Tóm lược Học Thuyết Xã Hội của Công Giáo (bản gốc)
Tóm lược Học Thuyết Xã Hội của Công Giáo (bản gốc)
PONTIFICIO CONSIGLIO DELLA GIUSTIZIA E DELLA PACE
* Nguyên tác:
Compendium of the Social Doctrine of the Church
Copyright 2004
Libereria Editrice Vaticana
* Được sự chấp thuận của Nhà Xuất Bản
Của Đức Hồng y Angelo Sodano,
Quốc Vụ Khanh
Bộ Trưởng Ngoại giao Toà Thánh Vatican
Phủ Quốc Vụ Khanh Vatican, ngày 29-06-2004
N. 559.332
Kính gửi Đức Hồng y Renato Raffaele Martino,
Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình
Đức Hồng y kính mến,
Suốt dòng lịch sử Giáo Hội và đặc biệt trong mấy thế kỷ gần đây, Giáo Hội – theo lời Đức Lêô XIII – đã không ngừng nói lên tiếng nói của mình về những câu hỏi liên quan đến cuộc sống trong xã hội. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tiếp tục công bố và cập nhật di sản về Học thuyết Xã hội Công giáo. Về phần mình, ngài đã công bố ba thông điệp quan trọng – Laborem Exercens, Sollicitudo Rei Socialis và Centesimus Annus – trình bày những bước cơ bản của tư tưởng Công giáo trong lĩnh vực này. Nhiều giám mục trên toàn thế giới trong giai đoạn gần đây đã đóng góp những hiểu biết sâu xa hơn về Học thuyết Xã hội Công giáo qua các công trình của họ. Vô số những học giả trên các lục địa cũng vẫn đang làm như vậy.
1. Vì thế, chúng ta hy vọng rằng một bản tóm lược thu thập tất cả các chất liệu trên và trình bày một cách hệ thống, sẽ giới thiệu những điều cơ bản của Học thuyết Xã hội Công giáo. Thật đáng ca ngợi khi Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình đã đảm nhận nhiệm vụ này và đã cố gắng hết sức mình cho công trình trong những năm gần đây.
Tôi rất vui mừng khi thấy cuốn “Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo” được xuất bản, và cùng chia sẻ với Đức Hồng y niềm vui mừng được trao gửi tập sách đến tất cả tín hữu và những người thiện chí như một thứ lương thực cần thiết để phát triển nhân cách và tinh thần, cho mọi cá nhân và mọi cộng đồng.
2. Tài liệu này cũng trình bày giá trị của Học thuyết Xã hội Công giáo như một phương tiện để rao giảng Tin Mừng (x. Centesimus Annus, 54), bởi vì tài liệu này đặt con người và xã hội trong mối tương quan với ánh sáng Tin Mừng. Những nguyên tắc của Học thuyết Xã hội Công giáo đặt nền tảng trên luật tự nhiên, vì thế được xác nhận và củng cố trong niềm tin của Giáo Hội nhờ Tin Mừng của Đức Kitô.
Dưới ánh sáng soi đường như vậy, mọi người, nam cũng như nữ, trước hết được mời gọi tự khám phá chính mình như những hữu thể siêu việt, trong mọi chiều hướng của cuộc sống, bao gồm tất cả những gì có liên quan đến mọi nội dung xã hội, kinh tế và chính trị. Niềm tin mang đến cho gia đình một ý nghĩa đầy đủ, ý nghĩa này đặt nền tảng trên cuộc hôn nhân giữa một người nam và một người nữ để làm nên tế bào đầu tiên và vô cùng quan trọng của xã hội loài người. Hơn nữa, chính niềm tin toả ánh sáng trên vinh quang của lao động, mà khi hoạt động của con người nhắm mục tiêu đem đến sự sung mãn cho chính con người, thì lao động này vừa chiếm vị trí ưu tiên so với vốn liếng tiền bạc con người bỏ ra và vừa xác định quyền lợi chính đáng của con người trong việc chia sẻ những thành tựu do lao động đó làm ra.
3. Qua bản Tóm lược này, chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của các giá trị đạo đức đặt nền móng trên luật tự nhiên được ghi khắc trong lương tâm của con người; vì thế, mỗi lương tâm con người bắt buộc phải nhìn nhận và tôn trọng luật tự nhiên này. Nhân loại ngày nay đi tìm một thứ công lý lớn hơn phù hợp với hiện tượng toàn cầu hoá; nhân loại có sự quan tâm sâu sắc về sinh thái và một sự quản lý đúng đắn đối với những công việc chung; nhân loại cũng cảm thấy cần phải bảo vệ những ý thức thuộc về dân tộc mà không mất đi tầm nhìn về con đường dẫn đến luật pháp và nhận thức về sự đoàn kết toàn thể gia đình nhân loại. Thế giới lao động, đã thay đổi sâu xa nhờ những tiến bộ kỹ thuật hiện đại, đang giúp cho con người nhận ra những mức độ lạ lùng về mặt phẩm chất của lao động, nhưng tiếc thay cũng cho con người thấy những hình thức bất ổn mới, những phương thức bóc lột mới, và ngay cả sự nô lệ bên trong những xã hội được coi là giàu có sung túc. Tại những vùng khác nhau trên hành tinh này, mức sống sung túc tiếp tục phát triển, nhưng cũng vẫn có một sự gia tăng đầy sợ hãi con số những người rơi vào cảnh nghèo đói, và vì nhiều lý do khác nhau, hố ngăn cách giữa những nước kém phát triển và những nước giàu đang càng ngày càng sâu thêm. Thị trường tự do tuy là một tiến trình kinh tế với những khía cạnh tích cực, nhưng vẫn cho thấy những giới hạn của chính thị trường ấy. Mặt khác, tình yêu dành ưu tiên cho những người nghèo nói lên sự lựa chọn rất căn bản của Giáo Hội và Giáo Hội giới thiệu tình yêu thương đó cho tất cả mọi người thiện chí.
Vì thế, rõ ràng là Giáo Hội phải làm cho tiếng nói của mình vang dội đến mọi người về ‘những điều mới mẻ’ (res novae) tiêu biểu của thời hiện đại, bởi vì Giáo Hội có nhiệm vụ mời gọi mọi người làm tất cả những gì có thể được để hướng đến một nền văn minh đúng nghĩa càng ngày càng nhắm tới sự phát triển toàn diện của con người trong tình liên đới.
