Từ bác sĩ trở thành Linh mục để phục vụ hết mình cho người phong cùi
Từ bác sĩ trở thành Linh mục để phục vụ hết mình cho người phong cùi
Một ngày vào năm 1973, các báo ở Sài gòn đồng loạt đưa tin về cái chết của Jean Cassaigne, một người Pháp, nguyên là Giám Mục Sài gòn nhưng lại qua đời tại một trại phong ở Di Linh, một nơi đèo heo hút gió trên đường từ Sài gòn đi Đà Lạt. Nguyễn Viết Chung đọc tiểu sử của vị cố Giám Mục trên báo và không hiểu do đâu anh lại mong muốn được nên giống ngài ở chỗ phục vụ người cùng khổ cho đến hơi thở cuối cùng. Anh chẳng biết gì về Đạo Công giáo, thế mà Đức Cha Cassaigne lại là thần tượng của anh.
Năm 1974. Chung học Y Khoa Đại Học Sài gòn. Tại đây anh gặp người công giáo đầu tiên trong đời anh, giáo sư bác sĩ Lichtenberger người Bỉ, dạy môn Mô phôi học. Chung ngưởng mộ sự uyên bác khoa học vô song của ông. Các bài giảng vô cùng sinh động và phong phú của nhà khoa học uyên thâm một cách lạ lùng làm cho Chung mê mẫn. Chung kinh ngạc khám phá vị giáo sư khả kính này là một Linh Mục dòng tên. Anh thường cùng các bạn trường Y đến nhà thờ để xem Giáo sư Lichtenberger dâng lễ.
Những năm học Y khoa không phải là dễ dàng đối với Nguyễn Viết Chung anh phải làm thêm nhiều việc nặng nhọc kể cả đạp xích lô để kiếm tiền ăn học và phụ giúp gia đình.
Năm 1984, bác sĩ Chung khi đó 29 tuổi, xin được bổ nhiệm lên trại phong Di Linh để thực hiện giấc mơ lớn nhất của đời anh. Nhưng theo đúng thủ tục hành chánh thì anh phải trình diện và chịu sự điều động của Sở Y tế Lâm Đồng. Bà trưởng phòng ngạc nhiên hỏi:
- Anh có điên không hay là anh bị cùi?
- Nếu tôi cùi thì bà đã thấy rồi.Còn có điên hay không thì tôi không biết, nhưng điều tôi biết là tôi mong muốn phục vụ những người cùi.
Từ ngày 01-7-1986 anh về làm việc tại phòng chống sốt rét của tỉnh Đồng Nai cho tới năm 1989. Từ năm 1990-1992 đổi về làm tại phòng xét nghiệm của bịnh viện da liễu Sài gòn. Ở đây anh xin học thêm chuyên khoa da liễu, vì anh không bao giờ anh quên mộng ước của mình.
Năm 1993 Bác sĩ Chung tình nguyện lên công tác tại trại Phong Bến Sắn, Bình Dương. Tại đây, anh làm việc hăng say như để đạt được tâm nguyện của mình giống như Đức Giám Mục Cassaigne trong việc phục vụ bịnh phong cùi. Anh hết sức tận tụy không nề hà. Nhưng dù như thế anh vẫn thấy mình thua xa các nữ tu nữ tử Bác ái trong việc yêu thương phục vụ người bịnh. Các nữ tu luôn nhẫn nại lắng nghe phục vụ người bịnh hết lòng, không bao giờ làm họ buồn tủi. Tinh thần hy sinh, quảng đại đó khiến cho anh cảm phục. Anh cho rằng muốn có được tinh thần yêu thương người nghèo khổ như thế, anh phải trở thành một người giống như các nữ tu. Anh chưa phải là người công giáo, nên anh không thể hiểu được tinh thần làm việc của các Sơ. Anh cũng muốn được phục vụ với tinh thần giống như các Sơ.
Ngày 28-8-1993 bác sĩ Chung đến gặp Cha Hoàng văn Đoàn, dòng tên, tại Bình Dương xin học giáo lý tân tòng. Ngày 15 tháng 5 năm 1994 bác sĩ Chung được cha chính xứ Bến Sắn, Linh mục Trần Thế Thuận làm lễ rửa tội cho anh tại nhà nguyện trại phong Bến Sắn. Nhưng bác sĩ Chung không hài lòng khi chưa được trở nên giống các Sơ để có thể yêu thương phục vụ người nghèo. Ở tuổi tứ tuần theo đuổi ơn gọi tu sĩ là một điều quá khó khăn.
