NGÔN NGỮ CỦA THẬP GIÁ TRONG CÁC THƯ CỦA THÁNH PHAOLÔ
NGÔN NGỮ CỦA THẬP GIÁ TRONG CÁC THƯ CỦA THÁNH PHAOLÔ
(LE LANGAGE DE LA CROIX DANS LES ÉCRITS PAULINIENS par Chantal Reynier)
-----------Chúng ta có thể khám phá khuôn mặt nào của Thiên Chúa và khuôn mặt nào của con người trong "ngôn ngữ của thập giá" mà Phaolô nói tới? Hay nói một cách trực tiếp hơn: đau khổ và sự chết có ý nghĩa gì đối với kitô hữu? Chantal Reynier mời chúng ta đi sâu hơn vào tư tưởng của Phaolô.
Lm. Gioan Boscô Cao Tấn Phúc
-----------Có bằng tiến sĩ thần học, Chantal Reynier dạy môn chú giải Tân ước tại Centre Sèvres ở Paris. Bà đã xuất bản: Evangile et mystère. Les enjeux théologiques de l’Epitre aux Ephésiens (Paris, Cerf, 1992) và l’Evangile du Ressuscité. Une lecture de Paul (Paris, Cerf 1995).
............
-----------Kiểu nói "ngôn ngữ của Thập Giá" chỉ xuất hiện trong các thư Phaolô và xem ra đó là cả một cương lĩnh (quasiment programmatique). Nói như thế có phải là cho rằng mọi công bố Tin Mừng đều chỉ qui về mỗi một việc là công bố thập giá hay không? Thập giá mà người ta rất thường biểu dương nhằm khích lệ các kẻ tin, cũng như rất thường loại bỏ do việc nó đề cao sự đau khổ. Trong trường hợp này, các thư Phaolô không đầy dẫy những mâu thuẩn đó hay sao? Thực vậy, Phaolô khẳng định ngài "đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh" (1 Cr 2,2) và đồng thời, ngài công bố là vô ích một đức tin muốn chối bỏ việc Phục Sinh. Trong thư gởi tín hữu Roma, trong khi công bố lòng thương xót dạt dào của Thiên Chúa, Phaolô nói đến Ðấng đã treo Con của Người trên thập giá làm nơi xá tội (x. Rm 3,25).
-----------Gương mặt nào của Thiên Chúa được trình bày trong câu nói đó? Và gương mặt nào của con người? Có phải là gương mặt của một vị Thiên Chúa, vì muốn xoa dịu cơn giận do tội lỗi loài người gây ra, đã đi tới chỗ bỏ mặc Con mình trên một cây thập giá? Có phải là gương mặt của một vị Thiên Chúa cho rằng mình đã được phục hồi quyền lợi bởi lẽ một người vô tội đã trả nợ thay cho nhân loại tội lỗi? Có phải là gương mặt của một vị Thiên Chúa bắt con người bước vào chỗ của tội nhân được cứu chuộc? Như thế làm Kitô hữu có phải hệ tại tìm kiếm cách vô vọng để được đúng luật với một vị Thiên Chúa chỉ thấy sự khốn cực của con người? Ðó là những hệ luận do kiểu nói "ngôn ngữ của thập giá" của vị Tông đồ đặt ra. Nhưng ngài đã thật sự nói gì về thập giá?
Thập giá của Ðức Giêsu Kitô, Ðức Chúa vinh hiển
-----------Muốn hiểu bản chất và vai trò của thập giá như được biểu lộ trong các bản văn, trước hết cần phải thu thập từ ngữ liên quan đến thập giá là một đồ vật gồm một cọc đứng và một đà ngang. Ðó là những tiếng: thập giá, giá treo cổ, và những động từ: đóng đinh vào thập giá, đóng đinh, treo lên. Tuy nhiên những từ này lại vắng bóng trong những thư đầu tiên của Phaolô (1 và 2 Tx), là những bức thư còn rất gần với biến cố đóng đinh thập giá, cũng như vắng bóng trong những thư cuối cùng, những thư mục vụ. Nhất là những từ vựng này vắng bóng trong những công thức công bố Tin Mừng (formules kérigmatiques) quan trọng (1 Tx 4,14; 1 Cr 15,3; Rm 8,34); trong những công thức ấy, sự chết chỉ được được nhắc tới như thực tại song đối với sự phục sinh. Sau cùng, những từ đó không xuất hiện trong lãnh vực khuyến thiện, đang khi chủ đề thập giá sẽ được đề cập nhiều trên bình diện luân lý và tu đức.
