1 Attachment(s)
HƠI THỞ SỐNG ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI Hồng Y L.J. Suenens
Lời Cảm Tạ
Mạng Lưới Cầu Nguyện chân thành cảm tạ Giáo sư Nguyễn Đăng Trúc đã cho phép phổ biến tài liệu này, và xin giới thiệu đến Quý vị sách "Thánh Thần, Hơi Thở sống động của Giáo hội" của Cố Hồng Y L.J. Suenens, một tài liệu giá trị để tìm hiểu về Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo.
Nhu cầu khẩn thiết nhất của Giáo Hội luôn luôn là sống Ngày Hiện Xuống
Đức Thánh Cha Phaolô VI
MỤC LỤC:
LỜI TỰA
Chương I : THÁNH THẦN, HƠI THỞ SỐNG ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI
1) Giáo Hội nào?
2) Hai chiều kích của Giáo Hội
3) Giáo Hội lắng nghe Thánh Thần
Đón nhận đoàn sủng – Chủ chăn và tín hữu đều được Thánh Thần tác động – Mở lòng đón nhận sự phê phán của Tin Mừng – Đón nhận tự do của Thánh Thần
Chương II : CHỨNG NGHIỆM VỀ ĐOÀN SỦNG TRONG GIÁO HỘI
1) Thánh Thần linh hoạt Giáo Hội thời sơ khai
2) Thánh Thần tuôn đổ các ơn
3) Chứng nghiệm về đoàn sủng qua các thế kỷ
4) Sự phục hồi tại Công Đồng
Chương III : THÁNH THẦN VÀ VIỆC CANH TÂN PHỤNG VỤ
Đức Kitô và Thánh Thần – Thánh Thể và Thánh Thần – Phụng vụ lời Chúa – Phụng vụ Thánh Thể – Phụng vụ bí tích – Cầu nguyện và chữa lành – Lễ Hiện Xuống trong phụng vụ và đời sống
Chương IV : THÁNH THẦN VÀ CHỨNG NGHIỆM VỀ THIÊN CHÚA
1) Giới trẻ và chứng nghiệm về Thiên Chúa
2) Thử nghiệm và chứng nghiệm
3) Đức Tin và chứng nghiệm
Tương phản? – Chủ quan? – Đi quá trớn – Bằng ngôn ngữ Thánh kinh – Thuyết thiên khải – Chứng nghiệm và đời sống Kitô hữu
4) Gặp gỡ Thiên Chúa
Chứng nghiệm thông thường và phi thường – Gặp gỡ cá nhân
Chương V : THÁNH THẦN TRONG CHỨNG NGHIỆM TÂM LINH THỜI ĐẠI
1) Nguồn gốc
2) Chứng nghiệm
3) Thử phân tích một chứng nghiệm
‘Phép rửa trong Thánh Thần’ là gì? -
Chứng nghiệm về Thánh Thần và đoàn sủng.
Chương VI : Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHỨNG NGHIỆM
1) Hiện diện và suy xét cẩn trọng
2) Xem quả biết cây
Đức Kitô làm trung tâm – Đời sống cầu nguyện – Cầu nguyện và «nói tiếng lạ» – Không kỳ bí...– Cũng chẳng bệnh hoạn...– Kỳ thực là gì? – Giá trị tôn giáo của ơn «nói tiếng lạ» – Cầu nguyện và hoạt động xã hội – Ý thức về cuộc sống Giáo Hội
3) Ý nghĩa và tầm quan trọng của chứng nghiệm
Kitô hữu «bình thường» – Sự thánh thiện «thông thường» – Những biểu hiện mà Thánh Thần hứa ban
4) Một luồng ân sủng đang thổi đến
Chương VII : THÁNH THẦN VÀ KITÔ HỮU ĐÍCH THỰC
1) Thế nào là một Kitô hữu đích thực?
Hoán cải và phép rửa – Gặp gỡ cá nhân – Gặp gỡ cứu độ – Gặp gỡ Đức Giêsu và nhận ra Ngài là Chúa – Đón nhận
2) Kitô hữu hiện đại: lý tưởng và thực tế
Một phương trình cần xét lại – Hướng đến một kiểu mẩu Kitô hữu mới – Kitô hữu năm 2000
3) Hướng đến việc trở nên Kitô hữu đích thực hơn
Một thay đổi triệt để – Đặt lại vấn đề: rửa tội trẻ em – Cần xét lại cuộc sống
Chương VIII : THÁNH THẦN VÀ NHỮNG CỘNG ĐOÀN MỚI
1) Hình ảnh ban đầu của Giáo Hội: Tình huynh đệ Kitô hữu
2) Kitô giáo mang tính cộng đoàn
Đời sống cộng đoàn và nhu cầu con người ngày nay – Cộng đoàn Kitô hữu cơ bản là gì?
3) Giáo xứ và cộng đoàn
Cộng đoàn Kitô giáo và cơ cấu giáo xứ
4) Vai trò ngôn sứ của các cộng đoàn Kitô hữu sống động
Chương IX : THÁNH THẦN VÀ NGƯỜI KITÔ HỮU TRÊN THẾ GIỚI
1) Một tình trạng xung đột
Những căng thẳng – Những hình ảnh về Giáo Hội
2) Một điều mơ hồ cần giải tỏa
3) Đức Giêsu được gửi đến nhân gian bởi việc làm của Thánh Thần
4) Người Kitô hữu ở giữa thế giới dưới tác động của Thánh Thần
Hiện diện giữa thế giới – Dấu chỉ thời đại – Một lá thư bàn về chiều kích xã hội của Kitô giáo – Sự hiện diện đặc biệt – Ngược đời – Căn nguồn sự ác – Vượt trên thế gian
Chương X : THÁNH THẦN VÀ HY VỌNG ĐẠI KẾT
1) Thánh Thần, điểm hội tụ tâm linh
2) Thánh Thần, điểm qui tụ về tín lý
3) Thánh Thần và sự hiệp nhất sống động giữa các giáo hội
Chương XI : THÁNH THẦN VÀ ĐỨC MARIA
1) Thánh Thần hay Đức Maria?
