Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Mừng Kính Trong Tháng 11
Ngày 01: Thánh Hiêrônimô Hermosilla Liêm
Ngày 01: Thánh Valentinô Berriô Ochoa Vinh
Ngày 01: Thánh Phêrô Almatô Bình
Ngày 03: Thánh Phêrô Phanxicô Nêrôn Bắc
Ngày 05: Thánh Đa Minh Mầu
Ngày 07: Thánh Vinh Sơn Lê Quang Liêm
Ngày 07: Thánh Jacinta Castenada Gia
Ngày 08: Thánh Giuse Nguyễn Đình Nghi
Ngày 08: Thánh Phaolô Nguyễn Ngân
Ngày 08: Thánh Martinô Tạ Đức Thịnh
Ngày 08: Thánh Gioan Baotixita Cỏn (Bốn)
Ngày 08: Thánh Martinô Thọ (Nho)
Ngày 14: Thánh Stêphanô Thêôdôrê Cuénot Thể
Ngày 20: Thánh Phanxicô Xavier Nguyễn Cần
Ngày 24: Thánh Phêrô Dumoulin Borie Cao
Ngày 24: Thánh Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm
Ngày 24: Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa
Ngày 26: Thánh Tôma Đinh Viết Dụ
Ngày 26: Thánh Đa Minh Nguyễn Văn Xuyên
Ngày 28: Thánh Anrê Trần Văn Trông
Ngày 30: Thánh Giuse Marchand Du
:53:
:53::53::53::53:
:53::53::53::53::53::53::53:
Thánh Hierônimô Hermosilla
Thánh Hierônimô Hermosilla có tên Việt Nam là Vọng, khi được vinh thăng Giám mục thì đổi là Liêm sinh ngày 30 tháng 12 năm 1800 tại Santo Domingo de la Calzada, nước Tây Ban Nha, con của cụ ông Augutinô và cụ bà Catarina Hermôsilla, gia đình tuy nghèo về vật chất nhưng lại rất giầu có về lòng đạo đức và tình bác ái.
Ngay từ nhỏ cậu Hermôsilla đã được theo học với các cha dòng Biển Đức và đã ước mong được vào dòng Biển Đức từ lúc 15 tuổi. Nhưng khổ nỗi là vào thời điểm ấy nước Tây Ban Nha đang chịu sự thống trị của vua Napôlêon I, vua ra lệnh các dòng khổ tu không được phép nhận thêm người. Do đó cậu Hermosilla được giới thiệu qua học tại chủng viện giáo phận Valencia do các cha dòng Đa Minh điều khiển. Duyên kỳ ngộ này Chúa đã xếp đặt để đưa Hermôsilla tới dòng Đa Minh và Hermôsilla đã nhận áo Dòng Đa Minh lúc 19 tuổi.
Thời đó, đầu thế kỷ 19 tại Tây Ban Nha đang là thời kỳ Cách Mạng, một đảng nổi lên lật đổ chính quyền nhà vua và bắt bở Giáo Hội. Nhiều tu viện, thánh đường bị tàn phá, bị đóng cửa và giải tán. Tu viện dòng Đa Minh tại Valenza cũng chung một số phận. Nhà dòng bị giải tán, Hermôsilla trở về với gia đình rồi theo lệnh nhập ngũ. Hoàn cảnh đưa đẩy này làm cho Hermôsilla rất hoang mang và đau buồn khổ sở.
Tới đầu năm 1823 vua Tây Ban Nha đã khôi phục lại quyền bính, Giáo Hội trở lại cảnh bình an. Các Dòng tu lại đua nhau mở lại sinh hoạt vui vẻ. Hermôsilla vui mừng trở về Valenza rồi xin trở lại tu viện Đa Minh và ngày 29 tháng 10 năm 1823 thầy Hermôsilla được tuyên khấn vĩnh thệ và lãnh chức Phó Tế. Vì lòng khát khao được đi truyền giáo tại Viễn Đông nên mặc dầu chưa lãnh chức linh mục thì thầy Hermôsilla đã làm đơn ghi danh vào số những người tình nguyện đi truyền giáo tại Viễn Đông. Sau hai năm, Bề trên chọn thầy Hermôsilla cùng với 11 tu sĩ khác khởi hành từ hải cảng Cadiz để đi Manila. Tât cả 12 chiến sĩ trẻ trung đầy nhiệt huyết hăng hái lên đường theo tiếng Chúa gọi như thánh Phaolô xưa trước cửa biển Macedonia: Xin Ngài sang đây cứu vớt chúng tôi (TĐCV. 16,9).
