Thánh Hedwig
(nữ tu)
Kính ngày 16 tháng 10.
là chị gái của thánh Elizabeth, hoàng hậu Hungary.
Sinh: 1174.
Chết: 12 - 10 - 1243.
Phong thánh: 1267
Tiểu sử:
http://www.simonhoadalat.com/suyniem...010/Hedwig.htm
Printable View
Thánh Hedwig
(nữ tu)
Kính ngày 16 tháng 10.
là chị gái của thánh Elizabeth, hoàng hậu Hungary.
Sinh: 1174.
Chết: 12 - 10 - 1243.
Phong thánh: 1267
Tiểu sử:
http://www.simonhoadalat.com/suyniem...010/Hedwig.htm
Thánh Henri II Hoàng Đế ( 937 -1024 )
Lễ kính: 23/07
Vua nước Đức.
http://mangconggiao.net/galleries1/a...enri-vua-1.jpg
Thánh Isave.
Mẹ thánh Gioan Baotixita.
Chị họ Đức Maria => Chúa Giêsu gọi bằng dì.
Thường được nhớ đến ngày 31/05 (Lễ Đức Mẹ đi viếng thánh Isave).
Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng.
Tử đạo: 30-7-1859, thọ 62 tuổi.
Quê quán: Cù Lao Giêng, An Giang.
Danh hiệu: Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Thánh Nathanael Tông Đồ
Tức Thánh Batôlômêô Tông Đồ
Giảng Tin Mừng ở các xứ Lycaoni, Ấn Độ và Armênia.
Tử đạo tại Armênia.
Sinh tại Cana, xứ Galilê.
Thánh Laurenso, phó tế.
Ngày kính: 10/08.
Sinh tại: Huesco nước Tây Ban Nha.
Nhà vua đã tìm mọi cách để dụ dỗ thánh nhân bỏ đạo, nhưng thánh Laurensô đã một mực trung thành với Chúa và nhất quyết không bao giờ bỏ đạo. Vua căm phẫn vì không thuyết phục nổi thánh nhân, nên đã hạ lệnh cho lý hình nung đỏ giường sắt và đặt ngài trên đó. Thánh nhân đã vui cười chịu đựng và sau cùng đã ra đi về với Chúa trong bình an ngày 8 tháng 8 năm 258.
Trùng với post của mình rồi KaJin ơi, nhưng có điều bạn chi tiết hơn :4:.
http://www.donboscoviet.org/images/s...ian/orione.jpgTrích:
Thánh Nathanael Tông Đồ
Tức Thánh Batôlômêô Tông Đồ
Giảng Tin Mừng ở các xứ Lycaoni, Ấn Độ và Armênia.
Tử đạo tại Armênia.
Sinh tại Cana, xứ Galilê.
Thánh LUI ORIONE
Á thánh năm 1980Hiển Thánh năm 2004Ngày kính nhớ 16.05
Luigi Orione sinh tại Pontecurone, giáo xứ Tortona, ngày 23 .06. 1872. Trong thời đầu của tuổi niên thiếu, cậu đã giúp người cha trong nghề lát đường cho đến năm mười ba tuổi. Luigi muốn học để trở thành linh mục và được nhận vào tu viện dòng thánh Phanxico ở Voghera, nhưng cậu đã phải rời bỏ nơi đó vì chứng bệnh viêm phổi trầm trọng.
Rồi cậu được nhận vào trong trường nội trú Valdocco, nơi mà cậu được biết Cha Bosco, lúc đó cha đã lớn tuổi. Cậu đã ưu tiên được ngài làm cha giải tội, và sau khi sửa soạn trọn ba cuốn tập về tội lỗi, cha thánh đã xé nát chúng, một trong những điều ngài nói với cậu: “Chúng ta sẽ là bạn với nhau mãi mãi”. Tại Tôrinô cậu đã hít thở tinh thần Sa-lê-diêng và được biết Công Cuộc của Cottolengo gần đó [một trong những hoạt động từ thiện lo cho những người khuyết tật cùng thời với Cha Bosco]
15-3. Thánh Louise de Marillac (1660) sinh ở Ferrieres-en Brie gần Meux nước pháp, mồ côi mẹ khi còn nhỏ và khi được 15 tuổi thì mồ côi cha. Ao ước của thánh nữ là trở nên một nữ tu nhưng cha giải tội đã ngăn cản, và sau đó ngài đã kết hôn với ông Antony LeGras. Trong hôn nhân này họ đã có được một đứa con trai, nhưng sau đó không lâu ông Antony đã từ giã cõi đời sau một thời gian đau yếu lâu dài.
