TRÁCH NHIỆM LUÂN LÝ TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
	
	
		Gần đây tại một số các quốc gia, đặc biệt là các nước phương Tây, tỷ dụ như Anh, Mỹ, Gia Nã Đại, Tây Ban Nha,[1]   một số các phong trào của các nhóm     đồng tính luyến ái đã vận động và đòi Quốc Hội chấp nhận quyền được  kết hôn của những người cùng phái, gồm cả nam lẫn nữ, (same-sex  marriage) và hợp thức hoá hôn nhân của họ, để họ cũng được     hưởng quyền lợi như những cặp hôn nhân khác. Trước sức ép của việc  hợp thức hoá hôn nhân cùng phái và sự kiện ly dị mỗi ngày một gia tăng,[2] khái  niệm truyền thống về hôn nhân và giá     trị gia đình dường như không còn được rõ ràng đối với một số đông  trong anh chị em chúng ta. Lẽ đó, người viết xin mạo muội được chia sẻ  một vài suy tư và cảm nghĩ của mình về trách nhiệm luân lý     trong đời sống hôn nhân và gia đình đối với thời đại mà chúng ta  đang sống.  
I. TÌNH YÊU HÔN NHÂN ĐANG BỊ ĐE DỌA.                   
        Đức  cố thánh cha Gioan Phaolô II, nhân dịp viếng thăm Mexico tháng 5.1990  đã nói về gia đình như sau: "Tình yêu trong thế giới     ngày nay đang bị đe dọa bằng nhiều cách và tình yêu gia đình đang bị  lu  mờ dần dần." Để điều chỉnh lại tình trạng này, Ngài nói đến sự cao  cả và trách nhiệm của gia đình. Gia đình là một     cộng đồng đầu tiên của sự sống và tình yêu. Gia đình là một môi  trường đầu tiên nơi con người học yêu mến và cảm thấy được mến yêu.  Không những bởi người khác mà còn bởi chính Thiên Chúa nữa. ĐTC     kêu gọi như sau: "Vì thế, hỡi các cha mẹ Công Giáo, bổn phận của anh  chị em là xây dựng và gìn giữ tổ ấm này, trong đó con cái anh chị em  được sinh ra và lớn lên trong phẩm giá làm con T.C. Nhưng     tình yêu của anh chị em chỉ có thể nói về T.C cho con cái của anh  chị em, nếu trước hết anh chị em được sống trong sự thánh thiện và trong  việc tận hiến hoàn toàn cho nhau trong hôn nhân." 
        Do  đó, mục đích của bài viết này nhằm đưa ra một vài yếu tố cơ bản giúp  chúng ta có thể thực hiện và xây dựng một mái ấm gia đình     Kitô Giáo, thể theo như những gì mà Vị Cha chung của chúng ta, Cố  Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã mời gọi.  
        
 
II. TRÁCH NHIỆM LUÂN LÝ TRONG HÔN NHÂN         
        
 
1) Thời gian đính hôn.         
        Thông  thường thì việc chuẩn bị cho hôn nhân được diễn ra, sau thời gian mà  hai anh chị đã quen nhau và đã trở nên thân thiết. Sau     thời gian này, nếu được tiếp tục, họ sẽ đi đến thời kỳđính hôn. Cái  động lực chính để đưa hai tâm hồn đến với nhau, trong nhiều trường hợp,  đó chính là tình yêu mà họ đã cảm nghiệm được từ nơi     nhau. Người thanh niên kia vàcô thiếu nữ nọ tự khám phá ra những nét  độc đáo nơi đối tượng của mình, mà thiết tưởng người ngoài cuộc có thể  không nhìn thấy, và điều đó khiến cho cả hai người cảm     thấy họ thực sự thuộc về nhau. Có thể trong một vài trường hợp khác,  cái động lực chính trong việc chọn lựa cho mình một người bạn đời, lại  là những yếu tố có tính thực tiễn và do bởi lý luận tự     nhiên, tỷ dụ như cùng một nghề nghiệp hay cùng chung một sở thích.  Nhưng cũng có trường hợp, tuy chỉ mới gặp nhau đôi ba lần mà cả hai anh  chị đã yêu nhau ngay lập tức. Đó là một sự kiện mà ta     hay đề cập đến gọi là "tiếng sét của ái tình", nhưng dầu sao đi  chăng nữa, thì chúng ta cũng không nên loại trừ vai trò của lý trí và  tiếng nói của lương tâm trong việc chọn lựa người bạn đời cho     chính mình. Vì đôi khi yêu quá cũng có thể hóa dại. 
        Người  bạn đường tương lai phải có trách nhiệm xem xét và tìm hiểu coi đối  tượng và mình có thể hoà hợp với nhau hay không? Và có     sẵn sàng chia sẻ vơí nhau những khó khăn để cùng nhau xây dựng hạnh  phúc lứa đôi cho bền lâu. Đây thiết nghĩ là công việc của thời gian đính  hôn.  
        
 
2) Ý nghĩa của giai đoạn đính hôn.         
        Thời  gian đính hôn là một cơ hội thuận tiện, cho phép cả hai tìm hiểu lẫn  nhau để xem tình yêu của mình có được đặt trên một nền     tảng vững chắc hay không? Trong giai đoạn này, họ có thể có những  tranh luận hoặc bất đồng ý kiến với nhau trong khi thảo luận hay nói  chuyện. Họ có thể dò xét những sở thích của nhau, tìm hiểu     những ưu khuyết điểm của nhau và giúp nhau vượt qua những tính hư  nết xấu nếu có. Dần dà như thế, họ có thể hiểu rõ hơn về đối tượng của  chính mình để có một cái nhìn trung thực và chuẩn xác hơn.     Và hy vọng với những chiều hướng như thế, sau này họ sẽ khắc phục  được những khó khăn khi về chung sống với nhau với tư cách là vợ chồng. 