Sau hơn năm tháng trời lênh đênh trên biển cả, con tàu chở đoàn chiến sĩ của Chúa tới Manila bằng an. Sau ít tháng thầy Hermôsilla lãnh chức linh mục tại Manila, thủ đô của Phi Luật Tân rồi làm việc mục vụ tại.đây.
Ngày 23 tháng 10 năm 1828, cha Hermôsilla vui mừng nhận được lệnh của bề trên lên đương đi truyển giáo tại Viễn Đông.Ước nguyện của cha từ lúc 15 tuổi nay đã thành, cha mau mắn xuống tàu qua ngã Macao để tới Việt Nam Cùng đi với cha còn có ba nhà truyền giáo thuộc Hội Thừa Sai Paris nữa. Ngày 15 tháng 5 năm 1829 các ngài.tới Thái Bình. Sau đó cha Hermôsilla tới Trung Linh thuộc giáo phận Bùi Chu ngày nay Hai năm sau là những năm 1830-1832 đạo Chúa bị bách hại khủng khiếp, giáo dân lại quá đông đảo mà chỉ còn ba vị Tông Đồ của Chúa là Đức Cha Delgado Y, Đức Cha Hernares Minh, cha Tổng Quản Fernandez Hiền. Tất cả ba vị đều đã cao niên và chuyên môn sống trong hầm hố, hết nơi này tới khác để tránh bị nhòm ngó, rình bắt ngày đêm. Do đó chỉ còn cha Hermôsilla trẻ trung nên các Đức Cha đặt rất nhiều hy vọng nơi vị Tông Đồ trẻ trung đầy nhiệt huyết này., Đức cha Hernares đặt tên Viêt Nam cho cha Hermôsilla là Vọng
-ngụ ý là niềm hy vọng của các ngài tại Việt Nam- trong giai đoạn này, các ngài làm việc mục vụ thật vô cùng cực nhọc vì phải lén lút, ẩn trốn ngày đêm vì vua Minh Mạng ra sắc lệnh cấm đạo rất nghiêm khắc.
Tại tỉnh Nam Định, tổng đốc Trịnh Quang Khanh sau khi đã bị triệu về kinh nghe khiến trách vì đã lơ là trong việc bắt đạo nên khi trở về, ông đã ra công ra sức tìm mọi cách thi hành lệnh cấm đạo của vua. Ông đích thân đi truy nã, bắt bớ các tín hữu và các đạo trưởng trong toàn tỉnh. Chỉ trong vòng sau hai tháng, Đức Cha Delgado Y, Đức Cha Hernares Minh, cha Tổng Quản Fernandez Hiền đều bị bắt, chỉ còn lại người chiến sĩ trẻ trung là cha Hermôsilla Vọng còn đang ẩn trốn. Nhờ sức khoẻ và sự lanh lợi nên cha Hermôsilla lẩn trốn rất giỏi, lúc biến lúc hiện, tùy ở tin tức giáo dân liên lạc về, để rồi cao chạy xa bay hay nằm lì ở một xó hầm nào chờ cho tới thời cơ thuận lợi. Có lần ngài giả vờ nằm chết trong một quan tài để người ta khiêng qua trạm gác.
Lần khác nhờ trời mưa như thác lũ, ngài che râu, đội nón lá, đi chân không, thắt lưng xắn quần lên cao, lấy bùn trát vào chân tay mặt mũi, và cứ thản nhiên đóng vai người hầu bám đuôi con ngựa chạy theo một ông Chánh Tổng Việt Nam đang bệ vệ ngồi trên lưng ngựa hồng. Nhờ mưu kế này mà cha.đi từ Trung Linh tới Phúc Nhạc Phát Diệm bằng an.