Ngày 15.9.1994 bác sĩ Chung trở thành tập sinh lớn tuổi nhất của dòng Vinh Sơn nam số 40 đườngTrần Phú, Đà Lạt. Ngày lễ truyền tin 25.3.2003 Giáo hội trao tác vụ Linh mục cho thầy Augustinô Nguyễn Viết Chung qua lễ đặt tay của Giám mục Giuse Vũ Duy Thống tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài gòn.
Ngày 3.4.2003, Linh Mục Nguyễn Viết Chung quay về trại phong Bến sắn dâng Thánh lễ tạ ơn trong sự hân hoan của các bịnh nhân phong với sự hiện diện của cha sở Bến sắn, người mà 9 năm trước đây đã làm lễ rửa tội cho cha. Vẫn thái độ khiêm nhường, yêu thương và cung kính với các người bịnh vẫn xưng mình là “con” khi nói chuyện với các bịnh nhân lớn tuổi.
Tháng 3 năm 2009 tôi có về Sài gòn có dẫn người cháu đến thăm Linh mục Nguyễn Viết Chung, cha dong dõng cao, hơi ốm, nói năng nhỏ nhẹ: “ “con” cũng chỉ là cái máng để hứng lấy tình yêu thương của mọi người để mang đến cho những người kém may mắn”.
Nhà văn Hương Vĩnh có viết: “Ba vị đã tác động mạnh mẻ trên ơn gọi của cha Chung là Giám mục Jean Cassaigne, Linh mục Lichetenberger và Dì hai Loan ( phục vụ trại phong Bến Sắn 17 năm, chết vì bịnh ung thư ở tại trại này). Cả ba cùng có mẫu số chung - như lời cha Chung - đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không phải bằng lời nói.
Trong bài “Nguyễn Viết Chung và tiếng gọi của Chân Thiện Mỹ” cố Giáo sư Trần Duy Nhiên đã viết trong đoạn kết của bài này như sau:
“Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng những bước đi nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc trong một tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu thần tượng trên thế gian. Nguyễn Viết Chung biết chắc lọc một vài khuôn mẫu định hướng cho cuộc đời mình: Đức Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger, Dì Hai Loan.. đấy là chưa kể đến nhiều người khác trong đó có thân mẫu của mình một người mẹ đã suốt đời âm thầm chịu đựng cho đến khi mù lòa. Giữa các gương mặt ấy có một nhân vật gần giống như Nguyễn Viết Chung: Linh Mục Bác sĩ Marcel Lichtenberger. Thế nhưng con đường Chúa dẫn hai vị đi thì hoàn toàn trái ngược nhau. Năm 25 tuổi Cha Lichtenberger vì tình yêu Thiên Chúa thúc bách phải đến với những con người bất hạnh tại Trung Hoa. Và trước những thương tích của Chúa Kitô thể hiện trên hình hài các bịnh nhân, cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để rồi trở thành bác sĩ năm 48 tuổi. Ngược lại, bác sĩ Nguyễn Viêt Chung tốt nghiệp bác sĩ năm 25 tuổi, thế rồi muốn chia sẻ trọn vẹn sự khốn cùng của bịnh nhân nên rốt cục đã gặp Chúa Kitô chiụ đóng đinh trong những con người bất hạnh. Và điều này khiến cho vị bác sĩ tận tâm kia từ bỏ mọi sự để trở thành Linh Mục của Chúa vào tuổi 48.”
KẾT LUẬN
Theo Vietcatholic news: Ngày 18.10.2009 Giáo phận Xuân Lộc đón nhận 1114 tân tòng và hơn 2000 người là thân nhân, họ hàng, bạn bè của các tân tòng. Chủ sự Thánh lễ, Đức cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, Giám mục giáo phận Xuân Lộc cùng đồng tế có Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục giáo phận Kontum và hơn 50 cha trong giáo phận.
Ở mỗi giáo xứ hay mỗi nhà thờ hàng năm đều có làm lễ “Rửa tội” cho người lớn, thông thường con số cũng vài chục người. Trong số những người nhận Bí tích thanh tẩy, con số không nhỏ là những người trí thức.
