GIAI THOẠI CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
HƯƠNG VIỆT
TRUYỆN CÁC THÁNH
http://i213.photobucket.com/albums/c.../hoavan_01.gif
Biên khảo: Lm. ĐÔ ĐỨC PHỔ
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
*********
Thành viên quachtuong xin được đánh máy chuyển lên Diễn đàn Thánh Ca Việt Nam
giới thiệu tập truyện kể về "Hạnh tích Tử Đạo" của các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Kính mời quý ACE thưởng thức!
Xin Chúa ban ơn Mạnh Khỏe và Bình An đến quý vị!
:53::53::53:
TRÊN HẾT LÀ BẤT BẠO ĐỘNG
Thánh TÔMA KHUÔNG sinh khoảng năm 1780 (thời Trịnh-Nguyễn), tại làng Nam Hòa, xứ Tiên Chu, tỉnh Hưng Yên.
Con đường danh vọng rộng mở cho cậu bé thông minh xuất sắc này, vì cha cậu làm Tuần Phủ ở Hưng Yên. Nhưng cậu đã nghe tiếng gọi linh thiêng và xin vào nhà Đức Chúa Trời. Cậu theo học tại chủng viện và thụ phong linh mục trong trách nhiệm coi sóc các linh hồn.
Cha Khuông nổi tiếng là linh mục khôn ngoan, thánh thiện, khéo giao tiếp và nhiệt thành với sứ vụ giao truyền tin mừng. Sống trong giáo phận dòng Đa Minh đảm trách, cha Khuông muốn liên kết sâu xa hơn với dòng. Cha đã gia nhập dòng Ba Đa Minh và cổ động nhiều giáo hữu cùng tham gia để thánh hóa đời sống mỗi ngày.
Trải qua ba đời bách hại của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, cha Tôma Khuông đã khôn khéo thân thiện với các quan chức địa phương để có thể tiếp tục thi hành công việc mục vụ. Nhiều lần cha bị bắt giữ, nhưng nhờ quan hệ này cha được tự do.
Tuy nhiên từ năm 1858, các cuộc bách hại của vua Tự Đức gia tăng mãnh liệt, công việc của cha phải gặp khó khăn hơn nhiều. Áp lực của quân Pháp khiến vua Tự Đức tức giận và nghi nghờ giới Công giáo tiếp tay với thực dân Pháp, nên thẳng tay đàn áp họ. Một vài làng Công giáo có tổ chức thanh niên để tự vệ trước sự can thiệp của quân lính nhà vua. Cha khuông khi đó đã gần 80 tuổi, hoàn toàn không hưởng ứng chủ trương này.
Năm 1859, thấy giáo dân Cao Xá tổ chức võ trang, cha liền ngăn cản và quyết định lánh sang giáo phận Đàng Ngoài (Hải Phòng). Quyết định này đã khiến cha bị bắt và được lãnh phúc tử đạo.
ĐÁNH PHÁP THÌ ĐÁNH- BỎ ĐẠO THÌ KHÔNG!
ĐÁNH PHÁP THÌ ĐÁNH, BỎ ĐẠO THÌ KHÔNG
Phanxicô Trần Văn Trung sinh khoảng 1825 tại Phan Xá, Tỉnh Quảng trị, dưới thời vua Minh Mạng, thuộc gia đình công giáo. Thân phụ cậu trước cũng là cai đội, nhưng đã về hưu.
Cùng chí hướng với cha, cậu cũng tham gia binh nghiệp và trở thành một cai đội. Khoảng 24 tuổi anh Trung kết hôn với một thiếu nữ cùng làng và sinh được bốn người con như những gia đình công giáo khác, ông cai đội chu toàn trách vụ Kitô Hữu.
Vì một lý do đặc biệt, ông đã bị bắt và giam vào ngục. Số là một lần kia, ông phải dự cuộc khảo khí, trong tình hình bất an thời bấy giờ, muốm làm việc thì cử trót lọt dễ dàng phải hối lộ với các quan trên. Dù đủ điều kiện trúng tuyển, ông không thể làm khác hơn được. Chẳng may, việc chia tiền ko đồng đều, các quan tranh cãi lẫn nhau. Vua Tự Đức biết tin liền cho 12 cai đội vào tù.
Sau khi cửa Hàn bị quân Pháp, dưới sự chỉ huy của Đô đốc Rigôn đờ Dơ-nu-ly, đánh chiếm ngày 01/9/1858, Vua Tự Đức liền cho phóng thích các binh lính bị giam giữ để bổ sung vào số quân bảo vệ kinh thành Huế. Ông cai đội và các bạn hăng hái hưởng ứng. Nhưng khi sắp được xuất trận các quan bắt ép các ông phải bước qua Thập Gía Đức Giêsu Kitô. 11 người kia theo lệnh, còn ông Trung nhất định ko chịu nghe. Các quan hỏi:
- Tại sao không chịu đạp lên Thập Gía? Có phải mi theo đạo không?
- Thưa phải, tôi là người công giáo. Tôi sẵn sàng đi đánh giặc bảo vệ tổ quốc, nhưng không bao giờ lại bỏ đạo.
Cậu nói trọn vẹn đôi đường của người công dân tổ quốc và con Thiên Chúa ấy đã đưa ông cai đội Trung trở lại nhà tù. Một tháng giam cầm, ông bị tra hỏi nhiều lần, bị tra tấn nhiều lần, cứ mỗi lần vậy là 50 roi. Những trận đòn đó ko làm cho chiến sĩ Đức Tin bỏ cuộc. Dự đoán mình sẽ bị xử tử, ông chẳng những không sợ lai còn tỏ vẻ chờ mong ngày đó nữa.
PHÚC TRONG KHÔNG DÁM MONG!
PHÚC TRONG KHÔNG DÁM MONG
Phêrô Lê Tùy sinh trưởng trong một gia đình nề nếp, khá giả làng Bằng Sở, huyện Thanh Trì, Phủ Thường Tín, Hà Tây (nay thuộc giáo phận Hà Nội).
Năm 1773, năm cậu mở mắt trào đời củng là năm hai linh mục Vĩnh Sơn Liêm và Cát-Ta-Nê-Đa-Gia lãnh triều thiên Tử đạo tại Hà Nội do án xử của chúa Trịnh Sâm. Cảm kích tấm gương hào hùng ấy, khi cậu lớn lên, song thân đã lo liệu gửi cậu vào Đại Chủng viện tại Nam Định.
Trong những năm học, cậu tỏ ra rất thông minh, khôn ngoan và đạo đức. Sau khi lãnh chức phó tế, thầy Phêrô được cử giúp Đức Cha Đơ-Lát-Mốt Hậu lo việc truyền giáo ở Nghệ An; ít lâu sau, thầy phụ phong linh mục, làm Phó Đông thành, Châm Lộc, rồi làm Chánh xứ Nam Đường.
Cha Phêrô Tùy là một linh mục vui tính, hiền hòa và rất nhiệt thành trong sứ vụ chủ chăn. Dù ở đâu, dù chức vụ nào, cha cũng luôn sốt sáng chu toàn nhiệm vụ của mình. Đức Cha Hậu có những lần khen đức tính và hoạt động của cha, ngài nói: "Không ai là không hài lòng về Cha Tùy".
Trong 30 năm nhà truyền giáo, Cha Lê Tùy hoạt động công khai đắc lực phục vụ giáo Hội Việt Nam. Nhưng như mọi linh mục khác, từ khi vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo Công giáo trên toàn quốc, ngày mùng 6/1/1833, cha phải hoạt động âm thầm trong "bóng tối".
Ngày 25/6/1833, Cha Tùy đến sức dầu bệnh nhân cho một người sắp chết ở họ đạo Thành Trai. Đây là một họ đạo nhỏ, chèn giữa làng mạc của lương dân. Một nhóm người ngoài đạo đã bắt cha nộp cho quan huyện Thanh Chương. Giáo hữu bỏ ra tiền xin chuộc, nhưng quan đặt ra điều kiện cha phải khai mình là thầy thuốc, chứ ko phải là linh mục. Cha Tùy cho rằng khai man như thế là ko tốt, nên khẳng khái từ chối, cha bị đóng gông và giải về tỉnh đường Nghệ An.
Suốt thời gian trong tù, lúc nào cha cung có nét vui tươi, hồn nhiên can đảm trước mọi khổ nhục. Một hôm, quan đòi cha ra công đường và hỏi cha Tùy có phải là đạo trưởng Giatô không, cha Tùy đáp:
- Phải, tôi là đạo trưởng.
Quan nói tiếp:
- Ông nghe ta đi, ai thấy ông bị bắt cũng động lòng trắc ẩn. Không ai phải muốn ông bị án tử hình, ta đây cũng vậy. Bây giờ ông nghe ta, làm một tờ khai mình là một lang y chữa bệnh, may ra có thế ta mới cứu được ông.
Cha Tùy trả lời:
- Tôi không sợ chết và chết cách nào tôi cũng không ngại. Ai mà chẳng phải chết. Dù chết trên chăm êm đệm ấm, dẫu bị cọp, cá rỉa; dẫu bị lột da xé xác ra làm trăm mảnh cũng đều là chết thôi cho nên tôi không sợ chết.
Quá đỗi kính trọng cha Tùy, quan trên cho đánh đòn và đưa ngài về ngục thất.
Túp Lều Việt Nam Hơn Hoàng cung Nước Pháp!
Túp Lều Việt Nam Hơn Hoàng cung Nước Pháp!
I-Si-Đô Ga-Đơ-Lin sinh ngày 10/5/1799, tại Mông-Đơ-Rơ, Giáo phận Be-xăng-công nước Pháp cậu Ga-Đơ-Lin có hướng theo ơn triều thiên ngay từ nhỏ và từng tâm nguyện ''Tôi muốm làm Linh mục''.
Lớn lên, sau bốn năm học Đại Học Chủng Viện giáo phận, năm 1819, thầy gia nhập thừa sai Paris. Tháng 9/1821, Đức Cha La-be-tét Bình, Giám mụcc giáo phận đằng trong, truyền chức Linh mục cho thầy Ga-Đơ-Lin Kính, khi 22 tuổi.
Thời ấy vua Minh Mạng mới lên ngôi, bầu khí tự do tín ngưỡng do vua cha ''Gia Long'' để lại chưa phai nhạt. Linh mục Ga-Đơ-Lin Kính vừa nhận chức giáo xứ chủng viên An Ninh, Quảng Trị, vừa thi hành công tác mục vụ các vùng lân cận. Cha gửi tâm sự về quê nhà năm 1823 ''Những thiếu thốn, những nhọc cực, đủ thứ đến với chúng tôi, nhưng tôi dám khẳng định rằng: tôi hạnh phúc trong túp lều tranh của tôi hơn vua nước Pháp ở trong hoàng cung của ngài".
