Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Chủ đề: Thánh tử đạo Théophane Vénard - Linh mục(12/03)

  1. #1
    littlewave's Avatar

    Tham gia ngày: Aug 2007
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,529
    Cám ơn
    3,391
    Được cám ơn 8,037 lần trong 1,863 bài viết

    Arrow Thánh tử đạo Théophane Vénard - Linh mục(12/03)

    Linh mục Thánh Théophane Vénard

    Điềm lành báo truớc.

    Ngày 21.11.1829, ngày lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ, cậu Tê-ô-phan vê-na mở mắt chào đời ở làng Săngtôlu-pô (Sanctolupo) tỉnh Poa-ti-ê (Poitier), nước Pháp, phải chăng đó là điềm lành, là dấu chỉ báo trước ngày sau cậu bé này có lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt.



    Thánh Ven Theophane Venard

    Cha cậu là ông Gioan, mẹ cậu là bà Maria, cả hai ông bà là người đạo đức hiền lành thuộc dòng họ theo đạo từ lâu đời. Ông Gioan dạy học, bà Maria ở nhà coi sóc con cái và trông nom đồng ruộng, gia đình vào loại khá giả.
    Ông bà sinh được 6 con, hai con út chết từ khi bé, con cả là chị Mê-la-nia dâng mình cho Chúa trong nhà dòng, Thánh Tê-ô-phan vê-na là con thứ hai, cậu Hăng-ri-cô là con thứ ba xây dựng gia đình, cậu thứ tư là Ơ-sê-bi-ô làm linh mục.
    Cậu Vê-na, người nhỏ nhắn, khôi ngô, nét mặt tươi vui, nghiêm trang, không hay chơi đùa như các bạn, siêng năng đi nhà thờ đọc kinh, thông minh sáng dạ, mới lên bảy tuổi cậu đã viết thạo và đọc sách trơn. Ngoài giờ học cậu cũng chịu khó đi chăn bò, chăn chiên giúp cha mẹ.

    Mơ ước phúc tử đạo từ thời thơ ấu.

    Một niềm vui của cậu Ve-na là đọc sách truyện các thánh, cậu mê say đọc. Một hôm cha xứ cho cậu mượn chuyện các đấng đi truyền giáo nơi dân ngoại, trong ấy có truyện Cha Coóc-nây (Tân) là người đồng huơng đã giảng đạo ở Việt Nam và mới được phúc tử đạo. Cậu Vê-na không sợ lại vui mừng xem đi xem lại hai ba lần rồi nói: “Tôi ước ao được sang giảng đạo ở Việt Nam và được phúc chết vì đạo”. Từ đó tâm trí cậu bé luôn bị ước mơ tốt đẹp ấy ám ảnh, cậu xin cha mẹ cho mình đi học La-tinh để sau làm Linh mục. Cha mẹ cậu vui mừng cho con vào học với cha xứ một năm rồi gửi vào Chủng Viện Poa-ti-ê. Sáu năm học ở đây chú Vê-na làm gương sáng cho các bạn về sự học hành, tập đi đàng nhân đức, giữ luật phép nhà. Ngày lễ Đức Mẹ vô nhiễm, mới vào học được hai tháng, chú đã khấn lần hạt mọi ngày kính Đức Mẹ và chú đã giữ cho đến chết. Chú vào hội trái tim Chúa Giêsu để cầu cho kẻ có tội và kẻ ngoại trở lại, và vì ước ao đi giảng đạo cho dân ngoại mà chưa đi được, nên chú cũng xin vào hội giảng đạo, hàng tuần góp tiền ấy.

    Ơ Chủng Viện một năm, Chú rước lễ lần đầu, chú dọn mình sốt sáng kĩ càng và từ đấy chú tôn sùng phép Thánh Thể cách riêng.

    Năm sau, Chúa gửi cho chú một thử thách nặng nề, người mẹ thân yêu qua đời. Chúa viết thư về an ủi cha và chị em nhưng chính mình lại thường nhớ đêm ngày không ngủ được. Chúa muốn yên ủi người con riêng mình, cho chú xem thấy sự lạ này: Một đêm chú đang khóc thương mẹ, bỗng Thánh Thiên Thần dắt mình vào một nơi rực rỡ chói lọi. Mở mắt ra, chú thấy mẹ ở giữa những người sáng láng đang hát mừng ngợi khen Chúa. Từ đó chú không còn buồn sầu nữa. Chú giữ kín sự lạ ấy cho đến khi từ giã cha và chị em lần sau hết để đi giảng đạo mới tỏ ra và buộc mọi người không được nói với ai.

    Sáu năm ở chủng viện, chú Ve- na học hành tấn tới, luôn đứng nhất lớp, trổi vượt hẳn các bạn, chú lại đạo đức khiêm nhường hoà nhã không mất lòng ai bao giờ, giáng người nhỏ nhắn thanh lịch, nói năng từ tốn, nét mặt vui tươi rạng tỡ, ai trông thấy cũng phải mến, phải thương.

    Thực hiện mơ ước niên thiếu

    Vào đại Chủng Viện, Thầy Ve-na mới tỏ ra cho cha linh hồn biết ý định của mình từ thời thơ ấu để người định liệu, sau khi đã cầu nguyện suy xét kỹ lưỡng, cha bằng lòng nhưng đòi thày phải chờ khi đã chịu chức năm.

    Ngày 24-12-1850, Thày Ve-na chịu chức năm, đó cũng là bước đầu thày thực hiện mơ ước buổi thiếu thời, năm ấy cũng là năm thứ ba triều vua Tự Đức với sắc chỉ cấm đạo ban hành từ năm 1848. Sau đó thày về quê thăm gia đình, tỏ cho cha và chị em biết ý định của mình, rồi lên đường vào đại chủng viện Hội Truyền Giáo Pa-ri.

    Ơ đây bầu không khí thánh thiện sốt sáng, những sự việc cụ thể, những tin tức từ nơi truyền giáo càng làm cho mơ ước của thày tăng dần đến tột đỉnh. Qua những lá thư này thày viết cho chị Me-la-ni-a, thày kể lại gian phòng bài trí các dấu tích, gôm cùm, xiềng xích của các đấng Tử Đạo, những tranh ảnh mô tả lại những cái chết anh hùng của các Ngài, những buổi tối đến kính viếng các dấu tích ấy để xin các ngài bầu cử cho mình được theo chân nối gót các ngài, khách thập phương cũng đến đây kính viếng cầu xin rất đông.

    Thày Vê-na mới vào được hai tháng có thư của Đức Cha Rơ-to (Liêu) địa phận Tây Đàng Ngoài báo cho Cha Sép-phơ-lơ (Đông) mới phải bắt và phải sử ở Sơn Tây, nên Thày càng ước ao chóng đến ngày được diễm phúc ấy, và Thày thường nói đó là đường tắt đưa thẳng về Thiên đàng.

    Ơ đây, Thày Vê-na cũng nổi tiếng đạo đức, thông thái nên tháng 5.1851 Thày được chịu chức linh mục mới 22 tuổi.

    Lớp này có 12 linh mục, 11 Cha được cử sang Phương Đông truyền giáo ngay, còn Cha Vê-na vì mới ốm, còn yếu, phải nghỉ lại uống thuốc Cha buồn và theo thói quen, mỗi khi gặp sự khó, Cha thường chạy đến kêu xin Đức Mẹ. Đức Mẹ đã nhận lời. Ngày 20.9.1852, ngày xuống tàu, một cha đi phép ngăn trở không về kịp nên bề trên dạy Vê-na đi thay, sang Hồng Công ở nhà chung nghỉ uống thuốc, bao giờ khoẻ sẽ đi truyền giáo.

    Sau ba tháng vượt biển, cha Ve-na đến Phố Mới, ở lại đây ba tuần chờ tàu đi Hồng Công. Cha ở Hồng Công độ non một năm, dạy học rồi được cử sang truyền giáo ở địa phận Tây đàng Ngoài.

    Ngày 26.5.1854, Cha Vê-na cùng với Cha Lơ-gơ-răng (Tràng) rời Hồng Công đi Ma Cao chờ tàu người Trung Quốc sang Việt Nam, vì từ thời vua Minh Mệnh, tàu các nước âu châu không được vào buôn bán ở đây. Cha Vê-na nghỉ lại Ma Cao chừng một tuần lễ. Ma Cao xưa kia rất thời danh, quen gọi là Ngọc Phương Đông, là một giải đất chạy ra biển ở tỉnh Quảng Đông, các người Âu Châu đến đây buôn bán, lập ra phố xá sầm uất, nhà cửa rộng lớn, nhiều nhà thờ nguy nga, có chủng viện có dòng Tên, dòng Thánh Đa Minh và nhiều dòng khác nữa. Các Cha thừa sai sang phương đông truyền giáo thường qua Ma Cao. Bây giờ Ma Cao vắng vẻ, vì cửa bề bồi lâu, tàu lớn không vào được.

    Ngày 2.6.1854, tàu mới nhổ neo, lần này có 70 tàu cùng đi nên không sợ cướp biển. Người Trung Quốc ghét người Âu Châu, thường gọi là quỷ trắng nên các cha thừa sai bị chúng khinh dẻ, chửi rủa. Cha Vê-na viết thư về quê kể lại rằng: “Tôi đi tàu Trung Quốc thì khổ sở trăm đường. Chúng cho Cha Tràng và tôi ở dưới lòng tàu trong một xó tối tăm hôi hám đầy thạch thùng, rết rệp, chật chội, thấp lắm chỉ nằm hay ngồi cả ngày đêm không đứng được. Chúng tôi không được lên sàn tàu, thỉnh thoảng lên cho thoáng là chúng chửi rủa bắt xuống ngay. Chúng mắng mỏ chúng tôi luôn: khi không có gió, lúc gió to, nhỡ nhàng việc gì, mọi người không hay là chúng đổ tội cho chúng tôi hết”.

    Hai mươi ngày sau tàu đến cửa Cấm, đậu gần đồn Hải Phòng. Quan quân xuống khám nhưng vì hai Cha ẩn kín, nên không bị bắt. Ban đêm họ đạo ở đây xuống thuyền chở hai Cha về chỗ Đức Cha Hi-le (Hy) là Đức Cha phó địa phận Đông rồi đến chỗ Đức Cha chính là Đức Cha Hec-mô-di-la (Liêm). Ngày 13.7. Tự Đức thất niên hai Cha mới tới Kẻ Vĩnh.

    Những vất vả, ốm đau trong cánh đồng truyền giáo

    Cha Vê-na nghỉ ở Kẻ Vĩnh gần hai tháng rồi đến Chủng Viện Kể Doãn học tiếng. Cha học rất nhanh, mới có một tháng đã nói sõi và giảng cho bổn đạo. ở đây chưa được hai tháng, cha bị cúm nặng, uống thuốc đỡ, cha sang Kẻ Đầm đổi khí. Đến lễ Các Thánh dù còn yếu, cha cũng cố gắng làm lễ. Hàng xứ tổ chức lễ linh đình trọng thể, có tiếng kèn rước cha vào nhà thờ, nhưng chính tối hôm ấy, cha vừa nằm nghỉ, đã có người vào đánh thức cha chạy trốn ngay vì quan đến vây làng. Cha sang làng gần đấy độ một tuần rồi về chủng viện Hoàng Nguyên ở với Cha Chính Nam. Mới đến đây được mấy ngày, bệnh lao và bệnh suyễn của Cha Vê-na lại tái phát vì những ngày phải lội nước, lội bùn, và trong vòng hai tuần bệnh trở nên trầm trọng, cha phải chịu phép xức dầu. Đức Cha Rơ-to nghe tin, sai ông cả Thuần ở Ninh Bình, là ông lang nổi tiếng đến chữa bệnh cho Cha, ban đầu bệnh bớt nhiều, nhưng sau nặng đến nỗi cha bị bại liệt, không cử động, không nói được. Cha Chính Nam mời các thày danh sư trong miền mà bệnh không bớt. Thấy thế, Cha Chính khuyên Cha Vê-na làm tuần 9 ngày kính Trái Tim Chúa Giêsu, Trái Tim Đức Mẹ và Thánh Giuse xin khỏi bệnh. Bệnh Cha giảm dần và sau 20 ngày có thể làm lễ, xem sách học hành và giải tội cho học sinh.

    Năm Tự Đức bát niên ( 1854), Cha Vê-na ăn tết ở nhà trường Hoàng Nguyên với Cha Chính Nam, khoảng rằm tháng riêng có tin báo nhà trường Kẻ Non, Kẻ Vĩnh bị vây, Đức Cha Rơ-to và các Cha phải trốn vào rừng hết, quan quân sắp xuống vây nhà trường Hoàng Nguyên, vì thế hai cha không giám ở đây, đi ẩn nay họ này mai họ khác.

    Trong thời cấm cách luôn phải nghe tiếng dữ, phải trốn tránh vất vả, tính tự nhiên ai cũng sợ hãi rụng rời, nhưng Vê-na lại tỏ ra can đảm lạ thường, vui vẻ vì cha hằng mong được phúc tử đạo.

    Sau cùng hai cha về ở ẩn ở dòng Mến Thánh Giá Bút Đông trong một gian chật hẹp không có cửa sổ, cửa ra vào đóng cả ngày, chỉ hé mở mọt chút cho ánh sáng lúc đọc kinh sách.

    Cơn bão táp đợt này nổi lên có vẻ gay gắt nhưng được ít lâu giảm dần, không ai bị bắt và bị xử, Nhà Chung, nhà trường không bị phá, chỉ phải xuất nhiều tiền bạc cho các quan, nên các quan làm ngơ. Đức Cha Rơ-to lại về Kẻ Vĩnh, Đức Cha Tơ-ren (Đông) lại về nhà trường Kẻ Non.