Ngày 25 tháng 4 năm 1841 Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI vinh thăng cha làm Giám mục và được Đức Cha Retord Liêu tấn phong. Cả hai vị Giám mục này đã được Toà Thánh chỉ định để thay thế các Đức Giám mục tiền nhiệm đã bị bắt vì Đạo Chúa. Sau khi nhận chức Giám mục, Đức cha Hermôsilla Vọng đổi tên là Liêm (có khi cũng gọi là Tuấn để tránh sự theo dõi của vua quan), Đức cha xin Toà Thánh tấn phong Giám mục cho cha Romuala Jimeno Lâm làm Giám mục Phó. Về sau Đức Cha Romuala Jimeno Lâm được thuyên chuyển về làm Giám mục tại Manila.
Trong thời gian bảy năm dưới triều vua Thiệu Trị tình thế bắt đạo tạm thời lắng dịu, nhờ thế mà Đức Cha Hermôsilla Liêm cho tu sửa các nhà thờ bị tàn phá, mở lại các trường dạy giáo lý, tổ chức các tuần đại phúc cho các đoàn thể, xứ đạo, tìm lại những con chiên vì yếu đuối đã lâu ngày bỏ đạo, phát động chiến dịch lần hạt kinh Mân Côi, lập lại các Chủng viện, khôi phục lại các nhà dòng, lo đào tạo các linh mục và chính ngài đã truyền chức linh mục cho 7 tân linh mục.
Công việc đáng ghi nhớ nhất của Ngài là năm 1848 Ngài đã xin Đức Giáo Hoàng Piô IX đã chia giáo phận Đông Đàng Ngoài thành hai giáo phận Bùi Chu (Trung Đàng Ngoài) và Hải Phòng (Đông Đàng Ngoài). Từ đây mỗi giáo phận tự tổ chức lấy công việc truyền giáo và mục vụ theo những nhu cầu đòi hỏi của mỗi giáo phận.
Thánh Valentinô Berrio Ochoa
Thánh Valentinô Berrio Ochoa Vinh sinh ngày 14 tháng 2 năm 1827 tại làng Biscaglia, giáo phận Vitoria, nước Tây Ban Nha, trong một gia đình quí tộc, đạo đức nhưng lại nghèo. Con cụ ông Gioan Isidorô Berrio Ochoa và bà Maria Monica Arizti. Khi chịu phép thánh tẩy cha mẹ đặt tên là Valentinô Faustinô. Vì bận rộn lo công ăn việc làm hằng ngày nên ngay từ nhỏ cha cậu Valentinô đã gửi cậu nhờ cha Giuse Echevarria coi sóc. Năm 12 tuổi, cậu lại được cha Santiago Mendoza dòng Đa Minh dạy dỗ và cho giúp lễ.
Nhờ vậy cậu có dịp được cha Mendoza hướng dẫn về đời sống thiêng liêng, được nghe cha kể chuyện các linh mục dòng Đa Minh đi làm việc truyền giáo tại Việt Nam, về những mẩu gương dấn thân và những cuộc tử đạo anh hùng tại các nơi truyền giáo.Những mẩu chuyện hằng ngày đó đã in sâu vào tâm hồn cậu bé Valentinô. Cậu ôm ấp mộng là sẽ xin vào dòng Đa Minh để làm linh mục và xin đi truyền giáo tại Việt Nam. Nhưng chuyện đáng buồn lại tới làm ngăn trở việc học của cậu: Cha mẹ qúa nghèo không còn tiền lo cho cậu ăn học, cậu phải nghỉ học trở về giúp đỡ cha mẹ trong công việc của cha cậu nơi xưởng sản xuất đồ mộc.Phải chăng đây là việc Chúa muốn thử thách ơn gọi của cậu? Tại xưởng mộc, cậu hết sức giúp đỡ cha, đồng thời cậu cũng chú tâm trau dồi văn hoá bằng cách say mê đọc sách báo và nhất là cậu dành thời giờ để học thêm tiếng La tinh.