Dần dần vua Minh Mạng áp dụng chính sách bách hại đạo ngày càng mãnh liệt hơn. Bề trên Tô-mát-xin đã phải di tán chủng viện An Ninh và cử Cha vào Sài Gòn, là khu vực của Tả quân Lê Văn Duyệt, không áp dụng bài xích công giáo. Cha thường thực hiện công việc tông đồ nơi các họ đạo vùng Sài Gòn, Bà Rịa-Vũng Tàu và đào tạo chủng sinh tại Cái Thiêu.
Năm 1827 Cha Kính được vua Minh Mạng triệu về kinh cùng với các gião sĩ tây phương khác. Vua lấy cớ cần người dịch sách và làm thông ngôn cho triều đình, nhưng hầu ý can ngăn việc truyền giáo. Nhân được lệnh lần thứ ba, Cha Kính lên đường về kinh đô. Tại đấy, cha gặp hai thừa sai khác là cha Ta-Be Từ, cũng thuộc thừa sai Paris và cha Ô-Đô-i-ô Phương dòng Phanxicô, đã trình diện vua trước ngài.
Để trấn an hoặc che giấu ác ý, nhà vua đề nghị ban chức quan cho các cha, nhưng các cha từ chối. Cha kính bày tỏ lập trường trong thư gửi về Pháp: ''Tôi nói dứt khoát với ông quan do vua sai tới ban ân huệ cho chúng tôi, tôi cho ông biết chúng tôi sang đây làm gì và chức linh mục cao trọng hơn chốn quan dường nào. Tôi cũng nói rõ chúng tôi bỏ Quê Hương, Gia Đình và tất cả những lợi lộc ở trần gian để chỉ truyền giảng Tin Mừng thì không dễ gì chúng tôi từ bỏ nhiệm vụ này. Tuy nhiên, công việc nào cũng có thể dung hòa với nhiệm vụ của chúng tôi thì chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ nhà vua".
HIẾN MẠNG VÌ ĐOÀN CHIÊN !
HIẾN MẠNG VÌ ĐOÀN CHIÊN
"Người mục tử nhân lành hiến mạng sống cho đoàn chiên'' (Ga 10,11b), đó là lời Đức Chúa GIÊSU đã được thánh Gioan ĐẠT đem ra thực hành một cách tuyệt hảo. Đang khi quân lính truy bắt, cha có thừa cơ hội trốn thoát, nhưng vì thương các vị tín hữu đang bị tra khảo, thấy quân lính tàn nhẫn đánh đập họ vì mình, cha đã tự nguyên ra trình diện.
Gioan ĐẠT mở mắt chào đời năm 1765 tại làng Khê Cầu, xứ Trung Lương (Đồng Chuối), huyện Bình Lục, Hà Nam; tuộc giáo phận Tây Đàng ngoài.
Mồ côi cha từ nhỏ, cậu Đạt xin mẹ để hoàn toàn hiến dâng cho chúa dưới sự chăm sóc đầy tinh thương của cha Loan xứ Đồng Chuối. Năm 18 tuổi cậu vào chủng viện, sau đó, đi giúp xứ một thời gian. Đến năm 1798, thầy mới thụ phong linh mục. Cha Gioan Đạt được phái đến xứ Hảo Nho, Thần Phù. Vị tân linh mục hết sức lo lắng cho tín hữu nên được mọi người yêu quí. Cha Tổng Đại diện Tây đằng ngoài nhận xét: ''Cha Đạt có nhiều nhân đức, nhất là nhân đức phục vụ và khó nghèo, cha luôn chu toàn bổn phận, nên Đức cha và các vị thừa sai đều quí mến. Lời cha giảng có sức mạnh đặc biệt, có sức thuyết phục lòng người".
Mới thi hành tác vụ linh mục được 6 tháng, Vua Cảnh Thịnh ra sắc lệnh bách đạo gắt gao hơn trước. Quan trên ra lệnh cho quân lính tầm nã các tín hữu, nhất là các đạo trưởng. Cha Đạt phải lên rừng một thời gian. Khi thấy tình hình có vẻ lắng dịu, cha thường lén về giáo xứ ban phép bí tích.
Một hôm cha vừa hoàn tất lễ an táng tại tư gia thì quân lính ập đến. Giáo hữu đưa cha ra sau nhà chỉ lối cho cha thoát thân. Thế nhưng cha không đành lòng bỏ rơi họ mà ra đi; vì khi đó, quân lính đã tìm thấy chén thánh và áo lễ, nên tra tấn chủ nhà và ông trùm cùng với và một số tín hữu khác. Như Đức Giêsu xưa đã yêu cầu dân Do Thái để các tông đồ được an toàn, cha cũng tình nguyên ra trình diện. Ngài nói:
- Vẫn biết tôi có thể trốn thoát, nhưng như thế anh chị em sẽ khổ nhiều.
Quân lính trói cha lại, rồi đánh đập tàn nhẫn cùng với thầy Tâm và ba vị trong ban trực thuộc giáo xứ. Các giáo hữu ở đó định cậy đông dùng sức mạnh giải vây cứu cha, nhưng cha biết ý, can họ lại:
- Cứ để tôi vâng theo Thánh ý Thiên Chúa, anh em ở lại bình yên, kiên trung giữ đạo và xin cầu nguyện cho tôi được vững vàng đến cùng.
Trên đường áp giải cha về Thanh Hóa, khi đi ngang qua làng Kẻ Dừa, có người cầm nón đưa cho cha đội, nhưng quân lính không cho. Hai tháng tù tại Đinh Đang, cha Đạt làm mọi người bỡ ngỡ, vì thấy cha trong hoàn cảnh đó mà vẫn bình tĩnh vui vẻ. Khi các tín hữu đến thăm và khóc thương, cha nói chuyện vui cho họ bớt ưu sầu và an ủi khích lệ họ. Cha nói:
- Tử đạo là phúc cao trọng, An Nam ta chưa được mấy người. Nếu được tử đạo, tôi mừng lắm.
Lương dân sống gần trại cũng cảm mến thương cha. Một thiếu phụ lòng ngay đưa cho cha một chai độc dược để kết liễu cuộc đời khổ đau trong tù ngục. Cha từ chối và giải thích cho bà biết:
- Người công giáo chân chính dù trong hoàn cảnh nào cũng không chấp nhận việc tự tử.
Đặc biệt cha còn cảm hóa được đám lính canh ngục. Mới đầu họ hay làm khó dễ, cứ mỗi lần đổi ca gác, họ lại bắt các tín hữu đút lót tiền, nếu không họ sẽ hành hạ các tù nhân. Sau thấy được lòng bác ái yêu thương của cha Đạt, đám lính canh đã thấy có lòng thiện cảm và dễ dàng hơn với các tín hữu. Một lần cha bênh vực cho một anh lính ăn cắp nải chuối, giáo dân gửi vào cho cha. Lần khác, cha nói với họ rằng:
- Khi nào tôi được phúc trên trời, tôi sẽ chẳng quên anh em dưới thế!
Ông Thiềng, cai ngục tỏ lòng mến cha một cách đặc biệt. Khi gặp riêng, ông nói với cha rằng: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa tình huynh đệ lắm. Ngặt vì cụ sắp bị kết án xử tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ tôi quí cụ''.
Nhiều lần cha Đạt và các tín hữu bị lôi ra quỳ trước tòa, tay chân mang xiềng xích, cổ đeo gông. Ông Hoàng Đệ là em trai Vua Cảnh Thịnh, đích thân chủ tọa phiên tòa. Ông bắt anh hùng đức tin chối đạo hoặc đạp lên Thập Gía và dù áp dụng nhiều cực hình tra tấn dã man, nhưng ông hoàn toàn thất bại. Có hôm ông cắt nghĩa tấm ảnh phán xét chung, rồi nói cha đạp lên tấm ảnh đó rồi sẽ được tha. Nhưng cha cúi xuống, cầm lấy tấm ảnh và hôn kính cách sốt sáng.
Trung tuần tháng 10, Ông Hoàng đế gọi cha ra công đường tuyên án xử tử. Ông tưởng cha nghe xử án xử tử thì sẽ đổi ý, nhưng không ngờ cha lại tỏ ra hân hoan khác thường. Về trại giam, cha thuật lại cho các bạn từ nghe án xử tử như một tin mừng để được đến với Chúa. Cha Huấn, xứ Bạch Bát, giả làm cụ đồ bạn cũ đến thăm giải tội và đem mình Thánh Chúa cho cha.
Đúng ngày hành xử, trời mưa như trút, Cha Đạt, cổ đeo gông nặng trĩu, phải lẽo đẽo chạy thao lính dưới cơn mưa tầm tã ra pháp trường Trịnh Hà. Tại đây, giáo dân trải chiếu hoa, cha quỳ xuống cầu nguyện. Khi quan cho phép, các tín hữu ùa đến bên cha lãnh phép lành cuối cùng. Cha khuyên họ:
- Là Kitô Hữu, chẳng chúng ta phải vâng lệnh vua, quan trong những điều hợp lý, nhưng trước hết, phải tôn trọng lề luật Chúa.
Một hồi chiêng nổi lên, mọi người phải lùi ra xa. Lý hình vung gươm kết liễu một đời vị linh mục trẻ đầy nhiệt huyết và can trường. Giáo hữu và lương dân đều xúm lại thấm máu vị chứng nhân đức tin. Đó là ngày 28/10/ 1798, khi đó cha Đạt mới có 33 tuổi, với chưa đầy một năm mục vụ linh mục.
Đời sống cha Gioan Đạt là mẫu gương sáng ngời về Tình Yêu. Yêu lý tưởng, cha hiến thân tự hành; và yêu anh em, cha tự nguyên và mộp mình, Yêu Thiên Chúa, cha hiến tế chính mạng sống vô giá không thương tiếc. Thi hài vị tử đạo được đưa về an táng tại nhà thờ Phúc Nhạc-Phát Diệm.
ÔNG QUAN BÊN ĐẠO DƯỚI MẮT ÔNG QUAN BÊN ĐỜI
ÔNG QUAN BÊN ĐẠO DƯỚI MẮT ÔNG QUAN BÊN ĐỜI
Trên đường ra pháp trường, từ nhà ngục Hà Nội đến ô Cầu Giấy, người tù tội ốm yếu bệnh tật với tuổi già 76, bước chẳng nổi nữa . Ông bước lao đao rồi ngã qụy xuống đường. Trước tình cảnh tang thương đó, môt người lính đoạn hành quyết khom lưng cõng tử tội đến nơi xử và được tử tội âu yếm tặng đôi giày của mình làm kỷ niệm. Thấy thế, lính chẳng ngỡ ngàng, dân chúng nghẹn ngào, các tín hữu xúc động cảm mến người hành quyết cõng tử tội đến pháp trường.
Tử tội là linh mục Phêrô Trương Văn Thi.
