Bài Giáo Lý Mới của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô
Bài Giáo Lý Mới của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô
Bài I - Thế Giới và Thời Đại của Thánh Phaolô
------Dưới đây là bài phiên dịch Bài Huấn Đức của ĐTC Bênêđictô XVI trong buổi triều yết chung tại Đại Sảnh Phaolô V, ngày Thứ Tư, mùng 2 tháng 7, năm 2008.
------Anh chị em thân mến,
------Hôm nay tôi muốn bắt đầu một chu kỳ Giáo Lý mới dành riêng cho Thánh Tông Đồ Cả Phaolô. Như anh chị em đã biết, chúng ta thánh hiến năm nay từ ngày Lễ Thánh Phêrô và Phaolô, 29 tháng 6, năm 2008 cho đến cùng Lễ này năm tới để kính nhớ ngài.
------Thánh Tông Đồ Phaolô là một khuôn mặt xuất sắc và hầu như không thể bắt chước được, nhưng thú vị, trước mặt chúng ta như một gương sáng cao cả cho việc hoàn toàn hiến thân phụng sự Thiên Chúa và phục vụ Hội Thánh, cũng như cởi mở với nhân loại và các nền văn hóa. Cho nên thật công bằng để cho chúng ta dành cho ngài một chỗ đặc biệt, không phải chỉ trong sự tôn kính của chúng ta, mà còn trong cố gắng hiểu biết những gì ngài muốn nói với chúng ta, là những Kitô hữu thời nay.
------Trong buổi gặp gỡ đầu tiên này, chúng ta ngừng lại để suy nghĩ về môi trường mà trong đó ngài đã sống và làm việc. Một đề tài như thế có vẻ đưa chúng ta ngược dòng lịch sử rất xa xôi, vì chúng ta phải trở về sống trong thế giới hai ngàn năm xưa. Nhưng điều đó chỉ dường như đúng có một phần, bởi vì chúng ta có thể chứng thực rằng, dưới nhiều bình diện khác nhau, tình trạng văn hóa xã hội ngày nay không khác gì thời ấy bao nhiêu.
------Một điều chính yếu và căn bản mà chúng ta nên ghi nhớ là sự liên hệ giữa môi trường mà Thánh Phaolô được sinh ra và lớn lên với khung cảnh toàn cầu mà sau đó ngài trở thành phần tử. Ngài xuất thân từ một nền văn hóa rất đặc biệt và giới hạn, chắc chắn là thiểu số, đó là nền văn hóa và truyền thống của dân Israel. Trong thế giới ngày xưa và nhất là trong Đế Quốc Rôma, như các học giả về thế giới ấy cho chúng ta biết, thì có chừng 10% tổng số dân chúng là Do Thái. Khi đó tại thành Rôma này, tỷ lệ đó còn ít hơn, tối đa là 3% dân số thành phố.
------Như vẫn còn xảy ra ngày nay, niềm tin và cách sống của họ phân biệt họ cách rõ ràng với môi trường chung quanh, và việc ấy có thể đưa đến hai hậu quả: hoặc là bị chế diễu, có thể đi đến việc kỳ thị, hoặc được thán phục, là điều được diễn tả dưới những hình thức cảm thông khác nhau như trường hợp những dân ngoại “kính sợ Thiên Chúa” hoặc “tòng giáo” liên hệ với hội đường (synagogue) và chia sẻ đức tin vào Thiên Chúa của dân Israel.
------Một mặt, như những thí dụ cụ thể mà chúng ta có thể nói đến về thái độ lưỡng diện này, là sự lên án độc ác của một nhà hùng biện như Cicêrô, là người không những đã khinh thường tôn giáo của họ, mà cả thành Giêrusalem (x. Pro Flacco, 66-69), và mặt khác thái độ của phu nhân của Nêrô là Poppea, mà Giuse Flaviô ghi nhớ là “người có cảm tình” với dân Do Thái (x. Ant. of the Jews, 20, 195.252, V. 16), chưa nói đến việc Juliô Caesar đã chính thức công nhận những quyền lợi của họ mà sử gia Do Thái Giuse Flaviô mà chúng ta đã nói trên đã ghi lại (x. ibid 14, 200-216). Đương nhiên là, như ngày nay, số người Do Thái sống ngoài đất Israel, là đất tha hương, nhiều hơn số người sống trên vùng đất mà người ta gọi là Palestine.
------Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi chính Thánh Phaolô cũng là người chịu hai cách đánh giá trái ngược nhau mà tôi đã đề cập đến. Có một điều chắc chắn là tính cách đặc thù của nền văn hóa và tôn giáo của Do Thái đã tìm được chỗ đứng dễ dàng trong một thực thể có mặt khắp nơi như là Đế Quốc Rôma. Thế đứng khó khăn và đau đớn hơn là của một nhóm người, Do Thái hay Dân Ngoại, cùng tin chắc chắn vào con người Chúa Giêsu thành Nadareth, đến độ họ sẽ trở nên khác biệt với cả đạo Do Thái lẫn hình thức tà giáo thịnh hành.
------Trong bất cứ trường hợp nào, có hai yếu tố có lợi cho quyết tâm của Thánh Phaolô. Trước hết là nền văn hóa Hy Lạp hay đúng hơn là văn hóa cổ Hy Lạp (Hellenistic), là nền văn hóa mà sau thời Alexnader Đại Đế đã trở thành di sản chung ít ra của vùng Đông Địa Trung Hải và Trung Đông, mặc dù chính nền văn hóa này đã hội nhập nhiều yếu tố của các nền văn hóa của những dân tộc được truyền thống coi là man di. Một nhà văn thời ấy đã nói về vấn đề này rằng Alexander “ra lệnh cho tất cả mọi người phải giữ toàn thể “ecumene” [đất cư ngụ] như là quê cha đất tổ… và rằng không còn phân biệt giữa người Hy Lạp và dân Man Di.”(Plutarch, De Alexandri Magni luck aut virtute, § § 6.8).
------Yếu tố thứ nhì là cơ cấu chính trị-hành chánh của Đế Quốc Rôma, là cơ cấu đảm bảo sự bình an và yên ổn từ Anh Quốc cho đến miển nam Ai Cập, thống nhất lãnh thổ với một chiều kích chưa từng thấy. Ở không gian này, một người có thể đủ tự do và an toàn để di chuyển, được hưởng giữa những tiện nghi khác là một hệ thống đường xá ngoại hạng, và tìm thấy ở bất cứ nơi nào mình đến những đặc tính văn hóa căn bản mà không phương hại đến những giá trị địa phương, được tiêu biểu, trong mọi trường hợp, một công trình thống nhất chung “super partes,” đến nỗi triết gia Philô người Do Thái ở Alexandria, đồng thời với Thánh Phaolô, đã ca tụng Hoàng Đế Augustô bởi vi ông “đã đem tất cả mọi dân man rợ lại với nhau trong sự hòa hợp … trở thành một người bảo vệ hòa bình” (Legatio to Caium, § § 146-147).
------Nhãn quan phổ quát đặc thù của cá tánh Thánh Phaolô, ít ra là Kitô hữu Phaolô sau biến cố trên đường đi Đamascô chắc chắn là được thúc đẩy bởi đức tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô, đến nỗi hình ảnh của Đấng Phục Sinh đã vượt ra ngoài bất cứ giới hạn đặc biệt nào. Thực ra, đối với Thánh Tông Đồ “Không còn là người Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà nữa, vì tất cả anh em chỉ là một trong Ðức Kitô” (Gal 3:28). Nhưng, hoàn cảnh lịch sử - văn hóa của thời đại ngài và môi trường cũng ảnh hưởng đến những chọn lựa và quyết tâm của ngài. Thánh Phaolô đã được diễn tả như một “người của ba nền văn hóa,” kể cả nguồn gốc Do Thái của ngài, ngôn ngữ Hy Lạp, và đạc quyền “civis romanus” [công dân Rôma] của ngài, cũng như tên gọi gốc Latinh của ngài làm chứng.