4. Những vấn đề về xã hội và văn hoá hiện nay có liên quan đến tất cả anh chị em giáo dân, như Công đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng ta, để mời gọi họ đối diện với những vấn đề trần thế và hướng dẫn họ theo ý muốn của Thiên Chúa (x. Lumen Gentium, 31). Vì thế, chúng ta có thể hiểu một cách dễ dàng tầm quan trọng mang tính cơ bản của việc đào tạo giáo dân để cho sự thánh thiện từ cuộc sống của họ và sức mạnh qua những chứng tá của họ sẽ đóng góp vào sự tiến bộ của loài người. Tập tài liệu này nhắm mục tiêu giúp họ hoàn thành sứ mạng hằng ngày đó của mình.
Hơn nữa, chúng ta cũng rất vui khi thấy nhiều phần được trình bày trong sách này cũng đã được các Giáo hội khác, các Cộng đồng Giáo hội cũng như các Tôn giáo khác đón nhận. Bản văn đã được trình bày theo một cách thức để giúp ích không những cho cộng đồng tín hữu Công giáo mà còn cho các thành phần ngoài Công giáo. Thật vậy, tất cả những ai cùng chia sẻ phép Thanh Tẩy với chúng ta, cũng như tín đồ của các Tôn giáo khác và tất cả mọi người thiện chí có thể tìm thấy, qua bản văn này, những cơ hội tốt để suy nghĩ và một động lực chung để phát triển toàn diện mỗi người và mọi người.
5. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong khi hy vọng rằng tài liệu này sẽ giúp nhân loại tìm kiếm một cách tích cực cho công ích, đã cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả những ai dừng lại để suy nghĩ về những giáo huấn của cuốn sách này. Với những lời chúc tốt đẹp nhất của cá nhân tôi dành cho sự thành công của cố gắng lớn lao này, tôi xin chúc mừng Đức Hồng y và những người cộng tác với Đức Hồng y trong Hội Đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình đã thực hiện công việc quan trọng này. Xin Đức Hồng y nhận nơi đây tình cảm kính trọng chân thành của tôi.
Trong Chúa Kitô,
Hồng y Angelo Sodano,
Bộ Trưởng Ngoại giao Toà Thánh
Của Đức Hồng y Renato Raffaele Martino
Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình
Tôi vui mừng giới thiệu bản Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, mà theo yêu cầu của Đức Thánh Cha, đã được soạn thảo để cung cấp một cái nhìn chính xác và toàn diện về những giáo huấn xã hội của Giáo Hội.
Những thực tế xã hội đang đổi thay so với sức mạnh của Tin Mừng, mà các anh chị em tín hữu như những chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô đang phải đối mặt, luôn luôn là một thách đố, và vào đầu thiên niên kỷ thứ ba này, thử thách ấy vẫn còn tồn tại. Việc công bố Đức Giêsu Kitô, như là “Tin Mừng” đem lại sự cứu độ, tình yêu, công lý và hoà bình, không phải được thế giới hôm nay sẵn sàng đón nhận, nhưng lời công bố này còn bị phá huỷ bởi chiến tranh, nghèo đói và bất công. Vì lý do rất chính đáng đó mà mọi người trong thời đại ngày nay càng cần đến Tin Mừng hơn bao giờ hết: Tin Mừng của niềm tin để cứu thoát, của hy vọng để thắp sáng và của bác ái để yêu thương.
Giáo Hội hiểu rất rõ về nhân loại và khi cảm nghiệm được trước với niềm tin và với sự dấn thân tích cực, Giáo Hội vẫn luôn hướng về một “trời mới” và một “đất mới” (2 Pr 3,13) mà Giáo Hội muốn chỉ rõ cho từng con người để giúp họ sống đúng với ý nghĩa của đời mình. “Gloria Dei vivens homo”: một khi con người sống trọn vẹn theo phẩm giá của mình sẽ làm vinh danh Thiên Chúa, Đấng đã trao ban phẩm giá đó cho mỗi con người.
Những bài học sau đây trên hết nhằm mục đích duy trì và cổ vũ mọi hoạt động của người Kitô hữu về phương diện xã hội, đặc biệt là những hoạt động của các giáo dân có liên quan cụ thể đến các lĩnh vực này: Toàn bộ cuộc sống của họ phải được coi như một công trình loan báo Tin Mừng mang lại những hiệu quả thiết thực. Mọi tín hữu trước hết phải học cách vâng lời Chúa với lòng tin mạnh mẽ như thánh Phêrô đã làm: “Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì. Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Tất cả những độc giả “thiện chí” sẽ hiểu được các động lực thúc đẩy Giáo Hội mau mắn đưa ra học thuyết của mình về phương diện xã hội, một lĩnh vực mà mới thoạt nhìn có vẻ như không thuộc về khả năng chuyên môn của Giáo Hội, và cũng chính những độc giả này sẽ hiểu tại sao Giáo Hội lại mạnh dạn đề cập, mạnh dạn đối thoại và hợp tác để phục vụ công ích.
Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức cố Hồng y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận (1928-2002), với sự khôn ngoan, sự kiên quyết và tầm nhìn xa trông rộng, đã thực hiện phần chuẩn bị phức tạp của tài liệu này; Chứng bệnh hiểm nghèo đã không cho ngài cơ hội hoàn thành phần kết thúc và xuất bản. Công việc trên đã được giao phó cho tôi và hôm nay dành cho tất cả những ai đọc quyển sách này, vì thế công trình này mang dấu ấn vị chứng nhân vĩ đại của Thập Giá, người đã có niềm tin mãnh liệt trong những năm gian khổ của đất nước Việt Nam. Vị chứng nhân này sẽ thấu hiểu lòng biết ơn của chúng ta đối với sự lao động quý báu, tràn ngập bởi tình yêu và sự tận tuỵ của ngài, và ngài sẽ chúc lành cho những ai biết dừng lại để suy tư khi đọc những trang sách này.
