Thánh Đường Đaminh Ba Chuông
Thánh Đường Đaminh Ba Chuông
Thứ sáu, 16 Tháng 1 2009 22:25 http://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi...ng/zthinh2.jpg
Lời giới thiệu
LM. GIUSE PHẠM HƯNG THỊNH, OP.
Giữa cuộc trần muôn vạn nẻo thăng trầm, Đức Kitô đã giới thiệu Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Ngài luôn mời gọi con người cùng cất bước trên con đường sự sống, là nhận biết và yêu mến Chúa Cha, để được đoàn tụ hiệp nhất trong Nhà Cha miên viễn.
Người Tín Hữu trong thân phận lữ hành, rất thường khi khát khao một bóng mát cây xanh, ước mơ một mái nhà êm ả. Nhiều lúc muốn ngồi lặng thinh, ngơi nghỉ, thầm thĩ nguyện cầu, phụng thờ trong Nhà Cha nơi dương thế.
Tìm về một mái nhà thân thương, một tình quê bao dung ấp ủ luôn canh cánh bên lòng người lữ thứ. Lạ thay, trong khi Âu Mỹ đang hành trình về phương Đông, để tìm niềm an hoà sâu lắng, thì người Đông Phương lại muốn chạy đua với cuộc bùng nổ công nghệ hiện đại, năng động đến mỏi mệt.
Thánh Đường Việt Nam hôm nay cũng thao thức tìm một con đường. Phô trương hiện đại, to lớn, nguy nga, hoành tráng với đời, có thể là một nhu cầu. Cũng không phải là quá đáng. Thực lòng, một khi tâm hồn đã tĩnh lại, mới nhận ra “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện”. Nhà Cha chính là chặng dừng chân thiêng thánh, nhẹ vơi cho bước đường hành hương đang nặng lòng mang vác cuộc nhân sinh.
Trong muôn vàn nghĩ suy, trong ngổn ngang chọn lựa, Thánh Đường Đa Minh-Ba Chuông muốn ấp ủ một hoà điệu giữa lòng người với đất trời, giữa kiến trúc dân tộc với cách tân hiện đại, giữa Đức Tin với Văn Hoá. Công trình kiến trúc này rất ước mong mang vác được nét văn hoá Công Giáo cho Quê Hương, đồng thời chuyên chở được Đức Tin tinh ròng vào khung cảnh và nếp sống thờ tự của Dân Tộc Việt Nam, mà không tách khỏi dòng chảy truyền thống ngàn đời của Giáo Hội Mẹ. Bởi vì, một khi Đức Tin có trở thành Văn Hoá và Tin Mừng được diễn tả theo cung cách riêng của mỗi dân tộc, thì Đức Tin và Tin Mừng ấy mới sống động, dồi dào, mới trở thành máu thịt.
Ba năm trôi qua (28.8.2005 - 28.8.2008), Thánh Đường Đa Minh - Ba Chuông đã là một thời sự kiến trúc trong tổng thể cảnh quan của TP. HCM. Dư luận ngọt nhạt gần xa không thiếu. Đến hôm nay, một chút dừng chân để nhìn lại, để xin được tỏ bày một ý hướng và cũng xin được một đồng cảm sớt chia.
Chân thành cảm ơn Lm Phanxicô Xavie Đào Trung Hiệu OP., đã đóng góp nhiều trong phần lịch sử và nội dung của tập sách này. Trân trọng giới thiệu và mời Quý độc giả cùng chia sẻ với Lm. Giuse Đỗ Trung Thành OP., qua những trang giấy nặng tâm tình về “Thánh Đường Đa Minh - Ba Chuông Hôm Nay” dưới khía cạnh những nhân tố văn hoá. Và cùng với nhà thơ Phanxicô Átxidi Lê Đình Bảng, từ buổi ban sơ đã hiện diện, đã đồng hành. Từ tầm nhìn tinh tế đến tấm lòng gần gụi thân thiện dành cho Thánh Đường nhân dịp kỷ niệm 3 năm ngày Cung Hiến.
Giao Ước Yêu Thương : Ngôi Thánh Đường Mới
a. Khởi từ nhu cầu Dân Chúa
Là giáo xứ do một Dòng Tu phụ trách, sinh hoạt giáo xứ ngay từ đầu đã khá phong phú, đa đạng, và đã quy tụ được đông đảo các thành phần dân Chúa từ nhiều nơi trong thành phố. Số người đến tham dự phụng vụ tại đây đông gấp nhiều lần so với số giáo dân trong xứ. Số thành viên trong các đoàn thể, ca đoàn, hay lớp giáo lý vượt xa khỏi ranh giới và quy mô của các giáo xứ thông thường. Nhất là từ khi ân huệ Thiên Chúa được ban phát cách quảng đại qua lời chuyển cầu của vị thánh da màu Martinô.
Chính vì thế trong các thánh lễ Chúa Nhật và các ngày lễ lớn, nhiều giáo dân phải tham dự thánh lễ từ sân nhà thờ, thậm chí có khi còn phải đứng cả ra ngoài lề đường, vừa khó tập trung tham dự phụng vụ vừa cản trở việc giao thông. Khó khăn trên còn lớn hơn nữa vào những ngày mưa bão.
Ngoài ra, khi đó giáo xứ Đa Minh cũng là trụ sở của Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam, nơi diễn ra nhiều nghi lễ chính thức của toàn Dòng.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên, ý tưởng xây dựng nhà thờ mới ra đời, với ba yêu cầu cơ bản : tăng thêm diện tích, thực hiện tầng hầm để chứa xe và nếu được có thêm gác lửng… Mong muốn của giáo xứ và tu viện đã được Tỉnh Dòng Đa Minh Việt nam chấp thuận, việc xây dựng từng bước được tiến hành.
b. Đến một ngôi thánh đường xứng hợp
Con đường từ dự tính đến hiện thực không phải là đơn giản. Linh mục Giuse Phạm Hưng Thịnh, ngay khi nhận làm chánh xứ Đa Minh năm 1999, đã coi ngôi thánh đường mới là một ưu tiên hàng đầu. Trong bối cảnh thuận lợi và đầy cảm hứng của Giáo Hội theo tinh thần Công Đồng Vatican II, Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, cha Giuse đã mạnh dạn khởi xướng việc xây dựng Thánh Đường mới theo định hướng khá rõ rệt là Hội Nhập Văn Hóa.
Trong hướng đi đó, những yêu cầu đề ra cho Thánh Đường tương lai cũng khá cụ thể : một ngôi thánh đường đậm đà bản sắc dân tộc, chắc chắn và rộng rãi, nhưng vẫn phải là nơi giúp ai đến đây cũng đều cảm nghiệm được Giao ước Yêu thương của Đấng đã đến ở giữa con người ; là nơi người tín hữu kín múc được ân sủng cứu độ phong phú của trời cao qua phụng vụ và bí tích. Làm thế nào để có một không gian vừa gần gũi vừa thiêng thánh, có thể giúp con người gặp gỡ được Đấng Vô Hình !
