Tiểu Sử Các Thánh Tháng I
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 1/1: Thánh Vincent Mary Strambi (1745-1824)
Sinh tại Ý.
Con của một người ghiền thuốc.
Là linh mục dòng Passionist.
Giữ nhiều chức vụ quan trọng trong dòng.
Làm giám mục năm 1801.
Chết vào ngày sinh nhật của mình 1/1/1824.
Ngày 2/1: Thánh Basiliô Cả (329-379)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 2/1: Thánh Basiliô Cả (329-379)
Sinh tại Caesarea Cappadocia (Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ).
Là một trong 10 của hai bận phụ mẫu Thánh Basiliô và Emmelia.
Là tiến sĩ Giáo Hội ở Tây Phương.
Thánh Basiliô, con người kỳ diệu mà mọi thời gọi là Thánh Cả, chào đời khoảng cuối năm 329 tại Cêsaa, thủ đô miền Cappadocia. Ngài thật có phúc vì được sinh ra trong một gia đìng tháng thiện. Cha ngài là thánh Basiliô, mẹ ngài là thánh nữ Emêlia. Nhưng sinh ra ngài, cha mẹ ngài đã chịu bao nỗi âu lo. Một cơn bệnh nặng đã tưởng cất mất sự sống của ngài.Việc ngài bềnh phục được coi như là kết quả của lời cầu nguyện mà thôi.
Từ thời thơ ấu thánh nhân đến sống với người bà là thánh nữ Macrina. Tại đây ngài hấp thụđược những nguyên tắc sống đạo đức đầu tiên. Ngài nói: tôi không hề quên được những lời dạy dỗ và gương lành mà người đàng bà thánh thiện đã ghi vào trong tâm hồn thơ bé của tôi.
Ngay tới khi tuổi đi học, cha ngài, một người vừa đạo đức vừa hoạt bát, đã tự đã nhiệm việc dạy dỗ ngài những yếu tố đầu tiên về văn chương. Sau khi cha qua đời, ngài được gửi đi Cêsarêa rồi Constantanople để học khoa hùng biện. Sau cùng, ngài đi Athena, kinh thành ánh sáng thế giới Hi Lạp thời đó. Tại đây, ngài có dịp làm quen với thánh Grêgoriô thành Naziauze. Hai người kết thân với nhau và tình bạn đầy thánh thiện của họ không hề bị một áng mây mù nào che phủ. Trong thành phố xa hoa ấy, họ chỉ biết có hai con đường dẫn tớ nhà thờ và tới trường học.
Sau khi hoàn tất các môn học ngài dồn nỗ lực học kinh thánh và các giáo phụ. Ngài đã kín múc được từ kho tàng phong phú này những hiểu biết và những tâm tình cao thượng qui hướng con người lên trời.
Lúc hai mươi bảy tuổi, ngài trở về quê nhà và biện hộ cho một vài vụ kiện tụng. Tài lợi khẩu và thành công tưởng trừ đã cột chặt ngài vào với pháp đình. Nhưng chị ngài là thánh nữ Macrina (trẻ), đã nói cho ngài biết về sự trả giá của những tài năng của cải loài người, và về những giá trị chân thực mà ngài như đã quên bỏ.Thế là thánh nhân quyết từ giã thế gian và theo đuổi đời sống ti trì. Ngài đã viếng thăm các tu viện bên đông phương để tìm kiếm gương mẫu và thầy dạy đường nhân đức. Một năm sau ngài mtrở về Canpadocia, rầi lui về miền Pont và thiết lập nhiều tu viện. Các qui luật ngài soạn ra cho các tu viện bên đông phương, cũng như tại một số tu viện của Giáo hội Công Giáo theo nghi lễ Byzantin chỉ sống năm năm như tu sĩ trong viện. Nhưng điều ngài đã làm đã viết là phần thành công trực tiếp và lâu bền nhất trong công trình đời ngài.
Năm 370 khi Đức Giám mục Eusêbiô qua đời, Thánh Basiliô được bầu làm Giám mục Cêsaria. Thánh nhân đã lãnh nhận giáo phận trong một hoàn cảnh đầy sóng gió và đã tỏ ra là một chủ chăn bất khuất trong việc bảo vệ đức tin. Lúc ấy lạc giáo Ariô đang ở vào thời cực thịnh. Hoàng đế Va-lăng (velens) đứng vào phía lạc giáo để bách hại Giáo hội. Thánh Grêgoriô Nazianzênô đã kể lại cuộc đời thánh Basiliô, có lẽ đã tô điểm thêm đôi chút, nhưng đã cho thấy được cá tính của thánh nhân như thế nào. Va-lăng phái Modestô, một tổng trấn nổi tiếng mưu mô và hung ác đến gặp thánh nhân. Hắn nói:
Tại sao ông dám chống lại hoàng đế và không theo đạo của ngài.
Thánh nhân trả lời:
Bởi vì Thiên Chúa là hoàng thượng của tôi, ngài bảo vệ tôi.
Modestô vặn lại:
Vậy ông coi chúng tôi là thứ gì?
Thánh nhân trịnh trọng đáp lời:
Tôi chẳng coi các ông là gì cả, bởi vì các ông đã bắt chúng tôi phải có những điều phản nghịch lại thánh ý của Thiên Chúa.
Modestô liền dở trò đe doạ:
Ông không biết rằng tôi có thể cho ông nếm thử sức mạnh của chúng tôi sao?
Nhưng thánh nhân đã khẳng khái trả lời:
Những hậu qủa do sức mạnh của các ông chỉ có thể là tịch biên tài sản, lưu đày, tra tấn hay là sát hại mà thôi. Đối với việc tịch biên tài sản thì người không có gì cả như tôi làm gì mà phải sợ. Tôi càng không sợ phải lưu đày, bởi vì đâu có chúa thì đấy là quê hương của tôi. Đối với những tra tấn ông bắt tôi phải chịu, thì quả tôi quá yếu đuối và không đủ sức để chịu được một cuộc tra tấn thứ hai. Về cái chết, làm sao tôi lại phải sợ, vì nó sẽ sớm đưa tôi về với Thên Chúa hơn.”
Vị tổng trấn ngạc nhiên:
Bởi vì ông chưa nói chuyện với một Giám Mục nào.
Sau cuộc đàm thoại nảy lửa này, tình hình lắng diụ một thời gian. Nhưng bị áp lực của bè rối, hoàng đế Va-lăng tính bắt Giám mục Basiliô đi đày. Nhưng ý định bất thành vì ngay đêm trứơc con ông ngã bệnh nặng. Được Giám mục đến viếng thăm và cầu nguyện cho lành, nó cũng qua đời vì sự thay lòng đổi dạ của nhà vua. Dầu vậy, dưới áp lực mạnh mẽ của bè rối , vua cũng quyết ký án lệnh phát lưuĐức Giám mục. Lần này, ông vẫn thất bại vì ba bốn lần cầm lấy viết thì viết bị hư, cầm đến dấu ấn thì dấu ấn bị bể nát.
Ngoài sự can trường để bảo vệ đức tin chân chính, thánh Basiliô còn là một mục tử nhiệt thành và giàu lòng bác ái. Ngài đã liên tục đi thăm viếng từng miền trong giáo phận. Ngài chuyên chăm dạy dỗ đoàn chiên và một số bài giảng của ngài được lưu giữ đến ngày nay là những công trình thần học rất đáng giá. Ngoài ra thánh nhân còn yêu thương đặt biệt những người nghèo khó bệnh tật. Ngài đã thiết lập một nhà thương, đặt tên là Basiliát (Basiliade) để chăm sóc họ.
Thánh nhân đã được sống để chứng kiến cái chết của Va-lăng và sự tàn lụi của lạc giáo Ariô nhưng chẳng bao lâu sau ngài cũng qua đời vì kiệt sức, ngày 01 tháng Giêng năm 379
Ngày 3/1: Thánh Denevieve (422-500)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 3/1: Thánh Denevieve (422-500)
Năm 451 thuyết phục dân Pari chống lại cuốc công hãm của quân Mông Cổ.
Được kể là đã lái thuyền đến Seine để mang thóc gạo về cho thành Paris đang bị đói.
Là vị bảo hộ của thành Paris, của mục đồng, của những người làm vườn.
Ngày 4/1: Thánh Elizabeth Ann Seton (1774-1821)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 4/1: Thánh Elizabeth Ann Seton (1774-1821)
Là vị thánh người Bắc Mỹ chính cống đầu tiên.
Trở lại Công Giáo sau khi chồng chết.
Được tôn kính như là một trong những vị sáng lập hệ thống trường giáo xứ ở Hoa Kỳ.