------Chúng ta phải đặc biệt nhắc lại triết thuyết Khắc Kỷ, là triết lý nổi bật trong thời Thánh Phaolô và cũng ảnh hưởng Kitô giáo dù chỉ một phần nào. Trong liên hệ này chúng ta không thể không nhắc đến tên các triết gia Khắc Kỷ, như Zênô và Cleanthes là những người sáng lập, rồi đến những người gần thời Thánh Phaolô, như Sênêca, Musôniô và Epictêtô. Chúng ta tìm thấy nơi họ những giá trị cao quý về đề tài nhân loại và sự khôn ngoan, là những điều được Kitô giáo đón nhận một cách tự nhiên. Như một học giả về đề tài này đã viết cách tuyệt tác, “Thuyết Khắc Kỷ … công bố một ý tưởng mới, là ý tưởng áp đặt trên con người nhiệm vụ đối với đồng loại, đồng thời giải thoát họ khỏi tất cả mọi ràng buộc thể lý và chủng tộc cùng làm cho họ thành một thực thể tinh thần thuần túy” (M. Pohlenz, La Stoa, I, Florence 2, 1978, pp. 565ff).
------Thật là đủ để cho chúng ta nghĩ đến chẳng hạn những học thuyết hiểu vũ trụ như là một vật thể hòa hợp vĩ đại, và từ đó là học thuyết bình đẳng giữa mọi người không phân biệt về xã hội, rồi đến ý tưởng cần kiệm, về đo lường công bằng và tự chủ để tránh tất cả mọi thái quá. Khi Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê: “Những gì là chân thật, những gì là cao quý, những gì là chính trực, những gì là tinh tuyền, những gì là đáng yêu, những gì mang lại tiếng tốt, và nếu có gì là nhân đức, là đáng khen, thì hãy nghĩ đến những điều đó” (Phil 4:8), thì ngài không làm gì khác hơn là đưa ra một quan niệm thuần túy nhân bản thích hợp với sự khôn ngoan của triết lý trên.
------Vào thời Thánh Phaolô, cũng có một cuộc khủng hoảng về tôn giáo truyền thống, ít ra trên những bình diện huyền thoại cũng như công dân. Sau Lucrêtiô, một thế kỷ trước đó, đã tuyên bố một cách lý sự rằng “tôn giáo đã đưa đến quá nhiều hành động xấu” (De rerum natura 1, 101), một triết gia, như Sênêca, có thể đi vượt qua những chủ nghĩa nghi thức bề ngoài, đã dạy rằng “Thiên Chúa ở gần anh em, ngài ở với anh em, ngài ở trong anh em” (Lettere a Lucilio, 41, 1).
------Tương tự, khi Thánh Phaolô nói chuyện ở một thính đường của các triết gia theo chủ nghĩa Khoái Lạc ở Areopagus tại Athens, ngài nói cách từ chương rằng “Ngài không ngự trong những đền thờ do tay người dựng nên … chính ở trong Ngài mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu” (Tđcv 17:24-28). Với lời này, ngài chắc chắn là nhắc lại đức tin của người Do Thái vào Một Thiên Chúa không thể được trình bày bằng thuật ngữ nhân cách hóa, nhưng ngài theo một đường lối tôn giáo mà thính giả của ngài đã quen thuộc. Hơn nữa, chúng ta phải kể đến những lương dân có học thức đã không đi lại những đền thờ chính thức của thành phố, và đã đến những nơi tư là những nơi đề xướng việc khai tâm của các môn đồ.
------Cho nên sự kiện các Kitô hữu hội họp (“ekklesiai”) xảy ra ở tư gia không phải là động lực cho người khác thắc mắc, như các thư, đặc biệt là các thư Thánh Phaolô làm chứng. Hơn nữa, Khi ấy vẫn chưa có các cơ sở công cộng. Cho nên, các buổi hội họp của các Kitô hữu được các người đương thời coi là biến thể của cách thực thi tôn giáo mật thiết hơn này. Tuy nhiên sự khác biệt giữa phụng tự của lương dân và Kitô hữu không phải là điều không mấy quan trọng và đòi hỏi ý thức nhiều về căn tính của người tham dự cũng như việc tham dự chung của cả đàn ông lẫn phụ nữ, đó là việc cử hành “Bữa Tiệc Ly của Chúa” và đọc Thánh Kinh.
------Để kết luận, từ bài ôn ngắn này về một khung cảnh văn hóa của thế kỷ thứ nhất của thời đại Kitô giáo, thì rõ ràng là không hiểu Thánh Phaolô cách đầy đủ, nếu không kể đến quá trình của cả người Do Thái lẫn lương dân của thời đại ngài. Như vậy hình dung của ngài có một chiều sâu lịch sử và tư tưởng, cho chúng ta thấy những yếu tố nguyên thủy và chia sẻ của môi trường. Tuy thế, điều này cũng đúng cho Kitô giáo cách chung, mà trong đó Tông Đồ Phaolô là một mẫu gương hàng đầu, tất cả chúng ta hôm nay có rất nhiều để học. Đó là mục tiêu của Năm Thánh Phaolô: để học đức tin từ ngài, để học từ ngài Đức Kitô là ai, và cuối cùng, con đường để sống một đời chính trực.
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ.
Bài Giáo Lý Mới thứ II của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô
Bài Giáo Lý Mới thứ II của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô
Tiểu Sử Thánh Phaolô
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý mới thứ hai của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô trong buổi Triều Kiến Chung ngày 27-8-2008 tại Sảnh Đường Phaolô VI.
Hôm nay ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý dành cho khuôn mặt và tư tưởng của Thánh Phaolô.
* * *
Anh chị em thân mến,
Trong bài Giáo Lý sau cùng trước những ngày lễ nghỉ - cách đây hai tháng – cha đã bắt đầu một loạt bài mới về những đề tài và cơ hội của năm Thánh Phaolô, bằng cách xem xét cái thế giới mà Thánh Phaolô đã sống. Hôm nay cha muốn trở lại và tiếp tục suy niệm về vị Tông Đồ Dân Ngoại, bằng cách đưa ra một tiểu sử ngắn về ngài.
Bởi vì chúng ta sẽ dành thứ tư tuần tới cho một biến cố phi thường đã xảy ra trên đường đi Đamascô, là biến cố Thánh Phaolô trở lại, một khúc quanh căn bản trong cuộc đời của ngài, là kết quả của cuộc gặp gỡ Đức Kitô, hôm nay chúng ta nhìn cách vắn tắt vào toàn thể cuộc đời của ngài.
Chúng ta có tiểu sử về những thời điểm đặc biệt của cuộc đời Thánh Phaolô ở thư gửi Philêmôn, trong đó ngài tuyên bố rằng mình đã “già” (Phlm 9: “presbytes), và sách Tông Đồ Công Vụ diễn tả ngài còn “trẻ” khi người ta ném đá Thánh Têphanô, (7:58: “neanias”). Hai cách nói trên có thể chỉ nói cách chung, nhưng theo cách tính ngày xưa thì một người khoảng 30 tuổi được coi là “trẻ”, và khi người ấy khoảng 60 tuổi thì được coi là “già”.