Phải mất ba năm cho khâu chuẩn bị. Có đến mười mấy mô hình cho ngôi thánh đường tương lai được giới thiệu. Nhiều mô hình được trưng bày công khai để xin ý kiến của mọi người. So sánh, bổ sung, thêm bớt … cuối cùng mô hình của kiến trúc sư Anthony Phạm Ngọc Anh đã được chấp thuận. Năm 2003 công trình được khởi sự và ngày 28.08.2005, ngôi thánh đường mới đã được cung hiến.
http://gxdaminh.net
Thánh Đường Đaminh Ba Chuông
Kiến Trúc Thánh Đường
Thứ hai, 19 Tháng 1 2009 15:31
CÁC NHÂN TỐ VĂN HÓA TRONG THÁNH ĐƯỜNG ĐA MINH- BA CHUÔNG
1.Ngoại thất
Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông được xây dựng theo phong cách Á Đông và mang đậm nét văn hóa Việt. Nó vừa mang dáng dấp của một ngôi đình của làng xã Việt Nam : hình vuông, mái cong; vừa xây theo lối kiến trúc hiện đại : bê tông cốt sắt, tường gạch ốp đá. Nhà Chúa vì thế trở nên nguy nga, tráng lệ, nhưng lại rất thanh thoát, nhẹ nhàng.
Bình diện vuông, theo tư duy Việt cổ, họ quan niệm trái đất vuông, được bốn phương neo giữ. Đặc tính này được tác giả khai thác triệt để khi thiết kế Thánh đường. Do đó, Thánh đường hiện diện trong vị thế hòa điệu tự nhiên với khu biệt kính các Thánh và các quảng trường... tạo nên một cảnh quan tổng thể có cả chiều cao lẫn bề rộng vừa thiêng liêng vừa ấm cúng.
a. Cổng tam quan Cổng Tam quan khiến chúng ta liên tưởng đến ngôi đình làng Việt Nam, một cấu trúc đặc biệt trong một quần thể kiến trúc Việt Nam nói riêng và Đông phương nói chung. Cổng Tam quan thường được xây dựng phía trước các đình, làng, làm cổng đình, cổng làng. Có ba lối đi, một cổng lớn ở chính giữa và hai cổng nhỏ hai bên.
Nói tới cổng là nói tới một lối dẫn vào, một lối đi. Nhưng cổng Tam quan đã trở nên ý nghĩa đặc biệt cho người dân Việt, vì nó là lối dẫn về nguồn, là đường đi vào những nơi sinh hoạt tập thể, dấu chỉ của sự đoàn kết, gắn bó của người dân Việt.
Tùy theo từng loại kiến trúc mà người ta đã thay đổi, cách tân nó cho phù hợp với ý nghĩa và tính chất của công trình. Mô hình Cổng Tam quan của Thánh đường Đa Minh- Ba Chuông được thiết kế nhằm tạo nên sự thân thiện, và gần gũi với tâm thức của người Việt, nhưng không sao chép theo một mẫu kiến trúc cổ nào. Nó cũng mang ý nghĩa “phân cách không gian, làm đẹp công trình như là một tiền đường, một khoảng lặng tạo cảm giác thong dong thư thái và an nhàn, một dấu nghỉ, một bầu khí lặng thầm trang nghiêm trước khi vào chầu lễ với cộng đoàn”.
Đặc biệt, ngoài việc thể hiện nét văn hóa bản địa, Cổng Tam quan trong kiến trúc nhà thờ còn mang ý nghĩa tôn giáo, tượng trưng cho ba nhân đức căn bản của đạo Công giáo : đức tin, đức cậy, đức mến, tạo nên sự thánh thiện, thanh cao của công trình nhà Chúa.
http://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi...t/nhatho05.jpgb. Tháp chuông
Tháp chuông là thành tố không thể thiếu được trong kiến trúc một ngôi nhà thờ Công giáo. Tháp chuông có thể gắn liền với nhà thờ hoặc được xây dựng tách biệt tùy theo ý tưởng và cách thiết kế của mỗi ngôi nhà thờ. Tháp chuông càng cao thì tiếng chuông càng vang xa, nhằm kêu gọi mọi người con Chúa khắp nơi trong xứ đến hiệp thông các lễ nghi phụng tự. Ngoài ra, chuông và tháp chuông còn mang ý nghĩa “tượng trưng cho Núi Thánh để vang âm Lời Chúa”. Trên đỉnh tháp chuông là Thánh giá “một biểu tượng bất biến về ơn Cứu Độ”. Đặc biệt ở Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông, là phải có đủ ba quả chuông đồng : “một dấu ấn mang tính lịch sử đã trở thành biệt danh của nhà thờ”.
Tháp chuông hình trụ vuông gồm ba tầng mái với kiểu dáng mái cong truyền thống, được cách điệu và hiện đại hóa. Mỗi góc mái là một đầu đao hình đầu rồng quy hướng về Thánh giá, vừa thể hiện sự hội nhập văn hóa trong kiến trúc nhà thờ, vừa chuyển tải được ý nghĩa về mặt tôn giáo “Đức Kitô Trung Tâm”.
c. Mái cong:
Dân Việt mình sống trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, địa hình có nhiều đồng bằng với hệ thống sông ngòi dày đặc. Hình ảnh sông nước và con thuyền rất gần gũi với cuộc sống của người dân. Tâm thức đó đã được thể hiện trong quá trình sống, qua các công trình tác phẩm của dân tộc. Từ đó cho thấy hình ảnh ngôi nhà, mái đình chính là phản ảnh sự thích nghi của con người trước môi trường tự nhiên.
Hình ảnh nhà mái cong hình con thuyền trên các trống đồng Đông Sơn cho thấy nhà mái cong đã có từ lâu đời và đã trở thành nét văn hóa truyền thống trong kiến trúc người Việt. Nét uốn cong vút tại mỗi góc tạo thành những “tàu đao” của mái nhà Việt Nam, làm cho các tầng mái kiến trúc dù thấp và nặng nề, được vươn cao, thanh thoát, nhẹ nhàng, cân đối và hài hòa.
Ngoài tính mỹ thuật trang trí và công dụng che mưa nắng của khí hậu miền nhiệt đới, mái cong còn chuyển tải một triết lý sống uyển chuyển, linh động “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” và một tâm hồn mở rộng (tứ hải giai huynh đệ); một khát vọng hướng thượng, giải thoát, sự giao hòa giữa trời cao và đất thấp, giữa con người với thần linh.
http://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi...t/nhatho11.jpgd. Tàu đao - linh vật :
Tàu đao được tạo thành do “hai mái bên gặp nhau tạo thành đường bờ giải gẫy khúc, lượn cong nhè nhẹ. Đường diềm giọt nước ở phía dưới uốn cong tinh tế từ điểm giữa rồi lượn vênh lên, từ hai mái ở hai phía kéo ra góc gặp nhau chuyển hướng hất lên đột ngột, còn cuộn lại, có khi tạo thành cái đầu rồng duyên dáng, được xem như “đóa hoa đao đình”.