Mẹ Seton là một trong những rường cột của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Ngài sáng lập tu hội đầu tiên dành cho phụ nữ Hoa Kỳ, Dòng Nữ Tu Bác Ái, mở trường học đầu tiên trong giáo xứ Hoa Kỳ và thiết lập cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ. Tất cả những điều trên ngài thực hiện trong vòng 46 năm đồng thời vừa nuôi dưỡng năm người con.
http://www.thanhlinh.net/cacthanh/St...thAnnSeton.jpg Elizabeth Ann Bayley Seton quả thực là người của thế hệ Cách Mạng Hoa Kỳ, ngài sinh ngày 28 tháng Tám 1774, chỉ hai năm trước khi có bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập. Bởi dòng dõi và hôn nhân, ngài có liên hệ đến các thế hệ đầu tiên sống ở Nữu Ước và vui hưởng kết quả của một xã hội tiến bộ. Ðược nuôi nấng trong một gia đình nề nếp Anh Giáo, ngài biết được giá trị của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và sự kiểm điểm lương tâm hàng đêm trước khi đi ngủ. Cha của ngài, Bác Sĩ Richard Bayley, không đóng góp nhiều cho nhà thờ nhưng ông là người rất nhân đạo, đã dạy được cho cô con gái bài học yêu thương và phục vụ tha nhân.
Sự chết sớm của người mẹ năm 1777 và của bà vú nuôi năm 1778 đã đem lại cho Elizabeth một cảm nhận về sự tạm bợ của trần gian và thúc giục ngài hướng về vĩnh cửu. Thay vì ủ rũ và chán chường, ngài đối diện với các biến cố mà ngài coi là sự "hủy hoại khủng khiếp" với một hy vọng đầy phấn khởi.
Vào năm 19 tuổi, Elizabeth là hoa khôi của Nữu Ước và kết hôn với một thương gia đẹp trai, giầu có là ông William Magee Seton. Họ được năm người con trước khi doanh nghiệp lụn bại và ông chết vì bệnh lao. Vào năm 30 tuổi, bà Elizabeth đã là một goá phụ, không một đồng xu và phải nuôi nấng năm đứa con.
Trong khi sống ở Ý, bà được chứng kiến phong trào Tông Ðồ Giáo Dân qua gia đình của những người bạn. Ba điểm căn bản sau đã đưa bà trở về đạo Công Giáo: tin tưởng sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, sùng kính Ðức Mẹ và tin rằng Giáo Hội Công Giáo là một giáo hội tông truyền do Ðức Kitô thành lập. Nhiều người trong chính gia đình bà cũng như bạn hữu đã tẩy chay bà khi trở lại Công Giáo vào tháng Ba 1805.
Ðể nuôi con, bà mở trường học ở Baltimore. Ngay từ ban đầu, nhóm giáo chức của bà đã theo khuôn khổ của một tu hội, mà sau đó được chính thức thành lập vào năm 1809.
Hàng ngàn lá thư của Mẹ Seton để lại cho thấy sự phát triển đời sống tâm linh của ngài, từ những việc tốt lành bình thường cho đến sự thánh thiện cách anh hùng. Ngài chịu đau khổ vì những thử thách như đau ốm, hiểu lầm, cái chết của những người thân yêu (chồng và hai con gái), cũng như sự lo lắng đến đứa con trai hoang đàng. Ngài từ trần ngày 4 tháng Giêng 1821, và vào ngày 17-3-1963, Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên xưng ngài là vị chân phước đầu tiên người Hoa Kỳ. Ngài được phong thánh ngày 24-9-1975.
Lời Bàn
Thánh Elizabeth Seton không có những khả năng phi thường. Ngài không phải là một vị thần bí hay được in năm dấu thánh. Ngài không được ơn tiên tri hay nói tiếng lạ. Ngài chỉ có hai điều thành tâm: từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Thiên Chúa, và yêu quý Bí Tích Thánh Thể. Ngài viết thư cho người bạn là bà Julia Scott, rằng ngài muốn đổi cả thế gian để sống ẩn dật ở "trong hang hay sa mạc. Nhưng Thiên Chúa đã ban cho tôi nhiều việc phải làm, và tôi hằng cầu xin và luôn luôn hy vọng được vâng theo ý Chúa hơn là ý riêng tôi." Kiểu cách nên thánh của ngài là mở lòng cho mọi sự nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành thánh ý Ngài.
Lời Trích
Thánh Elizabeth Seton nói với các nữ tu, "Tôi thiết nghĩ mục đích trước nhất trong công việc hàng ngày của chúng ta là thi hành thánh ý Thiên Chúa; thứ đến, thi hành điều ấy trong phương cách mà Ngài muốn; và thứ ba, thi hành điều ấy vì đó là ý Chúa."
Ngày 5/1: Thánh John Neumann (1811-1860)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 5/1: Thánh John Neumann (1811-1860)
Là vị giám mục thứ bốn ở Philadelphia.
Khấn sống thanh bần như một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế.
Cho đi hầu hết tất cả những gì mình có.
Chết năm 49 tuổi.
Được nhiều người khóc thương trước tấm lòng nhân hậu, quan tâm và quảng đại của ngài.
http://www.dcctdallas.org/vietnamese.../stneumann.jpg
“ Một Vị Ðại Tông Ðồ Mỹ Quốc ”
Lúc về già , đứng trên bờ biển Naples nhìn một chiếc thuyền buồm đang rẽ sóng đi về New Orleans , Thánh Anphongsô nói : “ Một ngày kia con cái ta sẽ đến những miền xa xôi ấy .”
Thánh Clêmentê cũng ước mơ đặt chân đến núi rừng Canađa . Ngày15-4-1832 giấc mơ đã thành sự thật . Cha Passerat , tân Ðại Diện Tổng Quyền , đã gởi một số thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế đến Mỹ châu , theo lời mời của Giám Mục địa phận Cincinnati. Nhà Dòng đã bành trướng thật mau lẹ và trở thành Phụ Tỉnh Mỹ châu , dưới quyền coi sóc của Cha Gioan Neumann, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đầu tiên .
Ngày nay, Dòng Chúa Cứu Thế tại Hoa Kỳ gồm ba Tỉnh Dòng , và con số đông đảo nhất . Năm 1852, Cha Neumann được bổ nhiệm làm Giám Mục Philadelphia. Một vị Giám Mục có tài xây cất . Ngài đã xây cất 100 trường học , 65 nhà thờ mới . Một Giám Mục viết sách , ngài biên soạn cuốn giáo lý phổ thông trong c ác trường .
Một Giám Mục lập Dòng : Ngài sáng lập Dòng các Nữ tu Thánh Phanxicô tại Philadelphia , một Dòng rất thịnh vượng ngày nay. Nhưng vị Giám Mục hoạt động ấy đã chết rất trẻ lúc lên 49 tuổi , trong một cơn đau tim bất thần ngoài đường phố . Ðược một người Tin Lành đưa vào nhà cấp cứu , mở chiếc áo dòng Chúa Cứu Thế ra người ta thấy cây thánh giá Giám Mục , một lố kẹo trong túi áo dành cho trẻ con … Ngài đã chết như ngài đã sống âm thầm trong hy sinh , giữa những người di cư thuộc nhiều sắc tộc từ các nơi đến lập thành “ Hiệp Chủng Quốc ”. Cha Jean Neumann được phong hiển thánh ngày 19-6-1977 do Ðức Giáo Hoàng Phao Lồ VI.
Lm Hồng Phúc, CSsR
Ngày 6/1: Á Thánh André Besette (1845-1937)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 6/1: Á Thánh André Besette (1845-1937)
Sinh tại Canada.
Vào Dòng Thánh Giá năm 25 tuổi.
Có tiếng là một “Tay Làm Phép Lạ ở Montreal”.
Phụ trách xây cất Nguyện Đền Thánh Giuse ở Montreal.
- Xem Đền thánh Giuse: http://www.thanhcavietnam.net/forum/...ead.php?t=2786
Ngày 7/1: Thánh Lucian (? - 312)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 7/1: Thánh Lucian (? - 312)
Sáng lập viện thần học ở Antikô.
Dịch Thánh Kinh sang tiếng Hy Lạp.
Bản dịch của ngài được Thánh Giêrônimô sử dụng để dịch sang tiếng Latinh.
Tử đạo năm 312.
Thánh Severinus (410-480)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 8/1: Thánh Severinus (410-480)
Là một vị tiên tri và là một nhà rao giảng.
Cứu vớt những kẻ bị tù đày;
Chăm sóc bệnh nhân;
Ngăn ngừa dịch tễ;
Làm nhiều phép lạ.