Theo kỳ hạn tuyệt đối thì ngày sinh của Thánh Phaolô tùy thuộc nhiều vào thời gian mà ngài viết thư cho Philêmôn. Theo truyền thống thì thư ấy được viết vào thời kỳ ngài bị giam tại Rôma, khoảng giữa thập niên 60. Vậy Thánh Phaolô có thể được sinh ra vào năm 8; như thế lúc đó ngài khoảng trên dưới 60 tuổi, trong khi ném đá Thánh Têphanô thì ngài chừng 30 tuổi. Điều này chắc là đúng theo lịch sử. Thực ra, việc cử hành Năm Thánh Phaolô mà chúng ta mừng là dựa vào lịch sử này. Chọn năm 2008 vì nghĩ rằng năm sinh của ngài khoảng trên dưới năm 8.
Trong trường hợp nào đi nữa, thì ngài cũng sinh ra tại Tarsô trong vùng Cilicia (x. Cv 22:3). Thành phố này là thủ phủ của vùng, và trong năm 51 trước công nguyên có một thủ hiến không phải ai khác hơn ông Marcô Tulliô Cicêrô, mười năm sau, Tarsô là gặp gỡ giữa Marcô Antôniô và Clêopatra.
Là một người Do Thái lưu vong, ngài nói tiếng Hy Lạp mặc dù có tên gốc La Tinh, bắt nguồn từ trùng âm với tên Saulê/Saulô của tiếng Do Thái, và ngài là công dân Rôma (x. Cv 22:25-28). Như thế, Thánh Phaolô được coi là ở ranh giới của ba nền văn hóa khác nhau – Rôma, Hy Lạp và Do Thái – và có thể cũng vì thế mà ngài thành công trong việc cởi mở cách phổ quát, và làm trung gian giữa các nền văn hóa, một sự phổ quát thật sự.
Ngài cũng học làm việc tay chân, có thể từ thân phụ ngài, gồm có việc của “thợ làm lều” (x. Cv 18 : 3: skenopios), có thể được hiểu là thợ đan lông dê thô hay sợi vải để làm vải lót hoặc làm mái lều (x. Cv 20:33-35). Khi chừng 12 hay 13 tuổi, là tuổi mà các trẻ trai Do Thái trở thành “bar mitzvah” (con của giới luật), Thánh Phaolô rời Tarsô đến Giêrusalem để được thụ giáo dưới chân Thầy Gamaliel Cả, là cháu của vị Thầy vĩ đại Hilllel, theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất của nhóm Biệt Phái và có được một lòng hết sức nhiệt thành đối với Lề Luật Môsê (x. Gal 1:14; Phil 3:5-6; Cv 22:3; 23:6; 26:5).
Dựa trên sự chính thống sâu sắc mà ngài đã học được ở trường phái Hillel tại Giêrusalem, ngài thấy phong trào mới của Giêsu thành Nadareth là một nguy cơ, một mối đe dọa cho căn tính Do Thái, cho sự chính thống chân chính của cha ông. Điều này giải thích sự kiện ngài “khủng bố Hội Thánh của của Thiên Chúa” cách mãnh liệt, như ngài đã thú nhận ba lần trong các Thư của ngài (1 Cor 15:9; Gal 1:13; Phil 3:6). Mặc dù khó mà tưởng tượng được việc khủng bố này gồm có những gì, nhưng dầu sao thì cuộc khủng bố của ngài cũng đã có một thái độ không dung thứ.
Chính vì thế mới có biến cố Đamascô mà chúng ta sẽ trở lại trong bài Giáo Lý sau. Chắc chắn rằng từ giây phút ấy, cuộc đời của ngài thay đổi và ngài đã trở nên một Tông Đồ rao giảng Tin Mừng không biết mệt. Thực ra, lịch sử biết đến Thánh Phaolô như một Kitô hữu, hơn nữa, như một Tông Đồ, nhiều hơn là một Biệt Phái. Hoạt động tông đồ của ngài được chia theo truyền thống dựa vào ba cuộc hành trình truyền giáo của ngài, mà cuộc hành trình thứ tư được thêm vào -- cuộc hành trình đi Rôma như một tù nhân. Tất cả được Thánh Luca kể lại trong sách Tông Đồ Công Vụ. Tuy nhiên khi nói về ba cuộc hành trình truyền giáo, chúng ta cần phân biệt cuộc hành trình thứ nhất với hai cuộc hành trình kia.
Thực ra, đối với cuộc hành trình thứ nhất (x. Cv 13-14), Thánh Phaolô không có nhiệm vụ trực tiếp, vì nhiệm vụ này được trao phó cho Thánh Cypriô Barnaba. Hai người cùng nhau khởi hành từ Antioch trên sông Ôrontê, được Hội Thánh ở đó sai đi (Cv 13:1-3), và sau đó, xuống tàu ra đi tại cảng Xêlêucia trên bờ biển Xyria, các ngài đi qua đảo Cyprô từ Xalami đến Paphô; từ đó các ngài đến bờ biển phiá nam của Anatôlia, ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ, và đã ngừng lại ở các thành phố Attalia, Parga của Pamphilia, Antioch của Pisiđia, Iconium, Lystra và Derbê, và từ đó các ngài trở lại điểm khởi hành.
Như thế Hội Thánh của dân chúng, Hội Thánh của Dân Ngoại được khai sinh. Đồng thời, nhất là ở Giêrusalem, đã xảy ra một cuộc tranh luận sôi nổi về việc các Kitô hữu gốc Dân Ngoại phải tham gia vào đời sống và lề luật của Israel ở những điểm nào – tuân giữ tất cả những luật lệ là những điều làm cho dân Israel khác biệt với các dân khác trên thế giới -- để được thực sự tham gia vào những lời hứa của các ngôn sứ và tham gia hữu hiệu vào gia nghiệp của Israel.
Để giải quyết vấn đề căn bản này cho việc khai sinh Hội Thánh tương lai, Thánh Phaolô đã họp tại Giêrusalem với Công Đồng các Tông Đồ, như người ta gọi, để giải quyết vấn đề này là vấn đề mà việc khai sinh của Hội Thánh hoàn vũ lệ thuộc vào. Công Đồng đã quyết định là không bắt Dân Ngoại tòng giáo phải tuân giữ luật Môsê (x. Cv 15:6-30); có nghĩa là họ không phải giữ những điều luật của người Do Thái . Chỉ có điều họ cần làm để thuộc về Đức Kitô là sống với Đức Kitô và theo những lời của Người. Như vậy, một khi thuộc về Đức Kitô họ cũng thuộc về Abraham, thuộc về Thiên Chúa và được tham dự vào tất cả các lời hứa.
Sau biến cố quyết định này, Thánh Phaolô rời Thánh Barnaba, chọn Thánh Sila, và bắt đầu cuộc hành trình truyền giáo thứ hai của ngài (x. Cv 15:36-18;22). Sau khi đi qua Syria và Cilicia, ngài lại thấy thành Lystra, ở đó ngài đem theo Thánh Timôthê -- một khuôn mặt rất quan trọng của Hội Thánh sơ khai, con của một phụ nữ Do Thái và một người ngoại giáo – và ngài cho ông được cắt bì, ngài đi băng qua vùng trung bộ Anatolia và đến thành Troas ở bờ biển phía bắc của Biển Aegean. Ở đây đã xảy ra một biến cố quan trọng khác: trong một giấc mơ ngài thấy có một người Macêđônia ở phía bên kia biển, tức là Âu Châu, nói với ngài, “Xin hãy đến và giúp chúng tôi!”
Đó là Âu Châu tương lai đã xin giúp đỡ và ánh sáng Tin Mừng. Được thị kiến này thúc đẩy, ngài đã đi sang Âu Châu bằng cách đi tàu qua Macêđônia, và như thế ngài đã vào Âu Châu. Xuống tàu ở Neapolis, ngài đã đến Philippi, là nơi ngài đã thiết lập một cộng đồng Kitô hữu đáng phục. Rồi ngài đi Thessalônica, và sau cùng ngài đã rời đó, vì những khó khăn do người Do Thái gây ra, đến Bêrôea, và rồi tiếp tục đi đến Athen.