    Cha Nam về Hoàng Nguyên trước, còn Cha Vê-na ở lại Bút Đông 15 ngày. Vì Cha vốn ốm yếu, lại ẩn trốn nhiều nơi, tù hãm lâu ngày nên sức khoẻ càng sa sút trầm trọng, ngày thứ tư tuần thánh, Cha đi bộ về Hoàng Nguyên gặp ngày mưa rét, lại lội bùn lội nước, bị cảm hàn nặng tưởng chết, nhưng sau được bình phục và Đức Cha Rơ-to dạy Cha về Kẻ Vĩnh uống thuốc.

    Đầu năm Tự Đức cửu niên là năm 1856, Cha Vê-na đã đỡ bệnh có thể giúp tuần đại phúc vào đầu mùa chay do Đức Cha Rơ-to tổ chức rất trọng thể ở Kẻ Vĩnh cho các Thày Đại Chủng Viện, các chủng sinh và bổn đạo. Ngoài Đức Cha ra, có năm Cha thừa sai và sáu Cha Việt Nam giúp. Mỗi ngày có bốn bài giảng, nghe sách cả ngày, xưng tội suốt đêm, dù có đến 14 toà giải tội; cuối tuần đại phúc tổ chức cuộc rước kiệu chung quanh làng.

    Rồi Cha Vê-na theo Đức Cha Rơ-to mở tuần đại phúc ở Bái Vàng và cử hành Lễ Phục Sinh trọng thể. Sau những ngày vất vả đó, Cha về Kẻ Vĩnh nghỉ ngơi cho hồi sức. Dịp lễ Thánh Phêrô quan thày Đức Rơ-to năm ấy, Đức Cha Tơ-ren và các Cha thừa sai về mừng, cấm phòng 8 ngày, bàn bạc các việc trog địa phận, các Cha nghỉ độ 10 ngày rồi mỗi người đi mỗi ngả. Một trận lụt lớn xảy đến ngập cả Nhà Chung, Đức Cha và các Cha phải chạy vào nhà thờ và hai nhà thương. Đúng kỳ này, Cha Vê-na lại phải chứng thương hàn có nguy chết, sau nhờ lời cầu xin với Thánh Phêrô An-căng-ta-ra thì khỏi. nhưng còn bệnh lao và bệnh suyễn ngày càng ra nặng hơn phải nhờ cụ lang Điều châm cứu từ đỉnh đầu đến bàn chân 500 huyệt rất đau đớn thì bệnh lao gần như khỏi hẳn, còn suyễn giảm đi rất nhiều.

    “Sẽ phải vác Thánh giá nặng và chịu gian nan khốn khó cho đến chết”

    Trước khi sang Việt Nam, một đêm Cha Ve-na nằm mơ mình đang quỳ dưới chân cây Thánh giá rất lớn và trên một đỉnh núi gần đấy, Đức Mẹ hiện ra chỉ cây Thánh giá, phán rằng: Hỡi con, con sẽ phải vác Thánh giá nặng và chịu gian nan khốn khó cho đến chết”. Lời tiên tri này đã thực hiện. Mới đặt chân đến miền truyền giáo được ba năm, Cha đã phải chịu một Thánh giá nặng là cơn bệnh trầm trọng giày vò, sống đi chết lại vì không hợp thuỷ thổ, Chúa và Đức Mẹ đã chữa Cha khoẻ mạnh lại để chuẩn bị cho Cha vác cây Thánh giá khác nặng hơn mà phải vác cho đến chết: Cha bắt đầu đi coi xứ và chịu đựng một cơn bách hại dữ dằn nhất trong lịch sử bách hại Giáo Hội ở Việt Nam.

    Ngày 27 tháng giêng năm Tự Đức thập niên (1857), Cha Ve-na về nhà chung Kẻ Vĩnh, quan quân kéo đến khám Nhà Chung, Cha phải chạy ra ẩn nhà bà Ruyễn, Cha Phao-lô Tịnh, Thày Lương và Chánh, Phó lý trưởng bị bắt giải lên Nam Định. Gần hai tháng sau, Cha Thịnh phải sử, xác đưa về làng Vĩnh Trị chôn ở nền nhà thờ Thánh Phê-rô.

    Ngày 2-2 quan Nam Định đưa 1000 quân, hai voi, hai khẩu súng thần công về vây làng Vĩnh Trị, Cha Ve-na cùng với Đức Cha chạy xuống thuyền trước và dạy các chú chạy cả đồ đạo lẫn người nên khi quan đến chỉ có nhà không. Quan nhận hai ba chục nén bạc, truyền rỡ nhà thờ ông Thánh Phê-rô trong nhà trường, nhà thờ Đức Bà ở ngoài làng và mấy gian nhà trong nhà Chung rồi kéo quân về. Đức Cha và các Cha không thể ở lại Kẻ Vĩnh được, thì đi ẩn ở nơi khác, Cha Ve-na về Hoàng Nguyên.

    Được ít lâu Cha Chính Nam qua đời, Đức Cha Rơ-to thấy Cha Vê-na đã khoẻ mạnh khá và giao cho Cha coi sóc miền Cha Chính. Từ khi đến Việt Nam, Cha Vê-na ốm đau luôn chỉ ở Nhà Chung, nhà trường uống thuốc, học hành, xem sách, thỉnh thoảng rửa tội cho bổn đạo chưa đi coi xứ, nên khi nhận trách nhiệm nặng nề này Cha lo sợ, trong thư viết về quê, Cha kể rằng: “Đức Cha giao cho tôi miền Cha Chính coi sóc. Miền này có một vạn hai ngàn quân danh chia làm bốn xứ, mỗi xứ có hai hay một Cha. Việc của tôi là coi sóc bốn xứ này, đi làm phúc các họ khô khan, mắc rối, làm phép thêm sức, thỉnh thoảng cấm phòng cho xứ, tha các ngăn trở hôn phối, coi sóc người nhà Đức Chúa Trời, nhất là nhà dòng nữ..”.

    Giữa năm Tự Đức cửu niên và đầu thập niên (1856 – 1857), có tàu Pháp đến cửa Hàn (Tourane) xin buôn bán và xin tha đạo, vua thấy chỉ có hai tàu nên từ chối. Quân Pháp thấy vua không bằng lòng lại khinh dể làm sỉ nhục thì bắn phá đồn Sơn Trà rồi bỏ đi. Từ bấy giờ vua lại càng gét đạo hơn.

    Năm 1858, một năm khủng khiếp, Cha Vê-na bỏ Hoàng Nguyên đến làng Bút Đông ẩn trong nhà dong Mến Thánh Giá. Khi nào sợ lộ thì Cha ra ẩn, những nhà giáo hữu rất trung thành và cũng rất nghèo, là nhà các ông Hộ, Kỳ, Cung cũng có tên là Quang là bố Cha Tuyên. Những nhà này thường có hầm hay có vách khép để Cha ẩn trốn.

    Một hôm, Cha Ve-na đang ở nhà ông Hộ thì quan Huyện Nam Xang cùng đi với ông Tần cia tổng phúc Châu đến vây. Biết ông Tần bênh chữa người có đạo nên ông Hộ gặp riêng và nói thật nhà mìnhcó Tây dương đạo trưởng. Nghe thế, đến ngòi giữa nhà ông Hộ rồi sai quân mình đi cùng quan huyện lục soát các nhà trong làng, nhưng không bắt được ai.

    Nhiều lần vây làng Bút Đông, không bắt được ai. Quan huyện Nam Xang giận nên sai quân về khám xét khuấy khuất luôn. Khi nào nghe tin ngày mai quan về vây làng thì tối hôm trước, người thì chạy sang làng khác, người chạy ra ngoài đồng chịu mưa, chịu rét, chịu đói cả đêm cho đến trưa mai.

    Một hôm ông cai Tần sai người nhà sang Bút Đông bảo các người đàn anh trong làng phải liệu cho ông Tây đi nơi khác, kẻo xả ra việc không hay, có thể cho sang ẩn ở Phúc Châu, ông sẽ cho người sang đón. Bấy giờ đang cấm đạo rất ngặt, Cha Vê-na không biết đi đâu, đành phải sang Phuc Châu.

    Phúc Châu là làng ngoại đạo, cả làng làm nghề ăn cướp, ông cai TTần cúng là tướng cướp có quyền có tiếng trong huyện, dù quan cũng phải kính nể, Ông và cả làng che chở người có đạo, và khi cấm đạo ngặt thì làng này chứa các Cha, các Thày và các nhà dòng.

    Lòng nhiệt thành cứu các linh hồn.

    Cha Vê-na ở Phúc Châu bình yên mới được một tháng, Cha đòi về kẻ Bèo, đến ở nhà bà nhiều Căn, một bà goá có lòng đạo đức, sẵn lòng để Cha Vê-na và các Thày ở nhà bà.

    Cha về làng được ba ngày đã mở tuần đại phúc. Cha giảng giải độ 5,6 hôm mà người ta vẫn khô khan thì truyền cả họ phải ăn chay một ngày để cầu nguyện. Chính Cha cũng ăn chay rồi cấm phòng cho cả họ một tuần. Cha bắt các người đàn anh trong làng phải phá bàn thờ rồi họ phải lập ở đình rồi mới giải tội cho. ít nhiều kẻ khác cũng lập giường thờ ở nhà riêng, Cha gọi đến khuyên bảo hai ba lần, sau họ cũng vâng lời phá đi.

    Thấy nhiều người xưng tôi chịu lễ, Cha rất mừng, dạy fỗ người ta cặn kẽ cách giữ đạo. Ai nghèo đói Cha cho tiền ăn mầy ngày để ở nhà lo việc linh hồn.

    Bị bắt trong vách kép

    Ơ Kẻ Bèo, tình thế cũng không ổn, Cha đã đưa tin cho họ Bút Đông cử người sang đón, Cha chưa kịp đi thì đã phải bắt.

    Một người họ hàng với bà nhiêu Căn đã tố giác Cha Vê-na vậy có ông Tuần đồ, người làng Lê Khoai, tổng Đội Sơn cùng với con rể là Cai Tổng Đồng Bào tên là Phan, hồi ấy đang lụt lội, đi năm, sáu chiếc thuyền với 20 người đến bắt Cha.

    Hôm ấy là ngày 30.11.1860 cũng là ngỳa 18.10 năm Tự Đức thập tam, hội 9giờ sáng, Cha Vê-na và Thày Khang đang ngồi nói chuyện, bà nhiêu Căn vội vàng vào báo: “ Thưa Cha, xin Cha trốn ngay, đầy tớ cai tổng đã vào đến cổng”. Cha Vê-na và Thày Khang chạy ngya vào buồng, cài then kỹ lưỡng. Buồng này có hai cửa thông ra hè, một cửa ra gian nhà giữa. Buồng có hai gian, một gian kề giường Cha Vê-na, một gian quây ba cót lúa nơi Thày Khang nằm nghỉ. Sau cót lúa là vách kép có cửa trát cẩn thận, ai không biết tưởng là vách liền.

    Tuần Đồ vào ngồi giữa nhà, còn đầy tớ ông cầm giáo mác thừng chão canh trước nhà, vì đàng sau nhà không có cửa lại ngập nước, có muốn trốn cũng không được.

    Tuấn Đồ gọi bà nhiêu Căn bảo: “ Ơ đấy chứa đảo trưởng tây, phải đưa nộp ngay”. Bà trả lời: “Thưa ông, tôi mẹ goá con côi, làm sao giám chứa tây dương đạo trưởng”?

    Đừng sợ, đưa ông tây ra đây, ta không có ý bắt đâu, ta muốn chi cho ông chỗ ẩn kín hơn.

    - Tôi mẹ goá con côi không biết việc nay, xin ông hỏi các đàn anh trong làng.

    Tuần Đồ cứ hỏi đi hỏi lại rất lâu.

    Cha Vê-na và Thày Khang ngồi trong buồng, lo âu ngồi lắng nghe. Rồi ông Tuần Đố hét lớn: “ Có Tây dương đạo trưởng mới ở Kim Bảng đến, sao còn trốn”?

    Nghe thấy thế, Cha Vê-na biết ngay là Tuấn Đồ, vọi bảo Thày Khang: “Tuần Đồ! phải thu giọn đồ đạc ngay”. Hai Cha con xếp đồ lễ vào thùng khiêng để trong vách kép, rồi lại ra nghe ngóng.

    Một giờ chôi qua bà nhiêu Căn khăng khăng nói không có ai. Tuần Đồ ra lệnh phá của buồng. Cha Vê-na vào ẩn trong vách Kép. Đầu tiên họ phá cửa bên trong, nhưng chắc qua, không phá nổi, họ phá cửa thông ra ngoài hè, mấy phút mở toang, Thày Khang ra mặt, họ túm lấy Thày lôi đến trước mặt Tuần Đồ. Ông này hỏi: “Anh là đạo trưởng hay là đầy tớ đạo trưởng?”

    - Tôi là đầy tớ đạo trưởng.

    - Ơ đây có đạo trưởng nữa không?

    - Chỉ có tôi, không có đạo trưởng.

    Tuần Đồ quát: “chúng may hãy phá vách!”

    Họ kéo đến phía vách, bắt được Cha Vê-na.

    Tưởng được lởi ai ngờ lỗ vốn

    Tuần Đồ đưa hai Cha con xuống thuyền trở đi ngay. Thày Khang ngồi ở mặn thuyền, không trói, còn Cha Vê-na, họ trói vào thang thuyền dứt chặt. Tuyền ra khỏi làng Kẻ Bèo, Thày Khang nói với Tuần Đồ: “Ông trói Cha tôi ngặt quá, xin nới ra ít chút”. Vừa nói Thày cừa cởi trói, người chèo thuyền giơ mái chéo lên quát: “Buông ra ngay không ta đánh bây giờ”. Thày Khang phải thôi. Một lúc sau Tuần Đồ nghĩ lại, truyền cởi trói Cha Vê-na, mời Cha vào ngồi khoang thuyền với ông. Ơ đây có lò sưởi vì trời rét lắm, Tuần Đồ mời Cha ăn trầu, hút thuốc. Cha hút thuốc và nói với Tuần Đồ: “Xin ông cai thương dân, đừng khai oa gia kẻo hại dân”. Tuần Đồ im lặng. Cha nhắc lại, Tuần Đồ đáp giọng cứng cỏi: “Lúc nào tôi cùng thương dân, chỉ các ông làm hại dân; con rể tôi thật khánh kiệt”.