Năm 18 tuổi cậu xin một linh mục giới thiệu cậu vào chủng viện Logronotriết học với thành quả rất tốt, thầy trở về thăm gia đình, thấy cha già yếu mà phải làm việc quá vất vả, thầy trở lại chủng viện xin bề trên được sống ngoại trú để vừa học, vừa có điều kiện giúp đỡ gia đình. Sồng ngoại trú hơn hai năm và tiếp tục học thần học. Đức Cha Irigoyen, giám mục giáo phận vẫn theo dõi và được các cha giáo sư báo cáo thầy Valentinô Berrio Ochoa là một chủng sinh xuất sắc cả về học vấn lẫn tính hạnh tốt nên Đức Cha đã cho thầy lãnh chức cắt tóc và đặt thầy làm linh hướng dự khuyết cho Tiểu chủng viện, mặc dầu lúc ấy thầy mới 24 tuổi và chưa lãnh chức linh mục. Đây là một trường hợp đặc biệt nói lên uy tín của thầy cũng như lòng tin tưởng và quí trọng của Đức Giám mục giáo phận đối với thầy. Sau đó, Đức Cha lần lượt trao ban chức năm và chức Phó tế rồi tới lễ Chúa Ba Ngôi, ngày 14 tháng 6 năm 1851 thầy thụ phong linh mục qua tay Đức Cha Irigoyen, giám mục giáo phận Victoria. tiếp tục học triết và thần học. Nhờ sự cần mẫn và chăm chỉ thầy Valentinô được tiếng là học giỏi. Đời sống nghiêm túc và lòng đạo đức sâu xa, nên thầy được ban giáo sư, các bề trên và bạn hữu thương mến,......>>>
Thánh Phêrô Almatô Bình(1831-18610)
Thánh Phêrô Almatô Bình sinh đúng ngày lễ kính Các Thánh, ngày 1 tháng 11 năm 1831 tại làng San Feliz Sarerra, thuộc giáo phận Vich, miền Cataluna nước Tây Ban Nha. Thận phụ cậu là ông Salvio Almatô làm nghề y sĩ và thân mẫu là bà Antinia.
Cậu có người bác là linh mục kinh sĩ phụ trách giải tội cho khắp giáo phận và người em gái sau này cũng là một nữ tu. Cuộc đời của cậu là một chuỗi những biến cố bất thường và thật khó hiểu theo những phán đoán thông thường của con người trần gian. Về thể xác thì cậu Phêrô Almatô mảnh khảnh, yếu đuối, hay ốm đau, hầu như không đủ sức khoẻ để theo học tới nơi tới chốn, nhất là sau này cậu lại mơ ước trở nên một chiên sĩ đi truyền giáo ở nước ngoài. Bù lại, về lòng đạo đức thì cậu lại là một người con rất đáng hãnh diện.
Cậu Almatô rất thích đọc tạp chí mang tên là “Kỷ Yếu Hội Truyền Bá Đức Tin”. Trong đó có tường thuật rất nhiều về đời sống, nhiều khi rất mạo hiểm của những nhà truyền giáo nơi các vùng xa xôi đầy hiểm trở.
Cậu Almatô rất thích thú và quyết chí sau này sẽ dấn thân theo vết chân của các nhà truyền giáo này.
Tháng 8 năm 1847 lúc cậu vừa 17 tuổi, Almatô xin phép cha mẹ để nhập dòng Đa Minh. Cậu được bề trên nhận vào tu viện và ngày 25 tháng 9 cũng năm ấy, thầy Almatô được mặc áo dòng, bắt đầu năm tập theo luật dòng.và ngày 26 tháng 9 năm 1848 thầy chính thức khấn Dòng. Sau đó thầy học thần học để chuẩn bị lãnh chức linh mục.
Đang học thần học thì bất thần lệnh bề trên gửi tới, thầy phải chuẩn bị lên đường đi Phi Luật Tân. Tháng 9 năm 1849, thầy Almatô cùng với các bạn đồng hành tới Manila, tiếp tục học thần học và trau dồi ngôn ngữ và tìm hiểu phong tục, văn hoá của các nước vùng Viễn Đông. Ngoài việc trau dồi kiến thức và trí tuệ, thầy còn dành nhiều thời giờ để suy niệm, cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng
Ngày 24 tháng 11: Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa
Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa
Linh mục (1790-1838)
Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa sinh năm 1790 tại Thượng Hải làng Thuận Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, con ông Phaolô Vũ Đình Tân và bà Maria Nguyễn thị Hoan. Cậu Khoa là con thứ ba trong số bảy người con của ông bà Phaolô Vũ Đình Tân, là một gia đình Công giáo ngoan đạo. Ngay từ lúc cậu lên 8 tuổi thì ông Vũ Đình Tân đã cho cậu đi học chữ Hán. Cha Hòa và cha Phương thấy cậu Khoa hiền lành, ngoan đạo, có trí thông minh lai có lòng ước muốn dâng mình cho Chúa thì nhận cậu rồi gửi cậu vào học tại chủng viện Vĩnh Trị, dưới sự giáo huấn của cha chính Jeannet Khiêm.