        Có  thể nói cái điểm then chốt hay cơ bản, trong thời kỳ đính hôn là thời  gian để cả hai bên xem xét lẫn nhau. Và để tránh tình     trạng ngộ nhận về đối tượng của mình, thì chúng ta cần có một thời  gian tương đối kha khá, có thể là 6 tháng trở lên. Kẻo sau này, khi lấy  nhau về, lại có người than rằng: "Phải hồi đó, con biết     "ảnh" như dzậy thì con đâu có lấy"… Tính hấp tấp, vội vàng thường  hay dẫn đến sự ngộ nhận - "dục tốc bất đạt" - người xưa vẫn nói thế.  Nhưng ngược lại, cũng không nên kéo dài quá, tỉ dụ như đã     đính hôn cả hơn hai năm mà vẫn chưa thấy cưới, như vậy nó cũng đâm  ra thất lợi. Người con gái họ cũng chỉ có một thời mà thôi! 
        Người  trẻ hôm nay, có rất nhiều tự do trong việc chọn lựa cho mình một người  bạn đời, so với bậc cha mẹ thuở xưa. Nhưng điều ấy     cũng kèm theo sự gia tăng về trách nhiệm cá nhân. Nói một cách  chung, thì giới trẻ hôm nay bước vào ngưỡng cửa hôn nhân muộn hơn, so  với thời ông bà của chúng ta trước đây.[3]    Điều ấy, nhìn với một khía     cạnh tích cực thì nó có thể diễn tả sự trưởng thành trong cái quyết  định của chính họ. Tuy vậy, người trẻ hôm nay cũng gặp rất nhiều khó  khăn đang khi bước vào đời sống hôn nhân. Họ bị ảnh hưởng     bởi những trào lưu tư tưởng hiện đại, coi nhẹ cái giá trị của đời  sống gia đình và định chế hôn nhân. Có một số các bạn trẻ quan niệm như  sau: Nếu thích thì ở với nhau, còn không thích nữa thì ra     toà ly dị, rồi đường ai nấy đi, như vậy là êm xuôi, không phiền toái  gì đến ai cả. Quan niệm ấy đặt giá trị hôn nhân như là một "hợp đồng"  giữa hai người, mất đi cái ý nghĩa của hôn ước hay giao     ước, và mất đi cái giá trị của sự bất khả phân ly trong định chế hôn  nhân. Điều này xảy ra rất nhiều ở các nước Tây phương, vì lẽ đó mà con  số ly dị của họ lên rất cao. Một vài tỷ dụ để dẫn     chứng. 
        ·         Tại nước Ý Đại Lợi, theo con số thống kê của Học Viện Quốc Gia cho biết  thì có sự gia     tăng về mức độ ly dị hiện nay. Họ cho biết cứ 100 đôi hôn phối thì  tỷ lệ ly thân là 23.5%. Trong số này có 12.3% sẽ ly dị chính thức. Theo  bài viết được đăng tải trên nhật báo La     Repubblica phát hành ngày 20.10.2001, thì con số ly dị hiện nay tại Ý gia tăng gấp 3 lần trong những năm gần đây. 
        ·        Tại Anh Quốc, theo tờ báo The Time  ra ngày 22.8.2001, thì hiện nay đang có     một hiện tượng đáng chú ý, đó là con số ly dị đang gia tăng đối với  những cặp vợ chồng mà hôn nhân được thực hiện lần thứ hai. Theo thống kê  cho biết thì có 18.000 đôi vợ chồng ly dị vào năm 1981     và đến năm 1999 thì có 28.000. Như vậy chỉ trong có 8 năm, con số đã  nhảy vọt hơn lên 10.000. 
        ·        Tại nước Úc Đại Lợi, theo nhật báo The Age xuất bản tại thành phố Melbourne,     phát hành ngày 25.10.2001, thì cứ 3 đôi hôn phối, có 1 đôi sẽ ly dị và con số này còn gia tăng.  
        Từ  đó chúng ta có thể suy ra ảnh hưởng của ý thức hệ rất quan trọng. Tôi  rất thích cái câu của Steven Biko, một nhà đấu tranh cho     nhân quyền ở Nam Phi trong gian đoạn kỳ thị chủng tộc, giữa người da  trắng và người da đen tại đây. Anh ta nói như thế này: "nếu bạn muốn  cải tổ xã hội, bạn trước tiên, phải thay đổi cái não     trạng của họ." Đời sống hôn nhân sẽ bị ảnh hưởng rất lớn - điều này  có thể xấu hoặc tốt - tuỳ theo cái nhìn của mỗi người chúng ta và những  giá trị mà chúng ta gán đặt cho nó. 