Tôi cầu xin lời chuyển cầu của Thánh Giuse, Người Bảo vệ Đấng Cứu Thế và cũng là Người Bạn đời của Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc, là Thánh Bổn Mạng của Giáo Hội hoàn vũ và của Lao động, để tài liệu này đem đến muôn vàn kết quả trong cuộc sống của xã hội như một công cụ để loan báo Tin Mừng cũng như để xây dựng cho Công lý và Hoà bình.
Vatican, ngày 2-4-2004,
Ngày lễ nhớ Thánh Phanxicô Paola
GM.Giampaolo Crepaldi HY.Renato Raffaele Martino
Thư ký Chủ tịch
Cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo là công trình tập thể của Uỷ ban Bác ái Xã hội thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam nhằm giới thiệu cho đồng bào Công giáo và không Công giáo những nguyên tắc nền tảng và đường hướng hoạt động của Giáo hội Công giáo trong lĩnh vực xã hội.
Để đạt được mục đích này, chúng tôi in nội dung cuốn sách thành hai ấn bản. Một ấn bản “Phổ thông” dành cho quảng đại độc giả và một ấn bản tạm gọi là “đầy đủ”, có thêm phần tra cứu, dành cho những độc giả nào muốn tham khảo, đối chiếu chi tiết về nội dung Học thuyết Xã hội Công giáo. Nội dung ấn bản Phổ thông là các phần chính văn gồm Nhập đề và 12 chương sách, kèm thêm 1232 số chú thích của bản gốc Anh ngữ. Ấn bản đầy đủ gồm tất cả nội dung của ấn bản Phổ thông cộng thêm các phần: Mục lục Tham khảo về Thánh Kinh và các Văn kiện như Công đồng Vatican II, các Thông điệp, Tông thư, Tông huấn, Sứ điệp của các giáo hoàng, các Huấn thị của các Bộ, Hội đồng Giáo hoàng và các Văn kiện khác; Mục lục Hình ảnh và Mục lục Phân tích Chủ đề.
Chúng tôi cũng xin lưu ý rằng cuốn sách này dù đã dài hơn 400 trang nhưng chỉ vẫn là bản tóm lược, nghĩa là mới chỉ nêu lên những điểm chính và quan trọng nhất trong học thuyết xã hội Công giáo, để quý độc giả có một cái nhìn tổng thể chứ chưa phải là bản trình bày đầy đủ toàn bộ học thuyết. Hy vọng trong tương lai chúng ta sẽ có bộ sách trọn vẹn này.
Cũng vì mục đích muốn phổ biến cuốn sách cho quảng đại độc giả Việt Nam trong và ngoài Công giáo, cũng như để giúp cho độc giả dễ tiếp thu một bản văn tương đối khô khan và có tính chuyên đề, ngoài việc cố gắng dùng các từ ngữ phổ thông - không quá chuyên môn cũng không quá riêng biệt của Công giáo, ngoại trừ một số từ ngữ chưa có trong cuốn từ điển hiện nay - chúng tôi còn đưa vào một số hình ảnh minh hoạ, vừa để làm vui mắt độc giả vừa để tạo chất liệu cho các độc giả suy nghĩ thêm theo từng chủ đề. Các hình ảnh này đều ghi xuất xứ. Chúng tôi xin cám ơn các tác giả ảnh đã cho phép chúng tôi được sử dụng những hình ảnh trong cuốn sách hoàn toàn mang tính xây dựng nhân bản và vô vị lợi này.
Trong quá trình thực hiện cuốn sách, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Thầy Trần Bá Nguyệt và tập thể bè bạn đã chuẩn bị cho phần dịch thuật sơ khởi như: Quý Thầy Lê Mạnh Hà, Nguyễn Văn Khi, Phan Năng Huân, Hà Kim Phước, Nguyễn Hoàng Quy, thuộc Trường Đại học Nông Lâm, TP. HCM, Thầy Phạm Hữu Giáo thuộc trường Đại học Khoa học và Xã hội Nhân Văn, TP. HCM, Thầy Từ Việt Hùng thuộc Trường Đại học Bách Khoa, TP. HCM, Bác sĩ Đỗ Thông, Lm. Trần Đình Long, thuộc dòng Thánh Thể, Ông Nguyễn Chính Kết, Ông Lê Hùng Sơn và nhiều anh chị em tín hữu trong các ngành chuyên môn. Chúng tôi chân thành cảm tạ sự đóng góp quý báu của tất cả anh chị em cho tập sách này.
Chúng tôi cũng hết lòng cám ơn Nhà Xuất bản Tôn Giáo, các cơ quan ban ngành đã tận tình giúp đỡ và tạo thuận lợi cho chúng tôi xuất bản cuốn sách này. Hành động nhiệt tình này nói lên sự cởi mở và quan tâm của những người đang nắm quyền hành của đất nước để cùng cộng tác với mọi người trong việc phục vụ công ích của quốc gia và toàn thể gia đình nhân loại.
Trong quá trình dịch thuật và thực hiện cuốn sách này, chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót ngoài ý muốn. Chúng tôi rất mong quý độc giả thông cảm và tích cực góp ý để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong những lần tái bản sau này.
Sau cùng, xin quý độc giả cùng chúng tôi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã cho chúng ta được gặp gỡ nhau và gặp gỡ Ngài qua cuốn sách này. Kính chúc quý độc giả an mạnh và tràn đầy ơn Chúa để chúng ta cùng nhau xây dựng một nền văn hoá sự sống và một nền văn minh tình yêu cho xã hội loài người.
Thay mặt Ban Dịch thuật và Thực hiện
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
KÝ HIỆU CÁC SÁCH THÁNH KINH
a. Vào lúc khai nguyên Thiên Niên Kỷ Thứ Ba
1. Giáo Hội tiến vào Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của kỷ nguyên Kitô giáo như một đoàn dân lữ hành, dưới sự hướng dẫn của Đức Kitô, vị “Mục Tử cao cả” (Dt 13,20). Người là “Cửa Thánh” (x. Ga 10,9) mà chúng ta đã bước qua trong Năm Toàn Xá 20001. Đức Giêsu Kitô chính là con đường, là sự thật và là sự sống (x. Ga 14,6): khi nhìn ngắm dung nhan Người, chúng ta càng thêm tin tưởng và hy vọng nơi Người, Vị Cứu Tinh duy nhất và cũng là mục tiêu duy nhất của lịch sử.