2) Mẹ Maria trong bối cảnh tác động của Chúa Thánh Thần
3) Mẹ Maria, Mẹ chúng ta trong Thánh Thần.
Mẹ Maria giúp bảo toàn nhân tính, lòng khiêm tốn, quân bình và khôn ngoan
Chương XII : THÁNH THẦN, NIỀM HY VỌNG CỦA TÔI
Tuyên dương niềm hy vọng của mình –Sẳn lòng đón nhận Thiên Chúa – Cởi mở với tha nhân – Đối xử với chính mình – Kết luận – Lời nguyện
LỜI KẾT
Thánh Thần dẫn lối gặp gỡ Đức Kitô –
Truyền thống – Tiến bộ
THÁNH THẦN, HƠI THỞ SỐNG ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI Hồng Y L.J. Suenens
Một sứ điệp chỉ đáng tin khi có khả năng mở ra cho chúng ta niềm hy vọng vào tương lai.
W. Kasper
1. GIÁO HỘI NÀO?
Từ ngữ «Giáo Hội» bao gồm đủ thứ hình ảnh và kiểu mẫu. Người ta có thể định nghĩa Giáo Hội là một loại xã hội có phẩm trật, là nhiệm thể Đức Kitô, là dân Chúa, là cộng đoàn địa phương hay hoàn vũ, là cộng đoàn cánh chung, là bí tích của Đức Kitô, là tác năng phục vụ thế giới. Những căng thẳng hiện nay một phần phát sinh do việc một số người chủ trương ưu tiên một mẫu mực độc chuyên hoặc quá ưu thắng trong các kiểu mẫu ấy. Sự thật thì phức tạp hơn nhiều: chính Giáo Hội là một mầu nhiệm tiếp nhận muôn vàn chiều kích phong phú khôn lường của Đức Kitô mà chúng ta phải đón nhận tất cả cùng một lượt.
Khi tôi còn trẻ, người ta trình bày Giáo Hội như một xã hội có phẩm trật, hoàn hảo về mặt pháp lý, với đủ mọi quyền lực hàm ngụ nơi qui chế nầy. Kiểu mẫu này phản chiếu hình ảnh một Giáo Hội rập khuôn một xã hội dân sự, thậm chí quân sự, với một phẩm trật có trên có dưới, lấy sự đồng dạng làm lý tưởng, tuân theo một kỷ luật gắt gao đến tận chi tiết, điều hành cả giáo sĩ lẫn giáo dân, và áp đặt một loạt những gò bó quan liêu lên cả hàng giám mục. Danh sách những gì mà giám mục phải đệ trình xin phép Rôma thật khó mà tin nổi, ngay cả việc xin cho phép một nữ tu sửa đổi bản di chúc hoặc cho phép một linh mục ốm đau được dâng thánh lễ tại phòng riêng.
Công đồng Vatican II nhấn mạnh rằng Giáo Hội là Dân Chúa đang tiến bước, phục vụ cho nhân loại. Khi mô tả mầu nhiệm Giáo Hội, Hiến Chế Lumen Gentium trong chương đầu tiên đã đưa ra rất nhiều hình ảnh về Giáo Hội để chúng ta đừng đóng khung mầu nhiệm Giáo Hội trong những tấm vách quá chật hẹp của mình. Sau đó, Hiến Chế định nghĩa Giáo Hội là Dân Chúa trong tính toàn thể của nó. Nghĩa là đưa lên hàng đầu giá trị ưu tiên của phép rửa, sự bình đẳng căn bản giữa hàng ngũ con cái Thiên Chúa, và nhờ vậy cải cách và vượt qua một quan điểm về Giáo Hội mà ngày nay gọi là lối nhìn «kim tự tháp», để rồi định vị thừa tác vụ (linh mục, giám mục) vào giữa lòng toàn bộ Giáo Hội và để phục vụ toàn bộ Giáo Hội. Hướng nhìn nầy thấm nhuần sứ điệp Tin Mừng hơn là dựa vào uy thế pháp lý, mà lại không chối bỏ vai trò của hàng giáo phẩm.
Tôi tin rằng đã đến giờ người Công Giáo theo lễ nghi Rô-ma cần phải làm nổi bật vị thế và chức năng của Thánh Thần để làm quân bình hơn cái nhìn của chúng ta về Giáo Hội. Tôi gọi chúng ta là những người «theo lễ nghi Rô-ma» vì những người theo lễ nghi Đông phương, dù là Công Giáo hay Chính thống, đều luôn luôn đồng ý trong việc nhấn mạnh lập trường ấy. Đức Phaolô VI đã nhắc lại sự cần thiết phải làm như thế: «Tiếp theo Kitô-học và đặc biệt là Giáo-Hội-học của Công Đồng, cần phải tiến hành một lối học hiểu và một lối thờ phượng mới về Chúa Thánh Thần, vì đó là việc bổ sung thiết yếu cho Công Đồng »1.