Bà Louise may mắn có được các cha linh hướng khôn ngoan và dễ mến, đó là thánh Francis de Salley, và người bạn của ngài là Đức Giám Mục của Belley, nước Pháp. Bà Louise không gặp hai vị thường xuyên nhưng tận trong thâm tâm, bà cảm thấy rằng mình sẽ đảm nhiệm một công việc nặng nề dưới sự hướng dẫn của một người chưa bao giờ quen. Đó là vị linh mục thánh thiện Vincent, mà sau này là thánh Vincent de Paul.
Lúc đầu, cha Viencet do dự nhận lời làm cha giải tội cho bà Louise, vì sự bận rộn của ngài với tổ chức "Các Chị Em Bác Ái" Hội viên của tổ chức này là các bà quý tộc có lòng nhân từ giúp đỡ cha, chăm sóc người ngèo và các em bị bỏ rơi, là công việc rất cần trong thời gian ấy. Nhưng các bà cũng phải bận rộn với nhiệm vụ và công việc gia đình. Trong khi công việc của cha thì cần rất nhiều người giúp đỡ, nhất là những nông dân vì họ gần gũi với người nghèo và dễ có cảm tình với họ. Ngài cũng cần ai đó có thể dạy cho họ biết đọc biết viết và tổ chức hội đoàn cho họ.
Chỉ sau một thời gian khá lâu, khi cha Vincent càng quen biết với bà Louis thì ngài mới nhận ra rằng bà là người mà Chúa gửi đến để đáp lại lời cầu xin của cha. Bà Louis thông minh, khiêm tốn và có sức chịu đựng bền bỉ. Sau một thời gian thi hành các công việc mà cha giao phó, bà tim thêm đượcbốn người phụ nữ bình dị khác đến tiếp tay. Căn nhà bà thuê ở Balê đã trở thành trung tâm săn sóc người ngèo và đau yếu. Và đó là tu hội Nữ Tu Bác Ái của Thánh Vincens de paul, (mặc dù cha Vincent muốn gọi tổ chức này là "Nữ Tử" Bác Ái). Bà tuyên khấn năm 1634 và tu hội đã thu hút được nhiều người tham gia.
Cha Vincent thường từ tốn và khôn ngoan trong cách cư xử với bà Louis và tổ chức mới này. Ngài nói không bao giờ ngài muốn thành lập một cộng đoàn mới, mà chính là Thiên Chúa thi hành mọi sự. Cha nói, " Tu viện của con là nhà của người bệnh; phòng của con là phòng cho thuê mướn; nhà nguyện của con là nhà thờ của giáo xứ; khuôn viên nhà dòng là đường phố hay hay các khu vực nhà thương." Y phục của con là y phục của phụ nữ nông dân. Mãi cho đến vài năm sau, cha Vincent de Paul mới cho phép bốn phụ nữ khấn khó ngèo, khiết tịnh và vâng phục, và phải mất nhiều năm hoạt động thì Tòa Thánh mới chính thức công nhận tu hội này và đặt dưới sự hướng dẫn của cha Vincent và Tu Hội Truyền Giáo.
Bà Louis đi khắp nước Pháp, thành lập chi nhánh trong các bệnh viện, cô nhi viện và các tổ chức khác cho đến khi từ trần, ngày 15 tháng ba năm 1660, tu hội của bà đã có trên 40 nhà ở nước Pháp. Kể từ đó họ phát triển trên toàn thế giới.
Bà Louise de Marillac được Đức Giáo Hoàng Pio phong thánh năm 1934 và năm 1960 thánh nữ được Đức Giáo Hoàng Gioan XXlll đặt làm quan thầy các Cán Sự Xã Hội.
(Người Tín Hữu)
Thánh Eusebio Vercelli.
