Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 10 trên 10

Chủ đề: Truyện thánh Phanxicô Assisi

  1. #1
    Gia Nhân's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: ✛ Louis
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sông Nước - Miền Tây
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 3,130
    Cám ơn
    4,023
    Được cám ơn 15,423 lần trong 2,929 bài viết

    Post Truyện thánh Phanxicô Assisi

    Truyện thánh Phanxicô Assisi















    PHẦN THỨ NHẤT: THÂN THẾ VÀ ƠN GỌI

    --------------------------------------------------

    CHƯƠNG 1. KHUNG CẢNH RA ĐỜI




    Ngày nay du khách đi tham quan các giá trị kiến trúc của những nền văn minh cổ, cũng như những người mộ đạo trẩy lễ viếng các nhà thờ linh thiêng, lúc đặt chân lên đất nước Ý, thường không quên ghé đến một thành phố nhỏ, vắt vẻo trên một ngọn đồi xinh, là thành phố Assisi.







    Từ xa nhìn lên, nơi đây, in bóng giữa nền trời xanh lơ, một ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ, kiến trúc theo nghệ thuật của thế kỷ XIII. Ngôi thánh đường này là một trong bảy ngôi Đại Thánh Đường của thế giới Công giáo và đã được xây lên để kính vị thánh Nghèo.

    Nếu đi sâu vào thành phố, qua những con đường lát đá quanh co, dốc và hẹp, khách có cảm giác như lạc vào một thế giới huyền diệu của thời Trung cổ. Bóng dáng con người đã tự nguyện sống một đời nghèo, mặc manh áo vá màu nâu, như còn phảng phất đâu đây.


    Con người ấy tên là Phanxicô.


    Phanxicô sinh năm 1182.


    Lúc Phanxicô sinh ra, xã hội nước Ý đang sống trong tình trạng đặc biệt của thời Trung cổ. các nhà thần học, triết gia chưa hợp thành trường phái. Người Công giáo cũng chưa biết xây những ngôi nhà thờ cẩm thạch thanh thoát nhẹ nhàng vươn thẳng lên trời cao. Dante, nhà đại thi hào nước Ý cũng chưa xuất hiện. Có thể nói rằng: Triết học, Kiến trúc, Văn chương nước Ý chưa vào mùa.


    Các giá trị mới chưa thành hình. Các giá trị cũ đã bắt đầu sụp đổ. Chế độ Phong kiến chuyển dần sang chế độ Công xã. Đế quốc sắp bị cắt xén thành nhiều quốc gia nhỏ. Tiếng La tinh chết dần, nhường chỗ cho tiếng thông thường của từng dân tộc. Cuộc đời đạo hạnh đã có phần nới rộng.



    CHÍNH TRỊ

    Về chính trị, ngoài Châu Âu và Bắc Phi, người Tây phương lúc bấy giờ chỉ biết có miền Cận Đông, là nơi họ đến buôn bán trên một thế kỷ, và là nơi đoàn quân Thánh Gía đến giao tranh với người Hồi giáo. Đế quốc La mã Nhật nhĩ man đang cai trị các nước Đức, Áo, Thuỵ sĩ, Bôem, một phần lớn nước Pháp và toàn cõi nước Ý, trừ lãnh thổ Giáo hoàng. Trên bán đảo nước Ý, thường xảy ra nhiều cuộc nội loạn phản lại Đế quốc. Kể đã lắm gian lao mà các Hoàng đế vẫn không dẹp yên được. Để giữ vững chủ quyền, Hoàng đế phải nhờ đến bàn tay quí tộc. Giai cấp này nhận đất đai làm thái ấp rồi nhân danh Hoàng đế mà cai trị nhân dân. Nhưng cả một chế độ phong kiến này vẫn không chống đỡ nổi tình trạng sụp đổ của ngai vàng. Tình trạng này càng ngày càng lâm nguy, vì các cuộc .xưng bá xưng vương của các chư hầu liên miên từ Đức qua Ý.



    XÃ HỘI

    Về xã hội, chế độ phong kiến chia dân thành hai giai cấp: giai cấp phẩm hàm và giai cấp dân đen.


    Giai cấp phẩm hàm gầm những người quý tộc, vương giả và hiệp sĩ, chuyên giữ việc cai trị và đối phó với loạn lạc cướp bóc. Họ sinh ra là có chức công hầu bá tước, có thái ấp lâu đài. Họ phải thế trung thành và xả thân vì Hoàng đế. Nhờ những kẻ quân phiệt này, người dân đen cũng được che chở, một phần nào, khỏi nơm nớp giặc giã cướp bóc. Những ơn che chở ấy thường người dân đen phải trả thật đắt giá. Ngoài sưu thế tạp dịch là chuyện thường xuyên, có lúc họ còn phải trả bằng cả tự do cá nhân nữa.