    Lời trách móc này nhắc lại việc đã xảy ra năm trước. Con rể ông Tuần Đồ là ông cai Phan làm cai tổng đồng bào. Họ Kẻ Bẻo gửi gánh đồ đạo ở nhà một người ngoại xã ấy. Có người tố cáo với cai Pha, ông này bắt hai gánh đưa về nhà mình rồi đưa tin cho Kẻ Bèo đem 200 quan tiền sang chuộc. Họ Kẻ Bèo đó là mưu mô bắt người không giám sang. Cai Pha thấy thế đưa các đồ này vào để trong Chùa. Một người ngoại thù ông tố giác với quan phủ. Quan Phủ bắt các thứ ấy lên Tuần Đồ phải chạy tiền với quan phủ và quan Hà Nội hết 24 nén bạc, cai pha mới khỏi tội và vì thế ông này sạt nghiệp.

    Lần thứ 3, Cha Vê-na: “Xin ông cai thương dân”. Thày Khang hiểu ý ông này đòi tiền thì hỏi:

    “Ông bắt Cha con chúng tôi nộp quan hay có ý gì khác?” Nghe thế ông Tuần tươi mặt nói: “ các ông liệu được 100 nén bạc không những tôi sẽ tha ngay, lại tìm cho các ông nơi ẩn trốn vững chắc”. Thày Khang nói câu sách nho rằng: “Người nhân đức tìm làm việc nghĩa hơn là tìm mối lợi, còn người tìm mối lợi hơn là việc nghĩa là kẻ ô nhục, ông cai chọn đàng nào?”

    - Tôi xin chịu nhục, các ông liệu cho tôi 100 nén bạc, tôi sẽ xử hẳn hoi với các ông.

    Đến làng Lê Khoai, tuần Đồ đưa Cha Vê-na về nhà mình, làm tời báo quan Phủ Lý rồi mổ lợn ăn khao. Đến tối thông lại, đội lệ 20 lính đến thì ông làm cơm thết họ và mời Cha cũng nhồi năn chung với thông lại, đội lệ và cả ông nữa. Hôm ấy là ngày chay nên ông dọn cá vì Cha không ăn thịt.

    Hôm sau, Cha ngồi trong cũi, Thày Khang vai mang gồng, bị giải lên tỉnh Phủ Lý.

    Quan Phủ tỏ vẻ kính Cha, cho Cha ở ngay công đường không phải vào trại giam, và cho sang cũi khác rộng và cao hơn, đeo xiềng nhẹ. Đến bữa ăn lại cho hai Thày Hân và Lệ ở địa phận Bùi Chu đang phát lương ở phủ làm cơn cho Cha. Quan cho mọi người vào thăm tự do. Thấy Cha còn thanh niên, hình giáng thanh lịch, nét mặt tươi vui, ăn nói hoà nhã thì thương lắm, nhất là em quan phủ đến thăm Cha luôn, dỗ Cha khoá quá để khỏi phải chết sớm mà phí hoài.

    Bốn hôm sau, độ hơn 50 lính ở Hà Nội xuống giải Cha lên tỉnh. Quan phủ sợ bổn đạo đánh tháo giữa đường, lấy thêm lính phủ và quân của Tuân Đồ. Tuâm Đồ phải chịu các khoản tri phí dọc đường, nên trong vụ này ông lỗ mất 12 nén bạc. còn 300 lạng vàng thưởng thì các quan ăn cả. Khi chưa bắt Cha Vê-na, ông rất giàu có, sau khi bắt Cha, ông xa sút dần. Tưởng được lợi lớn, ông đã mở tiệc ăn khao, ai ngời phải lỗ vốn, thua to.

    Tù Phủ Lý đến Hà Nội phải đi mất 2 ngày. Cha Vê-na ngồi trong cũi có 8 người khiêng, thày Khang đeo gông đi trước. Dọc đường người ta kéo ra xem rất đông, ai cũng động lòng thương. Đến Thưòng Tín, quan phủ truyền đóng quân lại vì quan muốn xem mặt Cha Vê-na, quan đến bên cũi hỏi Cha: “ Ông là người nước nào? Pháp, Tây Ban Nha hay Ma-lắc-ca? Cha đáp: “Ông làm quan ở nước này có đi đến đâu mà biết các nước Pháp, tây Ban Nha và Ma-lắc-ca, ông hỏi làm gì? có muốn xem mặt tôi thì xem, đừng hỏi gì tôi”.

    Tôi xin chết vì người Việt Nam.

    Ngaỳ 06.12.1860, Cha Vê-na đến Hà Nội. Cũi Cha đi qua lối cửa đông ở giữa cửa có đóng một cây Thánh giá, Cha đòi phải bỏ đi, lính không chịu, cứ khiêng cũi đi. Cha thấy vậy giẫy giụa đổ nghiêng cũi lên lính phải tháo Thánh giá ra. Lính khiêng cũi thẳng vào dinh quan án trong một là thư viết về quê, Cha kể lại cuộc thẩm vấn đầu tiên như sau:

    Quan án đưa cho tôi một chén nước chè, tôi cám ơn và uống ngay trong cũi. Rồi quan bắt đầu hỏi cung tôi theo lệ thuờng.

    - Ông tên là gì? Quê ở đâu?
    - Tên tôi là Gio-an Tê-ô-phan Vê-na quê nước Pháp.
    - Ông đến đây làm gì?
    - Tôi đến giảng đạo thật cho những ai chưa biết.
    - Ông bao nhiêu tuổi?
    - 32 tuổi.

    Quan tỏ vẻ thương hai nói: “còn trẻ quá!” Rồi quan lại hỏi tôi: “ai sai ông đến đây?”Tôi đáp: “Không vua quan nào sai tôi, tự ý tôi tình nguyện đi giảng đạo mà bề trên sai tôi sang giảng đạo nước này.”

    - Ông có biết đạo trưởng Liêu (Rơ-to) không?
    - Tôi biết.
    - Ông có biết đạo trưởng Liêu viết thư cho các tướng ngụy mộ dân theo đạo Gia-tô làm giặc chông lại triều đình không?
    - Thưa quan ai đã nói điều ấy.
    - Tổng đốc Nam Định.
    - Thưa quan lớn, tôi cúng nghe nói tổng đốc nam Định bắt được các thư ấy, nhưng tôi giám chắc đó là thư mạo vì Đức Cha Liêu chúng tôi là người khôn ngoan, không đời nào làm việc dại dột ấy, chẳng những thế Người đã dạy các đạo trưởng thược quyền người cầm bổn đạo không được theo giặc.
    - Ai sai lính tây đánh cửa Hàn (Tourane) và gia đình?
    - Thưa quan lớn, Tôi cũng nghe đồn thổi tin ấy, nhưng tôi không rõ tàu ai, vào có ý gì.

    “Tôi vừa nói xong thì quan thượng vào, vừa ngồi ông nói to tiêng rằng:
    - Đạo trưởng Gia-tô, ông có nét mặt rạng rỡ, sắc sảo. Ông đã biét luật pháp nước Nam cấm những người tây không được giảng đạo, nếu không tuân, bị bắt sẽ phải giết mà ông còn dám sang ư? Tại các ông, tàu Tây mới sang đánh nước này. Ông phải khai cho thực, nếu không ta sẽ tra tấn.
    - Thưa quan lớn, quan hỏi tôi hai điều này: Một là tôi biết luật nước cấm người Tây không được đến giảng đạo cho dân này, sao còn giám giảng? Vâng, tôi biết luật này nhưng Thiên Chúa truyền tôi phải giảng đạo cho mọi dân mọi nước. Đã rõ chung tôi phải vâng lệnh vua Chúa thế gian nhưng chúng tôi phải vâng lệnh Chúa trên trời trước. Hai là tôi không xui tàu Tây sang đánh nước này, nên không phải tại tôi.
    - Ông đi bảo tầu Tây đừng đánh nữa, ta sẽ tha cho ông.
    - Thưa quan lớn, tôi không có quyền bảo tầu Tây về. Tôi có bảo, họ cũng không nghe. Nhưng nếu quan muốn, tôi ra đi, nếu không được việc, tôi xin về đây chịu chết.
    - Ông không sợ chết ư?
    - Thưa quan lớn, tôi sang đây chỉ có giảng đạo thật, tôi không phạm tội nào đáng chết. Nếu các quan có xử tôi, tôi xin chết vì người Việt Nam.
    - Ông có giận ghét người đã bắt ông không?
    - Thưa quan lớn không, đạo tôi dạy phải thương yêu những người ghét mình, làm hại mình.
    - Ông không khai những nơi ông ẩn trốn.
    - Thưa quan lớn, quan là cha mẹ dân, tôi đã đi nhiều nơi, ẩn nhiều nhà, tôi chỉ đi giảng đạo,chẳng làm việc gì khác, tôi có khai ra chỉ hại dân, con cái quan lớn, xin quan lơn tha cho tôi điều này.
    - Thôi ông đạp Thánh giá đi khỏi phải chết.
    - Thưa quan lớn, tôi đã giảng đạo Thánh giá cho đến bây giờ, lẽ nào tôi đạp Thánh giá. Tôi thà mất sự sống, chịu chết chẳng thà bỏ đạo” Cha vừa nói vừa cầm ảnh hôn.
    “Quan lại nói:
    - Nếu ông không sợ chết sao ông lại ẩn trốn?
    - Thưa quan lớn, đạo chúng tôi không được cậy sức riêng mình, không được tự nộp mình khi có thể chạy được. Vì thế tôi ẩn trốn nhiều nơi”.

    Cha thưa lại những lời lịch sự hẳn hoi, vẻ mặt tươi vui rạng rỡ nên các quan nể Cha, không nỡ đánh đập như các đấng khác.

    Quan vừa hỏi cung xong thì có Đỗ Tú là người tham chức quyền giàu sang, đi bắt đạo, năm Tự Đức thập nhị niên trong vòng một tháng ông đã bắt được bốn Cha, đã được thưởng 400 lạng bạc và bằng cửu phẩm, ông hỏi Cha Vê-na rằng: “Ông có biết rõ Cố Đông (Tơ-ren) bây giừo làm giám mục ở đâu? Tôi muốn biết mặt ông ấy mà chưa đựơc gặp”. Cha Vê-na bảo ông: “Ông làm nghề bắt đạo thì hèn lắm, ông phải biết bằng cửu phẩm ông đã được thì chẳng khác gì hoa mùa xuân, sớm nở tối tàn chẳng được bao lâu”, Các quan và mọi người đều cười và không tin. Nhưng lời tiên tri này thực hiện. Năm năm sau khi bắt được bốn đạo trưởng, Đô Tú lên làm chủ kho Phủ Lý, nhưng vì tiêu vào tiền công khố, nên phải tội. Cửa nhà bị tịch thu, phải sung quân, rồi phải bệnh chết khốn nạn.

    Hỏi cung xong, các quan bắt Cha làm tờ khai để theo đó mà dựng án. Trong tờ khai không nói đến một ai vì cứ theo lời Tuần Đồ là bắt được hai Cha con thuyền nhỏ giữa sông. Thày Khang viết, Cha Vê-na ký. Các quan bắt phải viết là Gia-tô tả đạo, nhưng Cha cương quyết không chịu, nên các quân cũng thôi.

    Khai xong, các quan khép Cha phải án trảm quyết, bêu đầu Cha ba ngày rồi ném xuống sông, Thày Khang là đạo đồ bất khẳng khoá quá phải phát lưu Hưng Hoá.

    Những ngày đợi chờ phúc tử đạo.

    Tra hỏi xong, Cha Vê-na phải giam trong cũi ở dinh quan Tổng Đốc, không phải đưa vào trại, vì cũi trước thấp bé chật hẹp nên quan truyền thay cũi khác rộng rãi hơn, Cha đứng được trong ấy chỉ phải cúi đầu xuống một ít. Trong cũi trải chiếu hoa, chung quanh cũi đóng bốn cọc, chằng giây để người ta khỏi đến gần.

    Có ba đội lính để thay đổi canh gác, thỉnh thoảng Cha được ra ngoài đi bách bộ, giờ cơm Cha ăn cơm ở ngoài, ai xin vào thăm cũng được. Lính canh đối sử lịch sự tử tế với Cha. Khi mới phải giam, quan phát mỗi ngày sáu tiền để làm cơm cho Cha, nhưng sau Cha thấy không tiện nên nhờ cai đội xin quan để bổn đạo thu xếp lấy lẽ không quen làm cơm nên ông Tây không ăn được, sịư sinh bệnh sẽ chết trong cũi. Từ đấy Thày Lễ là người Đức Cha cử coi sóc các tù có đạo ở Nam Định giao cho bà Nghiêm ở trong thành làm cơm.

    Quan Tổng đốc Hà Nội Hoàng Văn Thu là người tốt có lòng thương dân, rất kính trọng Cha Vê-na. Ông không hành hạ Cha lại hay dọn cỗ mời Cha. Trong hai tháng bị giam cầm, Cha không bỏ phí thời giờ, không tiếp khách thì Cha đọc kinh, lần hạt, đi bách bộ. Ông bếp Khánh kể lại rằng: “Cha Vê-na đạo đức sốt sáng lắm, lần nào tôi có việc đến gặp Cha thì thường gặp Cha đang đọc kinh. Sáng tối Cha hát La-Tinh, lúc nào Cha cũng vui tươi.