Sau Athen, ngài đến Côrinthô, là nơi mà ngài ở lại một năm rưỡi. Và ở đây chúng ta có những biến cố theo thứ tự thời gian chắc chắn, chắc chắn nhất trong tất cả tiểu sử của ngài, bởi vì trong lần cư trú tại Corinthô đầu tiên này, ngài phải ra trước thủ hiến của tỉnh Achaia, là thống đốc Galliônê, vì bị buộc tội thờ phượng trái phép.
Về ông Galliônê thì người ta đã tìm thấy một bia cổ ở Delphi trên đó khắc rằng ông là thống đốc của Côrinthô giữa năm 51 và 53. Như thế, ở đây chúng ta có một dữ kiện hoàn toàn chắc chắn. Việc Thánh Phaolô cư ngụ tại Côrinthô đã xảy ra vào những năm đó. Vậy chúng ta có thể cho rằng ngài đã đến đó vào khoảng năm 50 và đã ở đó cho đến năm 52. Rồi từ Côrinthô, ngài đi qua Cencrê, một hải cảng phía đông của thành phố, sau đó ngài đi xuống Palestine đến Caesarea Maritima, và ngài rời đó để đi Giêrusalem để sau đó trở về Antioch bằng đường sông Ôrontê.
Cuộc hành trình truyền giáo thứ ba (x. Cv 18:23-21:16) khởi đầu như thường lệ từ Antioch, là nơi đã trở thành khởi điểm cho Hội Thánh của Dân Ngoại, cho cuộc truyền giáo cho Dân Ngoại, và cũng là nơi phái sinh ra từ “Kitô hữu”. Thánh Luca cho chúng ta biết rằng lần đầu tiên ở đây những người theo Chúa Giêsu được gọi là “Kitô hữu.”
Từ đó Thánh Phaolô đi thẳng tới Êphêsô, là thủ phủ của tỉnh Asia, và ngài ở lại đó hai năm, thi hành mục vụ đem lại kết quả cho vùng. Từ Êphêsô, Thánh Phaolô đã viết các Thư gửi các tín hữu Thessalônica và Côrinthô. Tuy nhiên dân trong thành đã bị các thợ bạc xúi dục chống lại ngài vì họ thấy lợi nhuận của họ bị sa sút vì số người thờ thần Artemis giảm đi -- đền thờ để kính nữ thần này ở Êphêsô, gọi là Artenysion, là một trong bảy kỳ công của thế giới cổ. Vì việc này mà ngài phải bỏ lên miền bắc. Sau khi đi qua Macêđônia một lần nữa, ngài lại đi xuống Hy Lạp, có lẽ đến Côrinthô, ở đó ba tháng và viết Thư thời danh gửi tín hữu Rôma.
Từ đây, ngài trở về cùng một đường: đi trở lại Macêđônia, đi tầu qua Troy, rồi thăm các đảo của vùng Milêtô, là Kios,Samos một chút, ngài đến Miltô, là nơi ngài nói chuyện một bài quan trọng với các kỳ lão của Hội Thánh Êphêsô, phác họa một dung mạo của một chủ chăn chân chính của Hội Thánh (x. Cv 20).
Từ đó ngài xuống tàu đi Tyre, rồi đến Caesarea Maritima và lại đi về Giêrusalem. Ngài bị bắt tại đó vì một sự hiểu lầm: có một số người Do Thái đã lầm tưởng những người Do Thái khác gốc Hy Lạp là dân ngoại, được Thánh Phaolô đem vào khu vực Đền Thờ chỉ dành riêng cho dân Israel. Ngài tránh được án tử hình mà họ dự định nhờ sự can thiệp của một cơ đội trưởng canh giữ khu vực đền thờ (Cv 21:27-36). Việc này xảy ra khi thủ hiến Anthoniô Feliciô đang ở Giuđa. Sau khi ở trong tù một thời gian – kéo dài bao lâu thì còn trong vòng bàn cãi – Thánh Phaolô vì là một công dân Rôma, nên đã khiếu nại lên Caesarê -- khi ấy là Nêrô --- và vị thủ hiến sau đó là Porciô Festô đã trao cho quân đội giải ngài về Rôma.
Cuộc hành trình đi Rôma qua đảo Crête và Malta, rồi đến thành Syracuse, Rhêgium và Putêôli. Các Kitô hữu ở Rôma đã ra gặp ngài ở Via Appia cùng tại chợ Appiô (70 cây số phía nam thủ đô), và những người khác ở Ba Quán (40 cây số).
Tại Rôma ngài đã gặp các đại diện của cộng đồng Do Thái, ngài đã bày tỏ với họ rằng “vì hy vọng của dân Israel” mà ngài phải chịu xiềng xích (Cv 28:20). Tuy nhiên, chuyện của Thánh Luca chấm dứt bằng việc nói đến hai năm bị giam lỏng tại gia của Thánh Phaolô, mà không đề cập đến việc Caesarê (Nerô) kết án, hay ít ra là về cái chết của người bị kết án.
Các truyền thống sau đó nói về việc ngài được trả tự do, là điều thuận tiện cho một cuộc truyền giáo tại Tây Ban Nha, hoặc một cuộc hành trình ngắn về Đông Phương sau đó, đặc biệt là đảo Cretê, Ephêsô và Nicôpôlis ở Êpirô. Luôn dựa trên giả thuyết, người ta cho rằng ngài lại bị bắt một lần nữa và bị tù ở Rôma lần thứ hai -- từ đó ngài đã viết các Thư gọi là Thư Mục Vụ, đó là hai thư gửi Thánh Timôthê và một Thư gửi Thánh Titô, cùng lần ra toà thứ hai, mà kết quả không thuận lợi cho ngài. Tuy nhiên, có hàng loạt lý do khiến cho nhiều học giả về Thánh Phaolô chấm dứt tiểu sử Thánh Phaolô với câu truyện của Thánh Luca trong sách Tông Đồ Công Vụ.
Chúng ta sẽ trở lại việc tử vì đạo của ngài sau trong chu kỳ Giáo Lý này. Giờ đây, trong bài tường thuật ngắn này về những cuộc hành trình của Thánh Phaolô, đủ cho chúng ta lưu ý đến việc ngài hết mình tận tâm tận lực trong việc rao giảng Tin Mừng mà không tiếc nghị lực, cùng đương đầu với hàng loạt những thử thách nặng nề mà ngài đã kể lại cho chúng ta trong Thư Thứ Hai gửi tín hữu Côrinthô (x. 11:21-28).
Hơn nữa, chính ngài viết: “Tôi làm tất cả những điều ấy vì Tin Mừng” (1 Cor 9:23), trong lúc thi hành điều mà ngài gọi là “lo lắng cho tất cả các Hội Thánh” (2 Cor 11:28) với một lòng đại lượng tuyệt đối. Chúng ta thấy một lòng quyết tâm chỉ được giải thích bởi một linh hồn thật sự được thu hút bởi ánh sáng Tin Mừng, say mê Đức Kitô, một linh hồn được nuôi dưỡng bởi một quyết tâm sâu xa: đó là cần phải đem ánh sáng của Đức Kitô đến cho thế gian, để công bố Tin Mừng cho mọi người.