Nói trước về cái chết của mình và các biến cố khác.
Là quan thày của giới trồng nho, dệt vải và tù nhân.
Người được gọi là tông đồ xứ Norique miền trung Âu Châu. Người ta không biết nhiều về quá khứ của người trước khi người đến đây giảng đạo. Tương truyền thì người sinh vào khoãng năm 410 tại North Africa trong một gia đình La Mã quý tộc. Người từ bỏ mọi giàu sang phú quý để sống đời ẩn sĩ tại sa mạc Ai Cập. Mặc dầu người thích sự tĩnh mịch để suy niệm nhưng người cảm nghiệm được tiếng gọi truyền giáo.
Trong 30 năm, người xuôi ngược khắp vùng Noricum (nước Áo bây giờ) Người tiên đoán được Astura bị sự tàn phá của người Huns dưới thời Attila nên người lập trại cho người tỵ nạn, lập các tu viện, chữa người bệnh, chuộc kẻ nô lệ.
Tiên đoán được giờ chết của mình, người qua đời ngày 08 tháng 01 năm 482 tại Favianea, Noricum trong lúc hát thánh vịnh 150. Thánh tích được chuyển về tu viện Benedictine tại San Severino, Naples, nước Ý. Thánh nhân được tôn là quan thầy của Áo Quốc.
* Có vị thánh mang tên Severin, trong số có một vị ẩn sĩ gần Paris, thế kỷ thứ IV, mộ của người ở vị trí nhà thờ Saint Severin bây giờ.
(Trích Điển Ngữ Các Thánh của cố LM Hồng Phúc, CSsR.)
Á Thánh Gioan XXIII (1881-1963)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 12/1: Á Thánh Gioan XXIII (1881-1963)
Tên thật là Angelo Giuseppe Roncalli.
Con của một nông gia chăn nuôi súc vật.
Lên ngôi giáo hoàng năm 78 tuổi.
Triệu tập Công Đồng Chung Vaticanô II.
Qua đời ba tháng sau khi Công Đồng khai mở.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII (1881-1963) đã ra Tông Huấn Grata Recordatio về cách lần hạt Mân Côi 19-9-1959); đã mở Công Đồng Chung Vaticanô II (11-10-1962) và đã đi hành hương Đền Thánh Đức Mẹ Lôrêtô để phó dâng Công Đồng cho Đức Mẹ.
Ngày 13/1: Thánh Hilary of Poitiers (315-368)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 13/1: Thánh Hilary of Poitiers (315-368)
Làm giám mục ở Poitiers nước Pháp.
Là một trong những vị Tiến Sĩ Hội Thánh.
Hăng say chống bè rối Ariô.
Bị hoàng đế Constans phát lưu ở Frigia.
Viết bộ sách 12 cuốn “Về Chúa Ba Ngôi” khi bị lưu đầy.
Sáng tác một số bản thánh ca bằng tiếng Latinh cũng trong thời gian bị lưu đầy.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 10/10/2007
Bài Giáo Lý 53 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay, chúng ta sẽ nói về một vị đại Giáo Phụ của Giáo Hội Tây phương, đó là Thánh Hilary ở Poitiers, một trong những vị đại giám mục trong thế kỷ thứ 4. Đối đầu với thành phần bè rối Arian, những người chủ trương Con Thiên Chúa là một tạo vật, mặc dù không phải là một nhân vật nổi bật nhất, Thánh Hilary cũng đã hiến cuộc đời mình cho việc bênh vực niềm tin tưởng vào thần tính của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, và là Thiên Chúa như Chúa Cha là Ngôi đã nhiệm sinh Người từ thuở đời đời.
Chúng ta không có những dữ kiện chắc chắc về hầu hết cuộc đời của Thánh Hilary. Các nguồn tín liệu xưa nói rằng ngài được sinh ra ở Poitiers vào khoảng năm 310. Trong một gia đình nề nếp, ngài được giáo dục tốt đẹp về chữ nghĩa là những gì được tỏ hiện nơi các bản văn của ngài. Dường như ngài không được nuôi dưỡng trong một môi trường Kitô giáo. Chính ngài đã cho chúng ta biết về một cuộc hành trình tìm kiếm chân lý, một cuộc kiếm tìm dần dần dẫn ngài tới chỗ nhận biết vị Thiên Chúa hóa công và vị Thiên Chúa nhập thể, Đấng đã chết để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Ngài đã được rửa tội vào khoảng năm 345, và được chọn làm giám mục thánh Poitiers vào khoảng năm 353-354.
Vào những năm sau đó, Thánh Hilary đã viết tác phẩm đầu tiên của mình là cuốn “Dẫn Giải Phúc Âm Thánh Mathêu”. Đó là bản dẫn giải bằng tiếng Latinh cổ nhất còn tồn tại chúng ta có được về Phúc Âm này. Vào năm 356, Thánh Hilary, với tư cách là giám mục, đã tham dự Hội Nghị Giám Mục tại Beziers ở miền nam Pháp quốc, một hội nghị được ngài gọi là “Hội Nghị của Các Ngụy Tông Đồ”, ở chỗ hội nghị này bị lấn lướt bởi các vị giám mục theo bè rối Arian, và vì thế đã phủ nhận thần tính của Chúa Giêsu Kitô. Những “vị ngụy tông đồ” này đã xin Hoàng Đế Constantine lên án phát lưu giám mục thành Poitiers. Bởi thế Thánh Hilary đã bị buộc phải rời Pháp vào mùa hè năm 356.
Bị lưu đầy đến Phrygia, tức Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, Thánh Hilary thấy bị bủa vây bởi một môi trường sống đạo hoàn toàn nhuốm mầu sắc lạc thuyết Arian. Cả ở đó nữa, mối quan tâm mục vụ của ngài dẫn ngài đến chỗ không ngừng hoạt động để tái thiết mối hiệp nhất của Giáo Hội, trên nền tảng đức tin chân chính, theo mẫu thức của Công Đồng Chung Nicea. Để đạt được mục đích ấy, ngài đã bắt đầu viết tác phẩm quan trọng nhất và nổi tiếng nhất của ngài, đó là cuốn: “De Trinitatae – Về Chúa Ba Ngôi”.
Trong tác phẩm này, ngài đã nói về cuộc hành trình của bản thân ngài trong việc nhận biết Thiên Chúa, và ngài có ý chứng tỏ cho thấy rằng Thánh Kinh rõ ràng chứng thực về thần tính của Chúa Con và việc Người ngang hàng với Chúa Cha, chẳng những ở Tân Ước, mà còn nơi nhiều trang Cựu Ước nữa, nơi đã cho thấy về mầu nhiệm Chúa Kitô. Đối đầu với thành phần lạc giáo Arian, ngài đã nhấn mạnh đến sự thật liên quan tới các danh xưng của Cha và Con và đã khai triển toàn bộ thần học về Chúa Ba Ngôi bắt đầu từ công thức rửa tội được chính Chúa tỏ cho chúng ta: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Cha và Con có cùng một bản tính. Và nếu có một số đoạn trong Tân Ước khiến cho chúng ta nghĩ rằng Con thua kém Cha thì Thánh Hilary cống hiến những qui tắc xác đáng để tránh những dẫn giải sai lạc: Một số đoạn trong Thánh Kinh nói về Chúa Giêsu là Thiên Chúa, một số đoạn khác nhấn mạnh đến nhân tính của Người. Một số đoạn nói về Người hiện hữu từ trước với Cha; có những đoạn đề cập tới việc hạ mình của Người (“kenosis”), việc hạ mình cho đến chết của Người; và sau heat, có những đoạn chiêm ngắm Người trong vinh quang phục sinh.
Trong những năm lưu đầy của mình, Thánh Hilary cũng viết “Cuốn Sách về Cuộc Hội Nghị Giám Mục”, trong đó, đối tượng nhắm đến là chư huynh giám mục Pháp quốc của ngài, ngài đã lập lại và nhận định về những lời tuyên xưng đức tin cùng với những bản văn khác của các hội nghị giám mục được triệu tập ở Đông phương vào giữa thế kỷ thứ 4. Bao giờ cũng mạnh mẽ chống lại thành phần bè rối cực đoan Arian, Thánh Hilary đã tỏ ra tinh thần công nghị với những vị công nhận rằng Con giống như Cha về yếu tính, dĩ nhiên là ngài cố gắng dẫn các vị ấy đến một đức tin trọn vẹn, một đức tin chủ trương rằng chẳng những giống nhau mà còn thực sự ngang nhau giữa Cha và Con về thần tính nữa.