Phêrô Trương Văn Thi mở mắt chào đời năm 1763 tại làng Kẻ Sở, huyện Thanh liêm , tỉnh Hà Nam. Năm 11 tuổi, cậu được nhận vào nhà Đức Chúa Trời để tu học, tập tành nhân đức, rồi trở thành thầy giảng. Trong chức vụ này, thầy thi luôn chứng tỏ nhiệt tâm tông đồ, đời sống đạo đức. Với khả năng Đời-Đạo, thầy được gửi vào đại chủng viện. Đến ngày 23/3 /1806, thầy lĩnh chức linh mục khi đã 43 tuổi.
Trong 27 năm liền, cha Thi coi sóc xứ Sông Chảy thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Năm 1833, ngài được bổ Chính xứ Kẻ Sông và ở đó đến khi tử đạo năm 1839. Theo lời chứng của các tĩn hữu tại đây, cha Thi là một linh mục: ''Rất nhân đức, mỗi ngày đọc kinh cầu nguyện ba bốn lần, cử hành thánh lễ trang nghiêm, ăn uống đạm bạc, thường ăn chay các thứ sáu, mặc dù sức khòe của ngài yếu kém với chứng đau bụng thường xuyên''.
Linh mục Thừa sai Dăng-tét Khiêm, sau làm Giám mục Tây Đàng Ngoài, đã viết về cha Thi: ''Tôi quen biết ngài từ năm 1835, tôi cảm phụcngài về lòng đạo đức thâm sâu, có tính hiền hòa, khôn ngoan và trung thành giữ lề luật''. Cha sống khó nghèo, ngoài áo chùng thâm, cha mặc áo đồ màu nâu như nông dân nghèo nàn. Ngoài giáo xứ chính, cha còn phụ trách thêm nhiều họ lẻ. Một lần di chuyền trên sông, thuyền của cha bị đắm. người tháp tùng của cha bị chết đuối, còn cha sống sót nhờ bám vào thùng gỗ đựng đồ lễ. Suốt mấy chục năm phục vụ giáo xứ, không hề thấy ai kêu ca, chê trách cha lời nào.
Do chiếu chỉ cấm đạo của vua Minh Mạng, cha Thi luôn hoạt động âm thầm. Được một thời gian khá lâu, bất ngờ vào ngày mùng 10/10/1839, khi cha Dũng lạc ở làng kế cận tìm đến xưng tội, viên lý trưởng người Pháp hay tin, đưa người đến bắt cả hai linh mục. Lý Pháp mặc cả giá tiền chuộc với các tĩn hữu và ngã giá 200 quan. Khi các tĩn hữu mới gom được nửa số tiền, ông chỉ tha một mình cha Dũng Lạc, ai ngờ trên đường về, cha Dũng Lạc lại bị tốp lính khác bắt được. Thế là Lý Pháp không dám cho chuộc cha Thi nữa và cho áp giải về Bình Lục. Giữa đương ông gặp nhóm lính áp giải cha Dũng Lạc, liền nộp cha Thi cho quan huyện từ đó, hai vị cùng chung một số phận tù ngục và cùng chung hưởng vinh phúc vinh quang.
Quan huyện Bình Lục tỏ ra vị nể hai vị linh mục. Riêng với cha Thi, quan ái ngại cho tuổi già sức yếu, nên cư xử lịch thiệp hơn. Ông nói: ''Tôi làm quan bên đời, còn ông làm quan bên đạo''. Dĩ nhiên quan đã hiểu sai về chức vụ của linh mục, nhưng dẫu sao, cũng là bằng chứng của sự kính nể. Biết không thể lay chuyển được lòng tin của hai vị, quan không tra tấn gì cả, chỉ giữ lại ba ngày rồi cho giải về Hà Nội. Như Phi La Tô rửa tay trong vụ án đức Giêsu, viên quan huyện cũng mở cúng bái các thần, thanh minh với mọi người và xin trời đất chứng giám mình vô can trong cái chết của những người vô tội.
Khi hai cha được đưa lên Hà Nội bằng thuyền theo đường sông, các tĩn hữu kéo nhau đi theo rất đông, kẻ đi thuyền người đi bộ trên bờ đê.
Ngày mùng 16/10, thuyền áp giải hai cha cập bến. Hôm sau, quan cho điều hai cha ra công đường và bắt đạp lên Thánh Gía. Cha Thi quỳ xuống nghiêm trang hôn dấu chỉ đấng cứu độ, sau nhiều lần tra hỏi, quan thấy không có cách nào khuất phục hai vị linh mục liền lên án xin vua trảm quyết.
Trong khi trờ đợi vua phê án, cha Thi biết dõ số phận hồng phúc của mình, cha chuẩn bị đón nhận ơn phước tử đạo. Cha gia tăng cầu nguyện và hãm mình. Cha ăn chay các ngày thứ 2, tư, sáu, và thứ 7. Bệnh tật gông cùm (dù cha chỉ phải mang gông nhẹ) và chay tịnh làm cho sức khỏe của cha ngày càng sa sút. Linh mục thừa sai Dăng-tét Khiêm viết thư vào đề nghị cha giảm bớt khổ chế đi, nhưng cha vẫn không thay đổi.
Ngày 21/12/1839, lần thứ hai khi cha Trân đưa mình Thánh vào, cha Thi liệt gường, phải nhờ cha Dũng Lạc trao Thánh Thể. Không ngờ chính hôm đó lại là ngày cuối cùng của cuộc đời dương thế của các ngài, bản án chuẩn tâu và vua đã phê chuẩn cũng về tới. Quân lính dẫn hai cha ra pháp trường. Trên đường cha Thi không còn sức đi nữa, nên một người lính đóng vai Simon cõng cha đến thụ án.
Quảng đường cuối của cha Thi, đôi giày là kỷ vật tặng cho người lính, hình ảnh một "Simon Xirênê Việt Nam cõng tử tội ra pháp trường...", làm sao có thể diễn tả hết ý nghĩa của những điều đó. Phải chăng hình ảnh đó có thể khái quát được bảo tàng của Giáo hội Việt Nam thời khai nguyên? Phải chăng điều đó xóa đi đố kỵ còn sót lại đến ngày hôm nay? Và phải chăng hình ảnh đó ch phép ước mơ một xã hội với tương lai sáng lạn hơn, khi mọi người vượt qua trở ngại để đối xử với nhau bằng trái tim yêu thương?
Giáo hữu thấm máu hai vị tử đạo, thâu lượm các kỷ vật rồi đưa thi hài các ngài về Kẻ Sở dâng lễ an táng cách trọng thể.
DÂNG MÌNH CHO CHÚA VÀ CÁC CON CHO NGÀI
DÂNG MÌNH CHO CHÚA VÀ CÁC CON CHO NGÀI
Hai mưoi năm tuổi đời, một vợ và ba đứa con, đó là ưu tư trăn trở của anh Tôma Đệ những ngày bị giam trong ngục. Không thể bỏ đức tin, nhưng tương lai của người vợ và những đứa con dại thì ra sao? Trong nhiều ngay suy nghĩ và tha thiết cầu nguyện xin Chúa soi sáng. Cuối cùng anh tìm được an vui trong tâm hồn, phó thác tất cả trong tay Chúa quan phòng. Anh nói với người vợ đến thăm:
"Đừng khóc mình ạ! Mình hãy về dạy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phụng Chúa. Tôi đã dâng mình và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho tôi được thêm sức mạnh để nhẫn nại đến cùng"
Sinh ra trong một gia đình công giáo tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình, năm 1811, Tôma Nguyễn Văn Đệ vì lý do sinh kế, theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề thợ may và được mọi người yêu mến. Anh rất nhiệt tình với việc trong giáo xứ. Hầu hết cờ quạt, đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh. Khi kinh tế gia đình ổn định, anh lập gia đình, ra ở riêng và sinh hạ được ba người con.
Ngày 29/6/1838, quân lính đến vây làng Kẻ Mốt và ép buôc mọi người trên 18 tuổi phải đạp lên Thánh Gía, anh lẩn trốn phía sau nhà. Đến khi quân lính xống xộc, xông vào nhà lùng bắt, anh biết mình không thể tránh được nữa, liền giã từ vợ, dặn đưa con về bên ngoại, ôm hôn từng đứa, rồi ra trình diện. Đến trước Thánh Gía, anh Đệ quỳ xuống cầu nguyện lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa! Sẽ không bao giờ con bước qua mặt Ngài!".
Quân lính áp giải anh Tôma Đệ cùng với cha Tự, ông trùm Cảnh, hai thầy Uy và Mậu anh Mới, Vinh về giam tại Bắc Ninh.
TẤM LÒNG NGƯỜI TU SĨ ÁO TRẮNG
TẤM LÒNG NGƯỜI TU SĨ ÁO TRẮNG
Ai ơi giữ lấy túi khôn,
Đầy tràn tin cậy đầy lòng mến yêu.
Gươm đao đe dọa dẫu nhiều,
Qủy ma cám dỗ sớm chiều lẻ loi,
Ai mà thắng nổi trên đời,
Mai sau hưởng phúc cõi trời cao sang.
Đó là những vần thơ lục bát do thánh Đa Minh Xuyên sáng tác trong tù, vừa diễn tả tâm tình của mình, vừa khuyên nhủ các tín hữu đến thăm. Những vần thơ ngắn gọn, nhưng cô đọng trọn vẹn triết lý sống của vị tử đạo, lòng tràn đầy tin yêu, vượt qua mọi gian khổ để chiếm đoạt vinh quang nước trời.
Đa-Minh Nguyễn Văn Xuyên có tên thật là Doãn, sinh năm 1786 tại làng Hương Hiệp, tỉnh Thái Bình. Thấy có trí thông minh, cha mẹ cho cậu học chữ nho, rồi gửi gấm cậu cho đức cha Đengađô Y dạy bảo. Được Đức cha nhắc nhở, cậu Xuyên chăm chỉ học hành, nhất là học bài giáo lý. Lớn lên, ngài cho Đa Minh Nguyễn Văn Xuyên vào Đại chủng viện và trao ban chức linh mục năm 1819. Ngày 20/4 năm sau, cha Xuyên tuyên khấn trọn đời trong dòng thánh Đa Minh.
Từ đó, cha rất nhiệt tình phục vụ giáo hữu, không ngừng đi nhiều nơi giảng, tĩnh tâm, dạy giáo lý, sốt sáng cử hành phục vụ bí tích.
Trước tiên, cha Xuyên coi xứ Phạm Pháo, tỉnh Nam Định, rồi về xứ Kẻ Mèn, Thái Bình trong ba năm. Tại đây, ngài lập họ đạo mới, họ Thanh Minh, chọn Thánh Vinh Sơn làm bổn mạng. Sau cha phụ trách xứ Đông Xuyên 13 năm. Thời gian này, nơi đây là bản địa khởi nghĩa của Phan Bá Vành, lại bị hạn hán kéo dài nên dân đói nghèo khổ sở. Có lần cha dốc cạn túi để giúp đỡ họ, có lần cha nhường phần cơm của mình... Bao giờ cha cũng để một ngân khoản riêng làm việc bác ái, từ thiện.