Cha nghĩ rằng điều này là những gì còn lại với chúng ta từ bài tường thuật ngắn này về những cuộc hành trình của Thánh Phaolô: để thấy lòng say mê của ngài đối với Tin Mừng, và như thế hình dung được sự cao cả, mỹ miều, và hơn nữa sự cần thiết sâu xa mà tất cả chúng ta phải có đối với Tin Mừng. Chúng ta hãy cầu nguyện để Chúa, là Đấng làm cho Thánh Phaolô thấy ánh sáng và nghe lời Người và đánh động lòng ngài cách sâu xa, cũng làm cho chúng ta thấy ánh sáng của Người, để tâm hồn chúng ta cũng được Lời Người chạm đến, ngõ hầu chúng ta cũng có thể cho thế giới hôm nay, là thế giới cần ánh sáng, ánh sáng của Tin Mừng và chân lý của Đức Kitô.
***
Sau đây là phần Đức Thánh Cha nói với những người nói tiếng Anh:
Anh chị em thân mến,
Bài giáo lý hôm nay trình bày đời sống của Thánh Phaolô, nhà truyền giáo vĩ đại mà Hội Thánh tôn kính một cách đặc biệt trong năm nay. Ngài sinh ra là một người Do Thái tại Tarsô, ngài đã nhận tên Do Thái là “Saulê” và được huấn luyện như là một “người làm lều” (x. Cv 18:3). Khoảng tuổi 12, ngài trẩy đi Giêrusalem để bắt đầu được giáo huấn theo truyền thống Biệt Phái nghiêm ngặt, là truyền thống làm cho ngài thấm nhuần một lòng nhiệt thành đối với Lề Luật Môsê. Dựa vào việc huấn luyện này, Thánh Phaolô đã coi phong trào Kitô giáo như là một mối đe dọa đối với đạo Do Thái chính thống. Như vậy ngài đã ác liệt “khủng bố Hội Thánh của Thiên Chúa “ (1 Cor 19:6; Gal 1:13; Phil 3:6) cho đến khi một cuộc gặp gỡ đầy xúc cảm trên đường đi Đamascô đã thay đổi cuộc đời ngài tận gốc. Sau đó ngài lần lượt thực hiện ba cuộc hành trình truyền giáo, rao giảng Đức Kitô tại Anatôlia, Syria, Cilicia, Macêđônia, Akaia, và khắp vùng Địa Trung Hải. Sau khi bị bắt và cầm tù tại Giêrusalem, Thánh Phaolô hành xử quyền công dân Rôma của ngài khiếu nại lên Hoàng Đế. Mặc dù Thánh Luca không nói gì về quyết định của Nêrô, ngài cho chúng ta biết rằng Thánh Phaolô sống hai năm trong tình trạng giam lỏng tại gia ở Rôma (x. Cv 28:30), sau đó – theo truyền thống – ngài đã chịu tử vì đạo. Thánh Phaolô không tiếc chút nghị lực nào và chịu nhiều thử thách trong “việc lo lắng cho tất cả các hội thánh” (2 Cor 11:28). Quả thật, ngài đã viết: “Tôi làm tất cả mọi sự vì Tin Mừng” (1 Cor 9:23). Chớ gì chúng ta cố gắng cũng bắt chước ngài làm như thế.
* * *
Cha cũng chào mừng tất cả khách hành hương và du khách nói tiếng Anh có mặt trong buổi triều yết hôm nay, gồm có Các Hội giáo dân Augustine Spinelli từ Malta, cùng những nhóm từ Scotland, Aí Nhĩ Lan, Đan Mạch, Đominica và Hoa Kỳ. Chớ gì cuộc hành hương của chúng con canh tân tình yêu của chúng con dành cho Chúa và Hội Thánh Người, theo gương Thánh Tông Đồ Phaolô. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng con!
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Bài Giáo Lý mới III của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô
Bài 3
Cuộc Trở Lại của Thánh Phaolô
----------Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý mới thứ ba của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô trong buổi Triều Kiến Chung ngày 3-9-2008 tại Sảnh Đường Phaolô VI.
----------Hôm nay ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý dành cho khuôn mặt và tư tưởng của Thánh Phaolô.
* * *
Anh chị em thân mến:
Bài Giáo Lý hôm nay sẽ dành để nói về kinh nghiệm mà Thánh Phaolô đã cảm nhận được trên đường đi Đamascô, mà người ta thường gọi là cuộc trở lại của ngài. Chính trên đường đi Đamascô, trong ba mươi năm đầu của kỷ nguyên thứ nhất, và sau giai đoạn mà ngài đã khủng bố Hội Thánh, thì giây phút quyết định của đời Thánh Phaolô đã xảy ra. Nhiều người đã viết về giây phút ấy, và đương nhiên là theo nhiều quan điểm khác nhau. Sự thật là có một sự thay đổi toàn diện đã xảy ra lúc ấy, một thay đổi quan điểm hoàn toàn. Từ đó, một cách không ngờ, ngài đã bắt đầu coi tất cả những gì mà trước đây là lý tưởng cao quý nhất, hầu như là lý do sống còn của sự hiện hữu của ngài như “thiệt thòi” và “rác rưởi” (Phil 3:7-8). Điều gì đã xảy ra?
Về điểm này, chúng ta có hai nguồn tài liệu. Loại thứ nhất mà người ta biết đến nhiều nhất, là các câu chuyện do thủ bút của Thánh Luca, là người đã kể về biến cố này trong ba trường hợp trong sách Tông Đồ Công Vụ (X. 9:1-19; 22:3-21; 26:4-23). Có lẽ các độc giả trung bình sẽ bị cám dỗ ngừng lại quá lâu ở một vài chi tiết nào đó, như ánh sáng từ trời, việc ngã xuống đất, tiếng nói gọi ngài, tình trạng bị mù mới, việc chữa lành cái gì giống như vảy rơi khỏi mắt ngài và ăn chay. Tuy nhiên, tất cả những chi tiết này đều chỉ về một biến cố: là Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra trong một ánh sáng huy hoàng và nói với Saulô, biến đổi tư tưởng và chính cuộc đời của ngài. Ánh sáng của Đấng Phục Sinh đã làm cho ngài bị mù; nhưng cũng trình bày ra ngoài cho chúng ta thấy thực tại nội tâm của ngài, là sự mù quáng của ngài đối với chân lý, với ánh sáng, là Đức Kitô. Và sau đó câu trả lời “xin vâng” với Đức Kitô trong Phép Thánh Tẩy lại mở mắt ngài, và làm cho ngài thật sự nhìn thấy.
Trong Hội Thánh sơ khai, bí tích Thánh Tẩy cũng được gọi là “soi sáng” bởi vì bí tích này ban cho người ta ánh sáng, làm cho người ta thật sự nhìn thấy. Tất cả những gì được ám chỉ theo thần học cũng được thể hiện cách thể lý nơi Thánh Phaolô: Một khi bệnh mù nội tâm được chữa lành, ngài cũng được thấy rõ ràng. Vì thế, Thánh Phaolô không được biến đổi bởi một luồng tư tưởng, nhưng bởi một biến cố, bởi sự hiện diện không chống cự nổi của Đấng Phục Sinh, là Đấng mà ngài không bao giờ còn nghi ngờ nữa, bằng chứng của biến cố, của cuộc gặp gỡ này, thật quá mãnh liệt. Cuộc gặp gỡ ấy thay đổi cuộc đời Thánh Phaolô tận gốc. Trong tương quan này, người ta có thể và phải nói về một cuộc hoán cải. Cuộc gặp gỡ này là trung điểm của bài tường thuật của Thánh Luca, là người rất có thể đã dùng một câu chuyện chắc được bắt đầu từ cộng đồng Đamascô. Sắc thái địa phương gợi ra điều này qua sự hiện diện của Ananias và tên của cả con đường cũng như người chủ của ngôi nhà mà Thánh Phaolô đã ở (x. Cv 9:11).