Giáo Hội tiếp tục ngỏ lời với mọi dân tộc và mọi quốc gia, vì ơn cứu độ chỉ được ban cho con người nhân danh Đức Kitô. Sự cứu độ, mà Chúa Giêsu đã phải trả “bằng một giá đắt” (1 Cr 6,20; x. 1 Pr 1,18-19), được hoàn thành trong sự sống mới đang chờ trao cho người công chính sau khi họ chết. Nhưng sự cứu độ ấy cũng đang thâm nhập vào thế giới này qua các thực tại của kinh tế và lao động, công nghệ và truyền thông, xã hội và chính trị, cộng đồng quốc tế và các mối quan hệ giữa các nền văn hoá và giữa các dân tộc. “Đức Giêsu đến để mang ơn cứu độ toàn diện – một sự cứu độ bao trùm lên mỗi con người và toàn thể nhân loại, đồng thời mở ra một triển vọng rất kỳ diệu, là mọi người được nhận làm con Thiên Chúa”2.
2. Vào lúc khai nguyên Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, Giáo Hội không mệt mỏi để công bố Tin Mừng mang ơn cứu độ và sự tự do đích thực đến cho các thực tại trần thế. Giáo Hội nhớ lời thánh Phaolô nói với môn đệ Timôthê của mình: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh” (2 Tm 4,2-5).
3. Giáo Hội cũng cống hiến học thuyết xã hội của mình cho những người bạn đồng hành với mình, là mọi người hôm nay. Thật vậy, khi Giáo Hội “chu toàn sứ mạng công bố Tin Mừng là Giáo Hội làm chứng cho con người, nhân danh Đức Kitô: làm chứng cho phẩm giá của con người, cho ơn gọi sống hiệp thông giữa mọi người với nhau. Giáo Hội dạy cho con người biết các đòi hỏi của công lý và hoà bình phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa”3. Học thuyết này có một mối thống nhất rất sâu xa, bắt nguồn từ Niềm Tin vào một ơn cứu độ toàn diện và trọn vẹn, từ niềm Hy Vọng vào sự sung mãn của công lý và từ Tình Yêu sẽ làm cho mọi người trở thành anh chị em với nhau trong Đức Kitô: đó cũng chính là dấu biểu hiện tình thương Thiên Chúa dành cho thế giới, một thế giới đã được Ngài yêu thương tới mức “ban tặng cả Con Một của mình” (Ga 3,16). Luật yêu thương mới mẻ này bao trùm lên cả gia đình nhân loại và là luật không có giới hạn, vì ơn cứu độ do Đức Kitô thực hiện được công bố rộng rãi “tới tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
4. Khi khám phá ra mình được Thiên Chúa yêu thương, người ta mới hiểu được phẩm giá siêu việt của mình, biết như thế không phải để mình hài lòng với mình mà còn để đến gặp người khác qua một mạng lưới quan hệ ngày càng nhân bản hơn. Những người đã được tình thương Thiên Chúa “đổi mới” có thể thay đổi các luật lệ và chất lượng của các mối quan hệ, thậm chí chuyển biến cả các cấu trúc xã hội. Họ trở thành người có khả năng đem hoà bình đến nơi xung đột, gầy dựng và nuôi dưỡng các mối tương quan huynh đệ ở nơi có hận thù, đi tìm công lý ở nơi còn đầy cảnh người bóc lột người. Chỉ có tình thương mới có khả năng thay đổi tận gốc những mối quan hệ đang có giữa con người với nhau. Đây chính là viễn cảnh giúp mọi người thiện chí thấy được những chân trời công lý rộng mở, và con người phát triển trong sự thật và sự thiện hảo.
5. Tình yêu hướng đến một phạm vi hoạt động rộng lớn và Giáo Hội hăng hái đóng góp vào đấy qua học thuyết xã hội của mình, một học thuyết quan tâm đến con người toàn diện và được gửi tới cho hết mọi người. Biết bao anh chị em nghèo đói đang cần giúp đỡ, biết bao người bị áp bức đang chờ công lý, biết bao người thất nghiệp đang cần công ăn việc làm, biết bao người đang mong được tôn trọng. “Làm sao đến ngày hôm nay vẫn còn người phải chết đói, phải mù chữ, thiếu sự chăm sóc y tế tối thiểu, và không có nhà che nắng che mưa? Chúng ta không bao giờ liệt kê hết danh sách những người nghèo túng, vì ngoài những hình thức nghèo túng quen thuộc trên đây còn thấy xuất hiện những dạng nghèo túng mới. Những dạng nghèo túng mới này thường tác động tới cả những bộ phận dân chúng và những tập thể dồi dào tài chính, nhưng có nguy cơ thất vọng vì không tìm được ý nghĩa cho cuộc đời, vì nghiện ngập ma tuý, vì lo sợ bị bỏ rơi khi về già hay khi đau ốm, vì bị gạt ra bên lề xã hội hay bị kỳ thị trong xã hội… Và làm sao chúng ta có thể hờ hững trước viễn cảnh về môi trường sinh thái bị khủng hoảng, đang biến những khu vực rộng lớn của hành tinh chúng ta không còn người ở hay trở nên rất khắc nghiệt đối với con người? Hoặc hờ hững đối với vấn đề hoà bình trước cảnh con người lúc nào cũng bị các cuộc chiến tàn khốc đe doạ? Hoặc hờ hững trước nguy cơ coi thường các quyền căn bản của rất nhiều người, đặc biệt là trẻ em?”4.