Ngày kính: 02/08.
Ngày sinh - mất: 283 - 371.
Năm 345 được phong làm Giám Mục.
Thánh I Nhã Loyola
Bị bệnh gan nặng nhưng tâm hồn đầy thanh thản, bình yên, cha thánh I Nhã lìa đời ngày 31 tháng 7 năm 1556 trong căn phòng tĩnh lặng chỉ có chính cha với Thiên Chúa.
Lúc sinh thời, cha I Nhã Loyola tha thiết ước mong đem đến cho mọi người tin mừng về Thiên Chúa và để mọi người nhận biết rằng Thiên Chúa thương con người, đã sai Con Một yêu dấu của Ngài làm người. Tin Mừng về Chúa Kitô bị đóng đinh chết và sống lại để giải thoát, kêu gọi loài người trở về sự thánh thiện nguyên thủy và mời gọi con người sống mãi với Thiên Chúa. Giáo Hội cũng chỉ loan báo tin mừng này, nhưng cha I Nhã, dựa vào kinh nghiệm bản thân, có một phương thế đặc biệt để giúp nhiều người nhận thấy Tin Mừng như một kinh nghiệm bản thân.
Thánh ANPHONGSO ( ĐẤNG SÁNG LẬP DÒNG CHÚA CỨU THẾ )
Thánh Anphongsô sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 trong một gia đình giầu có, quí phái và đạo đức tại Marinella gần Naples nước Ý Đại Lợi. Ngài là con trưởng của một gia đình gồm 7 anh chị em. Ngài có đầu óc rất thông minh và trái tim hết sức nhạy cảm. Cha Ngài làm việc trong triều đình . Mẹ của Anphongsô là người nhân đức và giầu lòng bác ái. Anphongsô ngay từ tấm bé đã học rất giỏi và đầu óc minh mẫn, biện phân các sự việc rất phân minh. Anphongsô có tấm lòng quảng đại nhưng tính tình nóng nảy và cương quyết, nên Ngài đã thắng vượt được nhiều thử thách, thăng trầm giăng mắc, bủa vây đời sống của Ngài. Tuổi đời mới lớn lên, Anphongsô đã chứng tỏ Ngài là một sinh viên ưu tú, xuất sắc, Ngài đã được ban giám khảo miễn trừ cho 3 tuổi, do đó, mới 16 tuổi đầu, Anphongsô đã đậu hai bằng tiến sĩ luật đạo và trở thành vị luật sư trẻ lúc mới có 20 tuổi đời. Với tuổi trẻ, với hai mảnh bằng tiến sĩ, với vóc dáng tươi đẹp, Anphongsô đã là đối tượng của nhiều cô gái say mê Ngài. Và quả thực, trái tim Ngài đã chinh phục được một cô gái nhà giầu trẻ đẹp, nhưng một biến cố đã làm đảo lộn tất cả. Ngài biện hộ cho một thân chủ trong một vụ kiện đáng lẽ Ngài đã thắng một cách dễ dàng, nhưng chỉ một sơ sót nhỏ đã làm Ngài bị thua…Bị nhục, Anphongsô vào phòng và đóng cửa nằm đó mấy ngày, không ăn uống, Ngài nghiền ngẫm sự thất bại mà Ngài gặp phải trong vụ kiện này. Việc gì Thiên Chúa làm Thiên Chúa đã làm theo ý của Ngài :” Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào ! Quyết định của Người, ai dò cho thấu ! Đường lối của Người, ai theo dõi được” ( Rm 11, 33 ). Thiên Chúa đã đưa Anphongsô đi vào khúc ngoặt của cuộc đời Ngài. Nhân một dịp đi thăm bệnh nhân, Anphongsô đã nghe một tiếng nói:” Anphongsô, Anphongsô, ngươi còn ở ngoài đời làm gì nữa ?”. Anphongsô quay phất lại, nhưng Ngài không thấy gì. Lần thứ hai, Anphongsô lại nghe tiếng nói ấy. Ngài vẫn không thấy gì. Bất chợt, Anphongsô được Chúa soi sáng và Thánh Thần tác động bên trong. Ngài bước vào một ngôi thánh đường lân cận được thánh hiến cho Đức Trinh Nữ Maria. Anphongsô quyết định sẽ trở thành linh mục và trở thành nhà hùng biện thuyết giảng Tin Mừng. Ngài đã đặt thanh bảo kiếm tượng trưng cho dòng tộc quí phái và quyền uy dưới chân Đức Mẹ Ban Ơn.