Hẳn nhiên, người ta có thể tìm thấy rất nhiều qui chiếu về Chúa Thánh Thần trong các tài liệu Công Đồng, và thường lại được đưa vào bản văn do yêu cầu nhấn mạnh của các nghị phụ Đông phương hoặc nhân cơ hội có cuộc tranh luận về các đoàn sủng. Nhưng chúng ta cần phải thâm nhập trọn vẹn chiều kích «Thánh Thần» của Giáo Hội, dưới khía cạnh hiệp thông trong Thánh Thần.
Chính việc cùng nhau chấp nhận Chúa Thánh Thần là thực tế sống động, là Đấng lập nên Giáo Hội, mới là yếu tố có thể giúp chúng ta tìm lại sự hiệp nhất, hiện đang gặp nguy cơ phân hóa, giữa các Kitô hữu trung thành với Giáo Hội định chế và các Kitô hữu muốn tự do và thoát ly mọi liên hệ cụ thể linh hoạt với Giáo Hội. Hiện đang có một sự đối nghịch ngày càng gia tăng giữa đám đông Kitô hữu được gọi là «truyền thống» là những người vẫn tiếp tục tìm thấy nơi Giáo Hội những biểu hiện hữu hình: như phẩm trật, phụng vụ, thần học, giáo luật..., và một thiểu số Kitô hữu được gọi là «phản kháng», quan niệm Giáo Hội như là một đám đông Kitô hữu «đang trên đường tìm kiếm». Những người này muốn giải thích lại Tin Mừng cho thời đại hôm nay khởi từ chứng nghiệm sống và từ các biến cố, chứ không – hoặc hầu như không – dựa vào cách giải thích của Giáo Hội mà ta gọi là «được thiết lập».
Chúng ta sơ phác đường phân ranh như thế, may mà còn chưa cố định; nhưng hẳn đó là những ranh giới ngày càng rõ nét, đặc biệt qua sự kiện nhiều bạn trẻ không chấp nhận tự «đóng khung» trong cơ chế, và đáng tiếc là đã xa rời Giáo Hội hoặc tìm sự nương tựa nơi những nhóm tự phát để cùng nhau bày tỏ lý tưởng sống của mình.
Càng ngày người ta càng đồng ý rằng việc khám phá lại mối liên hệ cần thiết giữa định chế và tự do là vấn đề trọng yếu mà Giáo Hội hiện nay phải giải quyết. Mối liên hệ này chẳng phải do chúng ta phát minh ra vì nó không phải là một cái gì nhân tạo, cũng không phải là kết quả do thỏa thuận hay thương lượng mà có. Mối liên hệ ấy có một tên gọi riêng: đó chính là Thánh Thần. Tự bản chất, Ngài là «tác nhân hiệp thông». Chính Ngài làm cho toàn Giáo Hội sống động từ bên trong. Chính Ngài ban cho Giáo Hội những cơ quan và guồng máy hữu hình của tổ chức Giáo Hội.
Qua những trang sách này, chúng ta sẽ làm cho vấn đề sáng tỏ và rõ nét hơn. Trong chương này, chúng ta chỉ cần ghi nhận những tương quan sâu xa và phong phú giữa «định chế» và «đoàn sủng».
2. HAI CHIỀU KÍCH CỦA GIÁO HỘI
Nói chung, trong ngôn ngữ thông thường, nói tới Giáo Hội-định chế là người ta nhắm đến Giáo Hội hữu hình, với những nét phức tạp về mặt xã hội do quá khứ lịch sử và các nét cá biệt của mỗi dân tộc. Giới truyền thông có thói quen trình bày cho công chúng một Giáo Hội “theo mô hình sẵn có» này với những hình ảnh khi lồi khi lõm; nhất là vì ưa gây kích động nên dễ tạo ra ấn tượng méo mó. Đó là Giáo Hội dưới khía cạnh xã hội học, với những thực tế lịch sử muôn màu và bất chừng.
Nhưng đối với tín hữu, Giáo Hội là một thực thể thuộc một trật tự hoàn toàn khác. Giáo Hội thiết yếu là một mầu nhiệm hữu hình lẫn vô hình một cách bất khả phân ly, là trung gian giữa Đức Giêsu và chúng ta. Giáo Hội ấy có nhiệm vụ sống Tin Mừng và làm chứng Tin Mừng ấy cho từng thế hệ. Giáo Hội của Tin Mừng này bao gồm những con người, vì thế phải chịu đủ thứ bấp bênh gây ra do sự yếu đuối của con người, nhưng dù sao vẫn được Thánh Thần điều động, ban quyền năng, và đảm bảo về sự trung tín.
Cấu trúc Giáo Hội theo quan điểm thần học và theo quan điểm xã hội học không giống nhau. Đối với người tín hữu, sự sắp xếp về mặt cơ chế trong cộng đồng Giáo Hội là do Đức Giêsu mong muốn và phác họa, nó mãi mãi gắn liền với sức sống và sự tăng trưởng của một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Hình ảnh Giáo Hội xuất hiện một cách tinh lọc trong Kinh Thánh. Người ta thấy hình ảnh ấy nơi những Kitô hữu đầu tiên chăm chú nghe giáo huấn của các Tông Đồ, tụ họp nhau để cầu nguyện và cử hành Thánh Thể, tuy khác biệt nhau về tác vụ nhưng hiệp nhất với nhau trong một cộng đoàn huynh đệ. Họ được dẫn dắt bởi những vị có trách nhiệm tổ chức trật tự nội bộ và liên lạc với những cộng đoàn Kitô hữu khác. Những vị hữu tránh nầy luôn lo lắng trung thành với kho tàng được lãnh nhận và chuyển giao từ các nhân chứng có thẩm quyền, có tư cách, được ủy nhiệm, liên tục tiếp nối những chứng nhân đầu tiên làm chứng về sự Phục Sinh của Thầy Chí Thánh.