6. Tình yêu Kitô giáo sẽ đưa chúng ta tới chỗ tố cáo, đề nghị và dấn thân vào những dự án văn hoá và xã hội; tình yêu này thúc đẩy sự hoạt động tích cực để tất cả những ai thành thật coi trọng ích lợi của con người đều muốn góp phần của mình. Nhân loại sẽ hiểu rõ hơn bao giờ hết rằng mọi người đều được liên kết với nhau bởi một vận mệnh duy nhất nên phải cùng nhau gánh lấy trách nhiệm, một trách nhiệm được thôi thúc bởi một nền nhân bản toàn diện và liên đới. Nhân loại thấy rằng, vận mệnh duy nhất này thường bị lệ thuộc, thậm chí bị áp đặt, bởi các tác nhân kinh tế và công nghệ, và cảm thấy cần phải có những nhận thức luân lý sâu xa hơn thì mới hướng dẫn được hành trình chung của nhân loại. Ngạc nhiên trước rất nhiều phát minh thuộc lĩnh vực công nghệ, con người hôm nay hết sức ao ước cho mọi tiến bộ đều được quy hướng về ích lợi thật của nhân loại, hôm nay lẫn ngày mai.
b. Ý nghĩa của tài liệu này
7. Người Kitô hữu biết rằng họ có thể tìm thấy trong học thuyết xã hội của Giáo Hội những nguyên tắc để suy tư, những tiêu chuẩn để phán đoán và những chỉ dẫn để hành động. Đó là bước đầu để đẩy mạnh nền nhân bản toàn diện và liên đới. Bởi thế, việc phổ biến cho mọi người biết học thuyết này đúng là một công tác mục vụ ưu tiên, nhờ đó mọi người sẽ được học thuyết này soi sáng, hầu có thể giải thích các thực trạng hiện nay và tìm ra những hướng hành động thích hợp: “Giảng dạy và phổ biến học thuyết xã hội là một phần trong sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội”5.
Nhìn trong ánh sáng ấy, việc phát hành tập tài liệu chứa đựng các yếu tố căn bản của học thuyết xã hội Công giáo cho thấy mối tương quan giữa học thuyết này và công cuộc tân Phúc Âm hoá6 quả là một việc làm hết sức bổ ích. Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình, khi đứng ra soạn thảo tài liệu này và chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu, đã tiến hành công việc bằng cách tham khảo rộng rãi các thành viên và các vị cố vấn của Hội đồng, cũng như các thánh bộ khác của giáo triều Roma, các hội đồng giám mục các nước, các cá nhân giám mục và các chuyên viên liên quan đến những vấn đề được đề cập đến trong tài liệu.
8. Tập tài liệu này muốn giới thiệu một cách đầy đủ và hệ thống, dù chỉ là lược qua, học thuyết xã hội của Giáo Hội. Đây là kết quả suy tư thận trọng của Huấn Quyền và là biểu hiện sự dấn thân bền bỉ của Giáo Hội muốn trung thành với ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại và muốn quan tâm lo lắng cho vận mệnh của nhân loại. Thế nên, tất cả những suy tư sâu sắc nhất về thần học, triết học, luân lý, văn hoá và mục vụ trong học thuyết này đều được giới thiệu một cách hệ thống, khi chúng liên quan đến các vấn đề xã hội. Bằng cách đó, chúng ta minh chứng cho mọi người thấy sẽ rất có kết quả khi để cho các vấn đề mà loài người đang phải đối mặt trong cuộc hành trình của mình qua dòng lịch sử được tiếp cận Tin Mừng. Khi học hỏi tập tài liệu toát yếu này, cần nhớ rằng các bản văn trích dẫn của Huấn Quyền, được lấy ra từ các văn kiện thuộc nhiều thẩm quyền khác nhau. Bên cạnh các văn kiện của công đồng và các thông điệp còn có các bài diễn văn của đức giáo hoàng và các tài liệu do các bộ của Toà Thánh soạn thảo. Và như chúng ta đã biết, nhưng cũng cần nhắc lại, độc giả nên lưu ý mỗi tài liệu có thẩm quyền giáo huấn khác nhau. Tập tài liệu này chỉ muốn đưa ra các yếu tố căn bản của học thuyết xã hội Công giáo, và để các hội đồng giám mục tuỳ theo tình hình địa phương mà đưa ra những áp dụng thích hợp7.
9. Tập tài liệu này cho chúng ta có một cái nhìn tổng lược nhưng đầy đủ về bố cục cơ bản của toàn bộ giáo huấn xã hội Công giáo. Nhờ cái nhìn tổng lược ấy, chúng ta có thể tiếp cận các vấn đề xã hội hiện nay một cách thích đáng, nhưng phải nhìn các vấn đề ấy như một tổng thể thống nhất vì đặc điểm của các vấn đề ấy hiện nay là càng ngày chúng càng có liên hệ với nhau, ảnh hưởng đến nhau và càng ngày càng trở thành mối quan tâm của toàn thể gia đình nhân loại. Tập tài liệu trình bày giáo huấn xã hội của Giáo Hội này muốn giới thiệu một cách tiếp cận có hệ thống để tìm ra giải pháp cho các vấn đề, hầu mọi phân định, phán đoán và quyết định của chúng ta đều phù hợp với thực tế, cũng như sự liên đới và hy vọng của chúng ta sẽ có tác dụng lớn hơn trên các tình thế phức tạp hiện nay. Thật vậy, các nguyên tắc trong học thuyết xã hội Công giáo đều có liên quan với nhau, nguyên tắc này soi sáng cho nguyên tắc kia, bao lâu chúng còn phản ánh quan điểm Kitô giáo về nhân học8, và cũng là những kết quả rút ra được từ mạc khải của Thiên Chúa về tình yêu của Ngài đối với con người. Tuy nhiên, không được quên rằng thời gian trôi qua và các hoàn cảnh xã hội đổi thay buộc chúng ta phải cập nhật liên tục các suy tư của chúng ta về các vấn đề được nêu ra ở đây, để chúng ta có thể giải thích đúng đắn các dấu chỉ mới của thời đại.
(Nhận từ email Đinh văn Thiệu)
Mười nguyên tắc nền tảng của Học thuyết Xã hội Giáo hội Công giáo
Mười nguyên tắc nền tảng của Học thuyết Xã hội Giáo hội Công giáo
(Cao Việt Tuấn trích dịch từ “Ten Foundational Principles in the Social Teaching of the Church” của linh mục Robert P. Maloney, C.M.[1], được đăng trên VINCENTIANA, Nội san của Tu hội Truyền giáo thánh Vinh Sơn, số 3 năm 1999)
Nếu được yêu cầu kể ra: Mười điều răn, Tám mối phúc thật, Bốn nhân đức nhân bản, Ba nhân đức đối thần, Bảy Bí Tích, Thương xác bảy mối, Bảy mối tội đầu… thì hầu như đa số người Công giáo đều có thể kể ra, nếu không kể được hết thì ít nhất cũng kể được một phần nào đó. Nhưng nếu hỏi về các nguyên tắc căn bản của Học thuyết xã xội Công giáo – “một phần thiết yếu của Đức tin Công giáo” – thì liệu rằng có bao nhiêu người có thể kể ra được cho dù chỉ kể một phần nào đó? Một điều hết sức trớ trêu đó là mặc dù Giáo Hội đã công bố học thuyết xã hội của mình một cách mạnh mẽ và liên tục trong hàng trăm năm qua, nhưng khi hỏi về Học thuyết xã hội Công giáo, thì trong thực tế có mấy người Công giáo nắm được?