Cuối năm 1836, cha được bổ nhiệm làm cha phụ tá cha Phécnăngđơ Hiền tại chủng viện Ninh Cường giữa lúc cuộc bách hại của vua Minh Mạng gay gắt. Năm cha về quản lý Đông Đàng ngoài, giúp Đức cha Đengađô Y, khi Đức cha phải lưu lạc về Kiên Lao rồi bị bắt thì cha Xuyên vừa tìm chỗ ẩn trốn, vừa giúp xứ Hạ Linh. Tuy phải lang thang nay nhà này mai nhà khác, cha cũng phục vụ tín hữu ở đây được khoảng một năm. Ngày 18/8, cha đến cử hành Thánh Lễ mừng thánh Gioan Kim, một giáo viên trước có dạy ở Bùi Chu biết tin liền đi báo quan kiếm chút tiền thưởng.
Cha Xuyên dâng lễ gần xong, nghe tiếng loa gọi của quân lính, cha vội rước hết Mình Thánh, rồi cởi áo lễ ra trốn. Nhưng không kịp nữa, quân lính đã tóm bắt cha và dẫn đến quan phủ.
Quan phủ cười nói: "Đưa đây một số bạc, ta tha cho về!".
Cha trả lời: "Tôi chẳng có đồng nào trong người, nếu quan thương cảm tôi cảm ơn, nếu quan bắt tôi xin chịu".
Về sau giáo hữu Hạ Linh góp tiền đến chuộc, nhưng quan phủ không dám tha nữa vì trên tỉnh đã biết.
Khi nghe thuật lại chuyện, cha Xuyên an ủi họ: "Anh em hãy để tiền lo cho giáo xứ mình thì hơn, đừng tốn tiền chuộc làm chi cho vô ích. Ý chúa đã muốn, chẳng ai làm khác được. Anh em cứ bình an về nhà, nhớ cầu nguyện cho tôi chịu khó cho nên". Thế rồi cha mang gông nặng về Nam Định.
Biết cha quản lý Tòa giám mục, Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh không những bắt cha bỏ đạo mà còn muốm khai thác các tài sản giáo phận. Lần đầu tiên khi ra lệnh đánh đòn, Tổng Đốc đứng ngay bên thúc giục:
- Đánh mạnh hơn cho đến khi nó chịu khai và xuất giáo
Người chiến sĩ đức tin chỉ biết kêu tên Đấng Cực Trọng: "Giê Su , Maria xin cứu con!" cho đến khi bất tỉnh phải khiêng vào ngục.
Những lần ngài cắn răng chịu đựng không kêu một tiếng, cũng chẳng tiết lộ điều gì về giáo phận. Quan Tổng Đốc cho dùng cực hình dã man, rùng rợn hơn nhiều nhưng cha can đảm gắng sức nói thẳng với quan rằng:
"Dù sống hay chết, tôi cũng không bỏ đạo. Tôi chọn cái chết để sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu mà muôn đời bị tiêu diệt''.
Nhiều lần quá đau đớn bị ngất xỉu giữa cuộc tra tấn. Sợ quản lý giáo phận chết sớm, không khai thác được gì, quan Tổng đốc sai lính đưa về ngục, cho mời lang y đến chữa trị để mong biết được nhiều tài sản mà ông tưởng là vô số. Đến khi cha Xuyên bình phục, quan lại đưa ra tra khảo nữa, nhưng ông phải thất vọng vì thực chất giáo phận chẳng có gì mà khai; mặt khác, chẳng bao giờ cha khuất phục, bỏ đạo.
Ngày 25/10, quan Tổng đốc lập án trảm quyết gửi về kinh đô. Tháng sau bản án của cha Xuyên và cha Dụ trở lại Nam Định. Những ngày cuối, hai cha bị giam chung một phòng, tay bắt mặt mừng, xưng tội với nhau, an ủi khích lệ nhau vững chí cho đến cùng.
Ngày 26/11/1839, hai cha bị dẫn đi xử. Giữa đám lính đông đảo võ trang, voi ngựa, hai vị chứng nhân Đức Kitô đi bộ mang gông, nhưng bình an vui vẻ, dân chúng đi xem đều bỡ ngỡ và thán phục. Đến pháp trường, quan hỏi lại có xuất giáo không, hai vị trả lời ''Không!'', rồi đưa tay cho lính trói vào cọc đã chôn sẵn.
Hai nhát gươm cùng vung lên, hai tôi tớ chúa được lãnh Triều thiên Tử Đạo, tiến thẳng về nước Trời. Cha Xuyên với 53 tuổi đời, phục vụ trong Chúa chức vụ linh mục được 20 năm. Thi thể ngài được an táng ngay tại đó. Tháng giêng năm 1841, tín hữu cải táng hai hài cốt ngài về Lục Thủy.
TÔI TRUNG KHÔNG THỜ HAI CHỦ
TÔI TRUNG KHÔNG THỜ HAI CHỦ
"Tôi trung không thờ hai chủ" lời cuối cùng phát ra từ miệng Thánh Phanxicô Nguyễn Cần đã tóm tắt cuộc đời của thầy, một người tôi trung, sống trung thực với suy nghĩ của mình, trung tín với giáo lý tin mừng và cuối cùng đã trung kiên vượt qua mọi thử thách, xứng đáng nhận lời chúc phúc: "Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh" (Mt 25,21).
Phanxixô Cần còn có tên thật là Nguyễn Tiên - tức Tiên Truật, sinh năm 1803, tại xã Sơn Miêng, huyện Phú Xuyên, Phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, Hà Nội. Từ niên thiếu, cậu Cần đã ước ao dâng mình cho Chúa, nhưng mẹ cậu vì thương nhớ, không muốm xa con, nên từ chối. Cậu phải nói với mẹ: "Nếu mẹ không bằng lòng cho con ở với cha xứ nhà, con sẽ trốn đi, ở với cha xứ khác". Thế là bà mẹ cũng phải chiều ý cậu ở với cha Nghi, chánh xứ Sơn Miêng.
Nhờ đức hạnh tốt và siêng năng, cậu được vào chủng viện, trở thành thầy giảng, được đi giúp Đức Cha Hava Du, rồi cha Rơto Liêu (1838 lên chức giám mục, gọi là Đức Thầy Liêu ). Cha Liêu đã nhận xét thầy Cần: "Thầy giúp tôi học tiếng việt, chia sẽ với tôi mọi khó khăn, hiểm nghuy thiếu thốn. Thầy rất nhiệt tâm trong việc tông đồ".
Ngày 19/4/1836, cha Liêu nhờ thầy đi mời cha Tuấn về xứ Kẻ Chuông giảng, chuẩn bị Lễ Phục Sinh. Nhưng khi thầy đến xứ Kẻ Vác, nơi cha Tuấn ở thì bị bắt. Quân lính bèn đem dấu ảnh tượng vào túi sách của thầy để có chứng cứ cụ thể. Thầy bị giải về huyện Thanh Oai và tống vào ngục.
Trước công đường, quan nói thầy đừng tin vào các đạo trưởng và hãy đạp lên ảnh đạo, quan sẽ tha cho về nuôi mẹ già. Thầy Cần trả lời: "Thưa quan , tôi chưa thấy các đạo trưởng lừa rối ai bao giờ, còn mẹ gìa tôi không lo, tôi xa nhà đã lâu chẳng giúp gì cho bà". Sau đó quan dùng nhiều lời phê phán, lăng mạ về đạo, thầy bình tĩnh rồi giải thích trình bày về "10 Điều Răn Của Thiên Chúa" và "6 Luật Điều Hội Thánh" dạy, thầy kết thúc bằng lời nguyện tự phát rất cảm động, mọi người ở đó đều cảm phục. Quan tuyên bố kết thúc phiên tòa, đưa thầy về trại giam. Nhưng quan nói nhỏ với những người đứng bên: "Anh này nói có lý. Những giới răn và kinh nguyện của anh chứa đựng nhiều điều tốt lành, có lẽ tôi còn dễ hiểu hơn bản "tập điều" của nhà vua nữa''.
Phần cha Liêu, ở nhà rất buồn, cha tìm mọi cách để cứu mạng thầy Cần. Cha cho người mang tiền theo thân mẫu thầy lên huyện để chuộc. Mới đầu, quan đòi 300 quan, sau tăng lên 500, rồi 600, vượt qua con số dự trù, có lẽ vị quan đó không dám cho chuộc thì đúng hơn. Thầy Cần an ủi mẹ: "Xin mẹ đừng lo cho con, con đã ước ao tử đạo từ lâu, xin mẹ chỉ cầu nguyện cho con là đủ".
Có nhiều người tỏ lòng thương hại thầy Cần. Quan khuyên thầy bước qua Thập Gía, thầy cương quyết từ chối. Lính khiêng thầy lên đặt vào ảnh Chúa, thầy ôm chặt lấy Thánh Giá và la lên: "Tôi không đạp lên ảnh Chúa đâu''. Một số giáo dân bỏ đạo nói: "Tội nào Chúa chẳng tha, Phêrô chối Chúa ba lần mà con được làm thủ lãnh Giáo hội''. Người khác lừa dối, cha Liêu nhắn thầy cứ bước qua Thập Gía, rồi sẽ liệu sau. Họ còn đe dọa Nếu thầy không nghe quan sẽ làm khổ cả làng đó. Nhưng tất cả đều không xoay chuyển nổi ý chí sắt đá của vị chứng nhân Đức Kitô. Thầy quả quyết: "Dù thiên thần xuống bảo tôi bỏ đạo, tôi cũng chẳng tin. Dù kính trọng cha Liêu, tôi không thể sai lạc điều đó được. Hơn nữa, tôi biết chắc ngài không ra lệnh cho tôi làm như vậy. Còn với giáo dân, tôi thương mến thật, nhưng cũng không vì họ mà xúc phạm đến Chúa''.
Những người ngoại đạo nói với nhau: "Gía như đạo mình bị cấm, chắc chúng ta bước qua tượng ảnh trăm lần... Tượng đồng, ảnh giấy có chi mà sợ". Thấy không thể lay chuyển được tôi trung của Chúa Kitô. Quan cho giải thầy Cân lên Hà Nội
THÁNH PHAO-LÔ NGUYỄN VĂN MỸ
THÁNH PHAO-LÔ NGUYỄN VĂN MỸ
Là người lớn tuổi nhất, thầy Phaolô Mỹ như người anh cả và là chỗ dựa cho hai thầy cùng bị giam chung. Trong một bức thư gửi cho linh mục thừa sai Mac-rét, thầy Đường viết:
"Từ ngày được diễm phúc chịu khó về đức tin, thầy Mỹ thay chúng con viết thư cho cha. Vì chúng con coi thầy như thay mặt cha ở giữa chúng con...''
Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chào đời năm 1789 ở làng Kẻ Non, con gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo giúp việc cha Gia-cô-bê Long-dơ Gia, sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến năm 19 tuổi, cậu theo học tại chủng viện kẻ Vinh (Vĩnh Trị).