    Bị giam 20 ngày, Cha Vê-na viết thư xin Đức Cha Tơ-ren lo liệu cho mình được xưng tội chịu lễ. Đức Cha đang ẩn ở Kẻ Trừ, dạy Cha Thịnh Phó xứ Kẻ Sét đi giải tội và kiệu Mình Thánh Chúa cho Cha Vê-na, Đức Cha dặn Cha Thịnh nhờ ông Phao-lô Hương Mới, đầy tớ quan án thu xếp. Việc này rất nguy hiểm vì có các cửa thành đều đóng Thánh giá, quan lại ra lệnh canh phòng Cha cẩn thận không ai được đến gần. Ông Hương Mới đưa Cha Thịnh đến giải tội cho Cha Vê-na bình an. Cha Thịnh mang Mình Thánh theo nhưng không giám đưa cho Cha Vê-na sợ lộ. Cha giao cho bà Nghiêm, tối hôm ấy bà đưa vào cho Cha Vê-na. Cha giữ trong người, chầu cho đến nửa đêm thì chịu lễ.

    Cha Vê-na ước mong chóng đến ngày được đổ máu ra vì Chúa Ki-tô. Không thấy án ở kinh ra, Cha thường bảo bà Nghiêm và bà Mẫn là người quen đưa cơm vào cho Cha rằng: “Các Cha khá chỉ đợi non một tháng, còn Cha đã gần hai tháng rồi, mà sắc chỉ vẫn chưa có, Cha cảm thấy lâu lắm”.Thỉnh thoáng Cha cũng hay hỏi ông bếp Khánh và người nhà quan đến thăm cho biết án mình đã ra chưa, khi náo có xin báo cho ngay. Cha chờ bà Nghiêm may cho bộ áo mới trọng thể để mặc khi xử.

    Trong các thư viết từ giã Đức Cha, các người ân nhân đã chứa mình lâu ngày, từ giã họ hàng, Cha tỏ ra lòng khát khao ngày chiến thắng, lời văn khoé léo nhẹ nhàng vui tươi dù lúc đó đã gần ngày phải xử và phải viết trộm vụng ban đêm.

    Bông hoa xuân chủ vườn muốn hái.

    Trong một lá thư viết từ giã Cha già, Cha Vê-na ví mình như bông hoa mùa xuân mà lưỡi gươm tử hình chỉ là bàn tay ông chủ vườn hoa hái về trưng bày. Đêm ngày 1.2.1861 án trong kinh ra tới nơi. án đề rằng: “ Tây dương đạo trưởng Vê-na, 31 tuổi, đã biết luật nước Nam cấm đạo Gia-tô, còn giám sang giảng đạo ấy để lừa dối dân. Đã phải bắt, tra hỏi nhận các tội ấy. Tội nó đã rõ. Chiếu luật nó phải trảm quyết, bêu đầu ba ngày rồi ném xuống sông”.

    Đức Cha Tơ-ren kể lại rằng: “Sang ngày 2.2.1861, Cha vê-n ăn sáng như thường lệ rồi đi bách bộ ngoài vườn. Bà Nghiêm Theo Cha nói: “Thưa Cha, Cha phải xử hôm nay”. Cha Vê-na không tin nghĩ rẳng mình phải điệu vào kinh. Bà này thưa: “Đúng là Cha phải xử hôm nay, voi và lính đã xếp hàng tề chỉnh, lát nữa là Cha phải đưa đi xử”. Cha tin, đi về cũi phân phát các đồ đạc mình cho người chung quanh.

    Lúc đó chị xin người Kẻ Sét, Cha Thịnh sai đưa Mình Thánh cho Cha Vê-na chịu như của ăn đàng, vừa đến, chị thấy lính tráng thì sợ hãi lúng túng tiến đến thẳng cũi định đưa ống đựng Mình Thánh cho Cha. Lính thấy thế tưởng chị đưa thuốc độc, bắt trói và bắt cả ống đưng Mình Thánh. Bà Nghiêm quen lính chạy và bảo: “Không phải thuốc độc đâu, đây là của chúng tôi quen ăn sắp chết để về Thiên Đàng, chú không trả lại, chú sẽ chết”. Cha Vê-na cũng bảo người lính ấy rằng: “Ai giám mở ống ấy ra sẽ phải chết”, lính sợ quá đưa cho bà Nghiêm, bà nộp lại cho Cha Thịnh, vì vậy Cha không được chịu lễ như của ăn đàng.

    Các quan đòi Cha lên nghe án. Nghe xong, Cha nói mấy lời công khai tuyên bố mình đến đây dạy đạo thật và mình chịu chết vì đạo này, cuối cùng Cha nói với các quan rằng: “Ngày kia chúng ta sẽ gặp nhau trước toà phán xét”.

    Nghe thế, quan án sợ hãi bảo: “Ông chết là tại ông, ta chỉ xin ông đừng oán trách’’. cha Vê- navui vẻ trả lời: “Xin quan đừng lo, tôi sẽ cầu cho các quan đươc phúc, xin các quan ở lại, tôi về thiên đàng ’’.

    Đoàn áp giả tù lên đường tới pháp trường, cha đi giữa bốn người lính cầm gương. Quan giá sát đi trước, voi và hơn bốn trăm quân theo sau. Đến cửa Bắc, Cah đồi phải cất Thập giá rồi mới đi qua. Quá cửa thành chừng 300 thước, Cha để tay lên ngực, đưa mắt nhìn chung quanh tìm Cha Thịnh giải tội cho như đã hẹn trước, nhưng vì không được tin, Cha Thịnh không lên kịp. Mọi khi quen sử tù ở ô cầu giấy, nhưng Cha Vê-na vì đầu phải vứt xuống sông nên phải đi qua phố hàng đậu để rẽ ra bờ sông.

    Cha mang xiềng, mặc áo the mới, nét mặt vui vẻ, hồng hào, vừa đi vừa hát La Tinh to tiếng. Mọi người ngạc nhiên thán phục.

    Tới nơi sử lính đóng vòng tròn, Cha Vê-na ở giữa, không ai được đến gần Cha, trừ bà Nghiêm. Cha Vê-na nhìn đám đông tìm Cha Thịnh, vẫn không thấy. cha đưa dép cho bà Nghiêm rồi ngồi vào chiếu, lính đến bẻ xiềng Cha. Lý hình chém cha hôm đó tên là Tuế, lưng gù, có biếu, chông như phường chèo, tên này trước đây đã sử bốn Cha.

    Anh đến nói với Cha Vê-na như quen nói với các tù nhân thường: “Ông cho tôi mấy quan, tôi sẽ sử ông cho mát mẻ”, nhưng anh nhận được câu trả lời rất khác thường: “Càng lâu, càng tốt”. Thấy Cha mặc quần áo mới nguyên không dính máu, anh xin cởi ra, trước Cha không bằng lòng, sau anh nói dối rằng: “Ông phải sử lăng trì”. Bấy giờ chắc không phải Cha tin lời bịa đặt của anh, nhưng có lẽ Cha cảm thương tên lý hình bất hạnh này, hay Cha muốn bắt trước gương Thày Chí Thánh chết trần trụi trên thập giá, Cha cởi hết khăn áo, chỉ còn mặc một cái quần. Sau đó, lính trói Cha vào cọc. Ba hồi chiêng lệnh vừa dứt, lý hình chém nhát thứ nhất, đầu nghiêng bên vai, hai nhát sau gươm gẫy, phải lấy gương khác. Chém hai nhát nữa đầu Cha Vê-na mới gục xuống ngực, lưỡi gươm cong lên, lý hình lấy chân uốn gươm lại, cứ cổ Cha mới đứt, anh tung đầu lên cho quan giám sát trông thấy. Ai dự buổi sử cũng ngậm ngùi cảm thương tiếc sót người thanh niên tuấn tú khôi ngô. Hôm ấy là ngày 2.2.1861, một ngày có sự trùng hợp lạ lùng, ngày sinh cho nước trời của Cha Vê-na, ngày giáo hội mừng lế Đức Mẹ Dâng Con trong Đền Thánh. Đức Mẹ cũng dâng người con yêu dấu của mình lên Thiên Chúa.

    Hôm ấy trong các Thánh đường tưng bừng nến sáng, nếu Đức Tin trong ngày Rửa Tội, phải chăng đó là tượng trưng cho cuộc tuyên xưng Đức Tin anh hùng của Cha Vê-na. Hôm ấy các Thánh trên Trời vui mừng đón bông hoa xuân tươi thắm chủ vườn hái về trang điểm cho thành Giê-ru-sa-lem mới.

    Dân sở tại lấy đầu Cha Vê-na đem bêu như lời quan truyền, cón xác Cha nằm trên chiếu một lúc lâu vì chưa có quan tài; bà Nghiêm, bà Mẫn, cô Ân, cô Lý và mấy bà có đạo ngồi bên xác khóc lóc to tiếng. Một người lái buôn quê Nghệ An thấy xác Cha nằm trần thì thương, ông cởi áo đang mặc phủ lên người Cha. Một lúc sau, bổn đạo họ trại phong đưa quan tài đến, nhưng không có người đào huyệt. Ông Hương mới nói với ông Tài, người có đạo xứ Kẻ Lường đang làm quyền xuất đội, xin ông giúp việc mai táng. Ông này sai lính đào huyệt ở nơi sử, ngay cạnh bờ sông. Người ta liệm xác Cha và khăn vải và chiếc chiếu cha quỳ khi phải sử.

    Tháng năm sau Cha Thịnh sai hai ông Lý Vững và Hưng mới đào chộm xác đưa về Đồng Trì. Đến khi tha đạo, Cha Chính Puy-gi-ni-ê (1) (Phước) bốc hài cốt Cha Vê-na đưa về Kẻ Đầm, ghi từng cái một, nộp Đức Cha Găng-tê. Năm 1865 đưa hài cốt về Pháp. Khi bốc xác Cha Vê-na có Cha Thịnh, Thày Lễ và ông Hương Mới, có ông Lý Vững đã qua đời.

    Đầu Cha phải bêu ba ngày trên ngọn cây luống cắm cạnh bờ sông. hai ông Lý Vững và Hương Mới tìm cách lấy lại đầu Cha. Họ buộc mấy lưỡi cây vào ba bốn chục sải giây gai, Hai lưỡi câu mắc vào tai cho vững, còn giây một đầu buộc vào lưỡi câu, một đầu buộc vào tầu lá chuối làm phao. Hai ông bàn với dân sở tại và họ đồng ý.



    Hài cốt Thánh Ven


    Đến tối ngày thứ ba, quan huyện thọ sương đi bỏ đầu Cha xuống sông thuyền chở ra đến giữa sông, ông này truyền bỏ đầu xuống. Người ta tung đàu xuống thật nhưng giữu lại đầu giây buộc vào mạn thuyền. xong việc chèo thuyền về, gần đến bờ có tiếng kêu: “Quan huyện đến khám, họ sợ quan bắt được, kéo mạnh cho đứt dây, vì thế không tìm được đầu.

    Hai ông Lý Vững và Hương Mới không thát vọng, họ thuê hai thuyền đánh cá rà dưới sông hai ba ngay liền cũng không thấy. Tết đến, công việc phải bỏ dở. Ngày 5 tháng giêng, ông Lý Vững thuê thuyền đi Hà Nội có ý đào trộm xác, nhưng ngăn trở không thành. Khi thuyền trở về đến Vụng Nhót, lái thuyền thấy có cái gì đó lập lờ trên mặt nước lúc đen lúc trắng thì bảo ông Lý Vững ra xem là cái gì, ông này bảo chở thuyền đến đấy, lấy vợt vớt lên đưa vào thuyền. Ông Lý nhận ra là đầu Cha Vê-na, chỉ còn lại một lưỡi câu buộc ở tai bên phải với đoạn giây gai ngắn. Ông đặt đầu Cha vào túi đựng tiền, đưa về nhà mình ở Đồng Trì, rồi báo tin cho Cha Thịnh ở Kẻ Sét biết. Cha Thịnh xuống Đồng Trì ngay khi biết chắc là đầu Cha Vê-na thì lấy vải liệm, cho vào một nồi đưa về cho hai Đức Cha đang ẩn ở Kẻ Trừ. Đầu Cha Vê-na được rửa bằng nước hoa, lau chùi sạch sẽ, cho vào nồi đất táng ở nhà ông Xạ xứ Kẻ Trừ.

    Năm 1879, Đức Thánh Cha Lê-ô XIII phong Cha Tê-pha-nô Vê-na lên bậc đáng kính và ngày 2.5.1909, Đức Thánh Cha Pi-ô X phong chân Phúc cho Người.

    Ngày 19.6.1988 Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn chân Phúc Tê-ô-Phan Vê-na lên bậc hiển Thánh.

    Giuse Trần Văn Bắc (VietCatholic)


  2. Có 3 người cám ơn littlewave vì bài này:


  3. #2
    littlewave's Avatar

    Tham gia ngày: Aug 2007
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,529
    Cám ơn
    3,391
    Được cám ơn 8,037 lần trong 1,863 bài viết

    Arrow Các bức thư của Cha Vénard (Ven) gửi gia đình

    Các bức thư của Cha Vénard (Ven)

    Thư thứ 1: Gửi Gia Đình.

    Từ nhà tù Kẻ Chợ, cựu Kinh đô xứ Bắc ngày 02 tháng 01 năm 1861.
    Kính thưa Cha, Mẹ, thăm em, thăm chị quý mến.