Vào năm 1732, thánh Anphongsô đã thiết lập Dòng Chúa Cứu Thế, một Dòng chuyên lo cho những con người bơ vơ tất bạt. Dòng Chúa Cứu Thế đã giúp ích rất nhiều cho Giáo Hội. Các sĩ tử Dòng Chúa Cứu Thế chuyên lo giảng giải Tin Mừng, đặc biệt lo cho những người nghèo khó, neo đơn, bơ vơ, tất bạt và truyền bá lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria với tước hiệu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Năm 1762, Ngài được Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm làm Giám Mục giáo phận thánh Agatha Gothorum. Ngài đã để rất nhiều giờ viết nhiều sách đạo đức, thần học và luân lý rất có giá trị. Những năm cuối đời, Ngài gặp rất nhiều thử thách: bị bách hại, bị xao xuyến, bị lo âu…nhưng cuối cùng Ngài đã lấy lại được bình an và ra đi an bình, thánh thiện trong tay Chúa và anh em trong Dòng ngày 01/8/1787.
Đức Thánh Cha Pio IX đã phong Ngài làm tiến sĩ Giáo Hội năm 1871, và Đức Giáo Hoàng Piô XII đặt Ngài làm quan thầy các cha giải tội và các nhà luân lý.
(Xin phép được bổ sung thêm bạn nhé!)
Trong lời lẽ của ngài người ta vẫn thấy tiềm ẩn của sự đại kết. Phải rất thận trọng khi đưa ra các chân lý chính truyền, để nếu người lạc giáo có mặt ở đó, họ se cảm nhận được lòng bác ái và sự ôn hòa của Kitô Giáo. Không được dùng lời lẽ cứng rắn và cũng không được khing miệt những sai lầm của họ.
Thánh I Nhã đề nghị lời khuyên sau đây cho các hối nhân: Lạy Chúa xin hãy chấp nhận mọi đặc quyền, mọi ký ức, mọi hiểu biết và toàn thể ý chí của con. Ngài đã ban cho con tất cả những gì con có, tất cả con người của con, và con xin phó thác chúng cho thành ý của Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng. Con chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ơn sủng. Được như thế con, con đã giàu sang đủ và không dám đòi hỏi gì nữa.
(Không có Thánh nào bắt đầu bằng chữ Ô)
28 Tháng 1 lễ nhớ Thánh Tôma Aquinas. Thánh Tôma Aquino (1225-1274) là tiếng nói trổi vượt của truyền thống Công Giáo về lý lẽ và về sự mặc khải của Thiên Chúa. Ngài là một bậc thầy vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo thời trung cổ và được vinh danh với tước vị Tiến Sĩ Hội Thánh và Tiến Sĩ Thiên Thần.
Tiếp tục nhé! Luật chơi khi không có vị thánh nào có chữ cái đầu là "ô" hay "o" thì ta tính chữ kế tiếp. VD: Anphongso.
Thánh Stanislao.
Ngày kính: 11/04.
Sinh ngày: 26/07/1030.
Sinh tại : Miền Cracovie nước Balan.
Cương vị : Giám mục.
Được phong hiển thánh ngày 17/09/1253.