Khi làm thầy giảng thực sự, thầy Mỹ được gửi đến giúp linh mục thừa sai Ma-rét. Ít lâu sau, Đức cha Ha-va Du làm giám quản giáo phận Tây Đàng Ngoài, đã chọn thầy phụ việc linh mục Cốt-nây Tâm, xứ Bầu Nọ, tỉnh Sơn Tây.
Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thầy Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho vị thừa sai trẻ tuổi đầy nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề này. Thầy Mỹ luôn hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: từ dạy giáo lý tân tòng và trẻ em, đến khuyên bảo các tội nhân hối cải. Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thầy là vị tông đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm viếng từng gia đình tín hữu để khích lệ các tín hữu sống đức tin và còn hơn thế, đưa nhiều người ngoại giáo về đón nhận niềm tin Kitô Giáo.
HÃY NHÌN XEM MÁU TÔI CHẢY RA KÌA
HÃY NHÌN XEM MÁU TÔI CHẢY RA KÌA
Trong một phiên tòa năm 1836, viên quan xúc động trước người tù trẻ tuổi với dáng giấp thư sinh nho nhã, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, với tương lai đầy hứa hẹn, ông nói với anh thật dịu dàng:
- Nếu con bỏ đạo, ta sẽ gả con gái cho và lo liệu cho con làm quan
Chàng thanh niên trẻ tuổi ấy là Tôma Trần Văn Thiện đã thẳng thắn trả lời:
- Tôi chỉ mong chức quền trên trời, chứ mang chi danh vọng trần thế
Tuy mới 18 xuân xanh, lứa tuổi yêu đời ham sống, chưa nếm nùi đau khổ cuộc đời, cũng chưa học tập thâm sâu về giáo lý, anh Tôma Thiện mới vừa tới ngưỡng chủng viện, đã ứng phó khéo léo trước bạo lực, đâu thua kém gì với các chiến hữu đức tin nào khác trên toàn cầu. Quả thực, anh đã thấu hiểu Đức Kitô: "Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì" (Mt 16,26).
Chú Thiện, như người đương thời quen gọi các chủng sinh, sinh năm 1820 trong một gia đình đạo hạnh làng Trung Quán, tỉnh Quảng Bình.
Nữ tu Ma-đa-lê-na Yến, một nhân chứng sống cùng thời thuật lại rằng: "Chú thiện có một người dì, gọi là dì Nghị, làm bà nhất nhà phước Trung Quán. Chú thường lui tới thăm dì và tỏ ra rất ngoan ngoãn, nhu mì, lễ phép. Khi linh mục đến dâng lễ ở họ nhà, chú quỳ lễ một cách nghiêm trang. Lên tám, chín tuổi, chú bằt đầu học chữ Nho, tỏ ra thông minh bền chí và tiến bộ rất nhanh. Có lần chú đi dự lễ cùng dì ơ họ Mỹ Lương, sau lễ vào chào các linh mục, các cha thấy cậu bé khôi ngô, hiền lành đều hỏi: "Con có muốm ở chú (đi tu) với cha không?" Cậu Tôma Thiện chẳng thưa gì. Nhưng, chỉ ít lâu sau, người ta thấy chú thường xuyên ở nhà cha Chính, họ Kẻ Sen. Vị linh mục này đã dạy tiếng la tinh cho chú nhiều năm..."
Nhờ tính tình hiền lành và chí thông minh, năm 18 tuổi (1838), chú Thiện được giám đốc Can-đa Kim gọi về chủng viện Di Loan, Quảng Trị. Nhận được tin, chú Thiện cùng với người chị tên Sao hăng hái lên đường. Dọc đường hai chị em gặp nữ tu Yến từ Di Loan về cho biết cha bề trên Can-đa Kim đã phải trốn và quan lính đang lùng bắt, rồi khuyên hai chị em đừng đi nữa, nhưng chú Thiện tỏ ra cương quyết:
-Dẫu không gặp cha bề trên, con cũng phải đến tận nơi để biết rõ cụ thể. Cha đã gọi, không lẽ chưa đến nơi đã bỏ về!
Tới chủng viện, hai chị em trình diện với cha Tự. Ngài nói:
- Chúng tôi lo trốn chưa xong mà chị còn dẫn em đến, chỉ làm khó khăn thêm cho chúng tôi thôi!
Chị Sao đáp:
- Thưa cha em con nhờ con dẫn đi, vì có giấy cha bề trên gọi. Chúng con không biết cuộc bắt đạo lại xay ra bất ngờ như thế!
Hai ngày sau, quân lính bao vây làng Di Loan , lục soát từng nhà. Không tìm thấy cha Kim, vì người đã trốn lên rừng, họ bắt một số giáo dân, trong đó có chú Thiện và giải về Quảng Trị.
Quan tỉnh Quảng Trị nghe nói chú Thiện là chủng sinh của cha Kim, nên truyền hỏi cặn kẽ xem cha Bề Trên trốn ở đâu. Quan khuyên chú Thiện chối đạo, nếu không chú Thiện sẽ bị chết. Chú Thiện thành thật trả lời:
- Tôi quê ở Trung Quán, Quảng Bình, đến tìm thầy học đạo, Đạo dạy tôi thờ Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo!
Quan tỏ ra khoan nhượng khuyên nhủ chú Thiện nhiều lần, nào là tuổi nhỏ, tương lai còn nhiều triển vọng, nào là sẽ thăng quan tiến chức nếu bỏ đạo. Hơn thế nữa, quan còn muốm chú làm con rể mình và đứng ra lo liệu cưới xin. Nhưng chú Thiện đã từ chối: "Tôi chỉ mong chức quan trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế!".
Lời khẳng khái ấy không phải ai cũng thốt ra được. Trong số những người bị bắt, nhiều người tỏ vẻ luyến tiếc cho chú có "cơ hội ngàn vàng". Chàng trai có dáng vóc thư sinh nhưng lại có tính kiên cường, khiến quan phải ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên đến tức giận, vì dám xúc phạm đến sự "bao dung" và lòng ưu ái của mình, thế là ông truyền đánh đòn chàng 40 roi; đòn quất trên thân thể gầy yếu, máu chảy ra y phục, nhưng vị chứng nhân không lay chuyển, vẫn gan dạ mỉm cười nói: "Hãy nhìn xem máu chảy ra kìa!".
Thấy chú can đảm hơn người, quan truyền đóng gông xiềng, giam chú Thiện vào ngục.
NHẤT ĐỊNH CHÚNG TÔI KHÔNG ĐẠP LÊN ẢNH CHUỘC TỘI
NHẤT ĐỊNH CHÚNG TÔI KHÔNG ĐẠP LÊN ẢNH CHUỘC TỘI
"Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội,
vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hôn và thể xác''
Lới nói trên cho ta thấy tâm tình của Thánh Phêrô Đường, vị thầy giảng đã 20 năm dâng minh cho Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho chính mình và tha nhân.
Sinh năm 1808 tại làng Kẻ Sở, xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đình Phêrô Đường tuy nghèo, nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được người cậu là cha Trương Văn Thị phụ trách xứ Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi chú Đường lên 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đã nhận khai tâm cho chú vào đời sống tu trì. 15 tuổi, anh Phêrô Đường đã được gửi giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền linh mục thừa sai Ma-rét. Với sự khích lệ của cha, anh chuyên tâm học chữ hán và la tinh để chuẩn bị cho tương lai.
Khả năng và nhân cách của anh Phêrô Đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được Đức Cha Ha-va Du nhận vào bậc thầy giảng dù mới 16 tuổi, thầy giảng trẻ tuổi nhất. Thầy tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ, thời gian cha Cốt-nây Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành, thầy được mọi người trong xứ mến chuộng.
KHÔNG SỢ CŨNG CHẲNG HỐI TIẾC
KHÔNG SỢ CŨNG CHẲNG HỐI TIẾC
"Thưa quan! Nếu quan muốn được sự sống bất diệt, xin quan kính lạy Thánh Gía này!"
Vị anh hùng Kitô Giáo khi bị ép buộc bước qua Thập Gía, đã bình tĩnh hiên ngang giảng về Thập Gía cho chính viên quan đang tra khảo mình, đó là thánh Đa Minh Trạch.
Chào đời năm 1793 tại họ Ngoại Vối, tỉnh Nam Định (xứ Ngoại Vối), Đa Minh Trạch vào ở với cha xứ từ bé. Trong thời vua Gia Long, cậu có hoàn cảnh được học hành đầy đủ chương trình ở chủng viện và thụ phong linh mục năm 30 tuổi. Năm sau, cha xin vào dòng Đa Minh và tuyên khấn ngày 3/6/1825.
Những người làm chứng trong hồ sơ phong Thánh ca tụng cha Trạch sống nghiêm ngặt và hết lòng sống lề luật dòng. Tuy mang trong mình chứng bệnh lao phổi nan y, cha vẫn giữ luật ăn chay hãm mình và chu toàn mọi cộng tác. Cha coi sóc xứ Quần Cống, rồi về Lục Thủy để dưỡng bệnh và kiêm nhiệm việc linh hướng cho các chủng sinh. Năm 1839, cha bị bắt ở Ngọc Cục, nhưng dân làng họ bỏ ra 200 quan để chuộc cha về. Từ đó, cha ở nhà ông lang Thiện và ông trùm Bảo ở Trà Lũ.
Ngày 14/8/1840, khi xuống thăm hai linh mục Vinh và Thản ở Ngưỡng Nhân, cha bị quân lính phát hiện. Do tình trạng bệnh hoạn, sức yếu chân chậm, cha không kịp chạy trốn, trên đường về Tử Liêu, cha bị bắt và giải về phủ Xuân Trường. Sau một thời gian bị tra khảo ở đấy, cha Trạch được chuyển về ngục thất tỉnh Nam Định.
Sự hiện diện của cha trong ngục là niềm vui khích lệ cho nhiều Kitô hữu, cả những phạm nhân khác đang bị giam trong đó. Mặc dù sức đã kiệt, cha Trạch vẫn cố gắng an ủi, khuyên nhủ và giải tội cho họ. Đặc biệt, cha giúp thầy Tôma Toán, sau khi đạp lên Thánh Gía lần thứ hai thống hối trở về với Chúa và can đảm chịu tử đạo. Cha kêu mời anh em cùng cầu nguyện, nhất là đọc kinh Mân Côi. Khuôn mặt cha lúc nào cũng vui vẻ, cha thường nói:
"Tuy tôi thể lực yếu đuối, nhưng mà vì đạo mà bị bắt, tôi chẳng sợ gì, cũng chẳng hối tiếc 'chi!"