    Con viết thư cho Cha mẹ vào đầu năm nay, hẳn là năm cuối cùng của đời hành hương của con trên cõi trần. Con đã gửi một lá thư nhỏ để báo tin cho cha mẹ biết con đã bị bắt ngày 30 tháng 11, ngày lễ thánh Anrê trong một làng có đạo. Thiên Chúa đã để cho con bị bắt vì một người xấu mới theo đạo, nhưng con không thù hận nó. Từ làng đó con được đưa về phủ và con đã ghi mấy dòng chữ từ biệt, lúc người ta lấy gông cùm kẻ sát nhân đặt vào cổ con, cẳng chân con. Con đã hôn cái xiềng xích xinh đẹp đó, là xiềng xích đích thực của con, làm cho con thành nô lễ Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria. Con sẽ không hề đổi để lấy vàng lấy bạc đâu. Viên quan đã có nhã ý thưởng riêng cho con một xích nhẹ hơn và trong 3 ngày họ cầm giữ con, vì chờ một toan tính từ phủ tới điệu con đi, ông đã đối xử với con rất nhã nhặn. Ông chú của ông ít ra đã mười lần bảo con đạp ảnh Thánh giá, vì thương con, thấy con đi đến cái chết lúc còn xuân xanh.

    “Khi ra khỏi phủ thì rất đồng người chờ đón con đi qua; một Kitô hữu trẻ tuổi tù tội vì Phúc âm, đã không sợ đến quì trước cũi con và trước mặt các viên quan, vì rất đông người, nhận con là xứ giả của Thượng đế”.

    “Sau 2 ngày, con tới Kẻ Chợ, Kinh đô của xứ bắc. Cha mẹ con điềm đạm ngồi trong cũi gỗ, có 8 lính khiêng giữa đám dân rất đông, họ đổ nhau ra xem không?. Con nghe họ xì xào với nhau rằng: “Người Tây Dương xinh quá hừ! xem ra ông không sợ hãi! ông này có tội tình gì đâu! ông tới nước Annam để làm sự lành, sự phải, thế mà người ta đem sử tử ông!...v.v”.

    “Bọn con vào thành qua cửa đông và người ta dẫn con tới toà hình sự. Thày giảng của con tên là Khang, Cũng bị bắt cùng với con, Thày đi theo sau cũi con, cổ đeo gông, con cầu xin Chúa Thánh Thần cho Thày và con được vững niềm tin và nói qua miệng cho chúng con theo như Chúa Cứu Thế đã hứa. Con khẩn cầu Nữ Vương và các Thánh Tử đạo và khẩn này người giúp đỡ tối tớ hèn mọn của Người”.

    “Trước hết quan toà thưởng cho con một chén chè tầu, con uống ngon lành trong cũi. Rồi ông bắt đầu tra hỏi theo tục lệ. Ông hỏi con ở đâu và con thưa con ở nước Đại Tây Dương tên là Pháp
    - Anh tới nước Annam làm gì?
    - Tôi chỉ đến giảng đạo thật cho những người chưa biết mà thôi
    - Anh mấy tuổi?
    - 31 tuổi.
    Quan toà có vẻ thương hại: “Chà còn trẻ quá à!” Rồi ông hỏi:
    - Ai sai Anh tới đây?
    - Không phải vua, cũng không phải quan nước Pháp sai tôi. Tự ý tôi, tôi tự nguyện đi giảng cho lương dân; và các đấng bề trên trong đạo tôi chỉ cho tôi nước Annam là nơi tôi đến giảng
    - Anh có biết giám mục Liêu không? (đó là tên Việt của Đức Cha Retord)
    - Có.
    - Tại sao giám mục Liêu đã biên thư cho tướng phản động để mộ người có đạo?
    - Tôi dám xin quan, quan căn cứ vào đâu mà có tin đó?
    - Tỉnh trưởng Nam Định đã biên thư cho chúng ta
    - Vậy thì tôi làm chứng, đó là không đúng sự thật. Đức Giám mục Liêu là người rất khôn ngoan không thể làm điều dại dột như thế; nếu bắt được giấy tờ thư từ thì là giấy giả mạo. Tôi biết có một thư chung của giám mục Liêu Viết cho các Linh mục, ngài cấm không được theo các tướng phản động và Ngài tuyên bố nghìn lần thà chịu chứ không hề nhúng gậy giám mục vào vũng máu.- Nhưng còn giặc Tây dương đã chiếm đà nẵng và Đồng Nai thì ai sai chúng?- Thưa quan tôi nghe nói chung quanh tôi là có giặc giã chiến tranh, nhưng vì không liên lạc với những giặc Tây dương đó nên tôi không thể trả lời câu hỏi của quan được.

    “Thế rồi ông tỉnh trưởng tới. Vừa ngồi ông liền quát lên một tiếng rùng rợn: “à! Anh có bộ mặt đàng hoàng, Anh biết rằng luật Annam cấm không cho người Tây dương vào xứ này, anh tới đây tìm cái chết để làm gì? chính anh đã xúi tàu tây tuyên chiến với chúng ta phải không?, anh phải nói thật, nếu không anh sẽ bị tra tấn.- Thưa quan lớn, quan hỏi tôi 2 điều: Về điều thứ nhất, tôi xin trả lời: là sai viên của vua trời đất, tôi đến giảng đạo thật cho người chưa biết, bất cứ ở đâu, bất cứ ở nước nào. Chúng tôi rất tôn trọng quyền các vua dưới đất này, nhưng chúng tôi còn tôn trọng quyền vua trời hơn nữa. Về điều thứ 2 tôi đáp là không bao giờ xúi dục người Tây dưong tuyên chiến với nước Annam.- Vậy thì anh có muốn đến bảo chúng rút quân đi và ta sẽ tha cho anh?- Thưa quan lớn, tôi không có quyền chức gì để dàn xếp việc như thế; nhưng nếu nhà vua trao cho tôi xứ mệnh đó, thì tôi giám chắc là sẽ thất bại trước va không trì hoãn tôi sẽ trở lại nhận cái chết- Anh không sợ chết ư?- Thưa quan lớn, tôi không sợ chết. Tôi đến đây giảng đạo thật, tôi không phạm tội trọng nào đáng chết; nhưng nếu nước Annam giết tôi, thì tôi sẽ vui mừng đổ máu vì nước Annam. – Anh có hận thù người đã bắt anh không?- không hề, đạo Kitô dạy phải yêu những kẻ ghen ghét mình.- là Đạo Trưởng, Anh phải kê khai các nơi đã chứa chấp anh cho tới ngày hôm nay.- Thưa quan lớn, người ta thường gọi quan lớn là phụ mẫu dân: nếu tôi kê khai, thì tôi sẽ làm khổ cho dân rất nhiều. Quan lớn hãy nghĩ mà xem, việc đó có nên hay không? –hãy đạp Thập Giá đi thì Anh sẽ được thoát chết. – Sao! Tôi giảng đạo Thánh Giá cho tới ngày hôm nay mà quan lớn lại muốn tôi chối bỏ ư? Tôi không quá thiết sự sống đời này để có thể đổi lấy bằng một sự chối đạo. – Nếu anh quí chuộng cái chết, thì sao anh lại đi chốn ẩn để khỏi bị bắt? – Thưa quan lớn, đạo dạy không được quá tự kiêu ttự đại để ra nộp mình. nhưng trời cho phép tôi bị bắt, tôi xin Người sẽ cho tôi ơn để tôi chịu tất cả các cực hình và trung kiên cho tới chết.

    “ Tóm lại đó là các câu chất vấn quan trọng hơn cả người ta đem ra hỏi con và bắt con đối đáp. Các quan cũng tra hỏi thày giảng của con và đánh đập thày mười trượng. Chúa đã cho Thày sức chịu đựng và tuyên xưng đức tin”.

    “ Từ ngày con ở trong cũi đặt ở nhà quan tỉnh trưởng, dưới mắt một đội lính vệ Đàng Trong, có nhiều người thuộc nhiều cấp bậc trong xã hội tới thăm con và nói chuyện với con. Người ta cứ nhất định cho con là một lương y mát tay, một nhà thiên văn lỗi lạc, một thày bói, một tiên tri biết trước hết mọi sự. Vì thế, có khá nhiều người nghiêm chỉnh xin con đoán số cho họ. Có người hỏi con về tình hình âu châu, về nước Pháp hay tóm lại, về thế giới. Thế là con có dịp soi sáng cho họ về nhiều điều lắm, những điều mà họ có những suy nghĩ rất kì khôi. Con cố gắng cho họ biết về sự rỗi linh hồn; những người Annam có tính nhẹ dạ hời hợt,- không thích nghe những điều nghiêm chỉnh. Trái lại họ có lòng rất tốt, họ để ý tới con và thương con. lính canh gác con cũng tỏ ra mến con và mặc dầu 2 lần họ bị quan trên quở, vì để cho con ra khỏi cũi để đi bách bộ thở không khí tốt, họ vẫn thỉnh thoảng mở cũi cho phép con đi dạo 10 phút.

    “Nhưng con phải nói là tất cả không phải tàon hoa hồng và hương thơm đâu. Nếu rất nhiều người có thiện cảm với con, thì cũng có người chửi bới con, chế nhạo con, nói xấc xược với con. Xin Chúa tha thứ cho họ”.

    “Bây giờ con bình tĩnh chờ ngày Thiên Chúa cho phép con dâng máu con lên Ngài. Con không tiếc đời sống trần gian này; Lòng con khát nước hằng sống. cuộc lưu đầy sắp chấp dứt; con đặt chân lên đất quê thật: Đất lui đi và trời mở ra. Vĩnh biệt Cha, vĩnh biệt chị, em! Đừng khóc con nhé. hãy sống bình an trong cuộc đời ngắn ngủi này. hãy giữ đạo. đừng để mình lỗi phạm. một ngày kia, chúng ta sẽ gặp nhau trên thiên quốc và sẽ hưởng hạnh phúc thật cùng với Thiên Chúa, Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, các thiên thần và các thánh. Vĩnh biệt! Con muốn viết cho từng người một, nhưng không thể làm được, Cha có thể đoán được cõi lòng con, thưa cha yêu quí, cha già yêu quí, chị Mélanie người thân yêu, Henri quí mến, Eusèbe thân thương. Vĩnh biệt tất cả những người đã yêu thương con, nhất là linh mục Pariot thân thương! từ 3 năm nay con không nhận được tin tức từ Pháp. Con không biết ai còn, ai mất. Vĩnh biệt !

    “Tù nhân của Chúa Giêsu Kitô gửi tới tất cả lời chào vĩnh biệt. Trng ít ngày nữa, chắc là của lễ sẽ hoàn tất.
    J. Th. Vénard kí

    Thư thứ 2: Thư Gửi Cha.

    Đông Kinh đàng ngoài ngày 20 tháng 01 năm 1861.
    “Thưa Cha rất yêu quí, rất đáng kính, rất thân thương, vì con phải chờ án xử, nên con muốn gửi tới cha lời vĩnh biệt mới nữa, hẳn là lời cuối cùng. Nững ngày tù tội của con cứ trôi đi bình thản; hết những người chung quanh con đều quí con, có một số lớn rất mến con. Từ viên quan lớn cho tới tênlính cuối cùng, tất cả đều phàn nàn về luật nước lên án xử tử con. Con không bị tra tấn rùng rợn như số đông các bạn con. một nhất kiếm sẽ cắt đầu con, như bông hoa xuân bác làm vườn hái để hưởng. Tất cả chúng ta đều là những bông hoa trồng trên cõi đất và Thiên Chúa đến thời sẽ hái, sớm hơn một chút, muộn hơn một chút thôi. Có hoa hồng đỏ thắm, có hoa huệ tinh khiết, có hoa tím khiêm nhừơng. Tất cả hãy cố gắng theo hương thơm hay sắc đẹp Thiên Chúa ban cho để làm đẹp lòng Chúa toàn năng và làm chủ. Con xin chúc cha, thưa cha quí mến, một tuổi già trường tho, thanh thản và đức hạnh. Hãy dịu dàng vác cây giá trần thế này theo chân Chúa Giêsu cho tới núi sọ chịu chết thanh thản. Cha con ta sẽ gặp nhau trên thiên đàng. Còn con là hoa phù dung, con ra đi trước mọi người. Vĩnh biệt.”

    “Đứa con rất có hiếu và rất quí mến cha.
    J. Théophane Vénerd, thừa sai tông toà, kí”

    Thư viết cho cụ thân sinh, nhưng thực ra cụ đã mất được 18 tháng rồi, Cha Vénerd đâu có biết. Cụ thân sinh làm thư kí toà án ở Saint Loup sur Thouet.

    Thư thứ 3: Thư Gửi Chị

    Trong cũi Đông Kinh Đàng Ngoài ngày 20 tháng 01 năm 1861.
    “Chị thân yêu, mấy ngày trước đây em đã gửi một thư chung cho tất cả gia đình, trong đó em cho biết những chi tiết về viẹc em bị bắt và bị tra hỏi; thư đó đã được chuyển đi và hy vọng chị đã nhận được. Bây giờ ngày cuối cùng đời em sắp tới, em muốn gửi riêng cho chị, chị quí mến và bạn thân của em ơi, mấy dòng chữ vĩnh biệt rieng biệt; vì chị biết đó, hai tâm hồn chị em ta đã hiểu nhau và mến nhau từ thuở nhỏ. Chị không có gì dấu diếm em Théophane Vénerd của chị, và em cũng thế, em không giữ gì riêng mà không cho Ménalie của em biết. Khi còn là học trò lớp tiểu học, mỗi năm em rời bỏ nhà để đi trường học, thì chị đã sủa soạn khăn gói cho em, về sau này, đã chia sẻ những niềm vui ngọt ngào của chủng sinh; chính chị đã dâng lời cầu nguyện sốt sáng để củng cố ơn kêu gọi thừa sai đi truyền giáo cảu em. Chính chị, chị Ménalie thân thương ơi, với chị, trong đêm 26 tháng 2 năm 1851 là đêm cuối cùng, hai chúng ta đã đàm đạo với nhau rất thân mật, rất dịu dàng, rất thánh thiện, như buổi đàm đạo giữa Thánh Biển Đức và chị Thánh Ngài. Và khi em đã vượt trung dương để tới tưới mồ hôi và máu em trên mảnh đất Annam này, thì các thư chị viết cho em, những cánh nhạn thân thương, đã đều đều theo em để an ủi em, khích lệ em, cho em có sức mạnh. cho nên rất nên, rất phải, theo lẽ công bằng vào giây phút cuối cùng trước buổi tế lễ hy sinh này, em nhớ đến chị, chị quí mến ơi, và gửi tới chị một kỉ niệm tối hậu.