Con đường đến với Thiên Chúa tình yêu, đến với Hội Thánh Chúa bằng nhiều cách khác nhau. Tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương mời gọi tìm về suối nguồn tình yêu là Thiên Chúa toàn năng, để được an ủi, để được hạnh phúc đời này lẫn hạnh phúc vĩnh cữu đời sau, sau khi mất.
http://vietcatholic.net/News/Html/96419.htm
Phùng văn Phụng3/14/2012
** Với lòng ngưỡng mộ tuyệt đối **
Linh mục Bác sĩ Augustinô Nguyễn Viết Chung
ĐÁP LẠI TIẾNG GỌI CỦA TIN MỪNG
Trong lúc đại đa số giới trẻ ở đây đang tận dụng mọi phương cách để kiếm thật nhiều tiền ngõ hầu đáp ứng nhu cầu vật chất, trong bối cảnh một xã hội đang đổi mới thì một thiểu số rất nhỏ những thanh thiếu niên nam nữ đã đáp lại tiếng gọi của Tin Mừng để sống đời phục vụ tha nhân.
Điều làm tôi cảm động là mỗi sáng sớm, một nhóm các em dự tu – có lẽ thuộc Nữ Tử Bác Ai hay một tu hội nào khác – nghiêm trang đi xem lễ ở nhà thờ Dòng Đa-Minh – và có lẽ ở những nhà thờ khác nữa. Các em ăn mặc đơn sơ: áo trắng quần xanh, nghiêm trang trong mỗi bước đi, đắm hồn trong sự suy tư chiêm niệm.
NẾP SỐNG KHÓ NGHÈO THẬT SỰ
Lần đầu tiên tới thăm linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung tại Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn ở đường Nguyễn Kiệm, tôi được cha dẫn đi xem một số phòng ốc, nhờ đó tôi mới hiểu được phần nào nếp sống khó nghèo của các tu sĩ trong khung cảnh hiện tại.
Phòng cha Chung chỉ vỏn vẹn một chiếc giường gỗ với một chiếc chiếu trải lên đó. Bên cạnh tủ sách là một chiếc ghế và một cái bàn nhỏ. Có cái quạt máy treo tường nhưng không thấy mở! Với khí hậu oi bức mùa hè ở Saigon, tôi không hiểu làm sao cha có thể chịu đựng được “cái nóng ghê người, nóng nóng ghê!”
Cha dẫn tôi đi xem phòng ngũ các thầy. Năm sáu thầy nằm ngũ trong một phòng nhỏ: chỉ có hai giường gỗ, ngoài ra là mấy chiếc chiếu xếp lại, để trên sàn nhà. Thầy nào cảm thấy nằm trên sàn nhà không được thì mới nằm trên giường.
Khi quan sát cảnh tượng đó, tôi tự nhủ: đành rằng có một số linh mục tu sĩ sống trong nhung lụa, ngủ trong nệm ấm chăn êm với máy điều hòa không khí… không thiếu những linh mục tu sĩ có nếp sống thanh bần theo gương Thầy Chí Thánh: “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không nơi gối đầu!”
Tôi nhớ lại “Lời Nguyện Không Thể Thiếu” của đông đảo linh mục cũng như nam nữ tu sĩ đang sống đời chứng nhân một cách hùng hồn (sách LKĐNTNK, trang 7-9), để cầu xin Chúa cho những tôi trung của Ngài luôn trung thành với những gì đã đoan hứa:
“…
Lay Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới trao tặng niềm tin,
Nhưng con lại có thể làm nên
Chứng tá sống động cho Chúa hôm nay.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới gởi đến niềm hy vọng,
Nhưng con lại có thể giúp anh em con
Tìm lại nguồn cậy trông.
Lạy Chúa chỉ mình Chúa,
Ngài mới đốt lên ngọn Lửa Mến,
Nhưng con lại có thể giúp anh em con
Học biết yêu thương.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới tác tạo hòa bình,
Nhưng con lại có thể ra đi gieo cấy
Tình đoàn kết hợp nhât anh em.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là Đấng ban sức mạnh Thánh Linh,
Nhưng con lại có thể nâng đỡ
Một tâm hồn anh em đang thất vọng.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới thật sự là đường,
Nhưng con lại có thể chỉ đường
Cho anh em con bước đi.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là ánh sáng,
Nhưng con lại có thể
Làm cho ánh mắt anh em con
Thêm ngời sáng long lanh.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là sự sống vĩnh cửu,
Nhưng con lại có thể đem đến
Cho anh em con niềm vui sống.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới thực hiện được những điều nan giải,
Nhưng con lại có thể làm được
Cái khả dĩ làm được trong tầm tay.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Tự Ngài đã thực sự viên mãn,
Nhưng Ngài lại ưa thích cho con
Được cộng tác trong công việc của Ngài,
Và Ngài lại ưa thích nương nhờ nơi con
Để cứu độ mọi người.”