-----------Những qui chiếu về thập giá thực ra không nhiều - tổng cộng 23 lần, nếu người ta căn cứ theo ngữ vựng chính xác -; Phaolô không khác gì lắm với các tác giả tin mừng là những người nhắc tới thập giá với nhiều dè dặt. Một nhận xét như thế có cho phép ta qui kết rằng diễn từ của Phaolô về thập giá, được thu gọn trong một vài qui chiếu, đã được phóng đại do những lần đọc lại khác nhau đã được thực hiện theo dòng thời gian?
-----------Thập giá nói ở đây chỉ liên quan đến Ðức Giêsu Kitô. Thập giá chỉ đáng quan tâm trong mức độ nó là thập giá của Ðức Chúa vinh hiển. Ngay cả trong trường hợp liên quan đến kitô hữu, thập giá này luôn qui chiếu về thập giá của Ðức Giêsu Kitô. Như thế, các bản văn gợi lên hai phương diện, một phương diện kitô học và một phương diện nhân loại học; hai phương diện này, nếu đúng như vậy, sẽ cho phép loại bỏ một số hàm hồ.
Một biến cố, chướng kỳ và điên rồ
-----------Khi Phaolô nói tới thập giá, thì trước tiên và trên hết ngài nhắm tới một biến cố cụ thể mà các sách tin mừng nhất trí ấn định tại một nơi có tên là Golgotha, và vào một thời điểm, áp ngày sabát, ngày chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua, mặc dầu vị Tông Ðồ không bao giờ ám chỉ tới thời điểm ấy hay tới nơi chốn ấy. Ðó là một biến cố lịch sử, nên ta phải quan tâm tới sự đánh giá của các nền văn hoá đồng thời với nó.
-----------Cây gỗ trên đó Ðức Giêsu bị treo là một vật gia hình tàn ác và ô nhục. Ðối với người Rôma, hình phạt ấy bất xứng ngay cả với công dân đáng khinh bỉ nhất của họ; nó dành cho những tên nô lệ. Người ta có thể hiểu dễ dàng tại sao kẻ bị treo trên thập giá dầu thế nào đi nữa cũng không thể là một vị thần, cũng không thể là một trong những vị thần ẩn tàng thỉnh thoảng ghé thăm trái đất, càng không thể là một vị anh hùng biết cách biến hình đổi dạng. Dám coi kẻ chịu đóng đinh thập giá là một vị thần, đó thật là một sự điên rồ. Ðối với người Do Thái, kẻ bị treo là một người bị Thiên Chúa chúc dữ theo khẳng định của Ðnl 21,22: chướng kỳ này được nhân đôi nếu kẻ bị treo nầy tự xưng là đấng Mêsia muôn dân trông đợi. Ðối với những kẻ này, ngôn ngữ của thập giá là điên rồ, một sự vô nghĩa tuyệt đối, một sự phi lý; đối với những kẻ khác, đó là một chướng kỳ, một cớ vấp phạm (1 Cr 1,23). Như thế, thập giá là cái lật đổ các nền văn hoá ngay chính tại điểm các nền văn hoá ấy đang trông chờ (trông chờ sự khôn ngoan hay trông chờ đấng Mêsia).
-----------Bởi vì thập giá luôn là thập giá của Ðức Giêsu Kitô, Ðức Chúa vinh hiển, nên thập giá qui chiếu về Phục Sinh. Thập giá với tư cách là thập giá không thay đổi gì cho dòng lịch sử. Ðức Giêsu với tư cách kẻ chịu đóng đinh thập giá ở vào số tất cả những kẻ chịu đóng đinh thập giá mà không ai nhớ đến tên họ. Hãy nghĩ tới hai ngàn người Do Thái bị đóng đinh thập giá dưới triều vua Áckêlaô hay là tới vô số kẻ trộm cướp bị treo trên thập giá thời quan Phêlíc, tổng trấn xứ Giuđê.