Tại chủng viện Vĩnh Trị thầy Phêrô Vũ Đăng Khoa học La tinh, triết học rồi thần học. Thầy học môn gì cũng xuất sắc, được ban giáo sư khen thưởng. Sau khi mãn trường năm 1820, thầy Phêrô Vũ Đăng Khoa được lãnh chức linh mục.
Là một linh mục trẻ trung 30 tuổi, Đức Giám mục chỉ định cha về làm phụ tá cho cha Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm coi hai xứ Lu Đăng và Vĩnh Phước thuộc hạt Bố Chính.Trong thời gian 9 năm làm phụ tá cha Vinh Sơn Điểm, cha Khoa đã hết lòng phục vụ giáo hữu và cố gắng học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm trong chức vụ chủ chiên.Nhờ lòng nhiệt thành trong mọi công vụ và lòng đạo đức sâu sa trong lời kinh nguyện, cha Phêrô Vũ Đăng Khoa đã gặt hái được rất nhiều thành quả đáng khen ngợi.
Thấy công việc cha làm quá tốt đẹp, năm 1829 Đức Cha Haverd Du bổ nhiệm cha về coi sóc giáo xứ Cồn Dừa. Trong chức vụ mới, cha Vũ Đăng Khoa đã vận dụng mọi tài năng và hoàn cảnh thuận lợi để lôi kéo được nhiều người trở về với Chúa và mở mang Nước Chúa. Công việc rất nhiều, lúc nào cha cũng bận rộn với đủ mọi thứ việc khác nhau, nhưng cha luôn giữ được sự quân bình trong đời sống thiêng liêng, giờ kinh, giờ cầu nguyện là những ưu tiên hàng đầu của cha. Nét mặt cha luôn vui tươi, nói năng điềm đạm, nhất là rất quảng đại nhân từ với mọi người. Nhờ vậy mà ai ai tiếp xúc và quen biết cha đều quí mến trọng nể cha.
Cuộc đời đang êm đềm và công cuộc mục vụ của cha đang phát triển tốt đẹp thì ngày 6 tháng 1 năm 1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo ban hành toàn quốc: Phải lùng bắt các đạo trưởng Tây phương cũng như bản quốc, kể cả các đạo hữu, đồng thời phải phá hủy các thánh đường, các cơ sở Công giáo Rồi tiếp đến ngày 25 tháng 1 năm 1836 vua Minh Mang lại ban hành chiếu chỉ thứ ba còn mạnh mẽ hơn, nên các linh mục phải trốn tránh. Cha Vũ Đăng Khoa cũng phải thay đổi chỗ ở, nay cư ngụ nhà này, mai trốn chạy tới nhà khác, công việc mục vụ gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt trong những năm 1836-1838. Mặc dầu trước những nguy hiểm và man vàn khó khăn trong một hoàn cảnh tràn đầy thách đố như thế, cha Vũ Đăng Khoa vẫn không chịu lùi bước, cha vẫn kiên trì len lỏi tới bất cứ nơi nào cần đến cha.
Thế rồi một hôm cha tới Lê Sơn hạt Bố Chính làm lễ thì Tú Khiết là một văn nhân trong làng dẫn 15 thanh niên tới đột nhập vào nhà bắt trói cha cùng với hai thầy Giảng là thầy Đức và thầy Khang. Sau đó Tú Khiết bắt cha đeo gông, còn hai thầy thì bị trói rồi áp giải cả ba cha con về Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình nộp cho quan và cả ba đều bị tống giam tại nhà tù Đồng Hới, hôm đó là ngày 10 tháng 7 năm 1838.