NHÀ DƯỠNG LÃO TÌNH THƯƠNG
Vào một trưa Chúa nhật, tôi đã tham dự Thánh lễ do cha Chung dâng tiến cho các cụ bà ở Nhà Dưỡng Lão Tình Thương Bình Lợi. Nhà Dưỡng Lão nầy nằm khuất trong một thôn xóm hẻo lánh, bên cạnh dòng sông Sài Gòn với những hàng dừa nước hoang dại. Trước NhàDưỡng Lão là một dãy mộ bia của những nữ tu đã ra đi từ lâu, sau một thời gian dài tận hiến cuộc đời phục vụ người nghèo. Nhà Dưỡng Lão gồm mấy dãy nhà nghèo nàn xơ xác, tương xứng với những cụ bà cũng rất nghèo hèn, xem chừng bị bỏ rơi, không được người nhà quan tâm.
Nhà này nuôi dưỡng 37 bà cụ. Bà cụ già nhất được 94 tuổi. Đa số các cụ bà trên 70 tuổi. Có 14 cụ bà bị bệnh nặng, đại tiểu tiện tại chỗ, cần chăm sóc tích cực. Nhà có 4 phòng: hai phòng dành cho các cụ bệnh nặng và hai phòng dành cho các cụ đi lại được. Các nữ tu phải mướn thêm hai người giúp việc, lưong tháng khoảng năm hay sáu trăm ngàn đồng Việt-Nam, chưa tới ba bốn chục Mỹ Kim. Chính các em dự tu và các chị khấn tạm đã tích cực giúp đỡ các cụ bà.
Khi tôi vừa tới nơi là lúc cha Chung đang chia sẻ bài Phúc Am Chúa nhật. Những lời nói chân thành đơn sơ của cha phản ảnh một tâm hồn say mê Lời Chúa và sống Lời Chúa.
Khi Thánh lễ chấm dứt, cha Chung đưa tôi đi thăm Nhà Dưỡng Lão. Hầu hết những cụ bà đều đau yếu, phân nhiều ngồi xe lăn, hay xê dịch phải có người giúp đỡ. Một ít cụ nằm suốt ngày trên giường. Các cụ nằm trên những chiếc giường sắt nghèo nàn, nhưng sạch sẽ vì được các chị nữ tu và các em dự tu chăm sóc chu đáo về mặt vệ sinh. Nhưng có cụ vì nằm lâu ngày trên giường nên lưng bị thâm đen.
Lúc đó một cụ già yếu vì nhu cầu phải nằm xuống giường, nhưng không thể tự lực được. Một nhóm năm sáu em dự tu vội vàng xúm lại, vui vẻ bồng đỡ: em thì choàng lưng, em khác đỡ vai còn em khác nữa thì quàng chân…chẳng khác nào những cháu chắt trong nhà đỡ đần các bà ngoại, bà nội vậy. Có lẽ vì thế mà các cụ hay nở nụ cười trên môi, tuy phải đau đớn về thể xác và đau khổ trong tâm hồn.
Chứng kiến cảnh tượng đó, tôi tự hỏi có gì hấp dẫn nơi các cụ già, nghèo hèn xơ xác, da thịt nhăn nheo, đen điu xấu xí… nếu không phải vì tiếng gọi của Tình Yêu Thiên Chúa. Trong lúc các tầng lớp thiếu nữ thuộc lứa tuổi các em đều ra sức tìm kiếm những nếp sống mang lại phúc lợi cho chính bản thân họ, còn các em đã tự nguyện quên mình cho những người bị bỏ rơi. Các em đã dâng hiến đời mình cho Chúa để theo đuổi lý tưởng quên mình vì tha nhân:
“Chỉ mong Ngài lấy đi
Mong chẳng còn gì thuộc về con,
Mong chẳng còn gì là của con,
Để con được trắng tay,
Con chỉ còn Ngài để giữ lấy,
Con được chọn Chúa mãi là của con.
Chỉ mong Ngài xóa đi,
Mong chẳng còn gì để chiếm hữu,
Mong chẳng còn gì ràng buộc con,
Để con được ngước lên,
Con tìm được Ngài là chân lý,
Con được cùng Chúa đồng hành luôn.
Chỉ mong Ngài cất đi,
Mong chẳng còn gì để nắm giữ,
Mong chẳng còn gì mà tự tôn,
Để con chỉ biết yêu,
Yêu một mình Ngài trọn đời con,
Con nhìn nhận Chúa chính Nguồn Tình Yêu.”