        Lẽ  đó, mà tôi thiết nghĩ, anh chị em chúng ta, những nhà lãnh đạo tinh  thần, chúng ta có một trọng trách rất lớn trong việc bảo     tồn, duy trì và phát triển những giá trị đặc biệt trong đời sống hôn  nhân Công Giáo. Chúng ta và những người tín hữu trong cộng đoàn của  chúng ta phải ra sức tìm cách, hầu đề ra những phương thế     hữu hiệu nhằm giúp đỡ và hướng dẫn người trẻ hôm nay, để họ có cơ  hội tìm hiểu và khám phá ra cho chính mình những giá trị tốt đẹp và độc  đáo trong đời sống gia đình; nhờ đó, họ được am hiểu một     cách tường tận thế nào là đời sống hôn nhân. Điều này có thể thực  hiện cách hữu hiệu qua các khoá dự bị hôn nhân, nếu chúng ta tổ chức cho  đến nơi, đến chốn. Đặc biệt là tại những nơi mà từ xưa     đến nay, chúng ta đã có một truyền thống tốt đẹp về các lớp dự bị  hôn nhân, có lẽ lúc này chúng ta cần đẩy mạnh và thăng tiến nó để cho nó  được hoàn chỉnh hơn. 
        Theo  nhận xét chung, có tính cách mục vụ, thì những người trẻ sắp sửa bước  vào đời sống hôn nhân, nếu họ bằng lòng chịu khó chuẩn     bị cho mình một cách tỉ mỉ bằng việc tham dự học hỏi cho đến nơi,  đến chốn, các lớp dự bị về hôn nhân, thì họ sẽ có nhiều điều kiện và cơ  hội hơn, để xây dựng mái ấm gia đình được bền lâu, và họ     sẽ sống hạnh phúc với nhau hơn, là những anh chị em không có tham  gia các lớp dự bị hôn nhân. Nói như vậy, cũng không có nghĩa là,  hễ ai  đi học lớp dự bị hôn nhân thì đều có hy vọng là đời     sống lứa đôi của mình sẽ được vững chắc. Vì có nhiều người đến tham  dự lớp dự bị hôn nhân với một tính cách miễn cưỡng, bất đặng đừng, chứ  cũng chả mấy gì là tha thiết cho lắm, miễn sao cho nó     xong, và hoàn tất những thủ tục cần thiết để cha xứ cử hành thánh lễ  hôn phối là kể như hoàn tất. 
        Nói  tóm lại, các khóa dự bị hôn nhân là điều tối cần thiết cho tất cả những  ai muốn bước vào đời sống gia đình, muốn xây dựng một     cuộc hôn nhân hạnh phúc. Thật khó có thể hiểu được, khi có những  người chỉ muốn lái xe hơi, nhưng không bao giờ chịu khó học lái, kết quả  là họ đã gây ra tai nạn, và thương tổn đến tính mạng,     trước tiên là chính mình, sau đó là những người khác.  
        
 
III. BẢN CHẤT CỦA HÔN NHÂN         
        Trong  đời sống hôn nhân, người nam và người nữ cả hai hợp nhất với nhau trong  cộng đồng yêu thương vợ chồng, tạo cho nhau một mái     ấm và sự hỗ tương về mặt an toàn; họ đáp ứng và thỏa mãn cho nhau  những ước muốn về phương diện thể xác trong yêu thương, từ đó phát sinh  ra con cái. Họ cũng lãnh nhận và đảm nhiệm vai trò giáo     dục con cái. Quyền lập gia đình là một trong những quyền căn bản của  con người, cũng như quyền bình đẳng giữa những người phối ngẫu trong  đời sống gia đình đã được liệt kê trong bản tuyên ngôn về     nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Con người (nam lẫn nữ) khi đến tuổi  trưởng thành, không bị giới hạn bởi chủng tộc, quốc gia hay tôn giáo,  đều có quyền (được lập gia đình) đi đến hôn nhân và xây     dựng mái ấm gia đình (điều 16).  
        
 
1) Những mục đích của hôn nhân.         
        Mục đích của hôn nhân thì nó đi liền với mục đích của tình yêu tình dục, nhưng chúng lại không nhất thiết là đồng nhất. Đời sống     hôn nhân không chỉ có mục đích duy nhất là sinh sản con cái, như vẫn thường được quan niệm trước đây,[4]   nhưng nó còn có những mục đích khác,     chẳng hạn như việc giáo dục con cái. Một trong những mục đích khác  của đời sống hôn nhân là sự tương trợ lẫn nhau trong một cách thức rất  cụ thể, được thể hiện ngang qua cuộc sống hằng ngày, ví     dụ như chăm lo săn sóc lẫn nhau, đặc biệt khi đau yếu, đây cũng là  một hình thức biểu lộ sự yêu thương của tình nghĩa vợ chồng, song song  với việc chăn gối. Nói cách khác, đời sống và mục đích     của hôn nhân không chỉ hạn hẹp trong việc sinh sản và các hành động  hợp giao. 
1.1. Sinh sản và giáo dục con cái.         
        Một  trong những mục đích cơ bản của đời sống vợ chồng là việc sinh sản con  cái: "Hôn nhân và tình yêu vợ chồng, tự bản tính qui     hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Con cái là ân huệ cao quí  nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha  me…” Khi nói như vậy, không có nghĩa là Công Đồng     Vaticanô II, xem thường hay coi nhẹ những giá trị khác trong đời  sống hôn nhân. Thực ra, hai mục đích này (và nhiều mục đích khác để phát  triển nhân phẩm về mọi phương diện) đều là chính yếu,     nghĩa là hôn nhân đòi hỏi quyền lợi để hai bên (vợ chồng) nhờ nhau  mà đạt tới mục đích ấy. Lập giao ước hôn nhân, nhưng loại trừ quyền lợi  để sinh sản con cái thật là vô lý và giao ước không     thành. Điều này muốn ám chỉ đến những đôi vợ chồng lấy nhau chỉ để  muốn hưởng thụ nhục-cảm, chứ không màng gì đến việc sinh con cái. Lẽ đó,  dưới cái nhìn của Công Đồng thì những đôi hôn nhân như     vậy không thành sự, xét về phương diện bí tích. 