Đó là những đường nét sơ phác về Giáo Hội định chế; chúng vốn thuộc về yếu tính của Giáo Hội ấy.
Nhưng hơn thế nữa, lịch sử Giáo Hội lúc khai sinh từng bước cho thấy trong Giáo Hội không có sự tách biệt giữa «tổ chức Giáo Hội» và «Chúa Thánh Thần», vì Thánh Thần là linh hồn và là sự sống của Giáo Hội.
Các Tông Đồ đã lãnh nhận từ Thầy Chí Thánh mệnh lệnh tối hậu là không được tự biên tự diễn trong việc thi hành sứ mệnh Ngài giao phó, mà phải chờ Đấng sẽ dùng quyền năng phủ lên họ và dần dần mặc khải cho họ tiếp cận viên mãn chân lý mà họ vừa thoáng thấy. Giáo Hội «có cơ cấu» trước tiên không phải là một thực tại pháp lý mà là một thực tại bí tích. Thánh Thần ngự xuống trên những kẻ được Thầy Chí Thánh ủy nhiệm. «Các con hãy nhận lấy Thánh Thần» là lời khởi màn nói với bất cứ ai lên đường hành động nhân danh Giáo Hội. Ngay cả hiện nay, không gì mạnh mẽ bằng những câu nói dùng trong nghi thức tấn phong giám mục … «Lạy Chúa xin giúp cho vị này thi hành sứ vụ hòa giải bằng lời nói và hành động, với quyền năng các dấu chỉ và phép lạ». Những lời này không phải là văn chương bóng bảy mà là một hình thức biểu lộ đức tin.
Như thế, Giáo Hội của Tin Mừng ấy vừa hữu hình vừa vô hình. Không bao giờ được nói có hai Giáo Hội: một Giáo Hội cơ chế hữu hình, và một Giáo Hội đoàn sủng vô hình. Sự kết hợp hai chiều kích nầy thiết yếu xây dựng nên ý niệm về Giáo Hội.
Theo đức tin, người ta không thể quan niệm một «Giáo Hội thiêng liêng» riêng để trung thành với Tin Mừng và Thánh Thần, đối lập với một «Giáo Hội định chế» được đồng hoá một cách nào đó với một thứ áo mão bên ngoài.
Đức Phaolô VI tuyên bố: «Thánh Thần, Đấng ban phát các đoàn sủng và đồng thời làm linh hoạt Giáo Hội, đã làm cho việc linh ứng đoàn sủng và cơ cấu pháp lý của Giáo Hội đồng quy một cách tuyệt vời»2.
Từ ngữ «charisme» (đoàn sủng) đã đi vào ngôn ngữ thế tục. Theo ý nghĩa nới rộng nầy, đoàn sủng ám chỉ một thứ tài năng ngoại hạng, một thứ từ lực cá nhân. Theo ý nghĩa tôn giáo và thánh kinh là ý nghĩa duy nhất mà chúng ta quan tâm ở đây, đoàn sủng là một ân huệ đặc biệt, một biểu hiện thấy được và ban nhưng không của Thánh Thần, một ân sủng đặc biệt Thiên Chúa, nhằm xây dựng toàn nhiệm thể Giáo Hội. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau.
Chúng ta thấy cách dùng từ ngữ ấy trong xã hội hiện nay cũng không luôn luôn trùng hợp với lối nói của thánh Phaolô. Chẳng hạn một số tín hữu đã coi «đoàn sủng» là cái gì đối nghịch với «tác vụ» (tiếng Đức: Amt; tiếng Pháp: ministère). Họ hiểu một cách giản lược «tác vụ» là một phận vụ được thi hành đều đặn trong cộng đoàn và cho cộng đoàn bởi một số người được chính thức ủy nhiệm. Quan niệm như thế là đi ngược lại tư tưởng thánh Phaolô. Theo Ngài, từ ngữ «đoàn sủng» chẳng những có nghĩa là các ơn huệ thiêng liêng thần bí nhất hoặc có tính cách tôn giáo nhất, mà còn có nghĩa là những phận vụ rất hữu hình trong Giáo Hội, như làm tông đồ, giảng dạy, điều hành. Đàng khác, thánh Phaolô cũng nhấn mạnh rằng phải xem tất cả các đoàn sủng – chứ không chỉ các phận vụ chính thức – là những tác vụ được trao ban, trước hết là để phục vụ cộng đoàn.
Theo tôi, những ghi nhận ấy có thể giúp ta tránh được những tình thế tiến thoái lưỡng nan và những vấn đề nêu lên một cách giả tạo. Chúng giúp ta tránh được việc phân rẽ «những gì mà Thiên Chúa đã kết hiệp» (Mt 19,6). Đừng bao giờ quên rằng Giáo Hội không thể hiện hữu nếu thiếu chiều kích đoàn sủng. Phủ nhận chiều kích này không phải chỉ làm nghèo Giáo Hội mà còn phủ nhận luôn cả sự hiện hữu của Giáo Hội. Không có chiều kích này, Giáo Hội không phải chỉ bị mất một bộ phận nào đó của mình, giống như một người bị mất bàn tay, nhưng sẽ không còn là Giáo Hội nữa, vì chính yếu tính của Giáo Hội sẽ bị tiêu hủy.