Loại nguồn tài liệu thứ nhì về cuộc trở lại là chính các Thư của Thánh Phaolô. Ngài đã không bao giờ nói về biến cố này cách chi tiết; cha nghĩ rằng ngài cho rằng mọi người đều biết những điều chính yếu của câu truyện của ngài. Tất cả đều biết rằng từ việc là một người bắt đạo, ngài biến đổi thành một Tông Đồ nhiệt thành của Đức Kitô. Và điều này không xảy ra sau một suy tư riêng của ngài, nhưng từ một biến cố mãnh liệt, từ một cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh. Mặc dầu không được nói đến cách chi tiết, nhưng ngài đã nói về biến quan trọng nhất này, đó là, ngài cũng là một chứng nhân cho sự sống lại của Chúa Giêsu, mặc khải mà ngài đã trực tiếp nhận được từ Chính Chúa Giêsu, cùng với sứ vụ làm Tông Đồ.
Văn từ rõ ràng nhất về phương diện này được tìm thấy trong bài tường thuật của ngài về điều gì là tâm điểm của lịch sử cứu độ: cái chết và sống lại của Chúa Giêsu và những cuộc hiện ra với các nhân chứng (x. 1 Cor 15). Bằng những lời của truyền thống rất cổ xưa, mà ngài cũng nhận được từ Hội Thánh ở Giêrusalem, ngài nói rằng Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh và chết, và sau khi sống lại Người đã hiện ra trước hết với Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai, và sau đó với 500 anh em mà đến nay vẫn còn sống, rồi với Thánh Giacôbê, rồi với tất cả các tông đồ.
----------Và ngài thêm vào bài tường thuật mà ngài nhận được từ truyền thống rằng: “Sau cùng … Người cũng đã hiện ra với tôi” (1 Cor 15:8). Như vậy ngài xác nhận rằng đó là nền tảng của việc tông đồ và đời sống mới của ngài. Cũng có những đoạn văn khác mà trong đó nhắc đến cùng một điều: “Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người chúng tôi nhận được ân sủng và chức vụ Tông Đồ” (x. Rom 1:5); Và ở chỗ khác: “Tôi đã chẳng thấy Chúa Giêsu, Chúa chúng ta sao?” (1 Cor 9:1), những lời mà ngài dùng để ám chỉ điều mà mọi người đều biết. Cuối cùng, chúng ta tìm thấy đoạn văn đầy đủ nhất trong Thư gửi tín hữu Galatê 1:15-17: “Nhưng khi Ðấng đã để tôi riêng ra ngay từ trong lòng mẹ, và đã gọi tôi bằng ân sủng của Ngài, đã vui lòng mặc khải Con của Ngài cho tôi, ngõ hầu tôi rao giảng về Người giữa các Dân Ngoại, tôi đã lập tức không bàn thảo với người phàm, tôi cũng không lên Giêrusalem để gặp các vị đã là Tông Ðồ trước tôi, nhưng tôi đã qua Arabia, rồi lại trở về Ðamascô”. Trong bài “tự bào chữa” này ngài đã nhấn mạnh cách quả quyết rằng ngài cũng là một nhân chứng thật của Đấng Phục Sinh, rằng ngài có một sứ vụ nhận được trực tiếp từ Đấng Phục Sinh.
Bài Giáo Lý mới III của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô
----------sách Tông Đồ Công Vụ và các Thư của Thánh Phaolô, đều đồng quy về một điểm căn bản: Đấng Phục Sinh đã nói với Thánh Phaolô, mời gọi ngài vào sứ vụ Tông Đồ, làm cho ngài thành một Tông Đồ thật, một nhân chứng cho việc sống lại, với một nhiệm vụ đặc biệt là công bố Tin Mừng cho Dân Ngoại, cho thế giới Hi-La. Và, đồng thời, Thánh Phaolô đã học rằng, mặc dù ngài có liên hệ ngay với Đấng Phục Sinh, ngài vẫn phải hiệp thông với Hội Thánh, được rửa tội, và sống hòa hợp với các Tông Đồ khác. Chỉ trong sự hiệp thông với mọi người này mà ngài sẽ có thể trở thành một Tông Đồ thật sự, như ngài đã viết rõ trong Thư Thứ Nhất gửi tín hữu Côrinthô: “Dù tôi hay các vị ấy, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như thế” (15:11). Chỉ có một tuyên ngôn về Đấng Phục Sinh, bởi vì chỉ có một Đức Kitô duy nhất.
----------Như chúng ta thấy trong những câu này, Thánh Phaolô không bao giờ cắt nghĩa giây phút ấy như một biến cố trở lại. Tại sao? Có nhiều giả thuyết, nhưng lý do thì thật hiển nhiên. Sự thay đổi này của cuộc đời ngài, sự biến đổi toàn thể con người của ngài không phải là kết quả của một tiến trình tâm lý, của một sự trưởng thành hoặc sự tiến hóa về trí tuệ và luân lý, nhưng đến từ bên ngoài: nó không phải là kết quả của suy nghĩ mà là của việc gặp gỡ Đức Chúa Giêsu Kitô. Theo nghĩa này thì nó không đơn thuần là một cuộc hoán cải, một sự trưởng thành của cái “tôi” của ngài, mà là chết và sống lại đối với chính ngài: một đời sống của ngài đã chết đi và một đời sống mới đã sinh ra với Đức Kitô Phục Sinh.
----------Không có một cách nào khác có thể cắt nghĩa việc đổi mới này của Thánh Phaolô. Tất cả những phân tích về tâm lý không thể làm sáng tỏ hay giải quyết được vấn đề. Chỉ có một biến cố, cuộc gặp gỡ đầy nhiệt tình với Đức Kitô là chìa khóa để hiểu điều gì đã xảy ra: chết và sống lại, sự đổi mới do Đấng là người đã tỏ mình ra và nói với ngài. Chỉ trong nghĩa sâu xa hơn này mà chúng ta có thể và phải nói về hoán cải. Cuộc gặp gỡ này là một canh tân thật sự có thể thay đổi ngài mọi mặt. Giờ đây một người có thể nói rằng những gì trước đây là thiết yếu và căn bản đối với mình, bây giờ trở thành “rác rưởi” cho mình; không còn là “được” nữa mà là thua thiệt, bởi vỉ bây giờ chỉ có đời sống trong Đức Kitô mới là điều đáng kể.
----------Tuy nhiên, chúng ta không được nghĩ rằng Thánh Phaolô mù quáng giam mình vào một biến cố. Trên thực tế, điều trái ngược đã xảy ra, bởi vì Đức Kitô Phục Sinh là ánh sáng của chân lý, là ánh sáng của Chính Thiên Chúa. Điều này làm cho tâm hồn ngài trở nên đại lượng và mở ra cho tất cả mọi người. Vào giây phút ấy, ngài đã không mất những gì là chân thật và tốt lành trong cuộc đời ngài, trong di sản của ngài, nhưng ngài đã hiểu sự khôn ngoan, chân lý, và chiều sâu của Lề Luật và các ngôn sứ một cách mới mẻ; ngài đã chiếm hữu nó một cách mới. Đồng thời, lý trí của ngài mở ra đối với sự khôn ngoan của Dân Ngoại. Nhờ đã hết lòng mở chính mình ra cho Đức Kitô, ngài trở nên có khả năng tham gia vào các cuộc đối thoại rộng rãi hơn với mọi người, ngài làm cho mình trở nên mọi sự cho mọi người. Như thế ngài có thể trở thành Tông Đồ Dân Ngoại.