Đầu đao có thể là hình đầu rồng, đầu chim phụng, chim câu hoặc các hoa văn nhằm tạo tính chất linh liêng cho các công trình kiến trúc. Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông chọn hình đầu Rồng, vốn là một linh vật trong tứ linh. Trong văn hoá Việt Nam, Rồng vốn là một linh vật mang đầy ý nghĩa : Trời đất có rồng để mưa thuận gió hoà ; Đình miếu có rồng để cộng đồng làng xã ấm no ; Minh quân có rồng để quốc thái dân an. Rồng xuất hiện như một điềm lành, đem lại những điều may mắn và tốt đẹp.
Rồng nơi góc mái trang trí của Thánh Đường nhắc nhớ mọi người nhớ về thuỷ tổ của dân Việt, nhớ mình là “con rồng cháu tiên”. Hơn thế nữa tàu đao đầu rồng với dáng dấp rồng bay ngoài ý nghĩa nhắc nhớ cội nguồn, còn khơi gợi con đường con đường giải thoát, và diễn tả ý muốn vươn lên cao hơn, hướng thượng và những khát khao nội tâm trong tâm thức của mỗi người tín hữu khi đến cầu kinh, dâng lễ.
Đặc biệt, nơi Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông có các tàu đao đầu rồng đều hướng về tâm điểm là Thánh giá. Thay vì “long chầu nguyệt”, những con rồng ở đây chầu Thánh giá, thể hiện ý hướng tôn thờ biểu tượng của ơn cứu độ.
e. Con nghê:
Con nghe là một trong hai linh vật đặc thù của văn hóa Việt Nam, nhưng lại rất ít được biết đến và người ta cũng không biết rõ xuất xứ ngọn nguồn của nó. Chỉ biết rằng trong kiến trúc đền đài, lăng tẩm, người Việt mình thường chạm khắc những cặp nghê đá, đặt hai bên tam cấp, như là để bảo vệ, hộ phù.
Trong ý nghĩa trên, tượng nghe được đặt trước bốn phía tiền đường Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông ngang hàng với rồng chầu. Vừa gợi lên niềm tự hào về bản sắc văn hóa của dân tộc, vừa làm cho ngôi nhà thờ tăng thêm vẻ uy nghiêm, thiêng thánh.
“Nắng mưa dầu giãi canh thâu,
Hai con nghê đá nằm chầu thiên thu”.
f. Thiên nhiên và ngoại cảnh:
Thiên nhiên, ngoại cảnh là yếu tố căn bản trong kiến trúc Việt Nam. Cái triết lý “vạn vật nhất thể” bàng bạc khắp nơi. Qua thiên nhiên và nhờ thiên nhiên, con người cảm thấy gần gũi, nhẹ nhàng, một bước rất gần tới Chân, Thiện, My.
http://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi...toa_lavang.jpgXung quanh ngôi Thánh đường nguy nga tráng lệ là các quảng trường Thánh Martinô, quảng trường Đức Mẹ La Vang, quảng trường Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được trang hoàng bằng những nhân tố văn hóa rất Việt: những cây đèn đá, bờ tre, khóm trúc, cây kiểng, hòn non bộ, hồ cá... tạo nên không gian thờ phượng rất thiên nhiên và cũng rất gần gũi với đời sống của người dân. Những bài trí đó vừa mang nét đẹp của văn hóa Việt, vừa góp phần làm cho ngôi Thánh đường đồ sộ hòa mình với cảnh quan tự nhiên của đất trời, cỏ cây mây nước.
2.Nội thất:
Bước vào trong Thánh đường, ta sẽ thấy rõ chủ ý của tác giả khi thiết kế ngôi Thánh đường này: đưa bản sắc dân tộc vào trong kiến trúc, nghệ thuật thánh. Điều này thể hiện qua việc thiết kế gian cung thánh và các bài trí bên trong lòng của nhà thờ. Một trong những nét văn hóa tiêu biểu đậm nét trong nội thất ngôi Thánh đường chính là biểu tượng Vuông – Tròn : lòng nhà thờ vuông gian cung thánh tròn, chóp đỉnh vuông - tròn, bàn thờ mặt tròn - chân vuông, Nhà Tạm vuông - tròn, .v.v.
Ý nghĩa biểu tượng “Vuông - Tròn” trong văn hóa Việt
Ai trong chúng ta cũng từng một lần nghe câu thành ngữ “Mẹ tròn con vuông”. Mới nghe qua chúng ta thấy có vẻ khá vô lý và đối nghịch nhau, nhưng thành ngữ hàm chứa một ý nghĩa hết sức tốt đẹp, nhằm diễn tả cả hai mẹ con đều khỏe mạnh sau giờ phút mãn nguyệt khai hoa; tức là nói đến một kết quả tốt đẹp đúng như người ta trông đợi. Trong văn hóa Việt nam, hai hình thể “vuông - tròn” trong nhiều trường hợp đi đôi, gắn liền với nhau biểu thị cho một sự kết hợp thuận lẽ trời, và đem đến một kết quả tốt lành, ý nghĩa ấy ta bắt gặp trong sự tích “bánh dày bành chưng” đời vua Hùng.
Nói một cách triết lý, Vuông Tròn chính là khái niệm về Trời Đất, về Càn Khôn, về Âm Dương. Trong kiến trúc Đông phương, hầu hết các đường nét bao giờ cũng là những đường nét pha trộn giữa Âm và Dương. Bên cạnh những đường thẳng cần thiết phải có, người ta không quên đưa những đường cong, những vòng tròn vào, để tạo nên một tổng thể hài hòa giữa Âm và Dương. Cái mái ngói cong cong, cái cửa sổ tròn tròn.
Từ khái niệm vuông tròn biểu trưng của Trời Đất, đến khái niệm vuông tròn của Âm Dương: tròn tượng trưng cho Âm tính, vuông tiêu biểu cho Dương tính. Sự kết hợp hài hòa giữa Âm - Dương bao giờ cũng được xem là một kết hợp thuận tự nhiên. Một kết hợp như thế luôn luôn mang lại kết quả tốt đẹp.