Người phương Tây chúng ta thích dùng những từ ngữ Kitô học để mô tả Giáo Hội, xem Giáo Hội như hoàn toàn được Đức Kitô thiết lập nơi các cơ cấu, và Thánh Thần xem ra chỉ xuất hiện khi các cơ cấu Giáo Hội đã được thiết lập xong, nhằm thúc đẩy và làm cho các cơ cấu này sống động. Quan niệm như thế khiến người ta tưởng rằng Thánh Thần thuộc về giai đoạn hai trong việc thiết lập Giáo Hội. Đâu phải thế! Thánh Thần, cũng như Đức Kitô, đã lập nên Giáo Hội. Gán cho Thánh Thần vị thế tiếp nối như Đấng làm sinh động và kết hợp Giáo Hội thì chưa đủ. Sự hiện diện trong hai chức năng này của Ngài không hề đưa đến chủ nghĩa nhị nguyên trong lòng Giáo Hội vì Thánh Thần tấn phong Giáo Hội cũng chính là Thánh Thần của Đức Kitô, Đấng đã nhận lãnh quyền thông ban Thánh Thần ấy cho các Tông Đồ như giá khổ nạn chuộc tội của Ngài.
Sự kết hợp này đem lại rất nhiều kết quả cho đời sống thiêng liêng, tu đức, phụng vụ, thờ phượng và tông đồ của Giáo Hội. Giáo Hội là kết quả sứ mệnh của Hai Ngôi Vị Thiên Chúa: sứ mệnh của Ngôi Con nhập thể và sứ mệnh của Ngôi Thánh Thần được gởi đến cho Ngôi Con để cộng đồng nhân loại của các tín hữu trở nên thân thể Đức Kitô và nên bí tích phổ quát của ơn cứu độ.
Như vậy, chúng ta không được xem phẩm trật với đoàn sủng, cũng như công việc của Chúa Con với công việc của Thánh Thần đối kháng nhau.
3. GIÁO HỘI LẮNG NGHE THÁNH THẦN
Đón nhận đoàn sủng
Dù tận thâm sâu, hai chiều kích trên của Giáo Hội liên kết với nhau, nhưng phải thừa nhận rằng lịch sử đã từng chứng kiến những ngày tháng căng thẳng giữa hai chiều kích ấy. Sự căng thẳng này đôi khi phát sinh từ những đối kháng giữa hàng giáo phẩm với những Kitô hữu ngụy-đoàn-sủng .
Những hiện tượng siêu nhiên giả mạo xảy ra đầy dẫy – chẳng hạn như lối kết tạp tôn giáo kiểu chiêu hồn ở Ba-Tây và những nơi khác. Việc quần chúng tò mò ham thích những chuyện dị thường khiến ta phải luôn bình tĩnh. Trong bối cảnh như thế, việc vận dụng ơn suy xét rất tế nhị, nên hàng giáo phẩm rất dễ có khuynh hướng phải hành động theo cách chắc chắn nhất. Sự kiện nầy giải thích – nhưng không phải luôn luôn biện minh được - một số ngờ vực và lên án quá lạm mà lịch sử đã từng ghi nhận. Thật vậy, các phong trào tâm linh do các dòng tu phát động, lúc khởi đầu, thường có sự căng thẳng giữa người sáng lập phong trào và hàng giáo phẩm, đó không phải là chuyện hiếm xảy ra. Lịch sử cho thấy việc bãi miễn một số tu sĩ một phần là do những xung đột loại này. Nhiều vị sáng lập dòng, nam có nữ có, lúc khởi đầu đã bị lầm tưởng là những nhà cuồng tưởng của thời đại, như trường hợp thánh Phan-xi-cô thành Assisi và I-nha-xi-ô thành Loyola.
Trong số những trường hợp như vậy phải kể đến đoạn đường gian khổ của thánh Grignon de Montfort. Vị này liên tiếp bị tước quyền trong tám giáo phận vì các giáo quyền thời ấy đều có ít nhiều khuynh hướng Janséniste. Cũng có trường hợp cực kì bi đát như trường hợp của một vị nữ sáng lập dòng nọ, vị này bị giáo quyền trục xuất khỏi nhà dòng và chỉ được trở về lại nhà dòng với nắm xương tàn sau khi qua đời nửa thế kỷ, lúc sắp được phong chân phước!
Chủ chăn và tín hữu đều được Thánh Thần tác động
Còn một điểm tôi cho là quan trọng: đó là không nên đánh giá cái này cao hơn cái kia giữa các cặp song đối như «đoàn sủng – định chế» và «tín hữu – chủ chăn». Đoàn sủng không là kho tàng riêng chỉ dành cho một giới tín hữu. Đàng khác, nếu người ta hiểu «định chế» theo một nghĩa rộng, bao gồm tất cả những gì cấu thành cơ sở hữu hình trong Giáo Hội và di sản của quá khứ kể từ thời Giáo Hội sơ khai, thì sự hiện hữu của hàng giáo dân trong Giáo Hội cũng thuộc về «định chế» Giáo Hội không khác gì sự hiện hữu của hàng giáo phẩm.