Thánh Stanislao sinh tại miền Cracovie nước Balan ngày 26 tháng 7 năm 1030 trong một gia đình giầu sang, phú quí. Thánh nhân là con trai duy nhất trong gia đình quyền quí, giầu sang, nhưng Ngài không ham mê của cải, không màng danh vọng, chức quyền, ngay từ nhỏ, từ lúc thiếu thời, Ngài đã tỏ ra là người đầy là nhân ái và giầu lòng thương xót. Ngay từ lúc còn nhỏ, Ngài đã nhận ra tiếng Chúa gọi mời, Ngài bỏ mọi sự và đi theo tiếng mời gọi của Chúa, thánh nhân học triết và thần học, rồi lãnh nhận sứ vụ linh mục. Thánh nhân được cất nhắc lên bậc kinh sĩ, vị linh mục mới đã nổi tiếng về đời sống thánh thiện, tài đức, được nhiều người khen ngợi và biết tiếng. Thánh nhân dù rất nổi tiếng, nhưng lúc nào Ngài cũng khiêm nhượng, âm thầm và sống nhiệt thành với sứ vụ, với công việc được trao phó và sống hết sức bác ái với mọi người. Thánh nhân luôn nghiên cứu Thánh Kinh, tham khảo các giáo phụ và thần học. Vì sự khiêm nhượng và tài lãnh đạo, lòng nhân ái của Ngài, khi Đức giám mục giáo phận qua đời, Ngài đã được đề cử lên lãnh trách nhiệm giám mục cai quản địa phận vào năm 1072. Thánh nhân sống đời sống thánh thiện, đạo đức, Ngài ăn chay, đánh tội, bố thí hàng ngày và đi thăm những người đau ốm. Thánh nhân rất hiền lành, nhưng lại rất cương quyết chống lại, khuyến cáo và răn đe những người tội lỗi. Thánh nhân can đảm, mạnh dạn lên tiếng phản đối và tố cáo bạo vương Boleslas. Bị động tới lòng tự ái và nhỏ nhen, ích kỷ, bạo vương Boleslas đã xông tới bàn thờ chém đầu thánh nhân lúc thánh nhân đang cử hành thánh lễ. Bạo vương ra lệnh phân thây xác Ngài và truyền ném xác cho muông thú ăn thịt, nhưng không một con thú nào dám động đến xác thánh của Ngài. Trước việc kỳ diệu, lạ lùng ấy, bạo vương đã thống hối ăn năn, trở về và ngày tang lễ của thánh nhân trở thành ngày vui mừng, hân hoan.
Mọi người tiếp tục nhé! :3:
Thánh Athanasio.
Ngày kính: 02/05.
Sinh khoảng năm 295.
Sinh tại: Alexandria.
Cương vị: Giám mục.
Danh hiệu: Tiến sĩ Hội Thánh.
THÁNH ATHANASIÔ BÊNH VỰC GIÁO HỘI:
Không sợ Hoàng Đế, không ngán ngẩm, sợ sệt các giám mục chạy theo bè rối chống lại Hội Thánh. Thánh Athanasiô không sợ gian nan, nguy hiểm, hình phạt. Thánh Athanasiô với cương vị mục tử từ năm 328 tới 373, đã 5 lần bị lưu đầy, tù tội. Thánh nhân thực hiện lời Chúa dậy:” củng cố lòng tin”, Ngài đã hiên ngang, anh dũng, đã giữ vững đức tin, với một ý chí sắt đá, với một lòng tin không gì lay chuyển nổi, thánh Athanasiô đã luôn bảo vệ giáo lý chân chính của Chúa Kitô. Thánh nhân đã viết nhiều bài giảng ca tụng đức trinh khiết và bậc sống ẩn tu, Ngài đã diễn tả tình yêu mật thiết với Đức Kitô, Đấng đến trần gian để cho nhân loại được sống và sống dồi dào( Ga 10, 10 ). Thánh nhân đã luôn tâm niệm lời thánh vịnh: “ Ai gieo trong nước mắt sẽ về giữa tiếng cười…”. Thánh Athanasiô đã được Giáo Hội tôn vinh và đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
Thánh Isiđôrê, Nông Dân (1070-1130)
Ngày kính: 15/05
Isiđôrê là bổn mạng của các nông dân và thôn quê. Ngài cũng là bổn mạng của Madrid, thủ đô Tây Ban Nha, và là bổn mạng của Hội Nông thôn Hoa Kỳ (United States National Rural Life Conference).
Ngài làm cho điền chủ John de Vergas giàu có ở Madrid. Ngài kết hôn với một phụ nữ trẻ là Maria de la Cabeza (phụ nữ này cũng đã được giáo hội phong thánh). Họ có một con trai, nhưng chết khi còn nhỏ.