Nhìn chung, Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông với bình đồ hình chữ Quốc. Hình vuông làm nền như khung hình Tế Đàn Nam Giao : tượng trưng cho Đất; khung mái bên trên hình tròn tượng trưng cho Trời. Các góc mái nhà thờ cong vút được trang trí rồng bay tượng trưng con đường giải thoát, hướng thượng.
a. Cung thánh
Cung Thánh Thánh đường Đa Minh Ba Chuông được thiết kế hình tròn theo hướng mở, tạo không gian rộng thoáng về bốn hướng, đúng với tinh thần “cánh cửa rộng mở canh tân”. Bàn thánh là tâm điểm quy tụ mọi thành phần dân Chúa cùng hiệp dâng lễ tế trong Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô. Tất cả nhằm diễn tả ý nghĩa Giáo Hôi muốn mở rộng vòng tay mời đón mọi người. Không có sự cách biệt giữa bàn thờ, cung thánh với không gian nhà thờ, giữa chủ tế và cộng đoàn, thể hiện sự gần gũi, tinh thần hiệp thông và chia sẻ bàn tiệc của Thiên Chúa mời gọi và thiết đãi trong tình thân ái.
b. Bàn thờ
Bàn thờ được làm bằng một loại gỗ quý, trên mặt đá cẩm thạch. Chất liệu gỗ, đá là những vật liệu mang tính truyền thống trong kiến trúc xây dựng bền vững của người Việt Nam. Khác với các bàn thờ phương Tây (hình chữ nhật), bàn thờ ở đây hình tròn trên chân đế hình vuông, đặt giữa lòng cung thánh tròn, trên nền vuông với các vòng tròn tam cấp. Tuy hình dáng giữa hai cấu trúc bàn thờ Tây và Ta có khác nhau, nhưng không có sự khác nhau về ý nghĩa, thậm chí bàn thờ ta (hình tròn) còn thể hiện ý nghĩa rõ nét hơn.
Bàn thờ trong nhà thờ Công giáo tượng trưng cho sự hiện diện của Đức Kitô. Theo sắc thái văn hóa Á Đông, bàn thờ hình tròn tượng trưng cho Trời, chân đế hình vuông tượng trưng cho đất. Do đó, trong Đức Kitô, Trời - Đất được nối kết chặt chẽ với nhau: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
c. Nhà tạm
Nhà Tạm tuy nhỏ bé, nhưng là nơi rất thiêng liêng trong tâm thức mọi người tín hữu Công giáo vì là nơi cất giữ và tôn thờ Thánh Thể Chúa Kitô. Để thể hiện tinh thần hội nhập văn hóa trong đạo Công giáo, nhiều nhà thờ đã làm Nhà Tạm theo mô hình của một ngôi đình làng thu nhỏ, biểu tượng văn hóa của quê hương Việt Nam. Ở đây còn hơn thế nữa, Nhà Tạm của Thánh đường Ba Chuông lại là nơi hội tụ của nhiều đặc nét văn hóa bản địa.
Nhà Tạm hình vuông được bao quanh bởi một mặt kiếng hình tròn. Hai cánh cửa Nhà Tạm trạm nổi hai con rồng chầu Thánh giá. Xung quanh Nhà Tạm là hình bát quái được cách tân : Càn - Trời ; Khôn - Đất; Ly – Lửa; Khảm - Nước.
Những họa tiết giản lược và cách điệu trên nhằm diễn tả ý nghĩa : Đức Kitô vừa là chủ tể của vũ trụ thiên hình vạn trạng, vừa là chủ tể của mọi nền văn hóa, là mạch nguồn của khởi nguyên và cùng tận.
http://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi...toa_mancoi.jpg
Tòa Đức Mẹ Mân Côihttp://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi.../toa_giuse.jpg
Tòa Thánh Giuse
d. Phù điêu
Được trưng bày ở tiền sảnh ngôi nhà thờ, các bức phù điêu làm nổi bật sự liên kết giữa tinh thần Kitô giáo và truyền thống văn hóa dân tộc.
Bên trái là phù điêu Đức Mẹ Mân Côi có khoảng không gian nền với hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết, nguồn nước tượng trưng cho lòng Mẹ bao la. Tất cả những biểu tượng này đều mang tâm thức Việt.
Bên phải là bức phù điêu Thánh Giuse và Chúa Giêsu trong bối cảnh nền là không gian thuần Việt : ngọn núi, ngôi nhà, bàn mộc - biểu lộ tinh thần vững chãi của người cha lao động; sự công chính và sự cương trực được thể hiện qua hình ảnh khóm tre (trúc), một biểu tượng “tiết trực tâm hư” theo tinh thần Á đông.
http://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi...toa_martin.jpghttp://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi.../toa_tudao.jpg
e. Hội họa
Ba bộ tranh gốm bao bọc ba mặt tầng lửngbên trong nội thất nhà thờ, gồm 15 bức họa sống động, với tổng chiều dài 60 mét, thể hiện sự hòa hợp giữa các gam màu và họa tiết, kết cấu nên một bộ giáo lý bằng tranh sinh động. Qua đó chúng ta có dịp khắc ghi những biến cố quan trọng trong toàn bộ tiến trình Lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, xuyên suốt từ Cựu ước đến Tân ước. Từ công trình Sáng tạo, Vườn địa đàng, Giao ước Noê, Hiến tế Isaac và Giao ước Sinai, đến Bài giảng trên núi, Bữa tiệc ly, Giao ước Thập giá, Biến cố Phục sinh và Lễ Hiện xuống. Bên cạnh đó, bộ tranh còn diễn đạt sự hình thành và phát triển của hạt giống Tin Mừng cứu độ trên quê hương Việt Nam từ buổi đầu cho đến nay, như một âm vang thể hiện sự trải rộng của ơn cứu độ, vươn tới mọi thời đại và mọi dân tộc.
Các bức tranh gốm cho thấy một sự đan quyện hài hòa các giá trị nội dung căn bản của Kitô giáo với những giá trị văn hóa dân tộc ẩn chứa trong các họa tiết tiêu biểu : áo dài khăn đống, áo tứ thân, nón lá, bụi chuối, căn nhà Việt và cả con người Việt nữa. Ý nghĩa thiêng liêng của kiến trúc thánh trong Thánh đường thấm sâu vào từng phong cách, khung cảnh và sắc màu làng quê rất Việt.
http://gxdaminh.net
Hoạt động của Trung tâm Mục vụ Đaminh
Hoạt động của Trung tâm Mục vụ Đaminh
Ngoài sinh hoạt đều đặn hàng tuần của các ca đoàn tập hát, các nhóm cầu nguyện, sinh viên nhịp bước Đaminh … Trung tâm hiện nay có một số sinh hoạt tổ chức sau :
http://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi...oan/ttmv04.jpghttp://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi...oan/ttmv03.jpg
1. Các lớp giáo lý căn bản
Nằm trong ưu tư chung của Giáo hội, một trong những hoạt động chính yếu của trung tâm Mục vụ là giáo dục đức tin cho mọi thành phần Dân Chúa.
Trung Tâm Mục vụ Đaminh mỗi năm có bốn khóa cho anh chị em Dự tòng, ba khóa Giáo lý Hôn Nhân, và riêng ngày Chúa nhật là nơi sinh hoạt của các lớp giáo lý Thiếu Nhi Thánh Thể.