Đây cũng là một điều đặc biệt, ở chỗ, tinh thần công nghị của ngài cố gắng hiểu biết những vị vẫn chưa đạt đến tầm mức trọn vẹn của chân lý và, bằng sự rất khôn ngoan về thần học, giúp cho các vị ấy đạt đến một đức tin hoàn toàn vào thần tính thực sự của Chúa Giêsu Kitô.
Vào năm 360 hay 361, Thánh Hilary cuối cùng đã có thể trở về quê quán của mình từ chốn lưu đầy và lập tức tái tấu hoạt động mục vụ nơi Giáo Hội của ngài, thế nhưng ảnh hưởng giáo huấn của ngài thực sự đã vượt ra ngoài biên giới giáo phận của ngài nữa. Một hội nghị giám mục đã diễn ra ở Paris vào năm 360 hay 361 lập lại ngôn ngữ của Công Đồng Chung Nicea. Một số tác giả xưa đã nghĩ rằng việc các vị giám mục Pháp gia tăng chống lại bè rồi Arian phần lớn là do nghị lực và sự hiền lành của vị giám mục ở Poitiers này.
Đó chính là biệt tài của ngài, ở chỗ, liên kết sức mạnh của đức tin với sự hiền lành nơi những giao hệ liên cá thể. Trong những năm cuối đời của ngài, ngài đã viết “Luận về Các Thánh Vịnh”, một dẫn giải về 58 bài thánh vịnh, dẫn giải theo nguyên tắc được nói đến trong phần giới thiệu của tác phẩm: “Chắc chắn một điều là tất cả những điều được nói đến trong các Thánh Vịnh cần phải được hiểu theo chiều hướng loan báo Phúc Âm, để hết mọi sự tiếng được thần trí ngôn sứ tự do vang lên, đều qui về việc nhận biết việc xuất hiện của Chúa Giêsu Kitô, nhập thể, khổ nạn và vương quốc, cùng vinh quang và quyền năng của việc chúng ta phục sinh” (Instructio Psalmorum, đoạn 5).
Trong tất cả mọi bài Thánh Vịnh, ngài thấy được cái rạng ngời về mầu nhiệm Chúa Kitô cũng như về thân mình của Người là Giáo Hội. Ở một số trường hợp khác nhau, Thánh Hilary đã gặp Thánh Martin là vị giám mục tương lai của Thành Tours và là vị đã thiết lập một đan viện gần Poitiers, đan viện này vẫn còn cho tới ngày nay. Thánh Hilary đã chết vào năm 367. Lễ kính ngài được cử hành vào ngày 13/1. Vào năm 1851, Chân Phước Piô IX đã công bố ngài là tiến sĩ của Hội Thánh.
Để tóm tắt những khía cạnh chính yếu nơi giáo huấn của ngài, tôi có thể nói rằng khởi điểm cho việc suy niệm thần học của Thánh Hilary đó là niềm tin của phép rửa. Trong cuốn “Về Chúa Ba Ngôi”, ngài đã viết rằng: Chúa Giêsu “đã truyền phải rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (x. Mt 28:19), tức là, tuyên xưng Đấng là Tác Giả, Đấng Được Hạ Sinh Duy Nhất và Đấng Là Tặng Ân. Chỉ có một Đấng là Tác Giả của tất cả mọi sự, vì chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Cha, Đấng mà tất cả mọi sự được xuất phát. Và chỉ có duy nhất một Chúa Giêsu Kitô của chúng ta, Đấng nhờ Người mà muôn vật được tạo thành (1Cor 8:6), và chỉ có một Thần Linh duy nhất (Eph 4:4), tặng ân trong hết mọi sự…… Không gì có thể cho là thiếu hụt nơi sự phong phú quá vĩ đại qui tụ lại nơi Cha, nơi Con và nơi Thánh Thần, một vô cùng của Vĩnh Hằng, một tỏ hiện nơi Hình Ảnh, một niềm vui nơi Tặng Ân” (“De Trinitatae” 2:1).
Thiên Chúa Cha, vì là toàn ái, có thể thông đạt sự viên mãn của thần tính Ngài cho Chúa Con. Tôi thấy câu này của Thánh Hilary thật là tuyệt vời: “Thiên Chúa chỉ biết làm thế nào để là tình yêu, chỉ biết làm thế nào để làm Cha. Và Ngài, Đấng yêu thương, không ghen tị, và Đấng Thân Phụ, rất trọn vẹn. Danh xưng này không cho phép dung hòa, như thể nói rằng Thiên Chúa là cha chỉ ở một số khía cạnh nào thôi chứ không phải những những khía cạnh khác” (ibid 9:61).
Đó là lý do Chúa Con hoàn toàn là Thiên Chúa không thiếu một sự gì hay không kém một chút nào: “Đấng xuất phát từ sự toàn hảo là Đấng toàn hảo, vì Người có hết mọi sự” (ibid 2:8). Chỉ ở nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa và là Con Người mà nhân tính mới có ơn cứu độ. Mặc lấy bản tính của nhân loại, Người đã liên kết hết mọi người với chính mình Người, “Người đã trở nên xác thịt của chúng ta” (“Tractatus in Psalmos” 54:9); “Người đã mặe lấy bản tính của tất cả xác thịt nên trở thành cây nho đích thực, cội rễ của tất cả mọi cành nho” (ibid 51:16).
Chính vì căn nguyên này mà con đường dẫn đến cùng Chúa Kitô đã được mở ra cho hết mọi người, nếu họ cởi bỏ con người cũ (x Eph 4:22) và đóng đinh mình vào thập giá của Người (x Col 2:14); nếu họ từ bỏ những việc làm xưa kia mà hoán cải, để được chôn táng với Người trong phép rửa hầu được sự sống (x Col 1:12; Rm 6:4)” (ibid 91:9).
Sự trung thành với Thiên Chúa là quà tặng của ân sủng Người. Bởi thế, Thánh Hilary, ở cuối việc ngài luận bàn về Chúa Ba Ngôi, xin hãy làm sao để có thể trung thành với niềm tin của phép rửa. Một trong những đặc tính của cuốn sách này là ở chỗ việc suy niệm được biến thành lời nguyện cầu và việc nguyện cầu dẫn đến việc suy niệm. Cả cuốn sách là một cuộc đối thoại với Thiên Chúa.
Tôi muốn kết thúc bài giáo lý hôm nay bằng một trong những lời nguyện cầu ấy, một lời nguyện cầu cũng trở thành lời cầu nguyện của chúng ta, đó là lời cầu nguyện trong một lúc hứng khởi của Thánh Hilary: “Ôi Chúa, xin ban cho con được trung thành với những gì con đã tuyên xưng nơi công thức tái sinh của con, khi con được lãnh nhận phép rửa trong Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh. Để con có thể tôn thờ Chúa là Cha của chúng con, cùng với Cha là Con Cha; để con được xứng đáng với Thánh Thần của Cha, Đấng nhiệm xuất từ Cha qua Con duy nhất của Cha…… Amen” (“De Trinitatae” 12:57).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh
Ngày 15/1: Thánh Maurus (? – 584)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 15/1: Thánh Maurus (? – 584)
Là môn đệ của Thánh Biển Đức.
Được kể là đã đi trên mặt hồ để cứu một bé trai trượt chân xuống nước.
Được cho là đã làm một số phép lạ khi làm đan viện trưởng đan viện Montecassino.
Quan thày của thợ làm đồ bằng đồng.
Ngày 16/1: Thánh Marcellus I
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 16/1: Thánh Marcellus I (? –309)
Là một vị giáo hoàng.
Tái tổ chức lại Giáo Hội sau thời hoàng đế Diocletian.
Bị hoàng đế Maxentius thù hằn và loại trừ.
Được truyền tụng bị bắt chăn ngựa và lừa.
17/7: Á Thánh Jacinta và Phanxicô Marto
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
17/7: Á Thánh Jacinta và Phanxicô Marto (? – 1919, 1920)
Hai trong ba thị kiến nhân thấy Đức Mẹ hiện ra ở Fatima năm 1917.
Giaxinta chuyên hy sinh cứu các tội nhân khỏi sa hỏa ngục.
Phanxicô chuyên cầu nguyện đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể Ẩn Thân.
Được Đức Gioan Phaolô II phong chân phước ngày 13/5/2000.
Ngày 18/1: Thánh Piô Năm Dấu (1887-1968)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 18/1: Thánh Piô Năm Dấu (1887-1968)
Được liệt vào hạng đệ nhất nhân Dấu Thánh của thế kỷ 20.
Cũng có ơn ở hai nơi một lúc và ơn thấu suốt lòng kẻ xưng tội với ngài.
Có máu vui tếu dù sống đời khổ hạnh.