Isiđôrê có lòng đạo đức sâu sắc. Ngài dậy từ sáng sớm để đến nhà thờ và dành những ngày nghỉ để đến các nhà thờ ở Madrid và các vùng lân cận. Suốt ngày ngài đi cày bừa nhưng vẫn luôn kết hiệp với Chúa. Ngài có tiếng về lòng yêu thương người nghèo, đồng thời cũng yêu quý súc vật.
Ngài qua đời ngày 15/5/1130, và được phong thánh năm 1622 cùng với thánh Inhaxiô Loyola, Phanxicô Xavier, Teresa Avila và Philip Neri. Đó là 5 vị thánh “nổi tiếng” của Tây Ban Nha.
Thánh Raymundo.
Ngày kính: 07/01.
Sinh - mất: 1175-06/01/1275.
Tại Penyafort ở California.
Cương vị: Linh mục. (Ngài đã từ chối nhiều đặc ân của Giáo Hoàng).
Tiểu sử:
Năm 1249, Đức Giám mục địa phận Bacelona mời Ngài về giúp việc địa phận. Nhưng lúc 48 tuổi, thánh nhân đã trốn mọi danh vọng và xin gia nhập dòng Đa Minh, Ngài chỉ ao ước được trao phó cho những công việc thấp hèn nhất. Nếu được tán thưởng, Ngài liền xin bề trên cho được làm việc đền tội. Tuy nhiên việc đền tội Ngài không mong mỏi chút nào, là việc nhà dòng trao cho Ngài trách nhiệm viết một tác phẩm về các vấn đề lương tâm để hướng dẫn các cha giải tội. Tác phẩm này cho tới ngày nay vẫn còn danh tiếng.
Năm 1230, Đức Giáo Hoàng Gregorio IX cảm kích những thành quả do thánh Raymundo mang lại, đã mời làm cha giải tội cho mình, đồng thời chọn Ngài làm Tổng Giám mục thành Tarragona. Nhưng danh dự này đã khiến thánh nhân, khi nghe tin, lên cơn sốt liền trong vòng ba ngày, Ngài đã xin các Đức Hồng y can thiệp cho mình khỏi lãnh nhận danh dự và gánh nặng này. Cuối cùng Đức Giáo Hoàng đành chấp thuận. Năm năm làm việc tại giáo triều, Đức Giáo Hoàng đã ủy thác cho thánh nhân thu thập các sắc lệnh của các Đức Giáo Hoàng và các công đồng thánh nhân đã gom góp vào năm cuốn sách và được phê chuẩn năm 1234. Ngoài việc chu toàn các nghĩa vụ được trao phó, Ngài còn theo đuổi một nếp sống nhiệm nhặt, khiến Ngài lâm trọng bệnh. Thánh nhân liền khẩn nài cho mình được trở về với nếp sống tu sĩ bình thường.
Năm 1238, Ngài được bầu làm bề trên tổng quyền thứ ba của dòng Đa Minh. Suốt hai năm làm bề trên, Ngài đã đi bộ đến thăm viếng mỗi tỉnh dòng để hun nóng lòng nhiệt thành của các tu sĩ. Hai năm sau Ngài xin từ chức vì tuổi già sức yếu.
Tuy nhiên trong tuổi già yếu, Ngài vẫn góp phần xây dựng cho tổ quốc. Ngài đã viết thư yêu cầu thánh Tôma viết một bộ sách để chống lại bọn lạc giáo, như vua Giacôbê yêu cầu. Thánh Tôma đã nhận lời và viết bộ sách “Summa Contra Ghentiles” Dù được nhà vua quí mến chiều chuộng, nhưng thánh nhân không ngại cảnh cáo ông ta. Một lần kia, trong cuộc chinh phục đảo Maiorqua. Vua mời thánh nhân cùng đi. Thánh nhân nhận lời với ước vọng giảng thuyết để phá đổ những sai lầm tại đó. Nhưng tới nơi, Ngài khá phá ra rằng nhà vua đang phá hoại tổ chức bằng cuộc sống tội lỗi của mình. Ngài can ngăn nhưng nhà vua không giữ lời hứa. Thánh nhân liền tuyên cáo:
- Vì Ngài không bỏ đường tội lỗi nên tôi sẽ bỏ đi.