2. Các lớp giáo lý chuyên biệt và nâng cao
Nhằm giúp nâng cao sự hiểu biết đức tin cho Dân Chúa, Trung Tâm Đaminh có các lớp :
a/ Thần học Sedes Sapientiae :
Sedes Sapientiae, một danh hiệu trong kinh cầu Đức Bà để chỉ Đức Mẹ là Tòa Đấng Khôn Ngoan. Với các lớp Thần Học Căn Bản, Thần Học Trung Cấp và Thần Học Nâng Cao.
Chương trình học mỗi tuần ba buổi chiều, mỗi buổi 4 tiết học từ 14 giờ đến 17giờ 15.
b/ Thần học Vinh Sơn Liêm :
Học buổi tối từ 19giờ đến 21giờ, được sắp xếp theo khóa gồm các môn Kinh Thánh, Thần học, Luân Lý, Bí Tích… Học viên có thể đăng ký học từng môn theo nhu cầu.
http://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi...oan/ttmv06.jpghttp://gxdaminh.net/tulieubaiviet/hi...oan/ttmv05.jpg
3. Các lớp chuyên môn
Dành cho những các anh chị em có nhu cầu về các chuyên ngành hỗ trợ cho công tác mục vụ.
Cụ thể có các lớp như : Ca trưởng, Nhạc Lý, Xướng âm, Hòa âm, Đàn Organ, Dân vũ, Câu lạc bộ Sinh ngữ ... Được tổ chức theo khóa, với các trình độ từ thấp đến cao.
4. Các buổi Thuyết trình hội thảo chuyên đề
Được tổ chức tùy theo hoàn cảnh và nhu cầu. Như : Văn hóa Việt Nam, Hội thảo về HIV, Bảo vệ Sự Sống, Các chuyên đề Kinh thánh, Thần học...
5. Mỹ thuật – Nghệ thuật
Đặc biệt trong lãnh vực nhân Mỹ thuật và Nghệ thuật, Trung Tâm Đaminh có Nhóm Mỹ thuật Đaminh do Cha Giuse Phạm Hưng Thịnh sáng lập, gồm các Họa sĩ, Điêu khắc gia chuyên nghiệp với những hoạt động thuyết trình, trao đổi, triển lãm nghệ thuật.
Nhóm hiện đã hình thành một Gallery Đaminh - Ba chuông (Website: dominiart.net).
Trong năm 2008, Trung tâm đã tổ chức : Triển lãm tranh “Tôn giáo và nhân văn” (tháng 3), Triển lãm ảnh “Đức Tin giữa Đời Thường” (tháng 8), và hỗ trợ Mekong Art tổ chức triển lãm dịp Giáng Sinh.
Tháng tư năm 2009, Trung tâm sẽ tổ chức cuộc Triển lãm tranh Tôn giáo và nhân văn lần II với chủ đề Phục Sinh.
6. Sinh hoạt tinh thần
Ngoài ra trung tâm còn nhận hỗ trợ các đoàn thể trong các sinh hoạt tâm linh như tĩnh tâm và thánh lễ theo nhóm.
Các đoàn thể hoặc nhóm trong hoặc ngoài giáo xứ có nhu cầu, xin liên hệ với các vị hữu trách trong Ban giám đốc hoặc ban Thư ký để sắp xếp chương trình.
Taizé tại Đaminh Ba Chuông
Taizé tại Đaminh Ba Chuông
Một số linh mục Việt Nam, bạn trẻ từng đi Pháp và được tham dự các buổi cầu nguyện tại Taizé để tìm hiểu về những sinh hoạt của phong trào này, đã phổ biến tại quê nhà. Trước tiên là tại nhà nguyện Chủng viện Giuse Sài Gòn vào các tối thứ ba.
Tại Ba Chuông, trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng 2006, linh mục Giuse Đỗ Trung Thành, sau khi đi dự đại hội giới trẻ Châu Á tại Hồng Kông, đã khởi sự phổ biến hình thức cầu nguyện theo hình thức Taizé tại nhà thờ giáo xứ.
Sau đó theo yêu cầu của giáo dân, linh mục Giuse Đỗ Trung Thành với sự hỗ trợ của nhóm sinh viên Nhịp bước Đaminh của giáo xứ, vẫn tổ chức đều đặn hơn hai năm qua, các buổi cầu nguyện Taizé vào các tối thứ Năm cuối tháng, từ 18g30 – 19g30.
Xin mời quý ông bà anh chị em tham dự.
GIỜ CẦU NGUYỆN TAIZÉ
Các bài đọc trong Tin Mừng, Thánh Vịnh, Kinh Lạy Cha, các bài hát nhẹ nhàng, tiết tấu chậm rãi, sự thinh lặng, lời cầu nguyện ngắn gọn được dùng đặc biệt trong giờ cầu nguyện của phong trào Taizé. Đàn guitar được sử dụng rất thích hợp cho nhũng giờ cầu nguyện mang phong thái Taizé, thỉnh thoảng đàn Organ cũng được sử dụng.
Ánh sáng nhẹ, dịu dàng, một vài nhánh lá hoa nhỏ, đơn sơ đưọc dùng để trang trí trong các buổi cầu nguyện này. Các ảnh tuợng icon, cộng với rất nhiều ánh nến lung linh được sử dụng nhiều nhất trong các giờ cầu nguyện Taizé.
Điểm độc đáo và gây ấn tượng, cảm động nhiều hơn cả, có lẽ là vào cuối giờ cầu nguyện, những người tham dự được mời cầm lấy ngọn nến nhỏ của mình, tượng trưng cho những niềm vui, nỗi buồn, thử thách, hy vọng, đắng cay trong cuộc đời đưa lên cung thánh (hoặc bục chính), cùng ngồi ở đó chung quanh nhau, ở giữa là cây thánh giá lớn được sắp bằng những ngọn nến của những người tham dự trong thinh lặng với tâm tình cảm mến và thờ lạy.
http://gxdaminh.net
Giáo xứ Thiên Ân: giáo dân và di dân
Giáo xứ Thiên Ân: giáo dân và di dân
Đoàn Y tế từ thiện Hy Vọng
Nhận lời mời của Cha Hạt trưởng Tân Sơn Nhì, trong hai ngày 25 và 26 tháng 01 năm 2010, Đoàn y tế từ thiện Hy Vọng, gồm khoảng 20 bác sĩ, đã đến giáo xứ Thiên Ân khám và chữa bệnh cho khoảng chừng 700 người tại nhà sinh hoạt giáo xứ. Qua quá trình khám và chữa bệnh, các bác sĩ tâm sự: có 5 người bệnh nặng nhưng không có phương cách để điều trị; tuy rằng trong nhóm có cả bác sĩ phẫu thuật nhưng đành bó tay không giải quyết được. Giáo xứ Thiên Ân có số lượng di dân khá nhiều và đủ mọi thành phần. Có nhiều chuyện bất ngờ như, trong khi khám và chữa răng cho các em nhỏ, có những em trên 10 tuổi được hỏi: “Các em có đánh răng sáng tối không?” Các em hỏi lại: “Đánh răng là cái gì?!” Các em chưa bao giờ biết đánh răng, càng chưa bao giờ đi khám và chữa bệnh về răng!