Ngày 19/1: Thánh Marius (? – 260)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 19/1: Thánh Marius (? – 260)
Là một người Ba Tư có danh giá.
Có vợ là thánh Martha.
Có hai người con Thánh là Abachum và Audifax.
Cả gia đình đến Rôma để dấn thân săn sóc những người bị bách hại.
Tất cả nhà bốn vị đã bị tử đạo khi đang chôn cất thi thể của Kitô hữu bị vất vãi ở Via Salaria.
Ngày 20/1: Thánh Sabastian
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 20/1: Thánh Sabastian (? –288)
Làm sĩ quan Vệ Binh để có thể nâng đỡ và an ủi các Kitô hữu tử đạo.
Bị hoàng đế Diocletian khám phá ra ý đồ.
Sống sót trước những mũi tên tử hình.
Bị từ từ đập chết.
Quan thày của giới bắn cung và quân nhân.
Ngày 22/1: Thánh Vincent Pallotti & 2 thánh tử đạo VN
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 22/1: Thánh Vincent Pallotti (1795-1850)
Phục vụ giới trẻ, bệnh nhân, tù nhân.
Thành lập Hội Tông Đồ Giáo Dân Pallottnes.
Mở màn cho phong trào Tông Đồ Giáo Dân.
Ngày 22 Tháng 1
Thánh Phanxicô FEDERICH TẾ
Linh mục dòng Đaminh
(1702 - 1745)
Thánh Tử Đạo Tiên Khởi Trên Đất Việt
Bốn mươi ba tuổi đời, mười năm truyền giáo trên đất Việt, trong đó gần tám năm bị giam cầm, cuộc đời truyền giáo của Thánh Phanxicô Tế có vẻ không được thuận lợi, nhưng chính những năm tù này đã làm nên sự nghiệp của thánh nhân. Nhờ bối cảnh đặc biệt, vị linh mục dòng Thuyết giáo đã tiếp tục thi hành sứ vụ của mình ngay tại kinh đô Thăng Long. Cha vẫn đi thăm viếng và trao ban bí tích cho các giáo hữu, rửa tội cho nhiều tân tòng. Riêng năm 1744, cha giải tội cho 1745 người, rửa tội 73 người (trong đó có 32 người lớn) và xức dầu cho nhiều bệnh nhân. Thành quả đó của một “tù nhân” đủ cho mọi người thấy nhiệt tâm, tài năng và sự khéo léo của vị Thánh Tử đạo đầu tiên trên đất Việt.
Tuổi Xuân và Khát Vọng
Phanxicô Gil de Federich Tế sinh ngày 14.12.1702 tại Tortosa, Tây Ban Nha, quê hương của biết bao vị đại thánh và những vị thừa sai nổi tiếng. Được thừa hưởng truyền thống đạo đức đó, từ niên thiếu, cậu đã nhận ra tiếng Chúa mời gọi sống đời dâng hiến, và đã xin gia nhập dòng Đaminh. Sau một năm tập đầy nhiệt thành đạo đức, tu sĩ Federich tuyên khấn trọng thể tại tu viện Santa Catalina thành Barcelona khi mới mười sáu tuổi.
Sau nhiều năm học tập chăm chỉ, ngày 29.3.1727 thầy Federich được thụ phong linh mục, rồi được bổ nhiệm làm giáo sư triết lý kiêm giáo sư các tu sĩ sinh viên. Thế nhưng ước nguyện thâm sâu của tân linh mục lại là được đi truyền giáo ở phương xa. Hai năm sau, cha xin chuyển sang Tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi, là tỉnh dòng đặc trách việc truyền giáo ở Viễn Đông. Cha xuống tàu, đến trụ sở tỉnh dòng tại Phi Luật Tân năm 1733.
Cha Giám tỉnh Diego tại Manila rất quý trọng khả năng, đức độ của cha Federich, nên đã chọn cha làm thư ký và phụ tá cho mình. Trong công việc tham gia điều hành tại trụ sở, những tin tức ở các vùng truyền giáo nầy càng thúc đẩy cha thực hiện khát vọng truyền giáo. Những vần thơ cầu nguyện với Đức Maria của cha nói lên tâm tình đó:
“Lạy Thánh Mẫu cao vời nhân ái.
Tấm lòng con điên dại đáng thương.
Ngày đêm nung nấu can trường.
Tình bao la Mẹ, đâu phương đáp đền.
Trong tâm tưởng con hằng mong ước.
Khắp muôn phương loan báo Tin mừng.
Giờ con gặp cảnh sầu thương.
Như thuyền neo bến, trùng dương xa vời”.
Cuối cùng ước mơ cao đẹp này đã được thành tựu. Ngày 28.8.1735 cha Phanxicô đặt chân lên đất Việt Nam. Bấy giờ là thời vua Lê Ý Tông (1735-1739) và Uy Nam Vương Trịnh Giang (1729-1740).
Trên Cánh Đồng Truyền Giáo
Sau một thời gian ngắn học ngôn ngữ và phong tục, cha Federich Tế đã đến phục vụ tại nhiều nơi. Mới đầu ở huyện Trực Ninh (Nam Định) rồi Vũ Tiên (Thái Bình), sau đảm nhiệm hai giáo xứ Kẻ Mèn, Bắc Trạch; tiếp đó qua huyện Giao Thủy coi họ Lục Thủy và Quất Lâm.
Một hôm ở Quất Lâm cha đang giải tội, bỗng giáo dân chạy vào báo tin lương dân đang lùng bắt ngài. Cha Tế vẫn bình tĩnh cầu nguyện giây lát, rồi cứ tiếp tục giải tội. Sự bình tĩnh và bầu khí thiêng thánh của việc trao ban bí tích Hòa giải đã cứu cha. Những người vây bắt ngây người đứng nhìn một lát rồi rủ nhau giải tán.
Mối Giây Oan Nghiệt
Mới được hai năm hoạt động ngắn ngủi, cha Tế đã bị bắt ngày 3.8.1737. Theo sử sách, một nhà tu tên Tình vốn ghét đạo Công giáo, lại muốn tìm cách làm tiền. Nhà sư đã đến xin phép quan huyện Giao Thủy, rồi đưa người đến vây bắt các đạo trưởng ở làng Trung Linh. May là các linh mục ở đây biết trước nên trốn đi hết, nhưng sau đó nghe tin có đạo trưởng Âu châu ở họ Lục Thủy, nhà sư đem quân đến vây ngay lúc cha Tế vừa dâng thánh lễ xong. Để nguyện đường khỏi bị xúc phạm và giáo hữu khỏi liên lụy, cha tự nguyện ra nộp mình. Cha nói: “Các ông tìm bắt tôi, thì chính tôi đây. Xin hãy tha cho các giáo hữu của tôi”.
Khi nghe tin cha Tế bị giam giữ tại làng Thủy Nhai, giáo hữu của cha gom góp tiền đến gặp sư Tình xin chuộc, nhưng nhà sư chê ít và giữ cha tại nhà riêng mười ngày. Thấy thế, giáo hữu lên tỉnh trình quan và hứa sẽ hậu tạ nếu vị linh mục được giải thoát. Quan Trấn thủ Sơn Nam liền phái lính về Thủy Nhai bắt cả sư Tình lẫn cha Tế. Vị sư này nhanh chân chạy thoát, lên tận kinh đô tố cáo với vua rằng: Quan Trấn thủ đã ăn hối lộ, và làng Lục Thủy chứa chấp Tây dương đạo trưởng. Khi hay tin, quan trấn biết không thể thả cha Tế được nữa, nên đành cho áp giải cha về Thăng Long. Dọc đường cha lên cơn sốt rét trần trọng, nhưng khi tới nơi, cha vẫn phải mang gông và bị tống giam vào ngục.
Năm Tù Đầu Tiên và Bản Án
Sau khi khỏi bệnh, cha Phanxicô Tế được đưa ra tòa hai ngày liền. Các quan đối xử tử tế với cha, nhưng dân chúng có người la ó, buông những lời khiếm nhã, có kẻ lấy que bẻ vụn, làm những hình thánh giá ném vào người cha. Cha bình tĩnh nhặt lên hôn kính và cất thánh giá vào túi. Trong ngục, cha được linh mục giả làm thầy lang vào thăm bệnh, giải tội và trao Mình Thánh Chúa. Suốt một năm, cha Nghi cùng cháu của bà Kính vẫn ra vào thăm và tiếp tế. Qua những chứng nhân này, mọi người biết cha Tế luôn kiên nhẫn, bình tĩnh, không trách cứ than vãn, và nhiều lần còn tỏ ý muốn được tử đạo nữa.