        Do  đó, việc thể hiện đích thực tình yêu vợ chồng cũng như toàn thể tổ chức  đời sống gia đình phát sinh từ việc sinh sản con cái,     đều nhằm giúp đôi vợ chồng can đảm sẵn sàng cộng tác với tình yêu  của Đấng Tạo Hoá và Cứu Thế, mặc dù không loại bỏ các mục đích khác của  hôn nhân (như đã giải thích ở trên). Nhờ đời sống lứa     đôi, Thiên Chúa làm cho gia đình Ngài càng ngày càng bành tướng và  phong phú hơn. 
        Bổn  phận truyền sinh và giáo dục con cái phải được coi là sứ mệnh riêng  biệt của vợ chồng. Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ     biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hoá và như  thể trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu  toàn bổn phận của mình với trách nhiệm là bậc cha mẹ và là     người Ki-tô hữu. 
        Nhằm  chú giải ước muốn của Đấng Tạo Hoá, Thánh Kinh đã chí lý khi coi việc  lưu sinh hậu thế là một mục đích thiết yếu trong đời     sống hôn nhân. Lời chúc lành của Thiên Chúa cho cặp vợ chồng đầu  tiên của nhân loại trong Sách Sáng Thế ký "Hãy sinh sôi nảy nở thật  nhiều, cho đầy mặt đất" (St 1, 28), đã ban cho đời sống lứa     đôi khả năng sinh sản ở tất cả mọi thời và mọi nơi. Lời chúc phúc  này của Thiên Chúa dành cho đời sống hôn nhân được thể hiện nơi niềm tin  của dân Do-thái rằng: con cái là ân huệ của Thiên Chúa.     Và trong cái kế hoạch của Thiên Chúa đối với đời sống gia đình, là  họ phải sinh sôi nảy nở nhằm bành trướng nhân loại. 
        Mặc  dầu, một số gia đình hôm nay đã giới hạn số con mà họ sẽ có, so với  thời gian trước đây, vì những lý do chính đáng và dẫu cho     chúng ta hiện tại, đang nhấn mạnh nhiều đến khía cạnh tình yêu  tương-trợ và sự ân cần nâng đỡ lẫn nhau trong đời sống lứa đôi hơn, so  với quá khứ, thì một số đông vợ chồng vẫn tiếp tục khao khát     và ước mong có con. Điều này được thể hiện qua các cặp vợ chồng hiếm  muộn về việc sinh con. Họ đã nổ lực và đã tìm đủ phương pháp chữa trị  hầu có thể thụ thai. Và ngay cả những cách thức trên đã     không thành công, thì họ đã nhận một con nuôi. Điều này là một chứng  cớ hiển nhiên, có sức thuyết phục chúng ta về sự thật rằng: định chế  hôn nhân và tình dục tự bản chất của nó qui hướng về việc     sinh sản con cái. 
        Định  chế hôn nhân và mái ấm gia đình tạo nên những điều kiện hay môi trường  thuận lợi cho việc sinh sản con cái và giáo dục     chúng. Quả thực, đời sống hôn nhân và gia đình chuẩn bị một bầu khí  cần thiết cho tình yêu vợ chồng và hoa trái của tình yêu đó là những đứa  con. Vì thế các quan hệ về tình dục chỉ hợp pháp trong     lãnh vực đời sống hôn nhân.  
1.2. Sự nâng đỡ lẫn nhau và lòng thủy chung trong tình yêu.         
        Một  mục đích quan trọng khác được đạt đến ngang qua giao ước hôn nhân, đó  chính là sự giúp đỡ lẫn nhau và lòng thủy chung trong     tình yêu của đời sống vợ chồng. Người xưa vẫn nói: "dấu ấn của tình  yêu là lòng chung thủy." Trong hôn nhân, người nam cũng như người nữ:  "phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết     trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp  nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự  tự hiến của hai người cho nhau, cũng như lợi ích của     con cái, buộc vợ chồng phải trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau  bất khả phân ly (Gaudium et Spes, 48). Trong giao ước hôn nhân, người nam và người nữ với những năng khiếu và khả năng     khác biệt, bổ túc lẫn nhau một cách hết sức hoàn hảo. Nói cách khác, họ bổ sung cho những khiếm khuyết của nhau. 
        Chính  mục đích này mà trong đời sống hôn nhân đã được Thánh Kinh trong Sáng  Thế Ký xác định và thuật lại, nó xảy ra trong vườn     địa đàng. Lý do tại sao Thiên Chúa phú ban một người nội trợ và cũng  là bạn đường cho người đàn ông, là để nâng đỡ lẫn nhau và để trở nên  bạn đồng hành. "Người nam ở một mình không tốt. Ta sẽ làm     cho nó một người trợ tá tương xứng với nó" (St 2,18). Vì vậy, Thiên  Chúa đã dựng nên một người nữ. Nhìn thấy người phụ nữ, Adam đã nói:  "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!"     Và Thánh Kinh đã kết luận: "Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn  bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt" (St 1, 23tt). Cách  diễn tả "một xương một thịt" xác định một cách hết sức     thực tiễn và rõ rệt sự trọn vẹn và giúp đỡ lẫn nhau, giữa người nam  và người nữ trong đời sống hôn nhân. Điều đó ngụ ý rằng hôn nhân không  chỉ là một sự ràng buộc, nhưng nó là một thực thể mới,     hay là một đời sống mới, một cuộc sống chung với nhau, đã được cấu  tạo và trong thực tế chúng ta không bao giờ có thể tháo gỡ. 