Hoảng hốt, nhà vua ra lệnh mọi tàu thuyền không được phép chở Ngài. Tương truyền rằng: thánh nhân đã nói với một tu sĩ đi theo Ngài rằng:
- Một vua trần thế cản đường, thì vua trên trời sẽ mở lối cho chúng ta đi.
Nói rồi, Ngài cởi áo ngoài trải ra trên mặt biển, cắm cây gậy làm cột và cuốn một góc làm buồm. Ngài mời thầy dòng lên “Tàu” nhưng ông không dám. Thế là một mình Ngài đáp “tàu” hồi hương. Vài giờ sau thánh nhân tới bến và Ngài vội vàng cuốn áo thẳng về nhà dòng để tránh tiếng hoan hô của dân chúng. Phép lạ này đã trở thành sức mạnh cải hóa nhà vua, đưa ông trở lại với lương tâm và quê hương mình.
Về già, thánh Raymundo đã chịu nhiều cơn đau yếu, nhưng lòng nhiệt thành của Ngài vẫn bốc cháy không ngừng. Ngày 6 tháng giêng năm 1275, Ngài đã từ giã cõi thế là nơi mà Ngài đã hiến trọn đời phụng vụ Chúa.
Thánh Đôminicô (Đa Minh).
Ngày kính: 08/08.
Sinh - mất: 1170 - 06/08/1221.
Sinh tại: Castille.
Tiểu sử:
Dù được cưng chiều, thánh Đôminicô sớm sống đời khổ hạnh. Đến tuổi đi học, Đôminicô được gởi tới thụ giáo với ông cậu là linh mục ở Gumiel. Năm 14 tuổi, Ngài theo học tại đại chủng viện ở Palencia và đã tiến triển rất nhanh về hiểu biết lẫn nhân đức. Nạn đói lan tràn nước Tây Ban Nha, một người bạn đến thăm Đôminicô không thấy đồ dùng lẫn những pho sách quí đâu nữa. Ngài đã bán để giúp người nghèo khó rồi. Gương sáng này đã lôi kéo được nhiều sinh viên lẫn các giáo sư bắt chước.
Sau khi hoàn tất việc học, Đôminicô được Đức cha Diegô, giám mục Osma truyền chức linh mục. Vị giám mục đạo đức này đang muốn canh tân lòng đạo đức trong giáo phận, đã đặt cha Đôminicô làm kinh sĩ. Khi qua Châu Âu lo chuyện nhà nước, Đức cha Diegô dẫn cha Đôminicô đi theo.
Trên đường về, Đức cha Diegô và cha Đôminicô đến Rôma xin từ nhiệm để dấn thân vào cuộc truyền giáo quanh vùng Dniepen. Đức Giáo hoàng Innocentê III từ lâu đã mong có người ra đi rao giảng tại miền nam nước Pháp, chống lại ảnh hưởng của bè rối Albigeois, thay vì chấp nhận lời thỉnh cầu, Đức giáo hoàng sai các Ngài tới miền nam nước Pháp. Hai người đã tới phụ lực với các sứ giả đã được sai tới trước kia.
Trong sáu năm, cha Đôminicô trải qua nhiều sóng gió. Ngay khi mới tới, Đức cha Diegô và Ngài đã thiết lập một cộng đoàn nữ tu tại Prouille. Một ngày kia trong khi nhiệt tình cầu nguyện, thánh nhân than thở tại sao số người lạc giáo quá nhiều mà trở lại thì quá ít. Đức Trinh nữ đã hiện ra và dạy Ngài hãy rao giảng phép lần hạt Mân Côi. Vâng lời Mẹ, thánh nhân dồn nỗ lực vào việc truyền bá sự sùng kính kỳ diệu này. Thay vì tranh luận như trước, Ngài dạy dân chúng hiểu phương pháp và tinh thần khi lần chuỗi. Ngài dẫn giải cho họ các mầu nhiệm thánh. Kết quả thật lạ lùng. Sau một thời gian ngắn, thánh Đôminicô đã được an ủi khi thấy hơn một trăm ngàn người tội lỗi và những kẻ lạc giáo được đưa trở về với Giáo Hội.