    “Gần nửa đêm rồi, chung quanh cũi gỗ của em là đao, là kiếm; trong một góc phòng bọn lính đánh bài, bọn khác đánh cờ. Thỉnh thoảng bọn lính đánh trống cầm canh. Cách em 2 thước, ngọn đèn chập chờn chiếu trên trang giấy bản cho phép em vạch những dòng chữ này. Ngày lại ngày, em chờ bản án. Có lẽ ngày mai em sẽ bị đi tới chỗ chết. Cái chết hạnh phúc phải không Chị? Cái chết mong muốn dẫn tới sự sống!... Theo phỏng đoán xác thực thì em sẽ bị chém đầu; sỉ nhục vinh quang trả bằng giá Thiên Đàng! Được tin này, chị thân yêu ơi, chị sẽ khóc, nhưng khóc vì hạnh phúc. Chị hãy thấy em chị, có hào quang tử đạo trên đầu, cành lá toàn thắng chễm chệ trên tay. Chỉ còn ít nữa thôi và hồn em sẽ từ giã cõi đất này, sẽ hết tù đày, hết chiến đấu. Em lên trời, em đặt chân lên quê hương, em chiếm giải thắng trận. Em sẽ gia nhập cõi những người được chọn: nhìn thấy những vẻ đẹp mà mắt con người chưa bao giờ thấy, nghe những điều du dương mà tai chưa bao giờ nghe, hưởng vui sướng mà lòng chưa bao giờ được nếm. nhưng trước đó thì hạt lúa phải được xay cho nát, trái nho phải được nghiền cho tan. Em sẽ là tấm bánh, là ly rượu theo sở thích của gia trưởng ? Em tin thế nhờ ơn Chúa cứu Thế. Sự bảo trợ của Mẹ vô nhiễm; cho nên, vẫn còn ở đấu trường, em dám cất giọng hát bài ca toàn thắng, như thể em đã được giải toàn thắng.

    “Còn Chị, chị thân mến ơi, em để chị ở lại trong ruộng vườn các nhân đức và các việc lành phúc đức, chị hãy hái nhiều công phúc dành cho sự sống đời đời đang chờ đón hai chúng ta; hãy gặt hái đức tin, đức cậy, đức mến, đức kiên trì, đức hiền từ, đức can tràng, một cái chết lành thánh ”!...

    “Vĩnh biệt, chị Mélanie ơi! Vĩnh biệt, chị yêu thương, vĩnh biệt!

    Em chị
    J. Th. Vénard, Thừa sai tông toà, kí

    Thư thứ 3: Thư gửi em trai

    Ngày 20 tháng 01 năm 1861
    “Em yêu quý”,

    Nếu anh không viết riêng cho em mấy chữ thì em lại ghen và ghen có lý. Em xứng đáng vì em đã viết cho anh khá nhiều thư rất hay, rất thân thương lại khá dài nữa. Đã lâu anh không nhận được tin em; bây giờ em đã là linh mục và biết đâu? có lẽ là thừa sai cũng nên. Dẫu sao, khi được lá thư nhỏ này, thì anh của em không còn ở dưới thế xấu xa này nữa: totus in maligno positus, tất cả chìm đắm trong bể tội ác. Anh sẽ từ giã cõi đời này về tới một cỗi đời khác tốt hơn, nơi em sẽ cố gắng tới gặp lại anh một ngày kia. Anh của em sẽ bị chặt đầu; Anh của em sẽ đổ máu ra vì mục tiêu rất cao cả, vì Thiên Chúa. Sẽ chết vì đạo !...Đó là cái mộng từ thuở bé. Khi còn là đứa trẻ 9 tuổi, anh chăn dê trên đồi Bel Air, Anh say sưa đọc cuốn sách nói về đời sống và cái chết của chân phúc Charles Cornay (cha Tân tử đạo ở Tây Sơn năm 1837) và anh tự nhủ: “Còn tôi, tôi cũng muốn đến Đàng Ngoài và tôi cũng muốn chết vì đạo”. Cái sợi dây Quan Phòng sao mà đáng quí thế ! nó đã đưa anh qua hang hầm cuộc sống cho tới Đàng Ngoài, cho tới tuẫn giáo ! Hãy chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa với anh, em Eusèbe ơi, Thên Chúa nhân từ và thương xót đã săn sóc con người yếu đuối này. Attraxit me miserans met “Người đã thu hút tôi, thương xót tôi”.

    “Em Eusèbe quí mến ơi, anh đã yêu và còn yêu dân Annam bằng một tình yêu nồng nàn. Nếu Thiên Chúa đã cho anh sống lâu năm, thì thiết tưởng anh sẽ tận hiến trót cả đời anh, xác và hồn, để xây dựng giáo hội Đàng Ngoài. Nếu hư sức khoẻ của anh yếu như cây sậy, không cho phép anh làm những việc lớn, thì ít ra anh để hết tấm lòng vào công việc. Cứ nói: mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, sống chết tại Trời. Đối với chúng ta, nếu Người cho ta sống, thì hãy sống vì Người; nếu Người đòi ta chết thì hãy chết vì Người.

    “Còn em, em yêu quí ơi, em còn trẻ tuổi, em còn sống sau anh trên cõi đời này, chèo chống giữa cồn đá. Hãy điều khiển con thuyền cho khéo. Hãy lấy khôn ngoan làm tay lái, khiêm tốn làm khối nặng, Thiên Chúa làm kim chỉ nam, Maria vỗ nhiễm làm neo trông cậy. Và bất chấp mọi nản lòg thối chí, bất chấp mọi đắng cay, chúng như biển động, tràn ngập tâm hồn em, em chớ để chúng làm đắm chìm đức can trường của em; nhưng như tàu Noe, em hãy luôn luôn bơi trên trùng dương biển cả... Đèn của anh hết dầu, không chiếu sáng được nữa.

    “Em của anh ơi, Eusèbe của anh ơi, vĩnh biệt em cho tới ngày em lên gặp anh trên trời!

    “Người anh rất thân thương của em,
    J. Th. Vénard, Thừa sai tông toà, kí

    Trước những lá thư viết trong ngục rất xúc động, rất nhân loại và cũng rất linh thiêng này, chúng tôi không dám lên tiếng nói gì vì sợ chạm vào cái giây cảm xúc và bật ra tiếng khóc. Vẫn biết viết là để giải toả tâm can, để cho vợi nỗi sầu đè nặng bên lòng, nhưng trước cái chết sẽ thê thảm, sẽ đẫm máu mà còn bình tĩnh, không sợ, không tủi, không hờn thì phải có tâm trạng một Đấng Thánh.

    Là nhà tu hành, nhưng vẫn còn là người, rất người, cho nên dẫu sao vẫn nhớ đề người thân yêu mà là những người thân yêu nhất trên đời, một người Cha, một người Mẹ, một người Chị, một người Em. Giấy thiêng liêng huyết nhục còn buộc người với trần gian, nhưng thực ra người không còn thuộc về trần gian nữa, tất cả hướng về trời rồi và chỉ còn mười hai ngày nữa thôi. Viết hôm 20 tháng riêng thì mồng 2 tháng 2 ngài ra đi dưới mũi gươm ác nghiệt. Pháp trường đã thấm máu đào tử đạo Vénerd. Một người vô tội đã chết vì quý mến mảnh đất này, quê hương này, tổ quốc này, Đàng Ngoài thân thương, địa phận, giáo phận, giáo đoàn quý mến. “Em Eusèbe quý mên ơi! anh đã yêu mà còn yêu dân Anman bằng một tình yêu nồng nàn... ” và v.v.v. .. Thật là tột bực, xin Người bảo vệ địa phận, phù trì giáo hội Việt Nam. kẻ viết bài này, mỗi lần đọc thư viết trong ngục là một lần rớm lệ.

    Giuse Trần Văn Bắc (VietCatholic)



  4. Có 3 người cám ơn littlewave vì bài này:


  5. #3
    littlewave's Avatar

    Tham gia ngày: Aug 2007
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,529
    Cám ơn
    3,391
    Được cám ơn 8,037 lần trong 1,863 bài viết

    Default

    Thư Đức Cha Theurel báo cáo cho gia đình cha Thánh Vénerd

    Đức Cha Theurel là người bạn rất thân của Thánh Vénerd, nói làThánh nhưng lúc đó chưa là Thánh và Đức Cha cũng chưa là Đức Cha. Cả hai là thừa sai đi truyền giáo. Năm 1855 khi Vénerd tới Kẻ Vĩnh thì đã có Theurel ở đó rồi. Trong khi Vénerd họ tiếng Việt thì Theurel chỉ huy nhà in và lo in sách vở. Những năm phải trốn trên rừng thêng nước độc, chiu hầm nằm hố, thì cả ba đều cùng đi với nhau, Đức Cha Liêu, Vénerd và Theurel. Hết ở hầm hố thì lại chui vào thuyền, rất cơ cực. Việc Cha Vénerd bị bắt rồi bị xử tử làm cho người bạn thân rất sầu khổ. Từ trong ngục, Vénerd gửi thư cho Theurel lúc này vẫn là giám mục phó, gửi thư cha Đức Cha Jeantet, cho các bạn đồng sự.

    Sau khi Cha Thánh mất thì Đức Cha Theurel viết thư báo cáo cho gia đình lúc này còn người em trai, phó nhà thờ chính toà Poitiers. Chúng tôi phỏng dịch 2 thư, một rất ngắn, một khá dài để hiểu thêm về hai người bạn cố tri.


    Thư 1-7-1861
    “Bạn thân mến,

    Quí huynh của bạn đã chết vì đạo ngày 2 tháng 2 năm 1861; ngày 24 cùng tháng tự tay tôi, tôi đã chôn cất thủ cấp thân thương và những ngày này tôi hi vọng ghép phần thân thể vào thủ cấp.

    “Không ngờ có dịp may, tôi vội vàng viết và gửi mấy chữ. Trong mấy ngày nữa tôi sẽ gửi cho bạn bản tường trình đầy đủ chi tiết hơn về cái chết của Théophane quí mến của chúng ta. Ngày 15 tháng giêng, Vénerd đã được chịu đủ các phép giải tội và phép Thánh Thể ngay trong cũi.

    “Tất cả chúng tôi thông cảm với bạn trong Chúa chúng ta.
    Joseph Theurel,
    Giám mục Acanthe kí.
    Thư 8-7-1861

    Tây Đàng Ngoài 8 tháng 7 năm 1861.
    “Bạn thân mến,

    “...Tôi không nói tới những điều chính quí huynh của bạn đã viết về sự bị bắt, vì hành trình tới Kẻ Chợ và cuộc tra hỏi trước mặt 4 viên quan toà. Vì tôi là một trong những bạn đồng sự ở gần nhà tù hơn cả, dĩ nhiên tôi nhận việc thư từ với Vénerd và săn sóc Vénerd, tôi biên thư cho ông tất cả là 4 lần khi ông ngồi tù. Đức Cha Jeantet và ông Saiget cũng biên thư và tù nhân của chúng ta cũng rất chu đáo trả lời. Chúng tôi có một Kitô hữu làm chung gian, lòng rất can trường, gọi là hương mới, nhà của ông đã làm nơi cho tôi trú ẩn trong hai tháng, ông ta đã lăn lộn tận tâm tận lực giao thiệp với bọn mõ toà và kẻ phục dịch trong toà. Trong một thư thứ nhất, để ngày 28 tháng chạp 1860, Vénerd viết: “Tâm hồn tôi lặng lẽ như hồ yên tĩnh hay trời trong xanh; Tôi không sợ. Lính Đàng Trong canh giữ tôi đều là những người can tràng. Tôi được quí mến và trọng kính. Viên quan đã chúc mừng tôi 2 lần...”

    “Ngày 3 tháng giêng sau đó, tù nhân của Đức Giêsu Kitô lại còn viết cho tôi: “Tôi đã nhận được thư thân thương của bạn! Cám ơn! Tôi lợi dụng sự vắng mặt của viên quan lớn để viết thoả thuê hơn. Viên công chức này phải trả 6 xu để nuôi tôi, nhưng ông không xuất tiền ra nữa, vì thế hôm nay tôi đã đi ngủ mà không được ăn uống gì, nếu ông chánh tổng tên là Mai cũng bị tù như tôi không sẻ cho tôi một lưng cơm. Hôm qua, viên quan toà mới, đã đến thăm tôi và tra hỏi tôi lấy lệ. Vì ông nói với tôi rằng hạnh phúc đời sau thì chưa chắc có, còn hạnh phúc đời này thì nắm chắc, cho nên tôi đã trả lời ông rằng: “Đối với tôi, tôi không tìm được gì ở cõi đời này làm cho tôi được hạnh phúc. Tâm hồn tôi quá bao la rộng lớn, cho nên của phù dung đời này không sao làm cho thoả mãn được”. Ông tỏ ra khá đủ lịch sự. Vì ông bảo người ta phải đối xử tệ với tôi, nên tôi cho ông biết rằng tôi chẳng được ăn uống gì, nhưng ông giả vờ làm thinh. Vừa ra vẻ săn sóc và đối xử tệ với tôi, ông vừa ra lệnh canh gác cẩn thận chung quanh tôi và về chiều ông sai người coi xem cũi tôi có đóng cửa kĩ càng không...Nhưng thư tôi dài dòng quá rồi mà tôi chưa thổ lộ hết tâm tình. A thưa Đức Cha, này tôi đang sống vào giờ phút mỗi người chúng ta đều ao ước từ lâu. Không phải có lẽ một ngày kia... ( như trong bài ca lên đường của các Thừa Sai ), nhưng là:

    “ Sắp rồi, sắp rồi, tất cả máu trong huyết mạch
    “ Sẽ được đổ ra, chân ta, chân này xinh xắn thế
    “ Ôi hạnh phúc quá! đôi chân mang xiềng nặng trĩu
    “ Gần tôi, tôi thấy lí hình!”