-----------Thập giá chỉ có ý nghĩa dưới ánh sáng của phục sinh. Bởi vì đấng bị đóng đinh thập giá là đấng phục sinh, nên lịch sử thay đổi chiều hướng. Bởi đó, do tính cách đặc biệt của đấng bị đóng đinh vào đó, thập giá hạ bệ tất cả những đường lối khôn ngoan. Không ý thức hệ nào, không nền văn hoá nào có thể giam hãm thập giá và đồng thời, các ý thức hệ và các nền văn hoá có thể hoàn toàn bị thập giá khống chế do quyền năng của sự phục sinh. Bởi vì Thiên Chúa ở đó hành động cho mọi người, lịch sử không những thay đổi chiều hướng, mà nhân loại còn khám phá ra gương mặt của Thiên Chúa mình cũng như gương mặt của chính mình.
NGÔN NGỮ CỦA THẬP GIÁ TRONG CÁC THƯ CỦA THÁNH PHAOLÔ(tt)
Dâng hiến cho đến tận cùng (?)
-----------Bởi vì đấng chịu đóng đinh thập giá là đấng phục sinh, Người mặc khải cho chúng ta một điều gì thuộc căn tính đặc biệt của Người ngay trong phong cách (modalité) chết của Người. Người là kẻ "vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã trở nên giống phàm nhân" (Pl 2,6) và chấp nhận lãnh cái chết của mình từ tay con người. Trong sự chấp nhận bị đóng đinh này, người ta thấy để lộ ra nội tâm (intériorité) của kẻ chịu đóng đinh. Người không coi việc từ bỏ địa vị thần linh của mình là đủ (tức là khước từ tất cả những gì trong việc mặc khải thần tính có thể là một ngăn trở để kết hiệp với nhân tính), Người không cho việc mặc lấy điều kiện nhân loại đến nỗi chấp nhận sự kết thúc cuối cùng bằng cái chết là đủ, nhưng Người, Ðức Chúa vinh hiển (1 Cr 2,8) sẽ để mình bị đóng đinh vào thập giá như một kẻ rốt hết trong các nô lệ chịu án tử.
-----------Khi nhấn mạnh đến phong cách chết "và chết trên thập giá", (Pl 2, 8) nêu lên tính cách đặc thù của cái chết đó; cái chết này là một cái chết ô nhục người Con nhận lãnh vì tình yêu đối với Cha của Người và đối với chúng ta. Như vậy cái chết đó là cái chết hiến dâng (mort doblativité) nhờ đó tỏ bày tình yêu của Con đối với Cha và đối với chúng ta. Ðức Giêsu chấp nhận làm một người bị chúc dữ (trước mắt những người Do Thái), làm một kẻ ngu dại (trước mắt những người Rôma), đang khi Người là kẻ được Thiên Chúa chúc phúc, là đấng Mêsia, là người Con, kẻ cho ta hưởng muôn vàn ân phúc (Ep 1,3). Khi dùng cái chết trên thập giá để mặc khải một sự dâng hiến đi tới chỗ tột cùng của nhục nhã và đau khổ, Người lật đổ mọi tiên thức (précompréhension) về Thiên Chúa và về con người.
-----------Hơn nữa, qua nội tâm của Người hoàn toàn phó dâng, Người hoà giải mỗi người và mọi người không trừ ai với Thiên Chúa và với nhau. Người cũng hoà giải các hữu thể trên trái đất và trên trời. Ðấng đã hoà giải tất cả là Ðấng đã dựng nên tất cả: lịch sử gởi trả chúng ta về nguồn cội, về cuộc sáng tạo. Biến cố thập giá có một tầm mức vũ trụ: tất cả tạo thành đều được hành động của Ðức Kitô trên thập giá đụng chạm đến. Như vậy không chỉ có một sự đi xuống của Thiên Chúa với nhân loại, nhưng cũng có một sự đi lên trong đó Ðức Kitô cho chúng ta tham dự từ bên trong vào cuộc đi lên của Người với Cha.
Tình yêu của Cha được tỏ bày
-----------Gương mặt của Thiên Chúa cũng được mặc khải nơi đấng bị đóng đinh. Thực vậy, vị Thiên Chúa tỏ mình ra không phải là Thiên Chúa của giận dữ, nhưng là Ðấng dấn thân trong thân phận con người đến nỗi chấp nhận cái chết, chết trong người Con của Người. Thiên Chúa đã chọn đi qua con đường thập giá và lệ thuộc vào lịch sử thế giới để tỏ mình ra (1 Cr 1,21). Thập giá được trồng rất cụ thể và vững chắc trên mặt đất. Ðó là một nơi tỏ bày sự dâng hiến của Con mà cũng là của Cha. Do đó thập giá là một cuộc thần hiển (théophanie) thực sự với tất cả mức độ Con làm hiển thị tình yêu của Cha,tình yêu được tỏ bày nhờ hy tế Cha thực hiện nơi Con.