(“Mong Chẳng Còn Gì” của Tagore, trong sách Lời Kinh Đẹp Nhất Thiên Niên Kỷ, do Lê Quang dịch, trang 20)
LINH MỤC NGUYỄN VIẾT CHUNG
MỘT BÁC SĨ PHẬT GIÁO TRỞ THÀNH LINH MỤC
Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da Liễu. Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo nói về cái chết của Đức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di-Linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp và vô tình Đức Cha Jean Cassaigne đã trở thành thần tượng của cậu. Khi nhắc lại đoạn đời đó, cha Chung cho biết là ngài được rao giảng Tin Mừng bằng đời sống, chứ không phải bằng lời nói. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như Đức Cha Jean Cassaigne.
Khi bắt đầu học năm thứ nhất y khoa, nhân dịp tham dự Thánh lễ khai khóa của linh mục giáo sư bác sĩ Lischenberg, cậu Chung nhận thấy con người khoa học uyên bác của giáo sư Lischenberg đã biến thành một linh mục khả kính, trang nghiêm siêu thoát, chìm đắm trong cõi phúc lạc thần thiêng… Ơn gọi làm linh mục của cha Chung đã chớm nở từ đó.
Khi bác sĩ Chung phục vụ tại trại phong Bến Sắn, Dì Hai Loan thuộc Tu Hội Nữ Tử Bác Ai là Phó Giám Đốc. Dì là người đã phục vụ ở đây gần 17 năm, bất ngờ ngã bệnh ung thư và mất đi sau mấy tháng. Khi Dì hấp hối, bác sĩ Chung đang sửa soạn để đi với bác sĩ Quang, bác sĩ Bích Vân lên trại phong Di-Linh khám mắt cho bệnh nhân. Vì xe chưa tới, bác sĩ Chung tiếc nuối những giây phút cuối cùng còn lại với Dì Hai Loan nên đã trở lại giường bệnh của Dì. Lúc đó Dì Hai Loan mở mắt ra, nhìn bác sĩ và đôi môi mấp máy như muốn nói điều gì. Dì Mười hiểu được, liền nói: “Chung, Dì Hai Loan nói, tại sao chưa đi?”
Khi kể lại kỷ niệm nầy cho tôi, cha Chung đã dùng những ngón tay phải chỉ vào cánh tay trái và cho biết lúc đó cha cảm thấy bị rởn da gà lên. Sau đó, bác sĩ Chung đã về dự tang lễ của Dì Hai Loan và đã quyết định theo đạo. Một năm sau nữa bác sĩ Chung đã vào tu ở Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn và đã nhận lãnh Thánh chức linh mục hơn một năm nay.
Ba vị đã tác động mạnh mẽ trên Ơn Gọi của cha Chung là giám mục Jean Cassaigne, linh mục Lischenberg và Dì Hai Loan. Cả ba cùng có một mẫu số chung – như lời cha Chung – đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không phải bằng lời nói!
Nguyện ước của cha Chung là được phục vụ bệnh nhân phong và bịnh nhân Aids rồi cuối cùng ngã bệnh giữa những bẹnh nhân mà cha yêu thương phục vụ, đúng như lời Chúa Kitô đã phán dạy: “Không có Tình Yêu nào cao trọng cho bằng hy sinh mạng sống mình vì kẻ mình yêu!”
Địa chỉ của linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung:
479/15 Nguyễn Kiệm, phường 9, quận Phú-Nhuận,
Thành phố Hồ-Chí-Minh.
Điện thoại: (08) 990-4980
Địạ chỉ email: vinhson@hcmc.netnam.vn
NHỮNG TRỞ NGẠI VỀ PHÍA GIA ĐÌNH
Đáp câu hỏi của tôi là trên con đường theo Chúa, có những trở ngại lớn lao nào về phía gia đình không? Cha cho biết gia đình của cha là một gia đình nghèo. Đời sống gia đình thường xảy ra cảnh “cơm không lành, canh không ngọt”. Điều đó đã ảnh hưởng cha từ thuở thiếu thời nên cha đã có ý định đi tu vì nhận thấy đời sống gia đình không mang lại hạnh phúc.
Khi làm bác sĩ, trong hai năm đầu cha đã hành nghề để có thể trả nợ cho gia đình. Trong những năm kế tiếp, cha đã giúp đỡ những người em ăn học và hiện có một em trai là bác sĩ chuyên môn về phổi. Người em nầy đã thay thế cha phụng dưỡng hai cụ thân sinh.