Ra tòa lần nào cha cũng bị vặn hỏi về linh mục Héc-mô-xin-la Vọng dòng Đa Minh, vị thừa sai Tây Ban Nha mà quan tưởng là người cuối cùng chưa bị bắt. Quan còn hứa trả tự do nếu như cha chịu bước qua Thập Gía và đe dọa: "Hãy nhìn cây Thập Gía kia, một là bước qua, hai là chết''. Cha Đa Minh Trạch không trả lời ngay, tự động quay xuống hôn kính Thập Gía rồi quay về phía quan và nói: "Thưa quan, Thánh Gía là giường Chúa Giê-Su đã nằm chết thay cho nhân loại, nếu quan muốn sự sống đời đời, xin quan kính lạy Thánh Gía này, tôi thà chết chứ không bước qua Thập Gía".
Nghe vậy quan tổng đốc tức giận tát vào mặt nhà thuyết giáo, rồi đấm đá túi bụi. Quan bắt lính cầm hai đầu gông khiêng cha qua Thập Gía, nhưng cha co chân lên mặc cho lính đành đập tàn nhẫn. Vừa mỏi mệt vừa thất vọng, vừa phẫn nộ điên cuồng, các quan đồng thanh kết án cha. Ngày 18/9/1840, bản án được vua Minh Mạng chuẩn phê ra tới Nam Định và được thi hành ngay tức khắc. Quan cho cha Trạch một cơ hội ân xá cuối cùng nếu bước qua Thập Gía, nhưng cha từ chối.
Khi sắp rời ngục đi xử, cha tạm biệt các cha Ngân, Nghi, Thịnh thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài cùng bị giam tại đó. Như một người xác tín sắp được vào Thiên Quốc Vĩnh Cửu, cha nói: "Các cha ở lại để tôi đi trước!".
Dân chúng hiếu kỳ theo ngài ra pháp trường đông như xem hội. Đến nơi xử, lính tháo gông cho cha. Sau đôi phút cầu nguyện, cha Trạch đưa đầu lãnh nhát gương tử đạo tiến về nước Hằng Sống. Thi thể ngài được an táng tại chỗ.
CHA DƯỚI ĐÁT, CHA TRÊN TRỜI
CHA DƯỚI ĐẤT, CHA TRÊN TRỜI
'' Thưa quan, tôi kính Thiên Chúa như thượng phụ, kính vua như chung phụ và kính song thân như Hạ Phụ. Không thể nghe lời cha ruột mà hại vua, tôi không vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được''.
Vị tử đạo có những lời phân tích mạnh lạc quan niêm về trung, hiếu của giáo hữu Việt Nam như trên la một linh mục dòng thuyết giáo: cha Phê-rô Nguyễn văn Tự.
Sính quán tại Ninh Cường, huyện Nam Chân, tỉnh Nam Định năm 1796. Cậu Phê-rô Tự dâng mình cho Chúa từ thiếu nhiên. Năm 1826, thầy thụ phong linh mục, sau đó xin vào dòng Đa Minh và được cha chính A-man-đi Chiêu nhận lời khấn ngày 4/1/1827. Suốt 12 năm đời linh mục, cha Phê-rô là một tu sĩ gương mẫu và là cha truyền giáo nhiệt thành. Hồ sơ phong thánh ghi nhận cha luôn tận tụy với công việc, không quản ngại khó khăn, luôn đối xử hòa nhà và rất mực yêu thương mọi người.
Năm 1838, cha Tự được cử phụ trách xứ Đức Trai còn gọi lả Kẻ Nốt, thuộc tỉnh Bắc Ninh. Lúc này cuộc bách hại của vua Minh Mạng kha gay cấn, nên cha phải thi hành tác vụ của mình lén lút. Một thân hào tên Quang đã cho cha đến trú ẩn vườn nhà ông. Mỗi sáng cha dâng lễ trong vườn đó. Ngay29/6, khi quân lính kéo đến bao vây làng Kẻ Nốt để bắt cha Tự, thì được anh chị em tĩn hữu đưa lánh sang làng bên. Nhưng quân lính sau khi lục soát, tìm thấy áo lễ và chén dâng lễ của cha, tập chung dân tra khảo và đánh đập. Nhiều tĩn hựu đã chịu đựng không tiết lộ nơi ở của Cha, đến lượt ông Ninh mới bị dọa đánh đã khai ra chỗ cha đang trú ẩn. cùng bị bắt với cha Tự có mấy thầy giảng dòng Đa-Minh Uý, dòng bà Đa Minh 26 tuổimột trợ tá đắc lực của ngài.
Khi bị giải về huyện Lương Tài, quan huyện ngỏ ý đòi vị linh mục nộp tiền chuộc, nhưng Cha bình tĩnh trả lới: '' Đối với tôi, bị bắt vì đạo là một hồng ân mà Thiên Chúa ban, tiền bạc thì tôi không có, còn phiền giào hữu thì tôi không muốm chút nào''. Đến ngày 3/7, sau khị bắt thêm được bốn ông trùm họ và một số giào sĩ trong vùng, quan cho áp giải về Ninh thái ( thị xã Bắc Ninh ngày nay ).
Sáng hôm sau, quan cho gọi Cha Phê-rô ra hỏi. Ông lịch sự cho mời Cha vào nhà, cho Cha ngồi ghế tử tế, rồi với giọng ngọt ngào, quan yêu cầu khai tên các giào sĩ giáo phận. Cũng bằng giọng lịch sự không kém. Cha thong thả kể tên hai Đức Cha và sáu linh mục, những người đã bị bắt rồi, thế cũng đủ làm cho viên quan gật gù ra vẻ đắc ý lắm. Một tuần sau, ông lại cho mới Cha đến và yêu cầu cằt nghĩa về các đồ thờ, áo lễ, chén lễ của Cha mà họ tịch thu. Cha được dịp giảng giáo lý công giáo cho các quan nghe, bác bỏ các tìn đồ bịa đặt về đạo, về các nghi lễ, cũng như các giáo hữu.
Trong thời gian bị giam tại huyện, bất ngờ Cha Tự thấy trong sổ sách của mình bị tịch thu, có cuốn sổ ghi tên tất cả các gião hữu ở Kẻ Nốt, ngài tìm cách để hủy nó đi, nhưng làm sao bây giờ? vì quân lính canh gác kỹ quá. Cha liền bày kế xin họ một cái chiếu, lấy cớ đắp cho đỡ muỗi, rồi năm trong chiếu, cha nhẩm nha nhai và nuốt hết cuốn sổ ấy. Dĩ nhiên ''món ăn'' này không hợp khẩu vị chút nào, nên mới ăn được hai phần, cha đã thấy rát cả cổ, không thể nuốt nổi nửa, thế là cha đành nhai cho nát và ném xuống gậm gường.
Điều cha đau lòng nhất là thấy những người bị bắt với cha đã đạp lên Thánh Gia1 đê được về. Cha không ngừng nhắc nhở lời Chúa xưa'' Ai chối thầy chước mặt người đời, thầy sẽ chối người ấy chước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời''. (t10,33). Cha nói tiếp: '' Trời đất qua đi, nhưng lời Thiên Chúa chẳng qua'' (Mt5,18), ''Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước thử thách'' (Mt26,41)... Nhưng cha vẫn được an ủi của hai thầy giảng Phan-xi-cô Mậu, Đa-Minh Uý và bốn giáo dân Giu-se Cảnh, Tô-ma Đệ, Au-gút-tin Mới và Stê-pha-nô Vinh. tất cả là hội viên dòng Đa-Minh sau này được vĩnh phúc tử đạo (19/12/1838).
Ngày 27/7/1838, Tổng Đốc Bắc Ninh để án về chiều xin xử giáo Cha Phê-rô và ông trùm Cảnh, còn năm người kia, đánh mỗi người 100 roi, rồi phạt lui họ vào Bình Định. Nhưng vua phúc đáp trên yêu cầu tra hỏi lại, nếu bỏ đạo thì ân xá, nếu không chịu thì xử chém hai vị trên và xử giao năm vị còn lại.
GƯƠNG SÁNG TRONG NGUC TÙ.
GƯƠNG SÁNG TRONG NGUC TÙ
Đọc lại toàn bộ lịch sử tử đạo Việt Nam, hầu như trong bất cứ cuộc tử đạo nào cũng thấy bóng dáng một linh mục bản quốc. Dầu hoàn cảnh khó khăn hiểm nguy, các vị đã can đảm dám hiện diện, hoặc hóa trang vào thăm giáo hữu trong tù, ban bí tích hòa giải và Mình Thánh Chúa, hoặc ít ra kín đáo đón các tín hữu đưa ra pháp trường và bí mật giải tội cho họ. Linh mục Phê-rô Nguyễn Văn Lựu là trường hợp tiêu biểu cho sự kiện này. Cha bị bắt đang khi lén vào làm việc mục vụ trong ngục.
Phê-rô Nguyễn Văn Lựu sinh năm 1812 tại Gò Vấp, Gia Định (Sài Gòn). Lớn lên cậu dâng mình cho Chúa, vào chủng viện và được gửi đi học ở Pê- năng, rồi được thụ phong linh mục. Cha được bổ nhiệm phụ trách nhiều giáo xứ như Mặc Bắc, Sa Đéc, Mỹ Tho... Cha thực thi nhiệm vụ một cách chu đáo. Cha chú tâm đến việc giảng dạy giáo lý, quan tâm đến từng gia đình trong xứ đạo, thường xuyên thăm viếng khuyên bảo họ, các giáo hữu quý mếm và sẵn sàng nghe theo lời Cha, ngay cả khi Cha khiển trách lỗi lầm của họ. Cha Lựu chỉ mắc một tật nhỏ nhưng đã bỏ được, vì gặp gỡ giao thiệp với dân đồng bằng Cửu Long, cha thường xuyên uống rượu với họ. Một hôm đang đi trên thuyền, cha mời linh mục Thuyết ở thuyền khác qua làm vài ''xị'', nhưng vị này nhất mực từ chối: "Tôi không uống rượu vì nhiều lý do, uống rươu vừa tốn kém, vừa mất tỉnh táo, lại chẳng phải là gương tốt cho tín hữu". Ngay lúc đó cha Lựu ném trai rượu xuống sông và nói: "Từ hôm nay tôi không uống rượu nữa ''. Và cha đã trung thành giữ lời hứa đó.
Đầu năm 1853, cha Lựu thoát chết một cách may mắn. Khi đó, cha đang là cha sở họ Mặc Bắc và được bổ nhiệm đến nơi khác thì quan trấn phủ Vĩnh Long, theo mật báo, đến vây bắt cha. Cha Phi-lip-phê Phan Văn Minh và ông trùm Giu-se Lựu bị bắt thế mạng.
Năm 1860, cha Phê-rô Lựu đang phụ trách xứ Bà Giòng, thì có lệnh quan trấn bắt tất cả những tín hữu có tên tuổi ở Xoài Mút và Ba Giòng (gần Mỹ Tho) đưa về giam tập trung ở tỉnh. Vì thương anh em bổn đạo, cha thường cải trang vào thăm viếng, ủy lạo.