-----------Ðặc tính lạ lùng này trong ý định của Thiên Chúa chỉ có thể hiểu được trong biến cố thập giá nhờ ánh sáng phục sinh. Không những thập giá nói lên sự hoàn tất của Kinh Thánh mà còn mặc khải ý nghĩa của Kinh Thánh. Thập giá chẳng là chữ "tau" đó hay sao, mà chữ "tau" là chữ cuối cùng trong bảng chữ cái Do thái và như vậy cũng là kết thúc của nó? Tất cả đã được nói ra, tất cả mọi lời tiên tri về lòng thương xót của Thiên Chúa đã được ứng nghiệm. Chắc chắn, sự ứng nghiệm được thực hiện cách bất ngờ. Nhưng khía cạnh này rất thường bị xem nhẹ và những khẳng định liên quan đến sự giận dữ, món nợ, sự công chính hoá đã trở nên quan trọng đến mức chúng đã che khuất mất ý định lạ lùng của Thiên Chúa, cho dù Phaolô đã nói rõ điều này bằng cách sử dụng từ ngữ "mầu nhiệm". Ngôn ngữ của thập giá mặc khải cách độc đáo và đặc biệt sự hy sinh của Con và của Cha. Mọi kitô hữu đều được mời gọi thể hiện hai sắc thái này trong cuộc sống của mình.
Loan báo đấng chịu đóng đinh
-----------Người tín hữu là người tiếp nhận lời loan báo về đấng chịu đóng đinh, chấp nhận và làm chứng cho sự việc này. Phaolô tuyên bố ngài "không muốn biết gì khác ngoài Ðức Giêsu Kitô bị đóng đinh" và ngài lãnh trách nhiệm đi loan báo trước cả việc ban phép rửa tội (1 Cr 1,17). Một sự loan báo như thế phải không ngừng được đổi mới bởi vì nó có nguy cơ bị lãng quên, có khi bị loại bỏ nữa. Tín hữu Corintô không chia rẽ sao khi công bố mình thuộc về người này hay người khác trong số các thủ lãnh của mình (1 Cr 1,10-16) và tín hữu Galát đã chẳng chạy theo một Tin Mừng thứ hai sao, cho dù họ "thấy hình ảnh Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá phơi bày ra trước mắt" (Gl 1,6; 3,1)?
-----------Ðiều thập giá nhắc nhở thì thuộc phạm vi kinh nghiệm chứ không thuộc trật tự suy tư hay ý thức hệ. Niềm tin vào Ðức Kitô đi ngang qua việc chấp nhận cuộc Vượt Qua của Người và sẽ luôn là chướng kỳ và điên rồ cho tất cả các nền văn hoá cũng như niềm tin ấy đã là chướng kỳ và điên rồ cho thế giới Hy Lạp vì một nền tảng như thế thật bất lực và phi lý. Khía cạnh gai chướng của ý định Thiên Chúa là yếu tố cơ bản trong việc đưa thập giá vào lịch sử. Nếu thập giá chỉ có ý nghĩa bởi vì đấng chịu đóng đinh thập giá là đấng đã sống lại, - vì không có sự sống lại Ðức Giêsu chỉ là một kẻ chết treo được ghi vào danh sách hàng ngàn người đã bị đóng đinh trong thời Cổ đại -, thì theo sự khôn ngoan của thế gian, thập giá vẫn là khổ hình mà một Thiên Chúa thánh thiện không thể nào phải chịu. Khía cạnh này của lời loan báo là tuyệt đối đến mức tạo thành động lực cho mọi việc truyền giáo: "Ðức Kitô đãchẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng" (1 Cr 17). Nội dung của việc truyền giáo nằm nơi ngôn ngữ của thập giá; ngôn ngữ này hoàn toàn tùy thuộc vào Ðức Giêsu Kitô trong khía cạnh khách quan và ý nghĩa của việc Người mặc khải.