Giáo xứ Thiên Ân
Nhà thờ giáo xứ Thiên Ân tọa lạc tại số 179 đường Lê Niệm, phường Phú Thạnh, Quận Tân Phú, TP.HCM, thuộc giáo hạt Tân Sơn Nhì.
Tiền thân của giáo xứ Thiện Ân là giáo họ Giuse thuộc giáo xứ Phú Thọ Hòa do Linh mục GB Đinh Hữu Dong thành lập năm 1969.
Năm 1989, Linh mục JBM Đoàn Vĩnh Phúc về nhận chánh xứ Phú Thọ Hòa. Qua quá trình sinh hoạt tại nhà nguyện thánh Giuse, ngài thấy số giáo dân mỗi ngày một đông, nhà nguyện không đủ chỗ cho giáo dân tham dự thánh lễ. Ngài thao thức, băn khoăn và ước mong mở rộng: từ một giáo họ phát triển lên thành một giáo xứ cho thỏa ước nguyện của toàn thể cộng đoàn dân Chúa.
Để đáp ứng, ngài họp Ban Hành giáo để tìm phương hướng cho tương lai. Cuộc sống của giáo dân đa phần là di dân, kinh tế hết sức khó khăn, không tài chánh. Mọi người đều nản chí, lực bất tòng tâm, khả năng mua đất khó thực hiện.
Năm 1990 nhờ lời chuyển cầu của thánh cả Giuse, bổn mạng giáo họ, cộng với sự quyết tâm của cha chánh xứ và lòng nhiệt thành của toàn thể cộng đoàn dân Chúa, cộng đoàn đã mua được một thửa đất tại số 58/21 đường số 9, phường 18 Quận Tân Bình, TP.HCM. Tiếp đến, cộng đoàn lo thủ tục xin phép xây dựng Thánh Đường. Trải qua bao gian truân khó khăn, năm 1998 cha phụ trách mới nhận được giấy phép xây dựng. Kế hoạch xây dựng nhà thờ bắt đầu được thực hiện, và cuối cùng đến năm 2000 ngôi thánh đường cũng đã được hoàn thành.
Và ngày 24/04/2001, Quyết định số 151-2001 của GP.TPHCM đã nâng giáo họ Giuse thành giáo xứ Thiên Ân và nhận thánh Giuse là bổn mạng, mừng kính vào ngày 01-5 hàng năm.
Ngày 21-11-2001 Lm. JBM. Đoàn Vĩnh Phúc về nhận chánh xứ Thiên Ân (cũng là cha Hạt trưởng hạt Tân Sơn Nhì). Hai linh mục phụ tá kế tiếp nhau tại giáo xứ Thiên Ân là:
- Lm Giuse Phạm Đình Đại
- Lm Giuse Lê Hoàng.
Cộng đoàn Nữ tu phụ giúp giáo xứ gồm có: Dòng Mến Thánh Giá Mân Côi, Hội Dòng Maria Mẹ Hy Vọng, Hội Dòng Chúa Chiên Lành, Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái.
HĐMV gồm 5 quí chức trong ban thường trực, 12 ủy viên giáo xứ, cùng ban hành giáo của 6 giáo họ, 24 giáo khu và 8 hội đoàn.
Địa bàn của giáo xứ thuộc hai Quận Tân Phú và Quận Bình Tân, gồm bốn Phường: Phú Thạnh, Phú Thọ, BHHA, Bình Trị Đông.
Tổng số giáo dân: 8000 người và khoảng chừng 2000 di dân tham gia phụng vụ.
Dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse, giáo xứ mỗi ngày một trưởng thành hơn, hiệp thông nhiều hơn trong niềm tin và tình yêu Chúa
Giáo Xứ Tân Định Một Sức Sống Tràn Đầy
Một ngày đẹp trời, tôi đến vùng Tân Định tấp nập ồn ào, cửa hàng hai bên phố chợ đường Hai Bà Trưng như phô bày sự giàu có của thành phố này. Qua cánh cổng lớn, tôi vào thăm giáo xứ Tân Định, một giáo xứ đã có 140 năm hình thành và phát triển.
Trong phạm vi một bài viết, tôi xin được điểm lại những nét son của giáo xứ qua những giai đoạn hình thành (1860-1874), trưởng thành (1926-1945), củng cố, xây dựng phát triển (1946-1974) và hiện nay (1974-hiện nay)
Một Quá Khứ Êm Đềm
Do các cuộc bách hại đạo Công giáo của Vua Tự Đức nên vào khoảng năm 1860, một số gia đình từ miền Trung chạy vào Nam, qua Đồng Nai rồi vào tận Sài Gòn. Đến cửa thành Gia Định (lúc đó thành đã lọt vào tay người Pháp) họ dừng lại, cất nhà chung quanh hào, gần vách thành để tạm trú rồi định cư. Họ tìm một ngôi nhà cũ bằng cột cây, vách ván mái ngói, sửa sang lại để làm nhà nguyện.
Năm sau, có 100 giáo dân ở Họ đạo Cầu Bông đi qua nhập với nhóm giáo hữu đầu tiên, hình thành nên một họ đạo trên khu đất nằm giữa Nhà thờ Tân Định và kênh Nhiêu Lộc ngày nay được gọi là Họ Đạo An Hòa.
Về mặt tôn giáo, Họ đạo An Hòa thuộc Địa phận Tây Đàng Trong do Đức cha Lefèbvre trông coi. Năm 1862, nhiều gia đình cũng đến vùng này lập nghiệp, số giáo dân họ đạo tăng nhanh, thậm chí khá đông người bên lương lầm tưởng “theo đạo” sẽ được ân huệ hoặc ít ra sẽ tránh được sự phiền toái đối với chính quyền Pháp khi mới lên cai trị. Sự hiểu lầm đó được xóa đi khi toàn quyền Bonard ra thông tư xác định việc theo đạo Công giáo là không bắt buộc và cũng không phải là dấu chứng trung thành với chính quyền Pháp. Đến năm 1910, số giáo dân vượt quá 3.000, trong đó có khoảng 300 người Châu Âu; người giáo dân trong thời kỳ này rất tốt luôn luôn kính trọng những vị chủ chăn của mình.