    “Trong những giờ dài đằng đẵng trong cũi, trí óc tôi bay về cõi vĩnh cửu. Thời gian sắp hết, phải vĩnh biệt nhau. Các bạn, các bạn sẽ lặp lại lời Thánh Martin: Domine, si adhuc populo sum necessarrius, non recuso laborem (Lạy Chúa, nếu con còn hữu dụng cho dân Chúa, thì con không chối công việc). Phần tôi, tôi sẽ nói với Thánh Phaolô: “Jam delibor, et tempur resolutionis meae instat: (tibi) vivere Christus est, mihi mori lucrum (Tôi sắp tàn và thời tan rã đã tới, với bạn, sống là sống Đức Giêsu Kitô, còn tôi, chết là lời lãi). Tôi không biết tôi sẽ còn có thể viết được nữa không: Vĩnh biệt! tôi đã được sung sướng làm việc với các bạn: tôi đã quá yêu cái khu truyền giáo Đàng Ngoài này! Tôi đã đổ mồ hôi, tôi sẽ còn đổ máu tôi ra nữa. Tôi thấy có lưỡi gươm treo trên đầu và tôi không run sợ. Chúa nhân lành nâng niu sự hèn yếu của tôi: tôi vui mừng. thỉnh thoảng tôi hát lên cho đền quan lớn được sang trọng:

    “Lạy Mẹ mến yêu
    “Xin đặt con
    “Sắp rồi trong quê thật
    “Gần Mẹ.
    “Đông Kinh Đàng Ngoài cao sang, đất Chúa chúc phúc!
    “Ta đến để phụng sự ngươi,
    “Hạnh phúc được sống và chết vì ngươi!”

    “Đồng sự của chúng ta còn tiếp: “khi đầu tôi sẽ rơi dưới lưỡi gươm lý hình, Lạy Mẹ Vô Nhiễm, xin đón nhận bầy tôi nhỏ bé của Mẹ, như chùm nho chín rơi dưới lưỡi dao sắc, như bông hồng mới nở được hái dâng Mẹ. Ave, Maria! Tôi cũng sẽ đọc thay các bạn: Ave Maria! (Tôi đã khẩn nài Vénard chúc mừng Đức Maria thay tôi khi lên tới cõi Thiên đàng).

    “Sau cùng Vénard viết thêm: ‘Tôi rất vui lòng nếu bạn gửi một vài kỉ niệm cho gia đình tôi, tuỳ theo ý bạn lựa chọn. Chén lễ của tôi là một kỉ niệm của Gia đình: Nếu Eusèbe em tôi nhận được thì nó sung sướng lắm đấy.’

    “Xem lời tôi trích trên đây, bạn đã thấy đó, viên quan chánh xứ không còn nuôi vị thừa sai tù tội nữa. Đó là điều làm cho tôi rất nóng lòng sốt ruột. Chúng tôi đã tìm được một bà quả phụ có đạo tên là Nghiên, em gái của một người làm bếp cho một trong những viên quan lớn, bà nhận lo mọi sự cần dùng cho Vénard và qua bà chúng tôi có thể thông tin liên lạc dễ dàng hơn.

    “Trong ngục Kẻ Chợ lúc đó cũng có một linh mục Việt Nam tên là Khoan. Ban đầu tôi mong rằng hai tù nhân có thể gặp nhau được; nhưng không thể được, vì thế tôi đã phái Cha Thinh, phó xứ Kẻ Chợ tới gặp. Toán trưởng tên là Hương Mới mà tôi đã nói đó, ông nhận đưa Cha đó tới gần cũi của Vénard. Buổi gặp gỡ được diễn ra ngày 15 tháng giêng, trước mặt lính gác và một lũ đông kẻ hầu người hạ lúc nhúc trong gian phòng. Quý huynh của bạn giả vờ không nhận ra Cha Thinh, liền hỏi toán trưởng lính gác Huơng Mới rằng: “Người nào cùng vào với ông đó? - Đó là Thày Cả, theo nghĩa của Kitô giáo là linh mục, nhưng trong tiếng nói của người ngoài đạo thì cũng có nghĩa là người anh trưởng, anh cả. Nghe lời đó, Cha Thinh thấy bừng bừng máu chảy xuống chân; nhưng toán trưởng linh gác rờn đùa với nguy hiểm, nói bâng quơ để che đậy bộ mặt tái nhợt của Cha và nói lảng qua chuyện khác để đánh lạc hướng những người dự.

    Vénard được ra khỏi cũi để đi dạo trong vườn, xét mình sửa soạn xưng tội; không có lính gác nào theo dõi. lúc trở về và khi đã chui vào cái nhà bé nhỏ thì toán trưởng lại cố gắng làm trò mua vui cho tất cả đám đông; và Cha Việt Nam đó, giả vờ cúi sát cũi, để trao đổi thầm thì mấy lời với tù nhân của Đức Kitô, rồi yên lặng ra đi. Quý huynh của bạn đã nhận được phép tha tội, thưởng tất cả tập đoàn mấy chén trà tầu, thế rồi Cha Thinh từ biệt và ra về. Cha này đã đem Mình Thánh Chúa tới kinh thành, trao cho bà quả phụ Nghiên như tôi vừa nói; về chiều tối, bà trao cho Vénard, thế là Vénard được hưởng sự hiện diện của Chúa cho tới nửa đêm, sau đó mới rước lễ.

    “Trong thư đề ngày 20 tháng giêng gửi Đức Cha Jeantet và tất cả các bạn đồng sự khu truyền giáo, quý huynh của bạn đã cảm động viết: “ Cha Thinh sẽ noi cho các bạn biết là tôi đã được thưởng thức một chén trà tàu trước mặt tất cả đám đông. Trái lại Chúa đã đem cho tôi bánh lên đường mì Jesu! Deus meus! trong cũi sắt! (Lạy Chúa Giêsu, Thiên Chúa của con)

    “Vénard còn thêm: Tôi chưa nhận được một roi vọt nào cả. Tôi ít gặp sự khinh bỉ, nhưng nhiều thiện cảm: không ai ở đây mong tôi chết. Các người nhà của viên quan lớn, họ rất dễ thương. Tôi không đau đớn gì so với các đồng sự của tôi. Tôi sẽ chỉ nghiêng đầu một cách khiêm tốn dưới lưỡi kiếm của lí hình thôi, và tức thì tôi sẽ thấy mình đứng trước Thiên nhan Chúa Giêsu và thưa: lạy Chúa, này con đây, tử đạo của Chúa! Tôi sẽ trình cành là thắng trận cho Đức Mẹ và tôi sẽ thưa: Lạy Mẹ Maria! Ôi lạy Mẹ! Mẹ thân thương! Ôi! Nữ Vương! Kính lạy Mẹ! Và tôi sẽ đứng xếp hàng dưới lá cờ những kẻ bị giết vì danh Chúa Giêsu, và tôi sẽ xướng hát bài ca Hosanna (Vạn tuế) vĩnh cửu. Amen!

    Thật là:

    Vĩnh biệt bạn cõi đất
    Đã muộn xin chia tay
    . .........................
    Cõi đời con không thiết
    Tù đày nơi tối tăm
    Ta sẽ gặp nhau trên Thiên Quốc
    Vĩnh biệt! vĩnh biệt! và vĩnh biệt!”

    “Sau cùng, ngày mồng 3 tháng 2, Vénard còn viết cho tôi một lá thư nhắn, thư này đã tới tay tôi sau khi đã tử đạo, với những lời này: “ Lạy Chúa quý mến, ngày hành hương của con cứ kéo dài mãi. Viên quan thủ trưởng bỡ ngỡ vì án chưa tới. Tất cả các giấy tờ đều không có tên tôi. Mỗi lần tôi tự hỏi xem đã có án cho tôi chưa, mỗi lần chánh cửa nhỏ lại cho tôi biết là chưa đến lượt. Tôi chào những buổi bình minh chiếu sáng chân trời, như thể bình minh cõi vĩnh cửu; nhưng cõi vĩnh cửu chưa hé mở... Vĩnh biệt, Đức Cha Acanthe, phải chăng đây là vĩnh biệt sau chót? xin vâng theo Thánh ý Cha, chứ không theo ý con!”

    Đôi nét về Đức Cha Theurel (Chiêu)

    Đức Cha Jeantet (Đức Cha Khiêm). Sinh năm 1792 ở St Claude (Jura, Pháp), thụ phong linh mục năm 1818 và năm 1819 tới đàng ngoài, nhưng lúc đầu còn ở đàng trong, năm 1829 mới ra đàng ngoài, cũng như các giáo sĩ khác, ông phải lẩn tránh và mấy lần bị bắt. Thường hoạt động ở Kẻ Non, Bút Sơn, năm 1840 làm giám đốc chủng viện Kẻ Non. Năm 1847 được bổ nhiệm giám mục phó Đức Cha Retord, được tấn phong trọng thể ở Kẻ Non. Khi Đức Cha Retord cho thành lập viện hàn lâm thì Ngài làm chánh chủ khảo.

    Năm 1856 bắt đầu có bắt đạo khe khắt hơn. Năm 1858 Kẻ Vĩnh bị phá gần như bình địa, bị cướp hết, Giám mục phỉa chốn xuống hầm và suýt bị chết ngạt. khi Đức Cha Retord qua đời năm 1858 thì Ngài làm đại diện tông toà và tức khắc Ngài chọn Cha Theurel (Chiêu) làm giám mục phó ngay, và năm 1859 Ngài làm lễ tân phong tại Kẻ Trừ. Cũng năm đó Ngài thỉnh cầu Toà Thánh cho chia địa phận làm ba, nhưng chưa được chấ nhận.

    Với hoà ước giữa Việt Nam và Pháp, năm 1862, và cuối đời Ngài, có chút không khí tự do hơn, nhưng vẫn chưa hết khó khăn. Ngài mất tại Hoàng Nguyên ngày 24 tháng 07 năm 1866, khi Ngài thấy mình đau yếu tàn tật và muốn về Rôma đệ đơn từ chức. Thì Ngài được đưa về táng ở Kẻ non. Ngài là con người điềm đạm, tình tình điều hoà và chín chắn.

    Theo một bức thư Đức Cha Khiêm gửi về Lyon và Pari năm 1860, thì người ta được biết, từ năm 1858 cho tới nay có 19 linh mục Việt nam bị bắt, trong số đó có 12 bị trảm quyết, còn 7 thì đang chờ án, có năm giáo dân bị thắt cổ chết, 4 người trog số đó quê ở Kẻ Vĩnh; có 58 người bị đi tù đầy, 35 đang chờ án phát vãng; 50 Thày giảng hay người giúp việc cũng một số phận, 40 người khác đang ngồi tù chờ phát vãng.

    Có 3 nữ tu dòng Mến Thánh Giá bị bắt khoá quá, nhưng cả 3 lăn xổ và ôm cây Thập giá và hôn chân Chúa một cách tha thiết, làm cho quan toà phải thốt ra lời: “Làm gì được họ, những phụ nữ bất khuất!” rải rắc đó đây vẫn còn có người bị bắt bớ tù đầy.

    Nhà trường, nhà thờ bị phá bình địa, nhà ở của các Linh mục cũng thế, gần 100 cơ sở giáo xứ bị tàn phá, các linh mục không còn rươụ lễ để dâng Thánh lễ, các đồ thờ, áo lễ bị đốt cháy.

    Sau vụ can thiệp của người Pháp, đã xẩy ra vụ bắt bớ của trùm trưởng họ đạo gần 1000. Người bất khuất thì bị tù đầy, Người yếu đuối chối đạo thì bị tạm giam làm con tin. Một số rất đông giáo dân bị đem phân sáp, nghĩa là bị phân tán và sáp nhập vào các làng đi lương. may mà có nhiều làng vì nhân đạo họ che chở và chứa chấp. Người theo đạo bị bắt lập đền chùa và theo đạo cổ truyền. Riêng ở Bút Đông tất cả đều bất khăng không chịu chối đạo. Đó là tình trạng vào năm 1860. Năm 1862 nhờ có hoà ước mà tạm bình an như đã nói ở trên. Đức Cha Khiêm kết thúc bức thư xin mọi người câù nguyện cho địa phận bị bach hại.

    Đức Cha Theurel (Chiêu): Sinh năm 1829, làm linh mục năm 1852, trước khi tự nguyện đi truyền giáo đã hăng say học nghề in, trong ba tháng đã tìm hiểu cách pha mực, cách in ở châu âu thế nào. Cho dầu lúc đó ở âu châu ngành in cũng chưa tiến truyển như bây giờ, nhưng cách đúc chứ rời và sếp, cũng như dùng mực, đối với chúng ta thời đó đã là khá lắm rồi. sách vở của họ kể từ thời lập nganh in với Guntenberg ( 1440 ) đã làm cho việc in ấn và phát hành sách, nhất là sách Kinh thánh rất khả quan.

    Năm 1852 Theurel lấy tầu đi Singapo, lúc này ở đây, đã có chủng sinh người Việt và ông đã bắt đầu học tiếng Việt. Sau đó lấy tầu Anh đi Hồng Kông. Từ Hồng Kông thuê thuyền buồm, ra tới đàng ngoài là 16 ngày. Tới bờ biển thuộc đại phận đông, rồi phải 12 ngày nữa mới tới Kẻ Vĩnh. Đó là năm 1853.

    Ở Kẻ Vĩnh Ông lại tiếp tục học tiếng Việt và ông nói: “Thứ tiếng này khó như thể do quỷ đặt ra để làm nản lòng các người ngoại quốc, nhất là các thừa sai”. Thế nhưng Ông đã thành công sau ba tháng rưỡi để có thể giải tội được.