Khi còn là tu sĩ, chưa được thụ phong linh mục, một ngày kia được tin cụ thân sinh bệnh, cha đi xe đạp về thăm. Vừa vào nhà, cụ thân sinh liền quở trách cha là một người “không biết nhục”. Theo lời cụ, các bạn bè của cha đều đi xe hơi, xây nhà lầu hai ba tầng cho bố mẹ ở. Còn cha, cha lại đạp chiếc xe đạp cọc cạch về thăm nhà!
Trước đây khi cha ngõ ý với cụ bà là muốn đi tu thì cụ bà rất vui, vì tưởng cha tu theo Phật giáo. Nhưng khi biết cha sẽ tu theo Công giáo thì cụ bà giữ im lặng.
Sau khi được thụ phong linh mục vài ba hôm, cha về thăm gia đình. Mới bước vào nhà, cụ bà cất tiếng nói: “Mẹ có điều nầy muốn nói với con.” Cha vội kéo ghế mời cụ bà ngồi rồi nói: “Thưa Mẹ, xin Mẹ cứ nói, con xin nghe.” Bấy giờ cụ bà đáp: “Mẹ muốn nói với con điều nầy là đạo Mẹ, Mẹ giữ, đạo con, con giữ.” Cha liền thưa: “Xin Mẹ cứ giữ đạo của Mẹ. Con không bao giờ dám có ý nghĩ là sẽ khuyên bảo Mẹ theo đạo của con.”
NHỮNG THỬ THÁCH TRÊN HÀNH TRÌNH TU TRÌ
Đáp câu hỏi của tôi là trong thời gian đi tu cũng như làm linh mục, có lúc nào cha cảm thấy những thử thách quá lớn và nảy sinh ý định muốn bỏ cuộc? Cha đăm chiêu nhìn tôi một phút rồi chậm rãi trả lời: “Thật ra ở giai đoạn nào trong đời sống tu trì cũng đều có những cám dỗ riêng: từ nhà tập đến khấn tạm rồi khấn trọn đời và làm linh mục. Nhưng nếu tu sĩ biết tuân giữ ba lời khấn là vâng lời, khiết tịnh và khó nghèo, đọc kinh Nhật Tụng, suy gẫm Phúc Am…thì sẽ vượt qua những cơn cám dỗ.”
Cha Chung còn chia sẻ với tôi đôi điều có tính cách riêng tư nhưng có phần nào ray rứt tâm can. Trong giờ phút cảm động đó, tôi đã đưa tâm hồn lên với Chúa, cầu nguyện cho cha Chung và cho tất cả các linh mục cũng như nam nữ tu sĩ, đã trải qua những giây phút cô đơn trong cuộc đời tu trì, bằng lời kinh “Phút Cô Đơn”, của Ludovic Giraud, (sách LKĐNTNK, trang 49-50):
“Lạy Chúa,
Con dâng lên Chúa những giờ phút cô đơn
Đôi lần đến với con trong cuộc đời.
Con dâng lên Chúa
Lúc con phải làm việc một mình:
Trong sự tẻ nhạt của bổn phận nặng nề
Mà không có lấy một sự khích lệ đỡ nâng
Trong cộng đoàn.
Con dâng lên Chúa
Những lúc cô đơn,
Mò mẫm đi tìm trong hoài nghi,
Khi không còn biết con đường
Mình đang theo đuổi sẽ dẫn đến đâu
Và trên đó bóng đêm bao trùm.
Con dâng lên Chúa
Những giờ phút con phải
Đau khổ âm thầm một mình,
Dù đang ở giữa những kẻ mà con phải
Bày tỏ Chúa cho họ và bị vô ơn hất hủi,
Do thờ ơ và thiếu cảm thông.
Con dâng lên Chúa
Những giây phút con phải yêu một mình
Giây phút thật nặng nề
Khi trái tim con khắc khoải,
Đi tìm sự tương giao
Mà không gặp thấy trong lòng người khác.
Và trong lòng những người con ưa thích
Tìm thấy một sự no thỏa mà không nếm cảm được.
Con dâng lên Chúa
Những giờ phút con phải đau khổ một mình,
Những giây phút Giếtsêmani của bản thân con.
Và chính trong những lúc ấy,
Lạy Chúa, con ước ao được nên giống Chúa.
Cũng như Chúa,
Con ước muốn và cầu xin
Cho chén khổ nầy ra khỏi con,
Nhưng xin Chúa cho con sức mạnh
Để chế ngự mình
Mà vâng theo Thánh ý Cha,
Đấng Chúa yêu ngàn đời,
Cả khi Ngài chấp nhận thấy con đau khổ.