Đoàn sủng không phải là của riêng hàng giáo dân hoặc hàng giáo phẩm. Trong số «các ngôn sứ» của thời đại, người ta có thể kể ra nhiều giáo dân. Vả lại danh từ «ngôn sứ» không phải là dễ sử dụng và đánh giá. Ngôn sứ không nhất thiết phải là những người được nói đến nhiều nhất. Mỗi tín hữu đều được mời gọi làm chứng cho đức tin của mình ở bên ngoài và bên trong Giáo Hội, được mời gọi vận dụng những tiềm năng đoàn sủng gắn liền với phép rửa tội của mình.
Không một giới nào trong hai đối tượng này – hàng giáo phẩm hay hàng giáo dân – là tiêu biểu duy nhất cho định chế Giáo Hội. Di sản quá khứ của Giáo Hội, kể cả Tin Mừng, cả chứng tá đức tin từ những thời đầu tiên của Giáo Hội, đều hiện diện và sống động từ cả hai phía. Cả hai phía phải cùng nhau phát minh ra cách thể hiện lòng trung tín với đức tin của mình trong thời đại hôm nay. Cả hai phía phải cùng nhau đương đầu với những khó khăn để phát huy những sáng kiến mới trong đời sống Giáo Hội thích ứng với nội dung Tin Mừng. Ý tưởng «Dân Thiên Chúa» của Công Đồng Vatican II ở đây phải được đặt lên hàng đầu. Người ta thường quên rằng ở đây «Dân Thiên Chúa» không ám chỉ là phải đối nghịch với «việc cai trị» như trong thuật ngữ chính trị. Dân Thiên Chúa có nghĩa là những người được rửa tội, kể cả Giáo Hoàng và các Giám Mục.
Trong cuộc hành trình của Dân Thiên Chúa, các vị chủ chăn có một phận vụ đặc biệt, một công việc phục vụ cá biệt mà họ phải thực hiện. Việc phục vụ này có quan hệ với sự hiệp nhất hữu hình của Giáo Hội. Các vị chủ chăn được tấn phong trước tiên không phải để chỉ huy mà để liên kết, để đảm bảo sự hiệp thông giữa các cá nhân và để duy trì sự liên tục trong thời gian và sự hài hòa trong không gian. Mất đi khả năng tự điều chỉnh, Giáo Hội sẽ bị rơi vào cuồng tưởng và cá nhân chủ nghĩa.
Là bộ phận có chức năng quyết định trong Giáo Hội, các vị chủ chăn phải sống trong Thánh Thần, phải đặc biệt chú tâm tới toàn bộ các «dấu chỉ thời đại» và tới các chứng từ mang tính ngôn sứ được biểu lộ từ nhiều phía. Những chứng từ ấy cần được lắng nghe, và vì quyền năng tối thượng của Tin Mừng cần được tiếp nhận vào sinh hoạt toàn bộ của Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên nhân chứng tốt hơn cho Nước Trời đang đến.
Trong Giáo Hội, luôn luôn có sự hiện diện ngôn sứ của Thánh Thần, có thể rõ rệt hoặc kín đáo. Có thể xảy ra trường hợp sau: một vị «ngôn sứ» nào đó muốn thức tỉnh lương tâm mọi người bằng cách công bố một sứ điệp đanh thép nhưng có phần nào phiến diện. Nhưng không phải vì thấy phiến diện như thế mà các chủ chăn không nên lắng nghe: bổn phận chủ chăn là phải phân biệt để nhận ra điều gì tốt và đón nhận nó, đồng thời hướng dẫn nó hòa nhập vào một lối nhìn rộng rãi và có thể quân bình hơn.
Như vậy, Thánh Thần tác động trên các vị mục tử để những gì họ quyết định phù hợp với Tin Mừng, với đời sống Giáo Hội và sự quang lâm của Nước Chúa. Và Ngài cũng còn đòi buộc các mục tử phải đón nhận tất cả những cách thức biểu hiện của Ngài. Ngài luôn ngăn cản không để Giáo Hội tự coi mình là cùng đích. Ngài gìn giữ Giáo Hội để Giáo Hội luôn hướng về mục tiêu cuối cùng là Nước Trời đang đến và về Đức Giêsu Kitô, là Chúa Tể duy nhất của Giáo Hội.
Mở lòng đón nhận sự phê phán của Tin Mừng
Vì phải hòa nhập vào bối cảnh lịch sử của mỗi thời đại, nên Giáo Hội cần thường xuyên tự phê và tự xét để luôn trung thành với sứ mạng của mình. Tự bản chất, Giáo Hội hoàn toàn liên kết với Lời Chúa, và sự tùng phục theo bản chất này buộc Giáo Hội phải đều đặn trở về nguồn. Thánh Thần không ngừng giúp Giáo Hội tránh xa những quan niệm chật hẹp, những thỏa hiệp và cả tội lỗi nữa, vì Giáo Hội vẫn luôn luôn bao gồm những con người thiếu sót, bất trung với cái lý tưởng mà họ được mời gọi phụng sự.
Việc phê phán giúp Giáo Hội trở nên tốt hơn có thể đến từ bên trong lẫn bên ngoài. Đôi khi từ những đối thủ của Giáo Hội. Ngạn ngữ «Fas est ab hoste doceri» có nghĩa là: kẻ khôn ngoan biết học khôn từ chính kẻ thù mình, ngạn ngữ này cũng đúng cho cả Giáo Hội.