    Lúc này trong toàn địa phận có chừng 39 giáo xứ, 140.000 giáo dân, như thế trung bình mỗi xứ có chừng 3.500 giáo dân.

    Cũng như Retord đã nhận xét thì Theurel cũng thấy các nhà thờ ở đây không như ở âu châu làm bằng đá tảng kiên cố đồ sộ, mà làm bằng gỗ ván, lợp tranh, không chuông, chỉ có trống và mõ. Toà giải tội là một tấm phên nứa. Theurel có người đồng hành và đồng sự rất thân là Vénerd, Sau này được phúc tử đạo gọi là Cha Thánh Ven.

    Một người có trí học hỏi, có tài quan sát, có tâm hồn hoạt động truyền giáo, Theurel đã ghi lại những thành quả tốt đẹp trong tổ chức giáo đoàn địa phận, đó là tổ chức nhà Đức Chúa Trời, tổ chức thi kinh bổn hàng năm. Việc làm đâu tiên là tổ chức lại nhà in đã có từ thời Đức Cha Liêu và lên trên nữa. như cha cải tân và đem kĩ thuật mới áp dụng vào đây. ở Kẻ Nhàu (Tân Độ) Thành lập nhà in chữ nôm, ở Kẻ vinh thành lập nhà in chữ Latinh để có thể vừa in sách Latinh nhất là in chữ quốc ngữ. Cha đã cho đúc 40.000 chữ rời để xếp in như ở âu châu.

    Năm 1856, Cha được bổ nhiệm làm giám đốc chủng viện Hoàng Nguyên lúc này có 2 thừa sai, 3 Linh mục Việt, 12 thày giảng và hơn 100 chủng sinh. nhà thờ chỉ là nhà tranh, sách vở thì rất thiếu, không có tự vị để học tiếng latinh, phải chép tay và cậy vào trí nhớ. thế nhưng học trog viết tiếng latinh rất giỏi, không có tiếng latinh bồi bếp như ở âu châu.

    Chủng viện khi mới thành lập thì chủ đích là học tiếng latinh, cho nên vẫn thường gọi là trường Latinh. Nhưng cha đã bắt đầu cho dậy một ít về thiên văn địa lý, toán học và khoa học thường thức, một điều khá mới đối với thời đó. Cha Neron còn dịch các sách toán, sách đại số học, hình học.

    Công việc đang tiến hành thì năm 1857, Kẻ Vĩnh Bị bao vây, Cha Lê Bảo Tịnh bị bắt va bị xử tử ngày 06 tháng 04 năm 1857. Tới 1858 thì nhà trường Kẻ Vĩnh và Chủng Viện Hoàng Nguyên bị phá bình địa. Đức Cha Liêu và Cha Ven chốn lên rừng rú rất khổ sở.

    Năm 1859 Đức Cha Jeantet đã bổ nhiệm Cha Theurel làm giám mục phó. Lễ tấn phong được cử hành ở Kẻ Trừ. chủ phong là Đức Cha, phụ phong là linh mục việt nam, không có gậy vàng, gậy bạc thì gậy tre bọc giấy bạc, cũng có móc uấn cong như gậy giám mục thực thụ; không có bít tất, không có găng tay. Thánh giá ngực và nhẫn thì của Đức Cha Liêu. Nghi lễ được cử hành xong vào trước 2h sáng. Đức Cha lấy khẩu hiệu như khầu hiệu Đức Cha Liêu: “Xin cho con say sưa Thánh giá.” nếu chúng ta thấy đời sống Đức Cha Liêu đau khổ cay cực thế nào, chết trẻ trên rừng thiêng nước độc thế nào sau một đời ẩn trốn hang hầm, thì sẽ rung động đau xót biết bao khi thấy khẩu hiệu này hiện ra với Đức Cha Chiêu. Đời Ngài tiếp tục hang hầm rừng rú như đời Đức cha Liêu.

    Cha Ven đã tả Hầm trú ẩn như sau: “3 thừa sai, trong đó có một giám mục, nămd sát bên nhau, ngày và đêm, trong một không gian một thước vuông năm mươi, thấy trời âm u qua ba lỗ thông hơi lớn bằng ngón tay, đục trong vách đất, thế mà bà già chủ nhà lại còn cẩn thận lấy bó dạ lấp ngoài. dưới chân chúng tôi còn một hầm khác được xây kiên cố hơn, có nến đốt sáng trong hai hay ba đêm, đây là một hầm của một thày giảng; hầm thứ ba có 3 ống tre khéo léo lấy khi trời thông qua bờ ao nhà hàng xóm. Thày giảng này còn “Xây” hai hầm khác trong làng này, có vách ngăn thành 4 hay 5 phòng....Khi 3 lỗ không còn cho ánh sáng thì chúng tôi khéo léo dùng một chiếc đèn chỉ cho chiếu sáng đủ một nửa trang giấy khổ 12 và dĩ nhiên phải có chao đèn để cho ánh sáng không đi theo lỗ thủng mà lọt ra ngoài...”.

    Đức Cha Theurel đã sống lâu năm như thế để một phần lớn soạn cuốn Tự Vị AnNam-Latinh nổi tiếng. và trong cảnh nằm hầm nằm hố ấy được tin các linh mục bị bắt, bị chém đầu, giáo dân bị phân sáp (phân tán đi các nơi và sáp nhập vào đó), nhiều người bấp khả không khoá quá (khoá là vượt quá, khoá quá là vượt quá đi, có ý nghĩa bước qua ảnh thánh giá, đạp ảnh thánh giá, chúng ta thường thấy viết “Quá Khoá”). Nhưng cũng có số ít yếu đuối chối đạo. khá nhiều người bị đầy ải lên chốn rừng thiêng nước độc và chết....thế rồi với tình trạng này không thấy hết đường hầm, không thấy có giải pháp, không biết bao giờ hết, không tiên đoán được sự việc sẽ còn đi tới đâu. Và kết luận: “nếu không có ơn riêng thì chỉ tuyệt vọng sầu não.” Ba năm như thế sống đời sống con chuột chũi, đời sống hang hầm toại đạo thời đế quốc Rôma...

    Từ tháng 09 năm 1858 tới tháng 06 năm 1859, có 13 người chết vì đạo, trong đó có các Linh mục Qui, Cầm, Lưu, Qui, Chi, Ngôn. Rồi thừa sai Neron bị bắt, bị đóng cũi, chết chém ngày 03 tháng 12 năm 1860, đến lượt Linh mục Vénard tử đạo năm 1861.

    Năm 1861 này lại còn là năm đói kém, cũng vì giặc giã nổi lên, con cháu dòng họ Lê khởi quân ở nhiều miền trong nước. Đức Cha cho thu góp chén bạc đúc thành nén đem bán để cứu nhân độ thế. bên trong, nhà nước phải đương đầu với quân nhà Lê hay mượn danh nghĩa nhà Lê, bên ngoài có áp lực của người Pháp. Vua Tự Đức tìm được người đổ lỗi là giáo dân. sắc lệnh năm 1861 này rất tai hại. có ngày xử tới 600 người, có lần đem đốt sống, có miền bị thiệt hại nặng nề hơn địa phận Tây, như miền trung có tới 16.000 người chết vì đạo. trong số mười thừa sai, nay chỉ còn Đức Cha Chính, Đức Cha Phó và Cha Saiget, 7 ông đã chết tử đạo hoặc nằm trong ngục chờ ngày xử.

    Ngày 14 tháng 09 năm 1861, được tin cấp báo, hai Đức Cha và Cha Saiget vội chui xuống hầm mới làm mà chưa có ống thông hơi. Khi hết nguy cấp chui ra thì cả 3 gần chết, gàn nghẹn thở. Người ta vội làm ống thông hơi để các ngài lại chui vào đó sống thêm 17 ngày nữa. Đã có lần Ngài sui nghĩ: Tủi nhục sống đời hang hầm, thà đi chịu chết lấy vinh quang tử đạo, thế nhưng không thể làm khác được, bổn phận của Ngài là sống để điều khiển giáo đoàn và Ngài không được phép liều mình tự tin tự đại lăn mình vào chỗ chết. Hãy chôn tránh khi người ta lùng bắt. Trong hầm hố, trong nhà giáo dân, Nơi hẻo lánh, Đức Cha vẫn làm việc như thể để cho qua cơn nguy nan hiểm nghèo, như thể để cho vững tinh thần, và thực ra để làm việc hữu ích cho tương lai Đức Cha và viết lại bộ tự vị AnNam- Latinh, các quan viên đã để cháy mất một phần, lại còn dịch xong cuốn vũ trụ học của Desdouits, Bộ phụng vụ thực hành của Falise.

    Năm 1862 tình hình địa phận được ghi lại như sau: Có hai giám mục, hai thừa sai chết bệnh, Cha Neron và Vénerd bị xử trảm, 2 đang bị đong cũi, 30 linh mục Việt bị tử đạo, 11 chết bệnh, 4 tù trung thân, từ 250 đến 500 thày giảng bị bắt, bị phát vãng, 7 hay 8 chị em dòng mến Thánh Giá chết vì đạo, hơn 1600 giáo dân bị chém, bị thắt cổ, bị thiêu hay bị lăng trì vì đức tin, không kể hơn 1000 chết đói, chết rét, chết vì bị tra tấn, 5 chủng viện 300 nhà thờ hay nhà nguyện bị phá, bị cướp, bị đốt bình địa.

    Cũng năm 1862 này đã có hoà ước giữa Việt Nam chiều đình Huế và Pháp nên có không khí tự do hơn. Đức Cha Jeantet bắt Đức Cha về Pháp dưỡng bệnh. Ngài vâng lời đi Âu châu, tới Rôma, qua Pháp dự lễ giỗ Vénerd tử đạo. Ngài đã từ giã quê hương lên đường trở lại địa phận vào tháng 5 năm 1866. “Tôi là thừa sai, tôi sẽ sống và chết là thừa sai. xứ đàng ngoài muôn năm.” Tới Hồng Kông thì được tin Đức Cha Jeantet mất ngày 24 tháng 07 năm 1866.

    Được tạm bình yên và tự do, Đức Cha đi kinh lý hết các tỉnh, các xứ trong địa phận, lại còn tham quan hang Từ Thức ở Thanh Hoá, viếng thăm thành nhà Hồ.

    Trong dự tính chia địa phận lần thứ 3, Đức cha cho thành lập chủng viện Phúc nhạc ban đầu chỉ có 3 lớp với 60 học trò cho 2 tỉnh thôi, đặt Cha Phước làm giám đốc. Lúc này Phước nhạc có chừng 1300 đến 1400 giáo dân.

    Năm 1868 Ngài bổ nhiệm Đức Cha Phước làm giám mục phó. Lễ tấn phong này, Ngài muốn tổ chức rất long trọng để bù vào phần thiệt thòi ngài đã chịu khi được tấn phong chui ở Kẻ Trừ năm 1859. Tất cả có 21 giáo sĩ ngoại quốc kể cả giám mục thừa sai, 28 linh mục Việt nam, 500 thày giảng. Ngài mới được 2 giám mục dòng ở địa phận đông đàng ngoài. Đức Cha Alcazar và Riano. Ngài định nhường quyền chủ phong cho niên trưởng Alcazar nhưng vị này từ chối, thành thử chính Ngài chủ phong và 2 giám mục Tây Ban Nha làm phụ phong. Có đàn hát trọng thể do các thừa sai đảm nhận và vì là dịp tết nguyên đán cho nên có yến tiệc và pháo bông. ngày 02 tháng 02 Đức Cha Phước làm lễ Giám mục đầu tiên. Chủng Viện Hoàng Nguyên được hân hạnh làm địa điểm cho những buổi lễ long trọng này.

    Đức Cha tiếp tục xây cất lại trên hoang tàn đổ nát, nhất là Vĩnh Trị, không quên Phúc Nhạc đã có 100 học trò và còn có thể lên tới 250.

    Thế nhưng không nên quên phong trào Văn Thân nổi lên khắp các nơi, đặc biệt ở tỉnh Nam Định. Có đốt phá, cướp của, có nơi số giáo dân bị thiệt hại lên tới 500: nhà cửa của họ bị đốt phá bình địa, họ chỉ còn việc đi ăn xin ăn mày. Ngoài tỉnh Nam Định còn nhiều nơi khác, thí dụ có nơi gần 1300 người sống trong sợ hãi, một sớm một chiều bị bao vây, bị tàn phá. Lệnh Bình Tây Sát Tả đã được tung ra. Có những đụng độ đẫm máu, phe kia đổ lỗi cho phe này, tựu chung phần giáo dân vẫn chưa được chính quyền che chở theo pháp lí.

    Có hai yên ủi vào cuối đời Đức Cha, một là ý trí kiên trì và bất khuất của các giáo đoàn Vĩnh Trị trên đổ nát hoang tàn, trong mất mát tinh thần và vật chất, họ vẫn dữ vững niềm tin và theo đạo, bất chấp các khó khăn.

    Nhưng cuộc đời Thánh Giá của Ngài, bệnh tật vẫn chưa tha, tất cả làm cho Ngài đuối sức rất sớm. Ngày 03 tháng 11 năm 1868, ngài tắt thở tại Kẻ Sở, lúc này là thủ phủ của địa phận. Trong đám tang có 7 thừa sai, 14 linh mục Việt Nam và mấy nghìn giáo dân khác thường người Cha chung đã về cõi trời. Theo lệ đã song trong địa phận, hơn 1.400 người nhà Đức Chúa Trời đã lần hạt ba chuỗi và rước lễ ba lần cầu nguyện cho Ngài. Xin cho con say sưa Thánh Giá đã hết Ngài đã về nơi yên nghỉ trên Nước Chúa.


    Giuse Trần Văn Bắc (VietCatholic)


  6. Có 4 người cám ơn littlewave vì bài này:


+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com