Ngày 10.7.1738, cha Tế bị đưa ra tòa cùng với nhà sư Tình. Quan trấn Sỏn Nam Hạ khi áp giải cha về kinh đô, đã tố các nhà sư chứa chấp cha mười ngày trong nhà. Để chạy tội, vị sư này xin đạp lên thánh giá, minh chứng mình không ủng hộ đạo Công giáo. Về phần cha Tế, khi các quan bắt cha bước qua Thánh giá, cha trả lời: “Tôi không thể phạm tội nặng ấy được”. Các quan hỏi về ý nghĩa ảnh tượng Thánh giá. Cha đáp: “ảnh này tượng trưng cuộc tử nạn của Con Thiên Chúa giáng sinh cứu chuộc nhân loại”. Các quan nói tiếp: “Nhưng luật triều đình cấm giảng đạo này”. Cha trả lời: “Chẳng ai có quyền cấm giảng đạo Thiên Chúa đã truyền loan báo cho mọi dân mọi nước. Ai cấm, tức là cướp quyền của Thiên Chúa”.
Các quan nghị án một lát, rồi tuyên án trảm quyết đạo trưởng Federich Tế, kết án sư Tình và con trai phải phát lưu chăn voi. Ngày 12.9 bản án được Chúa Trịnh Giang phê chuẩn, nhưng vì nhà sư chạy chọt chống án ở nhiều nơi, nên bản án chưa được thi hành.
Lời Chúa Không Thể Bị Trói Buộc
Thời gian sau đó, vì tình hình chính trị bất ổn, bản án của cha Tế bị lãng quên: Trịnh Doanh đảo chánh lật đổ anh, chiếm phủ chúa, và tự phong là Minh Đô Vương (1740-1767); rồi Lê Hiến Tông lên ngôi lấy hiệu là Cảnh Hưng (1740-1786): giặc Lê Duy Mật nổi lên ở Thanh Hóa; dư đảng của nhà Mạc cũng nổi loạn ở Thượng Du... Những biến cố dồn dập đó làm vua quan bận rộn đến nỗi quên mất “tử tội” của mình.
Lợi dụng hoàn cảnh đó, cha Tế khéo léo xin phép, có khi mất tiền, để được đi lại trong thành Thăng Long thăm các tín hữu, trao ban bí tích và giảng đạo cho lương dân. Có gia đình hai chị em bà Gạo là ngọai giáo, đã vào xin quan cho cha Tế đến tá túc tại nhà mình. Chị bà Gạo mắc bệnh nan y, không thuốc nào chữa nổi, sau nhờ lời cầu nguyện của cha Tế được khỏi bệnh, nên xin rửa tội ngay. Còn bà Gạo, một thời gian sau mới xin tòng giáo, lấy tên thánh là Rôsa. Hai chị em sống đạo rất gương mẫu.
Thấy cha Tế dễ dàng ra vào ngục như thế, Đức Giám mục Longer Gia ngỏ ý muốn đặt cha làm chính xứ Kẻ Chợ (Thăng Long), nhưng cha từ chối, vì thấy rằng không chắc được dễ dàng mãi. Cha nói: “Một tù nhân không thể coi sóc ai được”.
Từ ngày 30.5.1744, cha Tế có thêm một cộng sự viên rất đắc lực nữa, đó là linh mục Matthêô Alonso Liciniana Đậu cũng dòng Đaminh, bị bắt cách đó sáu tháng, được áp giải về Thăng Long và cùng bị giam một nơi. Niềm vui mừng xúc động dạt dào tả sao cho hết. Hai nhà thuyết giáo thăm hỏi, an ủi, khích lệ và bàn bạc với nhau, biến Thăng Long thành môi trường truyền giáo, hợp tác với nhau làm mục vụ tông đồ.
Giờ Phút Vinh Quang
Sau hơn bảy năm tù và bảy tháng được sống chung với người bạn đồng chí hướng, ngày 22.1.1745, cha Tế bị đem đi xử. Cha tỏ vẻ hân hoan, cảm ơn và giã biệt chị em bà Gạo, tạm biệt cha Liciniana Đậu và một số ân nhân, rồi thanh thản tiến ra pháp trường. Riêng cha Đậu chỉ bị án chung thân, xin phép quan đi theo đưa tiển. Thế nhưng khi đi ngang hoàng cung, cha Đậu được tin mình cũng bị xữ trảm với linh mục bạn.
Hai vị chứng nhân nhìn nhau vui sướng. Cả hai cùng tạ ơn Chúa, vì từ đây không bao giờ phải xa lìa nhau nữa. Tại pháp trường, giáo hữu cũng như lương dân có mặt rất đông đều tỏ lòng thương tiếc, cảm thông. Lý hình vừa chém rơi đầu hai vị, nhiều người òa lên khóc và ùa vào thấm máu, hoặc lấy vật gì làm thánh tích.
Theo ý Đức cha Hilario Hy, thi hài hai cha được đưa về an táng tại nhà chung Lục Thủy. Vài ngày sau, Đức cha tổ chức thánh lễ tạ ơn long trọng, có đông đảo các cha dòng đến dự. Ngay khi đó mọi người đều tin tưởng hai đấng đã được lãnh triều thiên tử đạo, và bắt đầu chuẩn bị lập hồ sơ xin phong thánh.
Ngày 20.5.1906 các ngài được Đức Giáo Hoàng Piô X suy tôn lên bậc Chân Phước.
Ngày 22 Tháng 1
Thánh Matthêô ALONSO LICINIANA ĐẬU
Linh mục dòng Đaminh
(1702 - 1745)
Đồng Tử Đạo Tiên Khởi của Đất Việt
Ngày 22.1.1745, trên đường ra pháp trường ở ngoại ô Thăng Long, hai vị linh mục đồng hành: Cha Phanxicô Tế và cha Matthêô Đậu. Số phận hai nhà thuyết giáo này cho đến nay vẫn gắn liền với nhau. Hai người bạn thân với biết bao điểm tương đồng: từ đồng hương là Tây Ban Nha đến đồng dòng tu thánh Đaminh, tỉnh hạt Đức Mẹ Mân Côi. Rồi cả hai đã cùng đến giảng đạo tại địa phận Đông Đàng Ngoài, cùng bị bắt ở Lục Thủy, đồng lao cộng khổ với nhau ở trong tù. Thế mà trên đường ra pháp trường, một vị tươi cười, cha Phanxicô Tế, vì sắp được tử đạo, một vị vẻ mặt rầu rĩ, cha Matthêô Đậu, chỉ bị án chung thân và đi tiễn chân bạn mình. Vậy là giờ đây sắp phải chia tay nhau mãi mãi!
Khi đoàn hành hình đi ngang hoàng cung thì dừng lại. Một viên quan đại diện nhà vua đến loan tin: “Đạo trưởng Đậu cũng phải chịu án chém đầu”. Niềm mong ước của cha Đậu được toại nguyện, và nhờ bản án đó, hai cuộc đời của hai chứng nhân đức tin đã nối chặt không bao giờ tách rời được nữa: đồng sinh đồng tử và cuối cùng đồng phúc vinh quang giữa hàng ngũ các thánh tử đạo anh hùng. Và đặc biệt, nhờ bản án đó, cha Matthêô Đậu được thành vị thánh đồng tử đạo tiên khởi trên đất nước Việt Nam.
Viễn Đông Vẫy Gọi
Matthêô Alonso Liciniana Đậu sinh ngày 26.10.1702 (trước Thánh Phanxicô Tế bảy tuần) tại Nava del Rey, Tây Ban Nha. Đáp lại tiếng Chúa kêu mời, cậu Alonso đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức Kitô trong tu viện Santa Cruz do chính Thánh Đaminh lập ở Ségovia (năm 1218), thành phố còn lưu dấu nhiều di tích của Thánh Tổ phụ. Tại đây Alonso đã tuyên khấn, học thần học và thụ phong linh mục.
Thời gian này, Tỉnh hạt Đaminh Đức Mẹ Mân Côi phái người đến các tu viện cổ động và tìm người truyền giáo ở Viễn Đông. Tình hình vùng truyền giáo quá thiếu người. Thí dụ tại Bắc Việt, không kể Đức cha Sextri Tri, dòng chỉ còn bốn vị. Năm 1728, ba linh mục gởi đến đây đã bị đắm tàu chết hết (1). Cha Alonso và 23 tu sĩ Tây Ban Nha đã đáp lời mời đi tàu đến Manila vào tháng 11.1730. Tháng hai năm sau, cha cùng với hai linh mục Phêrô Ponsgrau Băng và Micae Pajares đi Macao để đến Việt Nam. Cuộc hành trình sóng gió hiểm trở kéo dài mười một tháng, cha Pajares lâm bệnh phải trở về. Hai vị còn lại đến Trung Linh ngày 18.1.1732 trong niềm vui lớn của địa phận Đông Đàng Ngoài.