Giáo quyền phải biết lắng nghe, phải dám kịp thời nhận lãnh trách nhiệm trước những đòi hỏi cần thiết phải xét lại, để tránh cho mình bị dồn vào thế cùng khi mọi sự đã quá trễ tràng. Thật đáng buồn khi thấy «con cái sự sáng» chậm trễ hơn «con cái thế gian» trong việc biết tự phê bình, tự lượng định một cách vô tư và nghiêm túc về phương pháp và kết quả sinh hoạt của mình. Chúng ta thấy các chủ xí nghiệp biết mời những nhà chuyên môn đến nghiên cứu từ bên trong tất cả các bộ phận thuộc tổ chức của họ, để phát hiện ra những điểm yếu về kỹ thuật hay tâm lý, hầu chấn chỉnh lại tất cả những gì đang kềm hãm và cản trở khiến xí nghiệp không vận hành tốt đẹp được. Tôi biết rằng Giáo Hội không phải là một loại xã hội có thể đồng hoá với những xí nghiệp. Tuy vậy vẫn có những quy luật có giá trị cho bất kỳ cơ chế nào, bất kỳ nơi nào cần người ta cộng tác với nhau để thực hiện một mục tiêu đã định. Chấp nhận hay cỗ vũ sự phê phán là một phần quy luật trong cuộc sống của con người mà ta không thể bỏ qua được.
Giáo Hội còn có một lý do thường xuyên buộc phải đặt tự kiểm thảo trên bình diện tương quan phục vụ con người. Giáo Hội không phải là một xã hội như bất cứ xã hội nào khác. Sứ điệp Giáo Hội cưu mang và là lẽ sống cho chính mình đòi buộc Giáo Hội nhất thiết phải thực thi đối với chính Giáo Hội cũng như đối với những người được Giáo Hội ngỏ lời.
Một trong những đặc trưng của Giáo Hội chính là: Giáo Hội trước tiên thể hiện nơi mình như một «định chế-sứ điệp».
Là «định chế-sứ điệp» nên Giáo Hội là một xã hội thuộc loại đặc biệt. Sứ điệp thì không hề thay đổi, nhưng định chế luôn phải phục vụ sứ điệp đó thì cần phải chấp nhận những đổi thay cần thiết, do đó Giáo Hội như phải chuyển mình. Cũng như Con Người, Giáo Hội không có nơi tựa đầu: sự thao thức hướng về ngày cánh chung đòi Giáo Hội luôn kiên trì và canh tân cuộc lữ hành của mình, nhưng không vì vậy mà đặt vấn đề về những cấu trúc nền tảng, dứt khoát và hình thành nên mình. Những cấu trúc này luôn tồn tại và hướng dẫn cuộc hành trình của Giáo Hội.
Một khi xác định được nền đất vững chắc dưới chân mình rồi, Giáo Hội cởi mở đón nhận mọi phê phán xây dựng nhằm làm cho Giáo Hội ngày càng trung thành hơn với chính mình, nghĩa là trung thành với Đức Giêsu.
Giáo Hội phải luôn luôn tự nhìn lại lịch sử của mình và tự nhìn ngắm mình trong tấm gương nguyên thủy để tìm lại «khuôn mặt từ thuở chào đời» của mình để khỏi quên đi khuôn mặt ấy như lời khuyên của Thánh Giacôbê (Gc 1,23). Lịch sử Giáo Hội là trường dạy đức khiêm nhường cho tất cả chúng ta.
Nhưng lịch sử Giáo Hội cũng là trường dạy hy vọng. Nó dạy cho ta biết rằng những thời kỳ đảo điên nhất thường chuẩn bị cho những chặng đường bất ngờ.
Đón nhận tự do của Thánh Thần
Giáo Hội của Đức Kitô phải vâng phục chỉ một và cũng một Thánh Thần ấy trong mọi chiều kích. Là một xã hội hữu hình và tại thế, Giáo Hội hiển nhiên phải có luật lệ và có guồng máy. Giáo Hội không thể coi thường luật lệ, nhưng cũng phải cẩn thận để tránh rơi vào tình trạng câu nệ pháp lý hay vị lề luật. Bộ giáo luật luôn luôn cần được tham chiếu với Thánh Thần và được Thánh Thần cảm hứng. Hiển nhiên, Tin Mừng phải là luật tối thượng. Lời Chúa và Thánh Thần Đức Giêsu là nguyên lý tối cao hướng dẫn Giáo Hội, và mọi phẩm trật đều phải phục tùng Lời Chúa và Thánh Thần.
Sự nguy hiểm của tình trạng câu nệ pháp lý gia tăng mỗi lần quyền bính trung ương ở tầm vóc thế giới lại đưa ra những luật lệ quá tỉ mỉ và cứng ngắc, có nguy cơ không phù hợp khi đem áp dụng vào những hoàn cảnh cụ thể hết sức khác biệt nhau. Giáo Hội bị cám dỗ rất mạnh là cứ muốn thống nhất Giáo Hội bằng những sắc lệnh hay luật lệ, và như thế là lẫn lộn giữa sự hiệp nhất và sự đồng dạng.