        Sự  giúp đỡ lẫn nhau giữa vợ chồng trong đời sống hôn nhân, không chỉ trong  những khi vui tươi phấn khởi hay là hạnh phúc ngập     tràn, mà ngay cả những khi gặp khốn khó, hoạn nạn hay ưu sầu. Nói  tóm lại, đã là vợ chồng thì chúng ta phải chung lưng đấu cật, cùng chia  sẻ với nhau tất cả mọi ưu tư lo lắng trong đời sống lứa     đôi. Sự so sánh giữa hôn nhân loài người và sự kết hiệp mật thiết  giữa Chúa Giê-su và Giáo Hội được mô tả trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô  (Ep 5,21-33). Đó là điều thánh Phaolô muốn chúng ta nắm     giữ khi ngài nói: Hỡi các người chồng, hãy yêu mến vợ mình như Chúa  Kitô đã yêu thương Giáo Hội, và đã nộp mình vì Giáo Hội, để thánh hóa  Giáo Hội (Ep 5,25-26), và thánh nhân cũng không quên nhấn     mạnh rằng: "này người nam sẽ rời bỏ cha mẹ mình để gắn bó với vợ  mình, và cả hai sẽ làm thành một xác thịt duy nhất. Mầu nhiệm này thật  lớn lao: tôi muốn ám chỉ về Chúa Kitô và Giáo Hội." (Ep     5,31-32). Xem Sách Giáo Lý Công Giáo (GLCG), số 1617.  
        Điều  mà tôi vừa trích dẫn ở trên, nhằm mục đích nói lên một thực tại trong  đời sống hôn nhân, đó là ý nghĩa của sự khổ đau, được     coi như thập giá. Quả thực, trong bất kỳ bậc sống nào, tu trì hay  lập gia đình, chúng ta đều có thập giá mà Chúa trao gởi cho chúng ta.  Điều ấy không có nghĩa là chúng ta dơ tay đầu hàng khi đối     diện với những khổ đau, thất bại hoặc điều bất hạnh xảy đến. Là  Ki-tô hữu chúng ta được kêu mời để không ngừng nổ lực đem hết mọi cố  gắng hầu bảo vệ và duy trì hạnh phúc gia đình, ngay cả những     khi gặp trục trặc. Đôi khi, chúng ta cũng cần nhắc nhở chính mình là  những bất hạnh ấy cũng có thể là những cơ may cho chúng ta, nhằm điều  chỉnh một vài sự sai trái của bản thân và cũng có thể     trở thành trường dạy của tình yêu, giúp ta khám phá ra những giá trị  cao hơn của đời sống vợ chồng. 
        
 
2) Sự bất khả phân ly trong đời sống vợ chồng.         
        Một  số xã hội trong thế giới ngày nay đã cho phép ly dị trong một vài  trường hợp, khi có sự bất tương xứng giữa những cặp vợ     chồng. Trong số những nguyên nhân và căn cớ làm nền tảng cho việc ly  dị được công nhận, đó là vấn đề ngoại tình, đặc biệt là điều ấy nếu  được gây ra do người vợ. Một nguyên nhân nữa gây nên sự ly     dị, đó là tình trạng hiếm muộn không thể sinh con do người vợ, một  giải pháp được đưa ra cho vấn nạn trên, là cho phép người đàn ông được  cưới vợ bé. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần ghi nhận rằng:     phần đông các quốc gia không coi việc ly dị là một giải pháp lý  tưởng. Vì thế, việc ly dị tuy được chấp nhận ở một vài xã hội, nhưng  điều đó không có nghĩa là tất cả mọi nơi đều nhất trí và ủng     hộ lập trường đó. 
        Vấn đề ly dị, trong những thập niên gần đây đã trở thành một vấn nạn khá thương đau. Cấp độ ly dị đã gia tăng một cách hết sức     nhanh chóng.[5] Nhiều  lý do được đưa ra hay được vịn tới,     thêm vào số những lý do đã được nêu trên. Sự tự do phóng túng trong  vấn đề tình dục đã được chấp nhận cách rộng rãi hơn trước. Trong thế  giới kỹ nghệ hoá và với những thành phố văn minh hiện đại     ngày nay, con người không còn chung sống như một đại gia đình, trong  đó gồm có ông bà nội, ngoại, hay cô chú, dì dượng… v.v.., trái lại, họ  sống như kiểu gia đình hạt nhân hay còn gọi là tiểu gia     đình: trong đó chỉ có ba mẹ và con cái.  Điều này, một mặt, đánh mất  đi sự nâng đỡ hữu hiệu của những thân nhân ruột thịt, bà con trong họ  hàng đối với vợ chồng. Đàng khác, đối với những cặp     vợ chồng mà họ phải sống xa nhau tạm thời, vì công ăn việc làm.  Trong những hoàn cảnh như vậy sẽ gia tăng cái nhu cầu tìm cho mình một  người "bạn đường" khác. Thêm vào đó, con người ngày hôm nay     dường như sống lâu hơn, đặc biệt trong những quốc gia phát triển và  văn minh so với ba hoặc bốn chục năm trước đây. Trong quá khứ, cái chết  của hai vợ chồng sẽ kết thúc hôn nhân, trước cái thời     điểm mà họ có thể cứu xét đến việc ly dị. Trái lại, ngày hôm nay,  nếu có sự ly thân, thì điều ấy quả là một gánh nặng đau khổ, bởi vì sự  sống của con người hôm nay kéo dài hơn. Nhiều đạo luật cho     phép việc ly dị, mà chúng ta thấy trong thế giới ngày nay tại một  vài quốc gia, chẳng qua, đó cũng là một phản ảnh của thực tế về những sự  kiện thay đổi trong cuộc sống con người; nhưng cùng lúc     điều ấy, cũng là một lời mời hấp dẫn và dễ dàng bị cám dỗ. Nó đưa  đến cho chúng ta một giải pháp rất thuận tiện cho những khó khăn mà  chúng ta đang gặp trong đời sống hôn nhân, nhất là khi cơm     không ngon, canh không ngọt. 