Thật vậy, trong một hội nghị, các Giám mục Hoa Kỳ đã tuyên bố, có quá nhiều người Công giáo không biết gì đến học thuyết xã hội của Giáo Hội Công giáo. Các Giám mục còn nói thêm: “Nhiều người Công giáo không biết rằng: Học thuyết xã hội của Giáo Hội là một phần thiết yếu của đức tin Công giáo.[2]
Tại sao người Công giáo chúng ta lại biết quá ít về một phần thiết yếu của đức tin như vậy? Theo tôi nghĩ, lý do là: Học thuyết xã hội của Giáo Hội Công giáo khó có thể được tiếp thu một cách cô đọng, vì nó không được gom lại thành những điểm cụ thể, ví dụ như Mười điều răn hay Bảy Bí tích, để dễ hiểu và dễ nhớ.
Vậy chúng ta phải làm gì để phổ biến giáo huấn của Giáo Hội về xã hội, để nhiều người có thể nắm bắt được, nhất là khi giáo huấn ấy là “một phần thiết yếu của đức tin” chúng ta? Cách giải quyết đó là: trước tiên chúng ta phải nắm vững học thuyết của chúng ta và sau đó truyền đạt cho người khác.[3] Tuy nói thì dễ làm thì khó, nhưng dù sao chúng ta cũng phải bắt tay vào.
1. NGUYÊN TẮC PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
“Mỗi người đều được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa và đã được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc, do đó, mỗi người là vô giá và đáng được tôn trọng như một thành viên của gia đình nhân loại.”[4]
Đây là nguyên tắc nền tảng của Học thuyết xã hội Công giáo. Mọi người – bất kể chủng tộc, giới tính, tuổi tác, quốc gia, tôn giáo, khuynh hướng tính dục, nghề nghiệp hoặc tình trạng kinh tế, sức khỏe, trí tuệ, sự thành đạt hay bất cứ đặc tính nào khác – đều đáng được tôn trọng như nhau. Không phải vì những điều bạn làm hay cái bạn có mà bạn được tôn trọng; chính việc bạn là con người đã làm nên những phẩm giá đó. Được ban cho nhân phẩm, nên con người – theo quan điểm của Giáo Hội Công giáo – không bao giờ được xem như là những phương tiện, nhưng luôn luôn được xem như là mục đích.
Toàn bộ Học thuyết xã hội Công giáo khởi đầu với con người, nhưng nó không dừng lại ở đó. Mỗi cá nhân đều có phẩm giá; nhưng chủ nghĩa cá nhân không có chỗ đứng trong quan niệm về xã hội của Giáo Hội Công giáo. Nguyên tắc phẩm giá con người làm cho con người trở nên thành viên trong cộng đồng gia đình nhân loại.
2. NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG SỰ SỐNG CON NGƯỜI
“Từ giây phút thụ thai cho đến khi qua đời một cách tự nhiên, mỗi người đều có phẩm giá nội tại và một quyền sống phù họp với phẩm giá đó.”[5]
Sự sống của con người – trong các giai đoạn từ sau khi thụ thai, giai đoạn phát triển của tuổi thanh xuân cũng như giai đoạn suy yếu của tuổi già – đều được coi là quý giá, bởi thế, sự sống xứng đáng được bảo vệ và tôn trọng. Trực tiếp tấn công đến sự sống của người vô tội thì luôn luôn là một điều sai trái. Truyền thống Công giáo nhìn nhận tính chất thánh thiêng của sự sống con người, và xem đó như là một phần thiết yếu của mọi quan điểm đúng đắn về một xã hội công bằng và tốt đẹp.
3. NGUYÊN TẮC LIÊN ĐỚI
“Truyền thống Công giáo tuyên bố rằng: con người không những mang tính chất thánh thiêng mà còn có tính xã hội. Cách thức chúng ta tổ chức đời sống xã hội – về kinh tế, chính trị, luật pháp và chính sách – ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm giá con người, cũng như ảnh hưởng đến cơ hội phát triển của mỗi cá nhân trong cộng đồng.”[6]
Trọng tâm của xã hội là gia đình, do đó, sự ổn định của gia đình phải luôn được bảo vệ và không bao giờ để cho gia đình bị suy yếu. Bằng sự liên đới với người khác – trong các gia đình hay trong các tổ chức xã hội được thành lập để cổ vũ sự thăng tiến, bảo vệ phẩm giá và phát huy lợi ích chung – con người đạt được sự viên mãn của mình.
4. NGUYÊN TẮC THAM GIA
“Chúng ta tin rằng con người có quyền và bổn phận tham gia vào đời sống xã hội, để cùng nhau theo đuổi công ích và thịnh vượng cho mọi người, đặc biệt là cho những người nghèo và những người dễ bị tổn thương”.[7]
Không có sự tham gia này, các thiện ích dành cho cá nhân thông qua các tổ chức xã hội không thể thực hiện được. Con người có quyền không bị ai ngăn trở để tham gia vào các tổ chức được xem là cần thiết cho việc hoàn thiện con người.