Trên một địa phận rộng lớn với số nhân sự quá ít oi, cha Matthêô Đậu phải di chuyển và phục vụ nhiều nơi. Sau thời gian học tiếng ở Trung Linh, cha truyền giáo ở Sơn Nam Thượng, hoạt động trong các huyện Kim Động, Tiên Lữ, Thần Khê (Hưng Yên), rồi các huyện Thanh Quan, Vũ Tiên (Thái Bình), và sang cả Nam Châu, Giao Thủy, Xuân Trường (Nam Định). Các giáo xứ lớn đã được cha coi sóc là Trung Lao, Tiên Chu, Kẻ Hệ và Lai Ổn. Sức khỏe của cha không được tốt lắm, dáng người mảnh khảnh, ốm yếu, nhưng cha đã vượt qua mọi gian khó và luôn kiên trì hoạt động không ngơi nghỉ.
Cuộc Thử Thách
Tháng 11.1743 đang ở Lai Ổn, thấy tình hình không mấy bình an, cha liền di chuyển qua Lục Thủy Hạ, trú trong nhà ông trùm Độ. Chẳng may trong làng có một tín hữu đã bỏ đạo tên Đạt biết được và đi tố cáo với quan. Sáng 29 tháng 11 quân lính đến vây làng Lục Thủy, ập vô nhà đang lúc cha cử hành thánh lễ. Các giáo hữu sợ hãi chạy tán loạn. Cha Đậu vì bất ngờ cũng hoảng hốt bỏ chạy, tay ôm bình Thánh và rước hết Bánh Thánh. Nhưng không kịp nữa rồi, quân lính đuổi theo bắt cha lại, và đánh đập cách tàn nhẫn. Họ xúm vào vật cha xuống đất, kẻ bứt tóc xé áo, người nhổ râu xỉ vả chế diễu. Một người lính cầm giáo đâm sượt ngang hông, máu chảy loang đỏ trên bộ áo dòng trắng, khiến cha tưởng giờ chết sắp đến, miệng thầm kêu tên cực trọng Giêsu Maria. Cùng bị bắt với cha có ba thầy giảng Đaminh Sĩ, Đaminh Đậu, Ignatio Qúy và hai giáo hữu trong xứ. Tất cả được giải lên quan trấn thủ Sơn Nam bấy giờ là Lê Văn Phượng. Quan chỉ giữ lại cha Đậu và Thầy Quý, còn tất cả được trả về tự do.
Sau ba lần ra tòa, với nhiều cách thức nạt nộ, đe dọa, dụ dỗ hoặc tra tấn, quan trấn thủ không thể làm cha Đậu và thầy Quý chối bỏ đức tin. Ngày 21.12 quan hỏi cha có biết lệnh vua cấm giảng đạo không, cha đáp: “Chính vì cấm tôi mới phải ẩn trốn chứ”. Quan liền thảo bản án trảm quyết cha Đậu, còn thầy Quý bị phát lưu thảo tượng (chăn voi) suốt đời.
Nhưng sau đó, nhờ sự can thiệp của một viên quan thiện cảm với đạo, án của cha được đổi thành chung thân, còn thầy Quý được tha bổng sau khi mộp cho quan một món tiền. Ngày 30.5.1744, quân lính áp giải cha về Thăng Long và giam chung với linh mục Phanxicô Tế đã bị bắt từ năm 1737, đã có án trảm quyết, nhưng vì tình hình chính trị nên chưa bị đem đi xử.
Cùng Sống, Cùng Chết, Cùng Phúc Vinh
Thật tả sao cho xiết niềm vui thiêng liêng được gặp lại nhau của hai anh em cùng dòng, lại cùng tuổi trong cảnh tù tội này. Từ nay các vị không còn đơn độc nữa. Hai anh em hân hoan chia sẻ cho nhau những tâm tư thao thức, ôn lại những kyœ niệm, trao đổi bàn bạc việc tông đồ và cùng nhau cầu nguyện. Chỉ sau vài ngày với một ít tiền bạc, cha Đậu cũng được tự do đi thăm và giúp đỡ các tín hữu trong vùng. Vào lễ Chúa Ba Ngôi năm 1744, cha Tế dâng lễ, cha Đậu giúp lễ. Nhưng một khung cảnh đẹp đáng ghi nhớ hơn, và có lẽ là trường hợp duy nhất trong hạnh các thánh tử đạo, đó là ngày 4 tháng 6 năm ấy, lễ Mình Thánh Chúa, sau sáu tháng tù không có cơ hội nay cha Đậu được dâng một thánh lễ âm thầm nhưng ấm cúng trong tù với sự tham dự của 130 giáo hữu Thăng Long. Bảy tháng tù ở kinh đô đã trôi qua thật êm ả, hai vị linh mục vẫn tiếp tục loan báo Tin mừng, giải tội, rửa tội, xức dầu và an ủi khích lệ các tín hữu. Riêng cha Đậu trong bảy tháng đã rửa tội 55 người, trong đó có 22 người lớn và giải tội cho 620 hối nhân.
Ngày 22.1.1745, có lệnh đưa cha Tế đi xử trảm. Án của cha Đậu vẫn như cũ là án chung thân. Cha buồn rầu hết sức, và năn nỉ xin phép quan cho đi tiễn chân bạn đến pháp trường. Khi đi ngang hoàng cung, đoàn người dừng lại, một viên quan khi đọc bản án của cha Tế và đọc tiếp: “Matthêô cũng là đạo trưởng Hoa Lang đã bị án chung thân, nay bị kết án xử trảm”.
Thế là cuối cùng cha Đậu được toại nguyện. Tại pháp trường, quân lính chặt tháo xiềng xích ở chân tay hai cha, vô tình làm chảy máu khá nhiều. Các tín hữu đến tận nơi hôn xiềng xích và xin các cha cây Thánh giá ở tay làm kyœ vật. Sau khi bị trói vào cọc, hai linh mục bị chém cùng một lúc trong sự thương cảm của những người đến dự, dù giáo hay lương. Có sử liệu ghi nhận: một cụ bà Phật tử ở đó lâm râm cầu trời khấn Phật cho hai cha thoát chết. Khi đầu hai vị tử đạo rơi xuống đất, nhiều người khóc nức nở, và xông vào thấm máu hoặc tìm vật kyœ niệm.
Cha Bề trên dòng, Phêrô Ponsgrau Băng, người đã đến Việt Nam cùng ngày với cha Đậu, cử hai thầy giảng Điều và Luận, cùng ít giáo hữu tìm cách rước thi hài các tôi trung đức tin về nhà tràng Lục Thủy. Giáo hữu ba xứ Bùi Chu, Trung Linh, Trung Lễ gặp nhau và tranh quyền an táng các ngài ở nhà thờ mình. Cha chính phải can thiệp để họ vui lòng nhường cho nhà chung. Mấy ngày sau, Đức cha Hilario Hy dâng lễ tạ ơn, có các cha dòng và rất đông đảo giáo dân tham dự.
Đức Thánh Cha Piô X suy tôn hai cha Phanxicô Federich và Matthêô Liciniana Đậu lên bậc Chân Phước ngày 20.5.1906.
(1): Các cha Sebastiano Bartera, Gioan Travaria, Lui Aguado. Xc Bùi Đức Sinh, Dòng Đaminh Trên Đất Việt. q. I, tr.68.
Ngày 23/1: Thánh Emerentiana
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 23/1: Thánh Emerentiana (? – 304)
Là chị nuôi của Thánh Agnes.
Chưa trở thành Kitô hữu đã được phúc tử đạo.
Bị ném đá chết khi đang cầu nguyện ở mộ Thánh Agnes mới tử đạo.
Ngày 24/1: Thánh Phanxicô Salêsiô
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 24/1: Thánh Phanxicô Salêsiô (1567-1622)
Là một vị linh hướng đặc biệt.
Thân thiết với Thánh Nữ Jane Frances de Chantal.
Tác giả cuốn tu đức nổi tiếng “Bước Vào Đời Sống Đạo Hạnh”.
Tiến sĩ Hội Thánh.
Đồng Sáng Lập Dòng Thăm Viếng.
Ngày 25/1: Thánh Phaolô Trở Lại (10-66)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 25/1: Thánh Phaolô Trở Lại (10-66)
Tên thật là Saulê.
Là một tay bắt bắt Kitô hữu tiên khởi.
Bị quật ngã trên đường đi bắt bớ đến Đamascô.