        Một  mặt khác, điều này cũng ghi nhận rằng, theo con số thống kê cho biết,  một tỷ lệ khá đáng kể của nhiều cặp vợ chồng đã ly dị,     họ đã công khai thú nhận rằng: hôn nhân của họ có thể được cứu vãn.  Dám thú nhận điều này, quả thực là một hành động khiêm tốn và là một lời  khuyến khích thật quí báu cho những cặp vợ chồng khác     khi họ đang gặp khó khăn.[6] 
VI. QUAN ĐIỂM CỦA THÁNH KINH ĐỐI VỚI VIỆC LY DỊ.                  
        
 
1. Cựu Ước         
        Thái  độ của Cựu Ước đối với việc ly dị thì đồng quan điểm với những dữ kiện  mà người ta tìm thấy dựa vào khoa nhân học xã hội     (Social Anthropology). Trong thời Giáo phụ, chỉ có một trường hợp ly  dị được nhắc tới: đó là việc Tổ phụ Abraham đuổi nàng thiếp của mình  theo yêu cầu của Sarah (St 21, 9-14). Sự việc khước từ     một cô vợ nếu không có lý do chính đáng, thì tiền nộp cho phía cô  dâu sẽ không được trả lại cho chú rễ, hẵn nhiên, điều này cũng nhằm để  ngăn ngừa tình trạng từ chối hôn nhân hay ly dị một cách     tự tiện, và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Nhưng trong thực tế,  hay trên phương diện nguyên tắc, ly dị vẫn có thể xảy ra, và luật lệ của  người Do-thái cho phép thực hiện điều ấy và chấp nhận     điều đó là hợp pháp. Nếu người đàn ông đã lấy vợ và đã cưới hỏi rồi,  mà sau đó vợ không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có  điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly     dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà (x. Đnl 24,1). Điều nổi bật và  đáng chú ý của chứng thư ly dị là người phụ nữ đó được quyền tái giá với  một người đàn ông khác mà không phạm tội ngoại tình     (x. Đnl 24, 2). 
        Lý  chứng để làm nền tảng cho việc ly dị được mô tả khá chi tiết trong bản  văn của sách Đệ Nhị Luật, và đã là nguyên nhân cho     những cuộc tranh luận sôi nổi trong giới các luật sĩ. Trong thời  buổi Chúa Giê-su, có hai lối giải thích khá quan trọng đối với luật cho  phép được ly dị, xuất phát từ hai trường phái. 
        ·        Trường phái thứ nhất là của Shammai, có vẻ nhặt nhiệm hơn, chỉ có việc ngoại tình của     người vợ thì mới được coi là đủ lý chứng cho việc ly dị. 
        ·         Trường phái thứ hai là của Hillel, được đặt trên nền tảng của chương  24, câu 1, trong     sách Đệ Nhị Luật, cho rằng bất cứ lý do gì cũng được. Trong số đó,  một vài lý do được nhắc tới, tỷ dụ như việc người vợ nấu thức ăn bị  cháy, hoặc ngay cả nếu người chồng tìm thấy một người phụ nữ     khác đẹp hơn, thì ông ta cũng có quyền ly dị vợ mình để đính hôn với  người ấy. Dân chúng thời Chúa Giê-su trong các hội đường ủng hộ lập  trường của phái Hillel. Dẫu vậy, việc ly dị cũng đã không     xảy ra thường xuyên, chỉ có những kẻ giàu có lợi dụng chuyện này.  
        Các  ngôn sứ, một đàng tỏ ra chấp nhận việc ly dị như một thực tại của hoàn  cảnh; nhưng đàng khác, họ nhìn nhận sự bất khả phân ly     trong hôn nhân là một lý tưởng. Tuy nhiên, điều rõ nét nhất trong  toàn bộ các lời giảng dạy của các ngài về hôn nhân và sự trung tín giữa  vợ chồng, thì việc ly dị là điều không thể xảy ra. Sự bất     khả phân ly trong đời sống hôn nhân thì cũng giống như cái lý tưởng  một vợ một chồng, được các ngôn sứ bao hàm trong lối so sánh của họ,  nhằm nói lên mối liên hệ mật thiết của Đức Chúa Yavê và     dân Do-thái, tựa như một hôn ước (marriage covenant). Tột đỉnh của  lý tưởng hôn nhân được mô tả trong Cựu Ước, qua đoạn sách của ngôn sứ  Malachi (2,14-16). 
        "Bởi  Đức Chúa Trời là chứng nhân giữa ngươi và người đàn bà ngươi đã cưới  trong tuổi thanh xuân. Chính ngươi đã phản bội nó, mặc     dầu nó là bạn đường và là người vợ kết ước với ngươi. Người đã chẳng  làm nên một hữu thể duy nhất có xác thịt và Thần Khí đó sao? Vậy hữu  thể duy nhất này tìm cái gì? Một dòng dõi của Thiên Chúa.     Các ngươi hãy coi chừng và chớ phản bội người đàn bà ngươi đã cưới  trong tuổi thanh xuân. Quả thật, Ta ghét việc rẫy vợ, Đức Chúa, Thiên  Chúa Ít-ra-en phán." 