Những Giai Đoạn Trưởng Thành Và Phát Triển Thuận Lợi
Khi nói đến sự thành công, phát triển. hiệu quả…người ta nghĩ đến ba yếu tố là thiên thời – địa lợi – nhân hòa; Họ đạo An Hòa (Tân Định) nằm giữa khu vực dân cư, thuận lợi về kinh tế, xã hội và là đầu mối giao thông nên đời sống của giáo dân khá thoải mái. Từ năm 1924 vị trí của họ đạo ở ngay trung tâm thành phố, dân trí ngày càng nâng cao và điều kiện sống rất tốt. Sau này, địa bàn Họ đạo An Hòa rất rộng, gồm có những làng: Tân Định, Hiệp Hòa, Đất Hộ (Đakao), Phú Nhuận, Chí Hòa và Tân Sơn. Bên cạmh đó, các cha sở là yếu tố “nhân hòa” khi tích cực dấn thân phục vụ với các điều kiện thuận lợi của họ đạo; thậm chí có nhiều công lao và qua đời sớm vì bệnh như cha sở thứ năm là Donatianus Eveillard (Sơn).
Dưới cái nhìn của tôi, ở thời nào cũng vậy, cha chánh xứ bao giờ cũng có nhiều điều kiện để phục vụ, có thể làm được nhiều việc có ích cho Giáo Hội và xã hội, nhiều khi chỉ là một sáng kiến mà hiệu quả lan rộng.Thí dụ như cha sở thứ năm đã lập Trường Thầy Giảng để đào tạo tu sĩ có khả năng dạy giáo lý và xây nhà in Thừa Sai để in ấn tài liệu giáo dục và sách báo đạo. Trong vòng non một thế kỷ, nhà in ở Tân Định đã cho in ấn hàng ngàn tác phẩm tôn giáo và văn hóa khác nhau, chẳng những ảnh hưởng khắp nước Việt Nam mà còn trên cả Đông Dương và Thái Lan nữa.
Trong giai đoạn này có một biến cố khá quan trọng là vào năm 1885, có 600 người Công giáo gốc Bình Định bị bắt đạo, chạy trốn vào Sài Gòn đến tá túc ở Họ đạo Tân Định. Sau đó, một số hồi hương, một số định cư vĩnh viễn rồi tản mác trong các khu Xóm Lách, Nhà Đèn (Công Lý) và Xóm Chùa cho đến ngày nay. Theo dòng thời gian, giáo dân ngày càng đông, chính vì thế mà đã có bốn nhà thờ mới thuộc giáo xứ Tân Định được xây dựng nên: Xóm Lách (1951), Xóm Chùa (1963), Fatima (1966), Công Lý (1970), và sau này trở thành những giáo xứ chính thức.
Có thể nói, vùng Tân Định thật tốt lành khi giáo xứ có những con người tài giỏi đã từng sống ở đây, đến đây phục vụ trong vai trò cha sở và trở thành những nhân tố tích cực cho Giáo Hội như Đức cha GB. Nguyễn Bá Tòng, một linh mục có tài hùng biện, có óc kiến trúc và một chút nghệ sĩ khi dựng vở tuồng Thương Khó, diễn lại việc Chúa Giêsu vào Thành Giêrusalem, dùng bữa Tiệc Ly, chặng đường Thánh giá, chết và lên trời…vở tuồng từng được công diễn tại Nhà hát Tây (nay là Nhà hát Thành phố). Và cha đã trở thành vị Giám mục Tiên khởi của Việt Nam.
Vào năm 1955, họ đạo lại hân hoan chào mừng người con đầu tiên là cha Phaolô Nguyễn Văn Bình, được thụ phong Giám mục, sau này là Tổng Giám mục Sài Gòn. Người con khác của họ đạo là cha Anrê Nguyễn Văn Nam đã làm lễ vinh quy tại Tân Định và sau này cũng là Giám mục phụ tá Mỹ Tho.
Năm 1965, Họ Tân Định hân hạnh đón cha Nicôlas Huỳnh Văn Nghi về làm chánh xứ khi cha mới 38 tuổi. Rồi cha được chọn làm Giám đốc Caritas Sài Gòn; Chủ tịch Ủy ban soạn thảo Giáo lý toàn quốc; Giám đốc Phong trào Cursillos; rồi cha sở thứ mười bảy đó trở thành Giám mục Phụ tá Sào Gòn.
Tôi còn nhớ mãi một kỷ niệm trong đời. Đó là vào năm 1974, tôi đến nhà thờ Tân Định, do một linh mục giới thiệu, để làm tình nguyện viên chương trình Giáo dục Huấn đạo của Caritas do cha Nghi tổ chức. Tôi chỉ thấy một linh mục có nước da trắng, nói năng điềm đạm, vẻ hiền từ, khuyên chúng tôi cách làm việc khôn ngoan…rồi sau đó lấy một lọ kẹo chia cho mọi người. Vì còn quá trẻ nên tôi không để ý nhiều, sau này mới hiểu, ngoài công việc của cha sở, cha Nghi còn có nhiều hoạt động rộng rãi khiến Họ Tân Định trở thành một trung tâm sinh hoạt của giáo phận mà ở đó có Phong trào Trí thức Công giáo, Hội Y tá Công giáo, Hội Văn nghệ sĩ Công giáo, Liên hội các Cô nhi viện, Hội Cựu chủng sinh, Hội Cựu sinh viên Công giáo.
Giáo Xứ Tân Định Giai Đoạn Hiện Nay
Với những điều kiện thuận lợi như trên, Giáo xứ Tân Định luôn có một sức sống tràn đầy. Năm 1975, những người cộng sản giành được chính quyền tại Thành phố Sài Gòn, một biến cố làm thay đổi miền Nam nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng. Khi ấy, mỗi người một tâm trạng: có người là thanh thản, có người là xao xuyến, cũng có người chỉ biết cầu nguyện và sám hối…Rồi tất cả các đoàn thể lần lượt ngừng hoạt động. Cuộc sống đã làm thay đổi những sinh hoạt bề mặt của họ đạo lúc đó nhưng mặt khác giáo dân đã sống bề sâu của đức tin nhiều hơn.
Thời điểm này, từ 17.000 giáo dân giảm còn 14.000 người dù Giáo xứ Tân Định có địa bàn rộng, có nhà thờ phụ gọi là chi họ như Fatima, Cầu Mới, Xóm Chùa, Xóm Lách, Công Lý do các cha phó coi sóc. Có một hiện tượng đáng lưu ý: một số người không dám khai thật mình là người Công giáo trong lý lịch vì sợ mất quyền lợi, trong khi đó tại giáo xứ, luôn có các khóa Tân tòng ngắn hạn (ba tháng) xin tìm hiểu về Thiên Chúa khi nhận ra cuộc sống vật chất không phải là ý nghĩa duy nhất. Thế là cha sở PX. Phan Văn Thăm chọn ngày 01 tháng Giêng làm Ngày Truyền thống Tân tòng của họ đạo..