Các giáo hữu coi cha như thiên thần Chúa gửi đến đem cho họ lương thực Thánh Thể, ân sủng và bình an. Để thực hiện điều này, có lúc cha phải bỏ tiền mua chuộc lính canh và thận trọng lời nói với cấp trên của họ.
Tháng 12/1860, một hôm đang lúc gặp các tín hữu trong tù, vô tình cha để một lá thư chìa ra miệng túi áo. Viên quan thanh tra trại giam đi qua trông thấy liền ra lệnh bắt giam. Biết không thể giấu được nữa, cha liền nhận mình là linh mục. Thế là cha được chia sẽ đòn đánh, tra khảo, dọa nạt chung với các tín hữu của mình. Từ nay, cha không chỉ an ủi, động viên anh em bằng lời nói của mình: bất chấp mọi đau đớn sỉ nhục, cha nhất quyết giữ vững niềm tin, chứ không bỏ đạo. Các quan bắt cha xuất giáo, cha trả lời:
"Đạo đã thâm nhậm trong xương trong tủy, tôi làm sao bỏ được. Và lại một người giáo hữu thường, một thầy giảng còn không có quyền bỏ đạo; huống chi tôi đây là đạo trưởng"
Nhận thấy mọi khổ hình vô ích, quan tỉnh Mỹ Tho liền lên án trảm quyết cha. Ngày 7/4/1861, quân lính dẫn vị cứng nhân đức tin ra khỏi thành độ một cây số, rồi chém cha ngay bên vệ đường. Viên đao phủ vì mê tín, sợ người đã chết nhập vào mình, nên vừa chém xong văng dao chạy trốn.
Thi hài vị tử đạo được các tín hữu thu lại đem về an táng chung với gông cùm và một chiếc bình đất vấy máu ngài. Về sau thi hài cốt của ngài được dời đến đặt tại bàn thờ chính Thánh đường Mỹ Tho. Năm 1960, hài cốt ngài lại được cải táng về Nhà Thờ Chính Tòa Sài Gòn.
ĐỊNH MỆNH NỐI KẾT BA CON NGƯỜI.
Tâu Thượng Đế
Này thần dân xin hát mừng trước bệ
Tuyên xưng ngài là chúa tể càn khôn...
Tôn phong chúa, bậc tông đồ hợp xướng.
tán tụng ngài bao thế hệ tiên tri.
Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng,
Máu đỏ đổ ra minh chứng về ngài.........
Đó là lời kinh Tê Deum, lời kinh cảm tạ mà cha khoan va hai thầy Hiếu va Thành vang lên trong ngục, cũng như trên đường ra pháp trường. Đó là lời kinh đem lại phấn khởi cho những ai được nghe. Đó là tiếng hát của Giáo Hội sơ khai, Khi cuộc bách hại 300 năm chấm dứt, nay lại vang lên trong môi miệng các vị tử đạo Việt Nam, vựơt thấu chín tầng mây, chấcp cánh cho các ngài bay về hợp đoàn với muôm thần thánh trên thiên cuốc.
Phao-lô Phạm khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Bông Hải, tỉnh Quảng Bình, thuộc giáo phận tây đàng ngoài. Sau khi thụ phong linh mục, cha phụ trách xứ Kẻ Vĩnh, rồi xứ Phước Nhạc, nơi đông dân cư nhất trong tỉnh. Cha Khoan rất hăng say hoật động tông đồ, ngaòi xứ chính ra, cha con phụ trách thêm hai họ Đông biển va Tôn Đạo. Mối tháng ngài đều đến họ lẽ dâng lễ, giải tội và khuyến khích giào hữu sống đạo đức, gương mấu hơn mối lần đi như vậy, cha thường dẫn theo vài thầy giảng để giúp dạy giáo lý và tiếp xúc sâu sắc hơn với quần chúng. Năm 1837, có hai thầy cùng đi với cha về giúp hô Đông Biển là thầy Phê-rô Nguyễn văn Hiếu 60 tuổi, người làng Đồng Chuối, và thầy Gio-an Bao-ti-xi-ta Đinh văn Thành, 41 tuổi, gốc Luốn Khê ( phát Diện ) . Trên đường trở về, cả ba cha con bị bắt và giải về Ninh Bình. Khi đó cha Khoan 66 tuổi.
Vì kính nể cha tuổi cao lại có tướng phúc hậu, một hôm quan tổng trấn mời ngài đến và nói: Ta muốm kết thân với ông. Ta tin cách cứu mạng ông thôi. Xin ông chịu khó chấp nhận bước qua Thập Gía. Cha trả lời: Mấy tháng qua trong tù, tôi đã suy tính kỹ lắm rồi, nhưng càng nghĩ, tôi càng sác tín hơn, cang cương quyết giữ vững đức tin cho đến chết . Rồi cha kể lại truyện sảy ra năm 1802.
Khi đó thái tổ Gia Long, phụ thân Hoàng Đế ra Hà Nội, chúng tôi có đến ra mắt. Ngài hứa cho chúng tôi được tự do giảng đạo, xây nhà thờ và các nhà bác ái. Ngài yêu cầu chúng tôi cổ động dân chúng sống thuận hòa và trăm chỉ làm ăn. Từ đó đến nay, tôi vẫn vâng lệnh Vua, nhắc nhở bà con làm điều tốt, trách điều xấu. Tôi thờ Vua trên trời và tuân phục vua dưới đất, tôi vẫn xin Vua trên trời ban ơn cho các quan, để thời các ngài được thái bình thịnh trị. Sao hôm nay quan bảo tôi bỏ lệnh tiên Đế mà tôi tuân hành biết bao năm nay?
Thế ông không muốm sống à?
Thưa quan, mọi sinh vật đều muốm sống, huống chi là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham sống. Thế nhưng với người Ki-tô-hữu, chết là cách sống đời đời trên thiên đàng.
Ai bảo ông là có thiên đàng?
Đó là truyện đương nhiên. như nhà vua vẫn ban thưởng cho những trung thần, thì chúa trời đất chẳng lẻ không ban thưởng cho những tôi trung phục vụ ngài đến chết sao? Nơi thưởng đó, chúng tôi gọi là thiên đàng
Vậy ai dạy cho ông biết là có chúa trời đất?
Thưa quan Tồng trấn, không can ai phải dạy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách dạy trúng ta bài học đó. Nhìn ngẵm những công trình kỳ diệu của thiên nhiên, tức khắc phải nhân ra có Đấng Sáng Tạo và gìn giữ nó. Chúng tôi gọi Đấng Tạo Hóa đó là Chúa Trời và tôn thờ ngài.
Vì hy vọng thời gian sẽ làm cho các anh hùng đức tin nản chí, quan tìm cách chỉ hoản vụ án thật lâu. Thấm thoát ba vị ở trong tù gần ba năm. Thỉnh thoảng quan lại cho gọi ra tòa đề nghị bước qua Thập Gía. Mới đầu khuyên nhủ ngọt ngào, sau dùng cực hình để cưỡng bách, nhưng không có thể cách nào làm các vị thay lòng đổi dạ.
Thái độ hai thây giảng làm cho mọi ngưởi bỡ nghỡ thám phục. Dù bị hành hạ dã nam đến đâu, hai thầy cũng thanh thản nhẫn nại, không bao giờ trách mắng chưởi rủa, chỉ lập đi lập lại máy điều Dù sống dú chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức tin. Niềm an ủi lớn nhất của hai thầy la đưôc gần cha Khoan, sớm hôm tâm sự va thỉnh thoảng lãnh bí tích giải tội. Các thầy coi những ngày trong tù như thời gian thanh luyện để lập công, đền bù những lỗi lầm từ thơ ấu. Đôi khi có người khéo léo đưa được Mình Thánh Chúa vào tù, đó là những ngày sung sướng và hạnh phúc nhất của ba vị.
Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng: '' Quan bảo tôi cha đạp Thập Gía điều chẳng hợp lý chút nào? Quan hỏi: Sao lại không hợp lý, ta chỉ cho ông con đường sống mà không hợp lý à? Cha nói: Thưa quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ chết đạo ngủ là kẻ hèn nhát. Cũng vậy, tôi nhờ ơn Vua Cả trên Trời, tôi đâu có quyền sợ chết mà bỏ Ngài được.
Khi thấy hoàn toàn thất vọng về sự kiên tâm, quyết chí của bà người lính Đức Ki-tô, quan đành quyết tử ản gửi về triều đình xin phép. Trong những ngày trờ đợi cuối cùng đó, trại giam Ninh Bình vang vịng những tiếng hát hân hoan. Đó là tiếng cha Khoan và hai thầy giảng hát lên Kinh Tạ Ơn. Cha một câu, hai thầy một câu. nhịp nhàng rộn rã. Trên đương ra pháp trường, ba vị vẫn không ngừng cất tiếng ca những lới tri ân đó.
Tại pháp trường ngày 28/4/1840, cha Khoan xin phép nói với dân chúng đôi lời.
Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng tôi không phạm tội ác, không chống lại vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ vì là Ki-tô hữu, và không chịu bỏ đạo Ki-tô, là đạo duy nhất chân thật.
Lình đẩy ba vị vào khu vực riêng xa tam mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hai vị hợp ý cầu nguyện với linh mục:
Vinh Danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa Trời đất. Chúng con hiền dâng mạng sống cho Ngài. Xin Chúa chúc phúc cho nha Vua cai trị lâu dài trong an bình. Xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất có thể đem lai cho con người hạnh phúc đích thực.
Tiếp theo, ba vị lại cầu nguỵen bằng Thánh ca. Như trong đêm phục sinh, CHA kHoan hát lên ba lần ALLELUA, ALLELUA, ALLELUA,mỗi lần với cung giọng cao hơn, xen kẻ vảo đó, hai thầy giãng cũng hát thay cho cộng đoàn theo cao đô của vị chụ sự. ALLELUA,ALLELUA, ALLELUA. Sau đó, lý hình thi hành phận sự. Ba cái đầu cùng rơi xuống, đưa ba vị thánh về hợp xướng với đoàn thiên thần trên Thiên Quốc với khúc hát Phục Sinh Allelua bất diệt, Năm đó cha Khoan 69 tuổi, thầy Hiếu 63 tuổi, thầy Thành 44 tuổi, Thầy giảng Huấn chứng kiến từ đầu vụ hành quyết, đã lãnh thi thể ba vị về Phúc Nhạc an táng theo nghi lễ công giáo.
VINH PHÚC NGƯỜI TÔI TRUNG
VINH PHÚC NGƯỜI TÔI TRUNG
Một người bình thường, bình thường như trăm triệu tín hữu khác. Nhưng đã được Giáo Hội tôn phong Hiến Thánh. Đó là thánh Phê-rô Đa, vị tử đạo cuối cùng trong 117 chứng nhân đức tin tại Viật Nam đã được Giáo Hội tôn vinh. Cái chết của ngài chấm dứt một giao đoạn cam go và khai mạc một giai đoạn thanh bình mới của Giáo Hội Việt Nam. Tuy chỉ là một tĩn hữu tầm thương thiếu học, sinh trưởng trong một gia đình lao động nghèo khó, nhưng lòng dũng cảm và đức tin kiên vững của ông thợ mộc Phêrô Đa không thua gì các vị mục tử của mình: chấp nhận hy sinh trọn ven, kể ca chình mạng sống, đê giừ lòng trung tín với Đức Ki-tô.