        Cái lý tưởng này cũng được phản ảnh trong đoạn Sách Sáng Thế, nói về việc Thiên Chúa tạo dựng người phụ nữ nơi vườn điạ đàng,     trong cái khung cảnh mà hôn nhân đầu tiên được mô tả như là chỉ có một vợ và một chồng và hôn nhân có tính cách vĩnh viễn.  
        
 
2.     Tân Ước          
        Những  tranh luận về việc ly dị giữa những người Do-thái với nhau, tạo cơ hội  cho Chúa Giê-su trả lời cho vấn đề, và đưa ra cái     quan điểm của Ngài một cách công khai, và thẳng thừng lên án cách  mạnh mẽ, những sự ươn hèn của các luật sĩ Do-thái và lập trường của  chính họ về vấn đề ly dị. 
        Lời  lẽ phát biểu của Ngài được ghi lại trong Tin Mừng của Mát-thê-ô  (5,31tt), Lu-ca (16,18) và thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô     (1Cô-rin-tô 7,10tt). Cũng như trong các cuộc thảo luận được ghi lại  do Mác-cô (10,2-12) và Mát-thê-ô (13, 3-9). Trong khi tranh luận với các  biệt phái, Chúa Giê-su đã hủy bỏ việc cho phép ly dị     theo luật của Mô-sê, điều ấy đã được ban cho dân Do Thái, vì tấm  lòng chai đá của họ. Chúa Giê-su đã trưng dẫn hai đoạn Sách Thánh nhằm  chống lại và phản đối sự việc Mô-sê đã chuẩn cho dân     Do-thái được phép viết chứng thư ly dị. Theo Sách Sáng Thế Ký, phụ  nữ được coi như ngang hàng và bình đẳng về nhân-phẩm với nam giới. "Cả  nam lẫn nữ Thiên Chúa đã dựng nên họ." (St 1,27) " và cả     hai thành một xương một thịt" (St 2,21). Sự hiệp nhất bền vững giữa  người nam và người nữ được Đức Ki-tô nói rõ khi nhắc lại ý định "từ  nguyên thủy" của Đấng Sáng Tạo. "Họ không còn là hai; nhưng     chỉ là một xương một thịt" (Mt 19,6). Lẽ đó, họ không thể phân ly. 
        Lời  Chúa Giê-su tỏ cho biết, Ngài khẳng định từ chối bất cứ trường hợp ly  dị nào. Nhưng chẳng phải trong Tin Mừng đã chả cho phép     rẫy vợ (ly dị) trong trường hợp ngoại trừ đó sao? sự kiện này đã  được hợp thức hoá trong điều khoản phạm tội gian dâm với người khác. 
"Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ tới chỗ ngoại tình; và     ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình"        (xem Tin Mừng Mát-thê-ô 5,32).  
        Và Mát-thê-ô 19,9 " Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác thì phạm     tội ngoại tình".  
        Phải  công tâm mà nói việc chú giải đoạn văn trên với "mệnh đề đặt điều kiện"  là một việc khá phức tạp và nhiều khó khăn. Tuy     nhiên, điều ấy vẫn không có hiệu lực làm mất đi cái giá trị căn bản  mà Chúa Giê-su đã tuyên bố về việc ly dị. Mác-cô, Lu-ca và Phao-lô không  hề hay biết về trường hợp ngoại trừ này. Không thể     hình dung được là họ đã bỏ sót một tuyên ngôn khá quan trọng như  vậy. 
        Vậy thì chúng ta phải giải thích như thế nào cái điều khoản gian dâm? Nhiều học giả Thánh Kinh đã cố gắng chú giải điều ấy với     những lý lẽ khác nhau. Tuy nhiên, có hai giả thuyết đã được đại đa số chấp nhận. Giả thuyết thứ nhất cho rằng từ  "Porneia"  (nguyên ngữ Hy lạp), trong mệnh đề nhắm     tới việc cưới hỏi lẫn nhau giữa những người trong họ hàng thân tộc,  điều này đã được cấm đoán trong Cựu Ước (x. Lv 18, 6 tt) và vì thế được  coi như là bất hợp pháp, bởi người Do-thái cũng như bởi     Giáo Hội thời sơ khai, trong khi điều ấy được coi như là hợp pháp  đối với dân ngoại (tỉ dụ đám cưới giữa chú và cháu hoặc giữa anh em họ  với nhau). Những cuộc hôn nhân như vậy, sau này có thể bị     khám phá ra khi họ nộp đơn xin rửa tội để trở lại đạo, và hôn nhân  của họ phải được kết thúc hoặc giải thể. Điều này, tạo nên cái ấn tượng  là cho phép ly dị đối với người lương dân, sau này các     nhà soạn thảo lại Tin Mừng theo thánh Mát-thê-ô đã nỗ lực cố gắng để  đưa ra một giải thích thỏa đáng cho vấn đề nan giải này. 
        Giả  thuyết thứ hai thì cho rằng cái mệnh đề (đặt điều kiện) ấy, mô tả một  trường hợp ngoại trừ thật sự đối với việc cấm đoán ly     dị. Từ "Porneia" được chuyển ngữ là thông dâm/gian dâm (Fornication)  hoặc ngoại tình (Adultery). Lối giải thích này được các nhà chú giải  Kinh Thánh của giáo phái Tin Lành và Chính Thống Giáo     chấp nhận cách rộng rãi, và cho đến nay thì một số đông các học giả  Công Giáo cũng đã chấp nhận. Hầu hết các nhà chú giải Kinh Thánh (trong  số đó có cả Công Giáo) hiện nay, có xu hướng chấp nhận     trường hợp ngoại lệ cho vấn đề ly dị trong trường hợp người vợ phạm  tội ngoại tình. 