Nguyên tắc này được áp dụng một cách đặc biệt vào các vấn đề có liên quan tới công ăn việc làm. “Công ăn việc làm không chỉ là một cách thế để kiếm sống, nhưng hơn nữa nó thực sự là một hình thức tiếp tục tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Khi công ăn việc làm được bảo đảm phù hợp với phẩm giá con người, thì đồng nghĩa với việc những quyền cơ bản chính đáng của người lao động cũng phải được tôn trọng. Nghĩa là con người có quyền có công ăn việc làm tốt, ổn định, có lương bổng hợp lý và công bằng, có quyền được tổ chức và gia nhập công đoàn, có quyền tư hữu, và có quyền đưa ra những sáng kiến về kinh tế”.[8]
5. NGUYÊN TẮC ƯU TIÊN BẢO VỆ NGƯỜI NGHÈO VÀ NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
Chúng ta tin rằng, khi chúng ta tiếp xúc với người nghèo là chúng ta được tiếp xúc với Chúa Kitô. Câu chuyện về ngày chung thẩm[9] đóng một vai trò rất quan trọng trong truyền thông đức tin Công giáo. Ngay từ thời sơ khai, Giáo Hội đã dạy rằng: chúng ta sẽ bị xét xử bởi những gì chúng ta lựa chọn làm hay không làm liên quan đến sự đói khát, bệnh tật, những người vô gia cư và các tù nhân… Ngày nay, Giáo Hội trình bày học thuyết này trong hạn từ “dành ưu tiên cho người nghèo”.
Tại sao phải ưu tiên quan tâm đến người nghèo? Tại sao đặt nhu cầu của người nghèo trên hết? Thưa, bởi vì, đó là sự đòi buộc của công ích – tức là lợi ích của toàn xã hội xét như là toàn thể. Trái ngược với giàu sang và quyền lực là nghèo đói và không có quyền hạn. Do đó, để có thể có được lợi ích chung dành cho toàn thể xã hội, chúng ta phải chuyển hướng quan tâm ưu tiên và bảo vệ về phía những người đang chịu ảnh hưởng một cách bất lợi do không có quyền lực và lâm cảnh thiếu thốn. Nếu không làm như thế, thì sự cân bằng cần thiết để giữ cho xã hội phát triển cách bền vững sẽ bị bẻ gãy và gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với toàn thể xã hội.
6. NGUYÊN TẮC ĐOÀN KẾT
“Học thuyết xã hội Công giáo tuyên bố rằng: chúng ta có bổn phận chăm sóc anh chị em chúng ta, bởi vì chúng ta thuộc về một gia đình nhân loại… Khi thực hiện tình đoàn kết theo nghĩa như vậy, chúng ta nhận thức được rằng việc ‘yêu người thân cận của ta’ mang chiều kích phổ quát trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau.”[10]
Nguyên tắc đoàn kết đưa đến những cơ hội thúc đẩy và bảo vệ công ích. Sự đoàn kết này kêu gọi chúng ta không chỉ đáp trả một cách đơn giản với những bất hạnh cá nhân mang tính chất riêng lẻ; bởi vì thực ra đang có những vấn nạn xã hội đòi hỏi những cơ cấu xã hội công bằng hơn. Vì lý do này, ngày nay Giáo Hội thường kêu gọi chúng ta không những dấn thân vào các công việc bác ái nhưng còn phải hướng đến công bằng xã hội.
7. NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ
“Truyền thống Công giáo khẳng định rằng chúng ta thể hiện sự tôn trọng Đấng Tạo Hóa bằng cách quản lý công trình sáng tạo của Ngài.”[11]
Người quản lý là một người trông nom chứ không phải là ông chủ. Trong một thời đại người ta đang gia tăng ý thức về môi trường sinh thái, thì truyền thống của chúng ta cùng đang kêu gọi sự ý thức về trách nhiệm luân lý trong việc bảo vệ môi trường, đất canh tác, đồng cỏ, rừng cây, không khí, nước, khoáng sản và các mỏ tự nhiên khác. Trách nhiệm quản lý còn liên quan đến việc sử dụng tài năng, sức khỏe và tài sản cá nhân của chúng ta.
8. NGUYÊN TẮC BỔ TRỢ
Nguyên tắc này chủ yếu liên quan đến “trách nhiệm và giới hạn của chính quyền, và vai trò cần thiết của các hiệp hội thiện nguyện.”[12]
Nguyên tắc bổ trợ đề ra một giới hạn phù hợp trong việc quản lý, bằng cách khẳng định rằng các tổ chức cấp cao không thể giải quyết những công việc một cách hiệu quả cho bằng các tổ chức cấp thấp hơn, vì tổ chức cấp thấp hơn bao gồm những cá nhân và nhóm sống gần gũi hơn với những vấn đề và địa bàn ở đó. Các chính quyền áp chế luôn luôn vi phạm nguyên tắc bổ trợ, còn những chính quyền quá tích cực đôi khi cũng vi phạm nguyên tắc này.[13]
Mặt khác, các cá nhân thường cảm thấy bất lực khi phải đối mặt với các vấn đề xã hội khó khăn nan giải: thất nghiệp, trẻ lang thang, tệ nạn xã hội, những người ngủ lề đường hoặc ăn xin trên các góc phố. Bởi vì những vấn đề này mang chiều kích xã hội, nên không cá nhân nào hay tập thể nào có thể làm được gì nhiều. Liên quan đến nguyên tắc bổ trợ, chính quyền thu thuế nên giúp đỡ những cá nhân, những cộng đồng nhỏ, cũng như toàn thể quốc gia, để bắt tay giải quyết những vấn đề xã hội này. Do đó, mỗi khi chúng ta đóng thuế là chúng ta đang đóng góp vào việc tạo nên công bằng xã hội.
9. NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG CON NGƯỜI
“Bình đẳng của tất cả mọi người xuất phát từ phẩm giá thiết yếu của họ… Trong khi sự khác biệt về tài năng là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng sự phân biệt đối xử về văn hóa và xã hội trong các quyền cơ bản là điều không phù hợp với ý định của Thiên Chúa.”[14]
Theo một cách nào đó, công bằng được định nghĩa là việc được đối xử một cách bình đẳng như nhau. Còn theo cách hiểu cổ điển, công bằng là việc phân phát cho mỗi cá nhân đúng với quyền lợi của họ. Nền tảng của khái niệm bình đẳng là một nguyên tắc đơn giản của sự công bằng; một trong những cảm thức luân lý đầu tiên được nhận thấy trong sự phát triển nhân vị là cảm thức về những gì là “công bằng” và những gì là bất công.