----------Bây giờ chúng ta hãy nhìn đến tình trạng của chúng ta. Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Nó có nghĩa rằng đối với chúng ta, Kitô giáo cũng không phải là một triết lý mới hay là một luân lý mới. Chúng ta chỉ là Kitô hữu nếu chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Đương nhiên là Người không tỏ Mình ra cho chúng ta một cách không thể cưỡng lại được và sáng lạng như Người đã tỏ ra cho Thánh Phaolô để làm cho ngài thành Tông Đồ Dân Ngoại.
----------Tuy thế, chúng ta cũng có thể gặp gỡ Đức Kitô trong việc đọc Thánh Kinh, trong cầu nguyện, trong đời sống phụng vụ của Hội Thánh. Chúng ta có thể chạm đến Trái Tim Đức Kitô và cảm thấy Người chạm đến trái tim chúng ta. Chỉ trong liên hệ cá nhân này với Đức Kitô, chỉ trong cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh, mà chúng ta mới thật sự trở thành những Kitô hữu. Và bằng cách này, lý trí chúng ta mở ra, toàn thể sự khôn ngoan của Đức Kitô mở ra cùng với tất cả sự sung mãn và chân lý. Cho nên, chúng ta hãy cầu xin Chúa soi sáng cho chúng ta, để trong thế giới của chúng ta, Người sẽ ban cho chúng ta được gặp gỡ sự hiện diện của Người, và như thế ban cho chúng ta một đức tin sống động, một tâm hồn rộng mở, và một đức ái vĩ đại đối với mọi người, [một đức ái] có khả năng canh tân thế giới.
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Bài Giáo Lý Mới Thứ Iv Của Đtc Bênêđictô Xvi Về Thánh Phaolô
Bài 4
Cái Nhìn của Thánh Phaolô về Một Tông Đồ của Đức Kitô
Dưới đây là bản dịch bài huấn từ của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô trong buổi triều yết chung ngày 10/9/2008 tại Đại Sảnh Đường Phaolô VI ở Vatican.
Anh chị em thân mến,
Thứ Tư tuần trước cha đã nói về khúc quanh vĩ đại trong cuộc đời Thánh Phaolô sau cuộc gặp gỡ của ngài với Đức Kitô Phục Sinh. Chúa Giêsu đã đi vào cuộc đời của ngài và đã biến đổi ngài từ một tên khủng bố thành một Tông Đồ. Cuộc gặp gỡ ấy đánh dấu điểm khởi đầu sứ vụ của ngài. Thánh Phaolô không thể tiếp tục sống như ngài đã sống trước đây được nữa. Giờ đây ngài cảm thấy được Chúa trao cho trách nhiệm rao giảng Tin Mừng như một Tông Đồ.
Chính về hoàn cảnh mới này của cuộc đời ngài, là việc ngài làm Tông Đồ của Đức Kitô, mà cha muốn nói đến hôm nay. Theo Tin Mừng, chúng ta thường gắn liền Nhóm Mười Hai với tước hiệu Tông Đồ, như thế có ý ám chỉ những vị đã làm bạn đồng hành với Chúa Giêsu và nghe Người giảng dạy. Nhưng Thánh Phaolô cũng cảm thấy chính mình là một Tông Đồ đích thực và như thế có vẻ rõ ràng là quan niệm về Tông Đồ của Thánh Phaolô không chỉ giới hạn trong Nhóm Mười Hai.
Hiển nhiên là Thánh Phaolô có thể phân biệt rõ trường hợp riêng của ngài so sánh với những vị “là Tông Đồ trước” ngài (Gal 1:17): Ngài nhận ra một địa vị đặc biệt cho tất cả các ngài trong đời sống Hội Thánh.
Tuy nhiên, như mọi người đều biết, Thánh Phaolô cũng thấy mình là một Tông Đồ theo nghĩa hẹp. Đúng là trong thời Kitô giáo sơ khai, không có ai đã du hành nhiều cây số, cả đường bộ lẫn đường biển, như ngài đã làm, với một mục đích duy nhất là rao giảng Tin Mừng.
Như thế, ngài có một quan niệm về việc Tông Đồ vượt lên trên quan niệm Tông Đồ dành cho Nhóm Mười Hai, và được truyền lại trước hết bởi Thánh Luca trong Sách Tông Đồ Công Vụ (x. Cv 1-2:26; 6:2). Thực ra, trong Thư Thứ Nhất gửi tín hữu Côrinthô, Thánh Phaolô phân biệt rõ ràng “Nhóm Mười Hai” và “tất cả các Tông Đồ”, được nhắc đến như hai nhóm riêng biệt được hưởng ơn hiện ra của Đấng Phục Sinh (x. 14:5-7).
Trong cùng một bản văn trên, ngài tiếp tục khiêm nhường gọi mình là “người bé nhỏ nhất trong các Tông Đồ” trong khi so sánh mình như một đứa trẻ sinh non (bào thai bị xảy) và xác quyết cách từ chương: “không đáng được gọi là Tông Đồ, bởi vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng nhờ ơn Thiên Chúa, tôi được như ngày nay, và ơn của Ngài đã không ra vô ích trên tôi; trái lại, tôi đã làm việc cực khổ hơn tất cả các vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” (1 Cor 15:9-10).
Biểu tượng đứa trẻ sinh non diễn tả một đức khiêm nhường tuyệt đối; hình ảnh này cũng được tìm thấy trong thư của Thánh Ignatiô thành Antioch gửi tín hữu Rôma: “Tôi là người thấp hèn nhất trong tất cả, tôi là một đứa trẻ sinh non, nhưng nếu tôi đến được cùng Thiên Chúa, thì tôi sẽ được thành một cái gì đó” (9:2). Điều mà Đức Giám Mục thành Antioch nói liên hệ đến việc tử vì đạo sắp đến của ngài, nhờ thấy trước rằng cuộc tử đạo này sẽ làm đảo ngược tình trạng bất xứng của ngài, thì Thánh Phaolô nói liên quan đến việc dấn thân làm Tông Đồ của ngài: Chính trong việc này mà thành quả của ân sủng của Thiên Chúa được biểu lộ. Thiên Chúa là Đấng biết cách biến đổi một người thất bại thành một vị Tông Đồ tuyệt vời. Từ một tên khủng bố thành một vị thiết lập các Giáo Đoàn (Giáo Hội): Đó là điều Thiên Chúa đã làm trong một người, mà theo nhãn quan rao giảng Tin Mừng, đáng lẽ phải coi là bị loại ra ngoài!
Cho nên, theo quan niệm của Thánh Phaolô, thì điều gì làm cho ngài và những người khác thành Tông Đồ? Trong các Thư của ngài xuất hiện ba đặc tính chính để của một Tông Đồ. Đặc tính thứ nhất là đã “thấy Chúa” (x. 1 Cor 9:1), nghĩa là, đã có một cuộc gặp gỡ quyết định với Người, thực sự được chọn, nhờ ân sủng của Thiên Chúa với sự mặc khải của Con Ngài để vui thú rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Tóm lại, chính Chúa là Đấng thiết lập sứ vụ Tông Đồ, chứ không phải do một người tự nhận. Người Tông Đồ không thể tự mình làm Tông Đồ, nhưng được Chúa thiết lập. Như thế, người Tông đồ cần phải luôn luôn quy hướng về Chúa. Không phải là việc tình cờ mà Thánh Phaolô nói ngài “được gọi để thành một Tông Đồ” (Rom 1:1), nghĩa là, “không phải do loài người, hay nhờ một người nào, nhưng bởi Ðức Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa Cha” (Gal 1:1). Đó là đặc tính thứ nhất: đã thấy Chúa và được Người gọi.