        Nhưng  nếu chúng ta đối chiếu với phần chú giải - nằm ở cuối trang - của bản  dịch Tân Ước do Ban PhụngVụ Các Giờ Kinh thực hiện,     thì chúng ta thấy văn bản được dịch là "ngoại trừ trường hợp HÔN  NHÂN BẤT HỢP PHÁP" (Mt 5,32) và cụm từ hôn nhân bất hợp pháp được giải  thích như sau: diễn dịch từ Hy lạp "porneia". Theo văn mạch     ở đây cũng như ở Mt 19,9 và so với Mc 10,11-12; Lc 16,18; 1Cr  7,10-11, thì Chúa Giê-su thắt chặt lại khoản luật lỏng lẽo của Cựu Ước  về ly dị (x. Đnl 24,1-2). Trường hợp ngoại trừ ở đây không     phải là ly dị vì ngoại tình (Hy Lạp: moikheia). Porneia cũng không  hiểu là gian dâm theo nghĩa thông thường, mà theo luật Do-thái thời xưa.  Những cuộc sống chung giữa những người họ hàng với nhau     mà Lê-vi 18 kê khai được coi là gian dâm, nghĩa là bất hợp pháp. Có  lẽ Mát-thêu muốn đưa về Công Vụ Tông Đồ 15, 29 (cũng từ porneia): các  tín hữu gốc ngoại phải tránh kết hôn với người có họ     hàng, vì đó trái luật Do-thái, dù rằng theo luật đời, các hôn nhân  giữa họ hàng như vậy có thể hợp pháp. 
        Chúa  Giê-su từ chối việc ly dị (đối với giả thuyết thứ hai, nghĩa là được  phép ly dị), nếu người vợ phạm tội ngoại tình. Sự kiện     Chúa Giêsu phản đối việc ly dị, điều đó được xem như là một biểu lộ  của lý tưởng, chứ không phải là luật hoàn toàn có tính cách tuyệt đối.  Quan điểm này được ủng hộ dựa vào những chứng cớ tìm     thấy nơi đoạn Tin Mừng của Mát-thê-ô 5, 3tt, qua Bài Giảng Trên Núi.  Tại đây, chính Chúa Giê-su, trong một diễn đạt khoáng đại đã mời gọi  con người đạt tới mức thiện hảo vô song. Nhưng điều ấy     không có nghĩa là đặt ra những luật lệ buộc con người phải tuân giữ  theo sát bản văn. 
        Trong  Bài Giảng Trên Núi, có rất nhiều lời tuyên bố với tính cách xác quyết.  Tuy nhiên, Giáo Hội chỉ coi đó là những lý tưởng chứ     không phải là giới luật (ví dụ như những huấn dụ về lời thề hứa,  việc bất bạo động, yêu thương kẻ thù và nên hoàn thiện như Thiên Chúa -  xem Mt 5, 21-48).[7] Vì  thế, việc Chúa Giê-su khăng khăng phản     đối việc bất khả phân ly trong đời sống hôn nhân có thể mang một  tính chất giống như vậy, nó chỉ là một lý tưởng mà người ta phải nỗ lực  ra sức theo đuổi chứ không hẳn là một lề luật áp chế tất     cả mọi người tuân theo, theo nghĩa ngữ của nó. 
        Nói  tóm lại, quan điểm của Chúa Giê-su thì đơn giản: lý tưởng cho các cặp  vợ chồng Ki-tô giáo là họ nên trung tín với nhau, cho     nên việc ly dị xét ra không cần thiết. Nhưng một mặt khác, Giáo Hội  thời tiên khởi, dường như cũng đã xem xét đến những điều kiện thực tiễn  của một thế giới bị giới hạn bởi những khiếm khuyết và     tội lỗi, nên  không thể tránh khỏi những bất trắc xảy ra, cho nên  các ngài cũng đã tìm kiếm một giải pháp thích hợp nhằm điều chỉnh sao  cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại. Nơi đây, ta cũng     nên nhắc lại trường hợp ngoại trừ được thánh Phao-lô cho phép, trong  trường hợp, một người ngoại giáo mà họ muốn ly dị với người phối ngẫu  của họ đã trở thành Ki-tô hữu. Trong trường hợp này,     thánh Phao-lô phán quyết như sau: Người tín hữu không bị bó buộc  phải duy trì bậc sống độc thân. "Còn với những người khác, thì tôi nói  chính tôi chứ không phải Chúa: nếu anh em nào có vợ ngoại     đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng rẫy vợ.  Người vợ nào có chồng ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy,  thì người ấy đừng bỏ chồng. Thật vậy, chồng ngoại đạo     được thánh hoá nhờ vợ, và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ người  chồng có đạo. Chẳng vậy, con cái anh em sẽ làm ô uế, trong khi thật ra  chúng là thánh. Nếu người ngoại đạo muốn bỏ người kia thì cứ     bỏ; trong trường hợp đó, chồng hay vợ có đạo không bị luật hôn nhân  ràng buộc: Thiên Chúa đã kêu gọi anh em sống bình an với nhau! Chị là  vợ, biết đâu chị chẳng cứu được chồng? Hay anh là chồng,     biết đâu anh chẳng cứu được vợ?" (1Cr 7,12-16) .