Trở thành một Tông Đồ Dân Ngoại.
Các Thư của ngài là một phần làm nên bộ Tân Ước.
Bị chặt đầu ở Rôma.
Ngày 27/1: Thánh Angela Merici
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 27/1: Thánh Angela Merici (1470-1540)
Đi tầu thủy hành hương đến Thánh Địa.
Không được thấy Mồ Thánh vì bất ngờ bị mù.
Thị kiến thấy một cầu thang lên đến tận trời với đầy những trẻ gái.
Dấn thân phục vụ nữ nhi.
Sáng lập Hội Dòng Ursuline.
Ngày 28/1: Thánh Tôma Aquinas
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 28/1: Thánh Tôma Aquinas (1225-1274)
Là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Là một trong những tư tưởng gia đệ nhất trong lịch sử loài người.
Là một trong những bậc thức giả Thời Trung Cổ.
Dạy học tại đại học Paris và Naples.
Viết bộ Tổng Luận Thần Học (Summa Theogica).
Ngày 30/1: Thánh Martina vaø Thánh Tôma KHUÔNG Linh mục dòng ba Đaminh (1780 - 1860)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 30/1: Thánh Martina (? – 226)
Là con của một vị lãnh sự Rôma.
Trở lại Kitô giáo.
Bị chém đầu, một cuộc chém đầu khiến các tượng thần Apollo và Artemis bị rung chuyển, và làm cho đền thờ bị tiêu hủy, sát hại cả các vị tư tế và thành phần thờ phượng ở đó.
Ngày 30 Tháng 1
Thánh Tôma KHUÔNG
Linh mục dòng Đaminh
(1780 - 1860)
Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy không lạ gì mẫu gương của Thánh Phanxicô thành Assie hay Thánh Tomas d’Aquino, đã từ bỏ dòng dõi quý tộc giàu sang để vâng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, đã theo gương Đức Kitô, Thầy Chí Thánh, Đấng chủ tể muôn loài chấp nhận trở nên nghèo khó không chốn nương thân để loan báo Tin mừng Cứu độ. Thánh Tôma Khuông cũng vậy, ngài đã quên đi dòng dõi quyền quý sang trọng, để theo tiếng Chúa kêu gọi và trở thành chứng nhân cho Đức Kitô, chứng nhân cho một tôn giáo mới mẻ đối với dân tộc Việt Nam, một tôn giáo bị miệt thị và chịu bách hại nặng nề. Quả thật, chỉ có Thiên Chúa mới khiến được cha hy sinh như thế. Và cũng thực quý báu biết bao tấm lòng của cha đã sẳn sàng đáp lại tiếng kêu gọi đó, đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình cho tình yêu Thiên Chúa.
Phản Đối Bạo Động
Tôma Khuông sinh khoảng năm 1780 (thời Trịnh Nguyễn) tại làng Nam Hòa, xứ Tiên Chu, tỉnh Hưng Yên. Con đường danh vọng rộng mở cho cậu bé thông minh xuất sắc này, vì cha cậu đã từng làm Tuần phủ ở Hưng Yên. Nhưng cậu đã nghe theo tiếng gọi linh thiêng và xin vào nhà Đức Chúa Trời. Sau đó cậu theo học tại chủng viện và thụ phong linh mục.
Trong trách nhiệm coi sóc các linh hồn, cha Khuông nổi tiếng là một linh mục khôn ngoan thánh thiện, khéo giao thiệp và nhiệt thành với sứ vụ truyền giảng Tin mừng. Sống trong địa phận dòng Đaminh đảm trách, cha Khuông muốn liên kết sâu xa hơn với dòng, cha đã gia nhập dòng ba Đaminh và cổ động nhiều giáo hữu cùng tham gia để thánh hóa đời sống mỗi ngày.
Trải qua ba thời bách hại của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, cha Tôma Khuông đã khôn khéo thân thiện với quan chức địa phương để có thể tiếp tục thi hành việc mục vụ. Nhiều lần cha bị bắt giữ, nhưng nhờ những quan hệ này, cha được trả tự do. Tuy nhiên từ năm 1858, cuộc bách hại của vua Tự Đức gia tăng mãnh liệt, công việc của quân Pháp đã khiến vua Tự Đức tức giận và nghi ngờ giới Công giáo tiếp tay với thực dân, nên thẳng tay đàn áp họ. Một vài làng Công giáo có tổ chức một số thanh niên để tự vệ trước sự càn quét của quân lính nhà vua. Cha Khuông khi đó đã gần 80 tuổi, hoàn toàn không hưởng ứng chủ trương này. Năm 1859, thấy một số giáo dân Cao Xá tổ chức võ trang, cha liền ngăn cản và quyết định lánh sang địa phận Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng). Quyết định này đã khiến cha bị bắt và được lãnh phúc tử đạo.
Khi cha đến đầu cầu làng Trần Xá, cha thấy quân lính đã đặt sẵn ở đó một thánh giá buộc mọi người đi qua phải đạp lên. Là một linh mục của Chúa Kitô, cha nhất định quay lưng trở lại tìm lối đi khác. Thái độ dứt khoát đó khiến quân lính nhận ra và chận cha lại. Khi cha khẳng khái từ chối việc bước qua thánh giá lính liền bắt trói cha cùng với người tín hữu đi theo cha.
Sau mười lăm ngày giam giữ, cha Tôma Khuông và bốn giáo hữu khác có địa vị, được áp giải tới quan Tổng đốc xét xử. Quan tìm mọi cách ép buộc cha làm nhân chứng tố cáo: Những người Kitô hữu ở Cao Xá thông đồng với tàu Pháp - Tây Ban Nha đang bỏ neo ngoài biển, âm mưu nổi loạn chống lại nhà vua. Cha Tôma thẳng thắn trình bày lập trường của Giáo Hội: “Đạo Công giáo không những cấm các tín hữu chống đối chính quyền, mà còn khuyến khích họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương được an ninh thịnh vượng”.
Bấy giờ quan không nói gì đến vấn đề này nữa, chỉ bắt cha bỏ đạo, bước qua thập giá và yêu cầu cha khuyên các tín hữu khác làm như vậy để được tự do trở về nhà. Khi đó người tôi trung của Chúa trả lời:
“Tôi nay đã 80 tuổi rồi, lại là linh mục Công giáo, tôi luôn luôn nhắc nhở các tín hữu trung thành giữ đạo thánh Chúa. Giờ đây nếu tôi khuyên họ chối đạo, thì tôi thật bất xứng và chẳng đáng làm linh mục. Tôi và các bạn tôi không mong ước gì hơn là được hy sinh mạng sống vì đạo thánh Chúa”.
Thánh Giá và Vinh Quang
Lòng khao khát mong mỏi trên của vị anh hùng đức tin đã được thể hiện. Án trảm quyết do quan Tổng đốc đệ về kinh được vua Tự Đức chuẩn y. Và ngày 30.1.1860, cha Tôma Khuông bị điệu ra pháp trường Hưng Yên. Trên đường tới đồi Canvê của mình, mọi người thấy vị cha già khả kính chống cây gậy mà cha đã cẩn thận cột thêm một thanh ngang cho giống hình thánh giá, bước đi chậm rãi. Cha vui vẻ chào giã biệt những người đang ngậm ngùi thương tiếc tiễn đưa.
Cây thánh giá, biểu tượng suốt đời cha đã tin tưởng và công bố. Cây Thánh giá mà cha không bao giờ giày đạp, cho dù phải chịu muôn nỗi gian khổ và cả cái chết. Thì giờ đây, với cách biểu hiện rất đơn giản đó, cha muốn nói với mọi người rằng: Cho đến phút cuối cùng của cuộc đời, thì Thánh giá vẫn mãi mãi là niềm an ủi và là chỗ dựa vững chắc cho người Kitô hữu. Đến nơi xử, cha Khuông quỳ gối trang nghiêm cầu nguyện trước cây Thánh giá đó, rồi cúi đầu lãnh nhận lưỡi gươm đem lại vinh phúc ngàn thu.
Ngày 29.4.1951 cùng với 24 vị tử đạo khác tại Việt Nam, cha Tôma Khuông được Đức Thánh Cha Piô XII suy tôn lên hàng Chân Phước.
Ngày 31/1: Thánh Don Bosco (1815-1888)
http://www.thoidiemmaria.net/TDMmoi/...Knhodelink.jpg
Ngày 31/1: Thánh Don Bosco (1815-1888)
Là con của một gia đình quê mùa chất phác.
Dấn thân phục vụ giới trẻ ở Turin.
Thành lập Dòng Salêsian và Dòng Nữ Tử Thánh Maria Phù Giúp.