Khoảng từ năm 1998 các chi họ có nhà thờ phụ được tách riêng thành giáo xứ mới.
Khi đến Nhà thờ Tân Định để gặp cha sở, tôi thấy trong lòng e ngại một chút vì cha lớn tuổi, có vẻ nghiêm nghị; hơn nữa, cha hiện là Đại diện Giám mục Đặc trách Giáo dân, là Hạt trưởng và còn kiêm khá nhiều chức vụ khác nữa, tôi bỗng thấy mình phải cẩn thận trong cách nói chuyện hơn nữa!
Năm 1998, cha Gioan Baotixita Võ Văn Ánh đổi về đây làm cha sở, Giáo xứ Tân Định từ hơn 10 năm qua đã có những thay đổi nhất định theo hướng phục vụ của cha sở mới. Cũng như các giáo xứ khác, ngoài cha sở và các cha phó, có Hội đồng Mục vụ và các đoàn thể quen thuộc như Thiếu nhi Thánh Thể, Dòng Ba Đa Minh, các Bà mẹ Công giáo…Giáo xứ có những sinh hoạt đặc thù như:
- Việc xin lễ, chỉ cần đăng ký ý lễ còn tiền thì tự tay bỏ vào thùng, nếu chưa có thì sẽ bỏ vào sau; việc này giúp nhiều người nghèo xin lễ cho thân nhân đúng ngày giỗ dù không có tiền hoặc có ít.
- Gia đình có người qua đời cũng được cử hành như quy định nhưng có một điều kiện là cả tang quyến phải xưng tội rước lễ.
- Thánh lễ dành cho bệnh nhân tại các giáo khu, được cử hành tại nhà một bệnh nhân nào đó.
- Cầu nguyện qua hình thức Taizé hằng tuần.
- Tờ tin Tân Định hằng tháng, giúp giáo dân sống Lời Chúa, tìm hiểu giáo huấn Giáo Hội, giáo dục đức tin cho trẻ em và kiến thức phổ thông giúp giáo dân sống tốt đời đẹp đạo.
- Trình diễn Thánh ca Giáng Sinh hằng năm.
- Tổ chức ngày Người Mẹ và ngày Người Cha.
Ngoài các đoàn thể có các sinh hoạt quen thuộc, thành nề nếp tại nhiều giáo xứ, Giáo xứ Tân Định còn có những đoàn thể hoạt động với những nét riêng như:
- Ban Hỗ trợ Ơn gọi, có chức năng hỗ trợ chủng sinh và các nam nữ tập sinh.
- Hướng Đạo Tân Định, áp dụng quy trình, nghi thức, nội lệ của Hướng Đạo Việt Nam (một thành viên của tổ chức Hướng Đạo Thế giới).
- Thanh Sinh Công Tân Định, một tập thể gồm thanh niên, sinh viên, học sinh với tôn chỉ hoạt động là Phúc Âm hóa môi trường học đường.
- Giới trẻ Con Đức Mẹ, một cộng đoàn âm thầm dấn thân vào sứ mạng truyền giáo bằng gương sáng đời sống và phó thác vào sự đồng hành của Đức Maria.
Phòng Khám Đa Khoa Tân Định
Phòng khám Đa khoa Tân Định nằm trong khuôn viên nhà thờ, gồm ba tầng lầu, được xây dựng hiện đại theo kiểu Gô-tích hòa hợp với kiến trúc nhà thờ. Từ năm 2000, phòng khám từ thiện Tây y và Đông y này được mở ra theo sáng kiến của cha GB. Võ Văn Ánh để đáp ứng số bệnh nhân ngày càng đông, giáo xứ quyết tâm xây dựng một y viện đa khoa. Ngày 15/11/2004, Đức Hồng y GB. Phạm Minh Mẫn đã đặt viên đá đầu tiên và sau đó khánh thành phòng khám vào ngày 15/6/2005.
Mặc dù hoạt động như phòng khám tư nhân nhưng đây là một y viện phục vụ cho người nghèo với tôn chỉ “Tất cả vì bệnh nhân thương yêu, không phân biệt lương giáo”. Đa số bệnh nhân là người già neo đơn, trẻ em đường phố, người khiếm thị tàn tật…Gần đây, phòng khám còn tiếp nhận toàn bộ bệnh nhân nghèo từ các phòng khám các chuyển đến.
Thế mạnh phòng khám là Khoa Vật lý trị liệu với hàng trăm bệnh nhân mỗi ngày. Khoa Y học cổ truyền với đầy đủ các môn bắt mạch, bốc thuốc, châm cứu, châm Laser. Khoa Dưỡng sinh do các y bác sĩ và giáo viên trường Đại học Y Dược trực tiếp hướng dẫn. Ngoài ra, ở đây có đầy đủ các khoa lâm sàng và cận lâm sàng thiết yếu như xét nghiệm máu, khám mắt, tai mũi họng, răng hàm mặt, thần kinh – tâm lý, xét nghiệm, siêu âm, điện tim, X quang…
Phòng khám có Ban Xã hội đi đến từng nhà và có đội quân ngoại viện sẵn sàng khám bệnh tại gia đình hoặc đến vùng sâu vùng xa khi có yêu cầu. Công trình xây dựng nối dài phòng khám để mở rộng khoa phòng và thêm giường lưu bệnh đã được thực hiện. Hiện nay ngoài những thiết bị sẵn có, Phòng khám Tân Định đang xin máy siêu âm màu, nội soi và xe cứu thương nhằm phục vụ tốt hơn. Trong tương lai, sẽ nâng cấp phòng khám thành Bệnh viện Đa khoa Tân Định để phục vụ nhiều hơn cho người nghèo, quý linh mục, tu sĩ trong và ngoài giáo phận.
Theo suy nghĩ của tôi, chẳng có nơi nào hiện diện sự đau khổ bằng bệnh viện, vì có sự quằn quại đớn đau và thấp thoáng sự bất lực của con người trước cái chết; nên việc làm của một linh mục hay bất cứ ai xây bệnh viện cũng xoa dịu được nỗi đau của phận người khốn khổ “sinh lão bệnh tử”; mà từ đáy lòng, tôi vô cùng khâm phục.
Sau câu chuyện về phòng khám, tôi được cha chánh xứ hướng dẫn tham quan mặt trước của phòng khám với những lời giải thích hết sức thân thiện. Đó là một hoa viên đẹp, có những chặng đường Thánh giá mà ý nghĩa bố cục từng chặng đường rất hay qua cách sắp xếp cây và đá…do một cha thực hiện.
Rời vùng Tân Định về nhà, tôi thấy sức sống mạnh mẽ của một giáo xứ như dâng tràn trong lòng, đầy ắp một niềm vui.
st
Thánh lễ giao thừa Canh Dần tại Nhà thờ Tân Định
T2, 15/02/2010 - 06:15 by toanbong