10. NGUYÊN TẮC CÔNG ÍCH
“Công ích được hiểu như là những điều kiện xã hội cho phép mọi người đạt đến trọn vẹn tiềm năng con người và nhận ra nhân phẩm của mình.”[15]
Các điều kiện xã hội mà Giáo Hội muốn nói ở đây là “sự tôn trọng đối với cá nhân”, “phúc lợi xã hội và sự phát triển cộng đồng” và duy trì công quyền của “hòa bình và an ninh.” Ngày nay, trong thời đại phụ thuộc toàn cầu, nguyên tắc công ích cho thấy nhu cầu về những cơ cấu quốc tế để có thể thúc đẩy sự phát triển cá nhân và gia đình vượt ra khỏi những ranh giới quốc gia và khu vực.
Những gì tạo nên công ích vẫn luôn là vấn đề gây tranh cãi. Sự thiếu vắng cảm thức về công ích là dấu chỉ chắc chắn sự xuống cấp của xã hội. Khi cảm thức cộng đồng bị xói mòn sẽ dẫn đến những suy thoái về công ích. Một mối quan tâm cộng đồng đúng mức là liều thuốc giải độc cho chủ nghĩa cá nhân không giới hạn, chủ nghĩa ấy – cũng giống như sự ích kỷ quá mức trong các mối quan hệ cá nhân – có thể phá vỡ sự cân bằng, hòa hợp và hòa bình giữa các nhóm, giữa những người hàng xóm, các khu vực và các quốc gia.
KẾT LUẬN
Đó là mười nguyên tắc, mà qua đó, chúng ta nhận thấy được sự liên kết giữa Học thuyết xã hội với những điều cơ bản của đức tin thật là tuyệt vời. Khi kết hợp như vậy, chúng ta khẳng định niềm tin của chúng ta dựa trên hành động. Đối với Kitô giáo, chúng ta không chỉ cần đến đức tin nhưng còn phải hành động. Hành động của chúng ta phải dựa trên mười nguyên tắc nền tảng là: Phẩm giá con người, Sự sống con người, Liên đới, Tham gia, Ưu tiên người nghèo, Đoàn kết, Quản lý, Bổ trợ, Bình đẳng, Công ích.
Các nguyên tắc này rất quan trọng, bởi vì khi đã nắm bắt được các nguyên tắc này rồi, chúng sẽ hướng dẫn chúng ta tới những gì sâu xa hơn. Chúng hướng dẫn những chọn lựa của chúng ta. Chúng thúc đẩy chúng ta hành động. Nếu đã nắm bắt được nguyên tắc, chúng ta biết được chúng ta đang đứng ở đâu, chúng ta phát xuất từ đâu, và chúng ta muốn đi đâu. Các nguyên tắc cho chúng ta biết được các mục đích cần nhắm tới. Hơn nữa, mọi người trong chúng ta đều mến phục và muốn làm việc chung với những người có nguyên tắc, bởi vì họ là những người luôn sẵn sàng và làm việc có trách nhiệm.
Ở đây, mười nguyên tắc của Học thuyết Xã hội Công giáo có thể đóng vai trò cơ sở cho việc phân tích bất cứ vấn đề xã hội nào. Ví dụ, nếu ai đó hỏi rằng: tại sao các tài liệu của Giáo Hội tập trung thường xuyên về đề tài chiến tranh, hòa bình, vũ khí hạt nhân, kinh tế, phá thai, an tử, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và rất nhiều đề tài khác mang chiều kích xã hội và luân lý cụ thể, khi đó, những nguyên tắc này sẽ cung cấp một khung cần thiết cho việc thấu hiểu những giáo huấn này.
Nhìn lại một trăm năm đã qua của Học thuyết Xã hội, chân phước giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong Centesimus Annus như sau: “giảng dạy và phổ biến học thuyết xã hội của Giáo Hội có liên quan đến sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội và đó là một phần cốt yếu của thông điệp Kitô giáo,”[16] Ngài nói thêm: “Tân Phúc âm hóa [...]phải bao gồm các yếu tố của việc công bố học thuyết xã hội của Giáo Hội.”[17] Đó là những lời nói mạnh mẽ, đến nỗi không thể có cách nói nào về Học thuyết Xã hội rõ ràng hơn được nữa. Tóm lại, Học thuyết này là một phần thiết yếu của đức tin chúng ta, nên chúng ta phải công bố một cách rộng rãi trong công cuộc tái Phúc âm hóa hiện nay.[18]
[1] Cha Robert p. Maloney, C.M. là bề trên tổng quyền của Tu hội Truyền giáo từ năm 1992 đến năm 2004. (ND)
[2] Cf. Sharing Catholic Social Teaching: Challenges and Directions – Reflextions of the U.S. Catholic Bishops (Washington, DC: N.C.C.B., June, 1998).
[3] Trong nguyên bản, cha Maloney trình bày hai phần: Nắm vững học thuyết và Truyền bá học thuyết. Trong bài viêt này, người dịch xin được bỏ qua phần Truyền bá học thuyết. (ND)
[4] Sharing Catholic Social Teaching: Challenges and Directions – Reflections of the U.S. Catholic Bishops (Washington, DC: N.C.C.B., June, 1998), 1.
[5] Ibid. pp. 1-2.
[6] Ibid. p. 4.
[7] Ibid. p. 5.
[8] Ibid. p.5.
[9] Mt 25:31-46.
[10] Ibid. p. 5.
[11] Ibid. p. 6.
[12] Ibid. p. 6.
[13] Tám nguyên tắc đầu tiên được tôi chắt lọc từ “Reelections of the U.S. Catholic Bishops, ” như là phụ đề thứ hai của “Sharing Catholic Social Teaching”- một đúc kết của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ. Khi tôi đọc bản tóm tắt ấy, tôi thấy vang vọng thêm hai nguyên tắc sau này.
[14] “Summary,” pp. 23-24.
[15] “Summary,” pp. 25
[16] Centesimus Annus 5
[17] Ibid
[18] Trong bài viết này, tôi đã sử dụng khá nhiều – cả dàn bài lẫn nội dung – từ bài viết của cha William J. Byron, trong “Ten Building-Blocks of Catholic Social Teaching,” America (Voi. 179, # 13; October 31, 1998), 9-12. Cha Byron đã rộng lượng cho phép tôi tùy nghi sử dụng, ngài còn gởi cho tôi một bản hoàn chỉnh hơn để tham khảo.
Nguồn Báo Hiệp Thông số 76 (tháng 5 & 6 năm 2013)