầm thường trong dòng nhưng được Chúa Kitô dùng làm khí cụ để loan truyền Lòng Thương Xót Chúa. Ở Fatima, Đức Mẹ cũng hiện ra với ba trẻ chăn chiên nghèo nàn. Mới tuần qua, Đức Thánh Cha Bênêđíctô đã sang Lộ Đức, nước Pháp, để kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra với một thiếu nữ quê mùa, sống bằng nghề ở đợ cho người khác, là Thánh Bernadette.
Một vài thí dụ trên cho chúng ta thấy, Thiên Chúa ban phát tùy theo ý muốn của Người, và chúng ta đừng nghĩ rằng vì công nghiệp của riêng mình mà chúng ta giành được ơn cứu độ, nhưng tất cả là nhờ vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô. Vậy làm thế nào để chúng ta đền đáp ơn ấy?
Trở lại với câu chuyện của A-Lịch-Sơn Đại Đế, chúng ta thấy sự độ lượng của ông vua này là vì thể diện của một hoàng đế, nhưng sự độ lượng của Thiên Chúa hoàn toàn là vì tình yêu nhân loại. Và chỉ có tình yêu mới đền đáp được tình yêu. Ai yêu mến Chúa nhiều thì người ấy tuân giữ lời Chúa nhiều.
Xin Thiên Chúa là Tình Yêu đổi mới tâm hồn của mọi người chúng ta.
Pt. Giuse Trần Văn Nhật