Lạy Chúa,
Xin đừng theo ý con
Nhưng cho ý Cha được thể hiện Amen.”
TRUNG TÂM MAI-HÒA
THÁP TÙNG CHA CHUNG
Cao điểm của những ngày về thăm Việt-Nam là việc tôi tháp tùng linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung đi thăm viếng Trung Tâm Mai-Hòa. Cha Chung hiện là một trong ba bác sĩ phục vụ tại Trung Tâm đó do các Nữ Tử Bác Ai Thánh Vinh Sơn đảm trách. Mỗi thứ hai hằng tuần, cha Chung đều lên Mai-Hòa suốt ngày để dâng Thánh lễ và khám bệnh. Hai bác sĩ thiện nguyện khác sẽ khám bịnh cho bịnh nhân vào ngày thứ tư và thứ bảy.
Hôm đó tôi rời Saigon đi xe honda “ôm” với cha Chung lúc 7 giờ 30 sáng để trực chỉ Củ Chi, với đoạn đường dài trên 45 cây số. Lần đầu tiên tôi đi honda với nón an toàn nặng trĩu trên đầu. Khi honda vừa chạy độ 5 phút, trời mưa lâm râm, cha Chung đưa tôi mặc bộ quần áo mưa, trông chẳng khác nào hai phi hành gia bất đắc dĩ. Nhưng xe chạy được mười lăm phút, trời tạnh mưa. Một ít lâu sau trời bắt đầu nắng, nhưng cha Chung không hề dừng lại để cởi áo mưa. Sau khi rời đường quốc lộ, xe còn chạy trên mười cây số nữa mới tới Trung Tâm Mai Hòa.
Hôm đó tôi mặc áo dài tay, quần tây dài, mang giày, để tỏ lòng kính trọng của tôi đối với những chi thể đau khổ của Đức Kitô. Thường ngày tôi chỉ mặc áo cụt tay, quần đùi, đi dép…để ứng phó với cái nóng bức của trời Saigon.
SƠ LƯỢC VỀ TRUNG TÂM MAI-HÒA
Đây là Trung Tâm săn sóc bệnh nhân Aids ở giai đoạn cuối, không nơi nương tựa. Đây là một cơ sở Công giáo đầu tiên được chính thức thành lập để chăm sóc bịnh nhân Aids tại Việt-Nam. Trung Tâm không nhận bệnh nhân đến trực tiếp mà chỉ nhận bệnh nhân chuyển đến từ khoa nhiễm E thuộc Trung Tâm Bệnh Nhiệt Đới, Trung Tâm Lao Phạm Ngọc Thạch và bệnh viện miễn phí An-Bình. Hiện Trung Tâm Mai-Hòa do nữ tu Nguyễn Kim Thoa (Dì Tuệ Linh) đảm trách.
Địa chỉ của Trung Tâm Mai-Hòa:
Ap Lô 6, Xã An Nhơn Tây, Huyện Củ Chi,
TPHCM.
Điện thoại: (848) 8 926 135
Địa chỉ email: aidsmaihoa@hcmc.netnam.vn
NHỮNG EM BÉ MỒ CÔI MẮC BỆNH AIDS
Khi tới nơi, cha Chung và tôi cởi nón an toàn và bộ quần áo mưa ra. Mồ hôi tôi ướt đẫm như tắm. Nghe tiếng xe honda của cha Chung, mấy em bé năm sáu tuổi chạy ra mừng rỡ la lớn: “Cha ơi! Cha!” chẳng khác nào cảnh tượng mẹ đi chợ về. Ban đầu tôi cứ tưởng đó là những em còn khỏe mạnh mà cha mẹ đã qua đời vì bệnh liệt kháng, không được ai chăm nuôi. Sau đó cha Chung cho biết tất cả các em đều mắc bệnh, và mồ côi cha mẹ, ngoại trừ một em bé gái 4 tuổi còn mẹ.