Đức Thượng Phụ Athénagoras mới đây đã cảnh báo Giáo Hội Chính Thống để tránh tình trạng câu nệ pháp lý:
«Chúng ta đã biến Giáo Hội thành một tổ chức như những tổ chức khác. Trước đây tất cả nỗ lực của chúng ta là thành lập nó, và nay thì làm cho nó vận hành. Và nó tiến bước được một cách nào đó, có lẽ không hay cho lắm nhưng nó đang tiến bước. Tuy vậy nó bước đi như một bộ máy, chứ không phải như một cuộc sống.”3
Để kết luận chương này, tôi mời các bạn suy niệm một bản văn có nguồn gốc Chính thống giáo của Giáo Chủ Ignatios de Lattaquie, đã được đọc trong hội nghị đại kết các Giáo Hội tổ chức tại Upsal. Giáo Chủ Ignatios mời gọi chúng ta nhìn nhận quyền ưu thắng của Thánh Thần như là nguyên lý sống động của Giáo Hội:
Không Thánh Thần, Thiên Chúa quả thực xa xôi.
Đức Kitô chìm quên trong quá khứ,
Tin Mừng chỉ là văn tự chết khô.
Giáo Hội có gì khác hơn tổ chức trần thế
Quyền bính chỉ để cai trị .
Truyền giáo là tuyên truyền.
Phụng tự có khác chi đồng bóng,
Và cuộc sống Kitô hữu èo ọt trong luân lý chủ-nô.
Nhưng trong Thánh Thần :
Vũ trụ vươn cao, rên siết vì Nước Trời sinh hạ.
Đức Kitô phục sinh cư ngự cõi người ta.
Tin Mừng đổ tràn sức sống
Giáo Hội thể hiện mối thông hiệp của Ba Ngôi
Giáo quyền là phục vụ giải phóng
Truyền giáo là một lễ Hiện Xuống
Phụng vụ sống lại quá khứ và mở cửa tương lai
Sinh hoạt của con người trở nên thần thiêng cao cả.4
HƠI THỞ SỐNG ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI - Hồng Y L.J. Suenens - phần 2
Lời Cảm Tạ
Mạng Lưới Cầu Nguyện chân thành cảm tạ Giáo sư Nguyễn Đăng Trúc đã cho phép phổ biến tài liệu này, và xin giới thiệu đến Quý vị sách "Thánh Thần, Hơi Thở sống động của Giáo hội" của Cố Hồng Y L.J. Suenens, một tài liệu giá trị để tìm hiểu về Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo.
Nhu cầu khẩn thiết nhất của Giáo Hội luôn luôn là sống Ngày Hiện Xuống
Đức Thánh Cha Phaolô VI
MỤC LỤC:
......
Chương VII : THÁNH THẦN VÀ KITÔ HỮU ĐÍCH THỰC
1) Thế nào là một Kitô hữu đích thực?
Hoán cải và phép rửa – Gặp gỡ cá nhân – Gặp gỡ cứu độ – Gặp gỡ Đức Giêsu và nhận ra Ngài là Chúa – Đón nhận
2) Kitô hữu hiện đại: lý tưởng và thực tế
Một phương trình cần xét lại – Hướng đến một kiểu mẩu Kitô hữu mới – Kitô hữu năm 2000
3) Hướng đến việc trở nên Kitô hữu đích thực hơn
Một thay đổi triệt để – Đặt lại vấn đề: rửa tội trẻ em – Cần xét lại cuộc sống
Chương VIII : THÁNH THẦN VÀ NHỮNG CỘNG ĐOÀN MỚI
1) Hình ảnh ban đầu của Giáo Hội: Tình huynh đệ Kitô hữu
2) Kitô giáo mang tính cộng đoàn
Đời sống cộng đoàn và nhu cầu con người ngày nay – Cộng đoàn Kitô hữu cơ bản là gì?
3) Giáo xứ và cộng đoàn
Cộng đoàn Kitô giáo và cơ cấu giáo xứ
4) Vai trò ngôn sứ của các cộng đoàn Kitô hữu sống động
Chương IX : THÁNH THẦN VÀ NGƯỜI KITÔ HỮU TRÊN THẾ GIỚI
1) Một tình trạng xung đột
Những căng thẳng – Những hình ảnh về Giáo Hội
2) Một điều mơ hồ cần giải tỏa
3) Đức Giêsu được gửi đến nhân gian bởi việc làm của Thánh Thần
4) Người Kitô hữu ở giữa thế giới dưới tác động của Thánh Thần
Hiện diện giữa thế giới – Dấu chỉ thời đại – Một lá thư bàn về chiều kích xã hội của Kitô giáo – Sự hiện diện đặc biệt – Ngược đời – Căn nguồn sự ác – Vượt trên thế gian
Chương X : THÁNH THẦN VÀ HY VỌNG ĐẠI KẾT
1) Thánh Thần, điểm hội tụ tâm linh
2) Thánh Thần, điểm qui tụ về tín lý
3) Thánh Thần và sự hiệp nhất sống động giữa các giáo hội
Chương XI : THÁNH THẦN VÀ ĐỨC MARIA
1) Thánh Thần hay Đức Maria?
2) Mẹ Maria trong bối cảnh tác động của Chúa Thánh Thần
3) Mẹ Maria, Mẹ chúng ta trong Thánh Thần.
Mẹ Maria giúp bảo toàn nhân tính, lòng khiêm tốn, quân bình và khôn ngoan
Chương XII : THÁNH THẦN, NIỀM HY VỌNG CỦA TÔI
Tuyên dương niềm hy vọng của mình –Sẳn lòng đón nhận Thiên Chúa – Cởi mở với tha nhân – Đối xử với chính mình – Kết luận – Lời nguyện
LỜI KẾT
Thánh Thần dẫn lối gặp gỡ Đức Kitô –
Truyền thống – Tiến bộ