Phêrô Đa chào đời khoảng 1802 trong một gia đình lao động tại làng Ngọc Cúc, xứ Lục Thủy, tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận trung Đàng Ngoài. Phụ thân cậu là môt Kitô hữu , nhưng thân mẫu cậu lại là người ngoại đạo. Tuy thế, cậu Đa đã được đón nhận bí tích rửa tội ngay từ nhỏ, và được giáo dục chu đáo nièm tin kitô.
Ông Phêrô Đa theo nghề thợ mộc và lập gia đình. Ông là một gia trưởng gương mẫu, lưu tam săn sóc con cái và hưỡng dẫn bằng chính đời sống thánh thiện của mình. Đắng khác ông rất nhiệt tình với việc trung và nhận ông phụ trách kéo chuông và giọn đồ lễ thánh đường giáo xứ.
Sau chiếu chỉ phân sáp, ông Phêrô Đa bị bắt vào khoảng 60 tuổi, và bị giải về phủ Xuân Trường với những kitô hữu khác. Sau sáu ngày bi giam, ông đã được giải đến Qua Linh. Tại đây ông trịu nhiều cuộc tra tấm dã man và nhiều khổ hình khủng khiếp, nhưng vị anh hùng luôn biền chí chịu đựng, không than van và nhất định không chịu bước qua Thập Gía. Khi biết chắc không thể làm ông khuất phục, quan liền hết án thieu sinh ông Phêrô Đa cùng với một số chứng nhân đức tin khác.
Ngày 17/6/1862, vị tôi tớ trung kien Phêrô Đa bị dẫn đến nơi xử án, trên đường đi, ông biểu lộ nét hân hoan và vui mừng. Ông bình than cầu nguyên và phó dâng mơi sự trong bàn tay quan phong của Chúa. Đồng thời ông khẩn xin chúa cho mình đủ can đảm chiền tháng cực hình sau cùng vì danh Thầy Chí Thánh.
Khi ngọn lửa thiêu đốt sằp tàn, quân lính thấy ông hình như vẫn còn sống , liền vung đao chém bay đầu vị tữ đạo. Thế là Thánh Phêrô Đa, người giáo hữu kiên cường bất khuất, có thể nói đã hy sinh vì chân lý bất diệt đến hai lần: vừa thiêu dốt, vừa bị chém đầu. Thi hai của người tôi trung Đức Kitô được giáo hữu chôn ngay tại pháp trường. Năm sau giáo hữu lại cải về an táng tại quê nhà.
DƯỚI BÓNG NỮ VƯƠNG TỬ ĐẠO.
:monkey03: Đức Ki-tô đã chết để cứu đô nhân loại. Thánh Gio-an Hoan đã ý thức cuộc tử đạo lá cách gọi noi gương Chúa tuyệt hảo nhất, và tự nguyện đón nhận nó. Trong những ngày cuối cùng, cha đã bượn thánh Phao-lô để khuyên nhủ những bạn tù rằng:
Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi đã bắt chước Đức Ki-tô.
Gio-an Đoàn trịnh Hoan sinh năm 1798 tại họ Kim Long, Phú Xuân { Hếu } trong một gia đình nề nếp, đạo hạnh. Nhờ sự hỗ trợ của gia đình, nên cậu đã dâng mình cho chúa, và theo học tại chủng viện Pê-năng { Mã Lai } của Hội Thừa sai Pa-ri. Về sau học xong thần học, năm 1836 Thầy Gio-an về nước và thụ phong linh mục tại Sài Gòn, phục vụ đắc lực cho Giáo Hội Việt Nam.
Trong 26 năm linh mục, cha Gio-an Hoan đã lãnh nhận nhiều nhiệm sơ. Cha nhiệt tình hoạt động nhưng lại điềm tĩnh, thận trọng và yêu thương mọi người. Hơn nữa, cha có boệt tái nói truyên rất duyên dáng, nên ở đâu cũng được mọi người quý mến. Dưới thời vua Tự Đức, cha là một trong những linh mục Việt Nam có uy tín nhất do khả năng, tuổi tác và kinh nhiệm lâu năm. Dù phải thay đỗi chỗ ở liên tục, thực tế cha phải sống ở trên thuyền nhiều hơn trên đất liền, cha vẫn kiên tâm đầu tư tìm óc vào việc đào tạo các thầy giảng và cổ động hỗ trợ ơn gọi linh mục nới các thanh thiếu niên. Cha đã hưỡng dẫn nhiều cho các bạn trẻ vào trủng viện giáo phận.
Đầu năm 1861, nhân dịp lễ Hiển Linh, cha đến xứ Sáo Bùn { Quảng Bình } để thăm viếng, khích lệ các giáo hữu, giải tội và giúp họ mừng lễ. Như thường lệ, cha đến trọ nhà ông trùm phượng. Tối ngày 3/1 quan quân nghe tin bào đến bao vây truy bắt, cha chạy ra sông thì gặp ngay một toán lính đi đến. Cha định núp sau một đống củi, nhưng không kịp. Lính bắt và giải cha váo Đồng Hỡi. Khi đó cha 63 tuổi.
Trước tòa án, quan tĩnh đã cho dùng mọi hình thức tra tấn giã nam. Ông cho đánh dập tàn nhẫn, rồi cho nung đỏ kím sắt vào đùi vào cánh tay cha, để bắt cha phải bước qua Thập Gía và khai thác tin tức về Giáo Hội. Thế nhưng ông đã thất bại hoàn toàn. Du đau đớn đến nổi có khi ngất xỉu, cha Gio-an Hoan vẫn cắn răng không nói một lời, không tiết lộ những gia đình cha đã trú ngụ, và và dĩ nhiên không chịu chối đạo. Ông trùm Phượng và bay tĩn hữu khác cũng bị bắt ở Sáo Bùn cũng theo gương cha, không để lộ chi tiết nào có hại đến người khác. Cha Hoan và ông trùm Phượng bị kết án xử tử, còn những người khác phải lưu đày chung thân.
Khu vực giam cha Hoan cũng có rất nhiều tĩn hữu, vì chiến dịch bắt đạo tháng 10/ 1859 đã gom nhiều chức trắc trong giáo xứ, còn ở Huế thì tập trung mọi tĩn hữutrên 50 tuổi. Nhà vua trụ tính kế hoạch làm ấp lục với quân pháp để ợ triệt phái các tàu bè ở cửa Hàn, nhờ tai xã giao lịch thiệp, cha Hoan đã chiếm được thiểm cảm của toán lính canh ngục, ngài có thể dễ dàng đến các phòng giam khác khu vực để thăm viếng các tĩn hữu.
Trong năm tháng tù giam, cha Hoan dành rất nhiều thời giờ để giải tội, chúc lành và khích lệ các tĩn hữu. Nhận được Mình Thánh Chúa ở ngoài gửi vào, cha rước lễ chia s4 cho anh em. Thât cảm động biết bao hình anh người cha già, tay chân cũng mang xiềng xích, cô cũng đeo gông và nắm chắc bản án vì đức tin, đã đến gặp từng người bạn sắp ra pháp trường để nói đôi lời úy lạo và cho họ Cua ăn đàng Chính Bánh Trường sinh, lương thực thiêng lieng đó đã củng cố sức mành cho họ trên hành trình cuối cùng về nhà Cha.
Ngày 25/5, trước ngày bị chém đâu, vị mục tử đi một vòng thăm các bạn tù lần cuối, khuyên nhủ họ { Giờ cuối cùng của tôi không còn xa. Phần anh em, những người con yêu quý, anh em còn ở lại trên trần gian đau khổ này, anh em hãy trung tín đến cùng. Xin anh em cầu nguyên cho tôi hoàn thành ý Chúa cho trọn } .
Sau khi nghe đọc bản án, cha nói { Con tạ ơn Chúa, Ngài đã cho con biết trước giờ đổ máu vì danh Ngài }
Tối hôm đó cha thức thật khuya để úy lao bạn hữu và giải tôi cho một vài người. Sang sớm hôm sau, tù nhân ở các phòng khác cũng được phép đến gặp và giã từ cha. Cha nói: { Thưa anh em, tôi dám xin mượm lời thánh Phaolô để nói với anh em rằng: Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi đã bắt chước Đức Ki-tô } { 1Cr 11,1 } Cha con vui vẽ hàn huyên mãi không dứt, cho đến khi có lệnh ra pháp trường. Cha nhanh nhện đứng lên, cỗ vẫn đeo gông nặng trĩu, bước theo viên cai ngục.
Ra đên cửa, cha gặp ông Phượng, người đã cho cha trú ngụ cũng đem đi xử, hai toán lính nhập làm một. Một anh lính cầm bản án đi trước: { Người này tên Hoan Gia Tô đạo trưởng, dạy đạo và quyễn rũ dân chúng. Vi phạm đến luật nhà nước là một trọng tội phải đem xử trảm ngay } Đến pháp trường, hai vị quỳ trẹn chiễu đã trải sẵn. Quan hỏi vị tông đồ có muốm trói vào cột không? cha trả lời:
Không cần, tôi sẽ quỳ yên không nhúc nhích. Nếu tôi không tự nguyện nhận cái chết, tôi đã trẳng đến đây. Xin cho tôi vài phút để cầu nguyện .
Sau đó cha ngước mắt lên trời tạ ơn Chúa, giơ tay giải tôi cho ông Phượng và ra dấu hiêu sẵn sàng. Viên lý hình được chỉ định thấy thái độ dũng cảm của cha, biết cha vô tội nên nhờ người lý hình khác. Anh lý hình không quen đã phải chám đến ba nhát, sau đó dùng gườm cưa đứt miếng da còn sót lại.
Trước đó, khi cha cởi áo, thấy hai mảnh { Đức Ba } cha đeo phất phới trước ngực, một người lính tưởng là lá thư quý gia thì xin, nhưng vị trứng nhân Đức Ki-tô trả lời.
{ Cái này tôi không thể cho ai được. Đây là hình ảnh Đức Nữ Vương và là bà Chúa tôi }
Giờ đây vị tử đạo được chúa đón về trời để gặp Đức Maria, Nữ Vương các thánh tử đạo mà cha hằng tôn kính.
Đức thánh cha Pi-ô X tôn phong linh mục Gio-an Đoàn Trịnh Hoan lên bậc chân phước ngày 2/5/1909
Đức Giáo Hoàng Phaolô II tôn phong chân phước Gio-an Đoàn Trịnh Hoan lên bậc Hiền Thánh ngày 19/6/1988.