Cách đây mấy tháng, mẹ của em nầy đã mang em lại để trước cổng chùa, với một miếng giấy ghi mấy chữ vắn tắt: “xin nhà chùa nuôi giúp”. Ngoài ra mẹ em có cho biết tên em và em được bốn tuổi. Vị sư trụ trì đã mang em vào chùa nuôi. Sau đó em bị Viêm Phổi, đi khám nghiệm mới biết em nhiễm HIV, đã trở thành bịnh Aids. Nhìn thân thê ôm yếu và nét mặt kém vui của em, tôi đoán biết em đang bị cơn bẹnh hoành hành và đang trên đà tiến tới giai đoạn hiểm nguy…
Cảm tưởng đầu tiên của tôi là Trung Tâm Mai-Hòa ngày nay đã được nhiều ân nhân giúp đỡ – nhất là một số tòa đại sứ ngoại quốc – nên nhà cửa khang trang hơn, chứ không còn gây ấn tượng rùng rợn như khi xem cuốn video một năm trước đây.
THAM DỰ THÁNH LỄ VỚI NƯỚC MẮT CHAN HÒA
Đây là Thánh lễ cảm động nhất mà tôi đã tham dự từ trước tới nay. Thánh Lễ được cử hành đơn giản trong một căn nhà thủy tạ hình bát giác, bên dưới là một giòng nước đục ngầu ứ đọng, không buồn chảy, chẳng khác gì giòng đời với chuỗi ngày dài lê thê của những bệnh nhân ở đây.
Nghe những tiếng thưa đáp của các bệnh nhân trong Thánh lễ – nhất là của các em bé – tôi không thể cầm được nước mắt. Suốt buổi lễ, nước mắt tôi chan hòa, khi thấy các em vẫn hồn nhiên đọc kinh, hát xướng như thường, không chút ý thức về số phận đen tối đang đè nặng trên các em. Những lưỡi hái của tử thần đang treo lủng lẳng trên đầu các em và sẵn sàng rơi xuống để gặt hái các em trong một ngày rất gần đây mà các em không chút hay biết.
Tôi nhớ lại sau đó, cha Chung đã vào thăm các em trong căn nhà dành riêng cho các em. Các em đã xúm lại ôm chân cha, níu kéo cha và quyến luyến không muốn rời khỏi cha. Có em đã được cha ẳm lên, vuốt ve một cách trìu mến. Tôi cũng nhớ lại lúc xế trưa, các em đã vui đùa cười giỡn trong sân với chị nữ tu phụ trách. Khi thấy các em vui đùa, tâm trạng của tôi lúc bấy giờ cũng giống như cha Đông trước kia: thây các em cười nhưng tôi lại khóc.
MỘT BỮA ĂN ĐẠM BẠC
Hôm tôi lên Trung Tâm Mai-Hòa, tôi gặp bốn dì Nữ Tử Bác Ai phục vụ những bệnh nhân liệt kháng ở giai đoạn chót. Dì Tuệ Linh là giám đốc, một Dì trước đây đã phục vụ ở trại phong Di-Linh hơn hai mươi lăm năm, hiện làm y tá, một Dì săn sóc các em bé và một Dì nấu ăn.
Hôm đó tôi thấy thức ăn gồm rau muống luộc, canh khổ qua nhồi thịt và đồ tráng miệng là một miếng dưa hấu đỏ. Thức ăn nầy được dùng chung cho các nữ tu và bệnh nhân. Các bệnh nhân chia làm ba nhóm ăn cơm chung với nhau, đó là nhóm các trẻ em, những người bị lao phổi và những người nhiễm các bịnh khác.
Sau khi chia sẻ với tôi nhiều điều, cha Chung đã dẫn tôi sang phòng ăn Trung Tâm và dùng bữa ăn trưa. Tôi khâm phục tài nấu nướng của chị nữ tu phụ trách nhà bếp. Những món ăn rất ngon và đậm đà, hợp khẩu vị. Khi ăn trưa xong, đã hơn hai giờ rưỡi chiều và cha Chung đã mất buổi nghỉ trưa.
Sau mấy tiếng đồng hồ được cha Chung chia sẻ tâm tình, tôi cầu xin Chúa cho tôi được học hỏi đôi điều qua gương sống chứng nhân của cha, của các linh mục và nam nữ tu sĩ khác, bằng bài thơ “Xin Cho Con Sức Mạnh” của R. Tagore do Đỗ Khánh Hoan dịch (Sách LKĐNTNK, trang 39):
“Lạy Thiên Chúa,
Đây lời con cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim con
Mọi biển lận tầm thường.
Xin cho con sức mạnh thản nhiên
Để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho con sức mạnh hiên ngang
Để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho con sức mạnh ngoan cường
Đê chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
Hay cúi đầu khuất phục
Trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho con sức mạnh dẻo dai
Để nâng tâm hồn vươn lên
Khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho con sức mạnh tràn trề
Để dâng mình theo ý Ngài luôn.”