Đặc tính thứ nhì là “đã được sai đi”. Thực ra, chính từ Hy Lạp “apostolos” có nghĩa là “được sai đi, được lệnh ra đi”, nghĩa là làm đại sứ và làm người mang một sứ điệp; cho nên người ấy phải hành động như một người được ủy thác cho một nhiệm vụ và đại diện cho người sai họ. Chính vì lý do này mà Thánh Phaolô diễn tả mình như “Tông Đồ của Đức Kitô” (1 Cor 1:1; 2 Cor 1:1), nghĩa là, làm đại biểu cho Người, đặt mình hoàn toàn trong việc phục vụ Người, đến nỗi ngài tự nhận mình là “một đầy tớ của Đức Giêsu Kitô” (Rom 1:11).
Một lần nữa, ý tưởng là sáng kiến của người nào khác giữ địa vị ưu tiên, đó là sáng kiến của Thiên Chúa trong Đức Chúa Giêsu Kitô, là Đấng mà Thánh Phaolô hoàn toàn quy phục; nhưng ngài nhấn mạnh đặc biệt đến sự kiện là ngài đã nhận được từ Đức Kitô một sứ vụ để được thực thi vì danh Người, và tuyệt đối đặt tất cả những lợi ích cá nhân thành thứ yếu.
Điều kiện thứ ba là thi hành việc “rao giảng Tin Mừng” với kết quả là thành lập các Giáo Đoàn. Thực ra tước hiệu “Tông Đồ” không phải và cũng không được coi là tước hiệu danh dự. Nó đòi hỏi một cách cụ thể và ngay cả cách quyết liệt toàn thể sự hiện hữu của người liên hệ. Trong Thư Thứ Nhất gửi tín hữu Côrinthô, Thánh Phaolô công bố: “Tôi không phải là một tông đồ sao? Tôi đã không thấy Đức Giêsu, Chúa chúng ta sao? Anh em chẳng phải là công trình của tôi trong Chúa sao?” (9:1).
Tương tự trong Thư Thứ Hai gửi tín hữu Côrinthô ngài xác quyết: “Chính anh em là thư giới thiệu của chúng tôi,.… là bức thư của Ðức Kitô được trao cho chúng tôi quản thủ, không phải viết bằng mực, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống” (3:2-3).
Như vậy chúng ta đừng ngạc nhiên khi Thánh Gioan Kim Khẩu nói về Thánh Phaolô như là một “linh hồn bằng kim cương” (Panegirici, 1,8), và tiếp tục nói rằng: “Như lửa càng cháy mạnh hơn khi bén đến những vật liệu khác nhau … thì lời Thánh Phaolô cũng chinh phục được tất cả những người mà ngài tiếp xúc, và cả những kẻ chống đối ngài, được lời giảng thuyết của ngài thu hút, trở thành nhiên liệu cho ngọn lửa tinh thần này” (Ibid, 7,11). Điều này giải thích tại sao Thánh Phaolô diễn tả các Tông Đồ như “những cộng sự viên của Thiên Chúa” (1 Cor 3:9; 2 Cor 6:1), mà ân sủng của Ngài hoạt động trong các ngài.
Một yếu tố đặc trưng cho một Tông Đồ chân chính, được Thánh Phaolô làm sáng tỏ, là sự gắn bó chặt chẽ giữa Tin Mừng và những người rao giảng Tin Mừng, cả hai được tiền định để đến cùng một số phận. Thực ra, không ai có thể nhấn mạnh được như Thánh Phaolô rằng làm sao việc rao giảng Thập Giá của Đức Kitô lại được coi như “một chướng ngại” và “sự điên rồ” (1 Cor 1:23), là điều mà nhiều người phản ứng với sự không thể hiểu biết nổi và chối từ. Điều này đã xảy ra thời đó, và đừng ngạc nhiên là cũng đang xảy ra thời nay. Chung cuộc, vị Tông Đồ cũng thông phần vào số phận ấy và cũng được coi như “chướng ngại vật” và “sự điên rồ”, và Thánh Phaolô biết điều ấy; đó là kinh nghiệm của cuộc đời ngài.
Ngài đã viết cho tín hữu Côrinthô, không thiếu một dấu vết châm biếm: “Vì tôi nghĩ rằng Thiên Chúa đưa các Tông Đồ chúng tôi ra như những người cuối cùng, như những tử tội, bởi vì chúng tôi đã nên trò cười cho thế gian, cho thiên sứ và loài người! Chúng tôi điên dại vì Đức Kitô, còn anh em thì khôn ngoan trong Đức Kitô. Chúng tôi yếu đuối, còn anh em thì mạnh mẽ. Anh em được kính trọng, còn chúng tôi thì bị khinh chê. Cho đến giờ này, chúng tôi chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang không nơi tạm trú; chúng tôi vất vả tự tay làm lụng.
Khi bị nguyền rủa, thì chúng tôi chúc phúc; khi bị bắt bớ, thì chúng tôi chịu đựng; khi bị vu khống, thì chúng tôi khuyên răn. Và cho đến bây giờ, chúng tôi đã nên như rác rưởi thế gian, như cặn bã của mọi loài” (1 Cor 4:9-13). Đó chính là một hình ảnh tự họa chân dung của đời Tông Đồ của Thánh Phaolô: Trong tất cả những đau khổ ấy, niềm vui được làm những người mang phúc lành của Thiên Chúa và ân sủng của Tin Mừng đã thắng thế.
Hơn nữa, Thánh Phaolô đồng ý với triết thuyết khắc kỷ (Stoic) của thời đại ngài về việc kiên tâm trong tất cả mọi khó khăn xảy ra trên đường đời của ngài; nhưng ngài vượt trên quan điểm thuần túy nhân bản, bằng cách nhắc đến yếu tố tình yêu của Thiên Chúa và của Đức Kitô. “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ðức Kitô? Có phải là gian nan, tai họa, khủng bố, đói khổ, trần truồng, hiểm nghèo, hay gươm giáo không? Như lời đã viết: ‘Vì Ngài mà chúng con bị sát hại suốt ngày, bị coi như bầy chiên bị đem đi làm thịt.’ Không, trong mọi điều đó, chúng ta còn hơn là những người thắng trận, nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta.
Vì tôi tin chắc rằng, dù sự chết hay sự sống, thiên sứ hay ma quỷ, dù những sự việc trong hiện tại hay trong tương lai, dù quyền lực, dù trời cao hay vực thẳm, cho dù bất cứ gì khác trong các loài thụ tạo, cũng không có thể tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rom 8: 35-39).
Đó là điều chắc chắn, niềm vui sâu đậm hướng dẫn Thánh Tông Đồ Phaolô trong tất cả mọi công việc: Không gì có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Và tình yêu này là sự giàu sang thật sự của đời sống con người.
Như chúng ta thấy, Thánh Phaolô đã tự hiến cho Tin Mừng với toàn thể đời sống này; chúng ta có thể nói 24 giờ trên 24! Và ngài đã thi hành sứ vụ của mình với lòng trung tín và niềm vui, “để ít ra là cứu rỗi một số người” (1 Cor 9:22).
Và trong những cuộc gặp gỡ của ngài với các Giáo Đoàn, mặc dù biết rằng ngài có liên hệ phụ tử với họ (x. 1 Cor 4:15), nếu trên thực tế không phải là tình mẫu tử (x. Gal 4:19), ngài đã tự đặt mình trong một thái độ hoàn toàn phục vụ, bằng cách nói lên một cách đáng phục: “Không phải là chúng tôi làm chủ đức tin của anh em; nhưng đúng hơn là chúng tôi giúp cho anh em vui mừng, bởi vì anh em đứng vững trong đức tin” (2 Cor 1:24). Đó vẫn còn là sứ vụ của tất cả các Tông Đồ của Đức Kitô ở mọi thời đại: là những cộng sự viên của niềm vui chân chính.
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