    Dân đen gồm hai dạng: dân tự do và dân nô lệ. Nô lệ bí thân vào giai cấp quý tộc. Đối với chủ, họ là một món hàng, có thể đem ra chợ bán. Còn dân tự do thì cày ruộng ở thôn quê, làm thợ hoặc đi buôn ở thành phố. Tuy được sở hữu và quyền xe dịch, nhưng đối với quý tộc vẫn phải lệ thuộc sưu thuế tạp dịch.


    Thời kỳ này là thời kỳ viễn chinh Thánh Giá. Nhiều nước Công Giáo Châu Âu liên minh với nhau, đem quân đi đánh người Hồi giáo để chiếm lại Thánh Địa quê hương Chúa Cứu Thế. Đi viễn chinh, người Châu Âu gặp những con đường mới, những thương cảng mới, những dân tộc mới. Sau đó nhờ giao dịch buôn bán, một số đông bỗng trở thành giàu có. Tiền bạc đến giải phóng họ khỏi sưu thế tạp dịch và cho họ quyền ăn nói. Dần dà các vương giả đạo đời thấy rằng phải nhượng bộ cho lớp người mới này ít nhiều đặc quyền kinh tế và hành chánh. Ở Ý từ đó chế độ Công xã ra đời.


    Công xã là tập đoàn các người lao động sản xuất, kinh doanh và giao dịch. Mục đích chính của Công xã là tự trị và giải phóng người dân khỏi mọi tầng lớp thống trị phong kiến lớn nhỏ, đạo cũng như đời. Với mục tiêu ấy, Công xã thường gây nên nhiều cuộc chiến tranh hao tổn xương máu. Liên miên các cuộc đồng bào giết hại lẫn nhau diễn ra, khắp nước. Thành phố Assisi, quê hương Thánh Phanxicô, vào thời này, cũng không ở ngoài tình trạng ấy.



    TÔN GIÁO

    Nói đến tình trạng Công giáo thời này, nhiều nhà viết truyện Thánh Phanxicô đã quá bi quan. Họ thấy vị Thánh Nghèo đã sinh ra trong một thời bi đát.


    Tuy nhiên, buổi ấy, nói chung, Công giáo vẫn là đạo duy nhất trong Đế quốc và trong khắp thế giới tiến bộ Châu Âu. Giáo lý vẫn được đề cao giữa giới trí thức. Với chương trình cải cách rộng rãi của Đức Giáo Hoàng Grêgôriô VII, Giáo hội đã bước lên đi thẳng vào trường kỷ luật và thánh thiện. Các vị lãnh đạo như Đức Giáo Hoàng Innôcentiô III là những vị có đức độ tông đồ rất cao, lão luyện chính sự và tinh thông luật học. Nhưng để có được kết quả ấy, Giáo hội đã phải đấu tranh quyết liệt và dai dẳng trên mấy thế kỷ. Tuy nhiên, một phần nào, thần quyền còn bị vua chúa lợi dụng và Giáo hội cũng chưa làm thoả mãn được nhiều nhu cầu mới của nhiều tầng lớp giáo dân. Tệ hơn nữa các tà thuyết rối đạo lại nẩy mầm trong dân chúng và đang theo đà tâm lý mà bành trướng như ôn dịch thần khí.


    Kể ra thời ấy, đã có nhiều đan viện, nhiều nhà thương. Bóng giáo đường kế tục dâng lên như một mùa tháp trắng. Giáo hữu đua nhau trẩy lễ xa, hành hương các nơi đất thánh, và gia nhập đạo binh Thánh Giá. Các hiệp sĩ hăm hở xả thân bênh vực các cô nhi quả phụ. Tuy nhiên xây nhà thương, xây đan viện, xây nhà thờ thường chỉ là một cách lập công đền tội của những tay gian ác vừa quay về chính lộ, giữa lúc nhiều người khác thấy chưa cần thống hối, vẫn sa đà, hà hiếp và bóc lột dân đen, gây nên nhiều hỗn loạn, bất công trong xã hội và giữa giáo dân.


    Tình trạng chính trị, xã hội và tôn giáo nói trên đặt những người Công giáo có ý thức thời đó trước hai câu hỏi: Một là phải làm thế nào để cho đời sống mới phù hợp với tôn chỉ Phúc Âm? Hai là phải làm thế nào để Công giáo hoá những hoạt động của nền văn minh mới?


    Trước đòi hỏi lịch sử này, Phanxicô đã đến.


    OMBRIA.



    Phanxicô sinh ra ở tỉnh Ombria, thành phố Assisi. Ombria thuộc về miền trung nước Ý, nằm giữa hai tỉnh Marchia Ancônê và Toscana. Miền này có rất nhiều vẻ đẹp khác nhau. Về vị trí cũng như về sức sống, Ombria là trung tâm và là quả tim nước Ý. Có kẻ gọi nơi này là vườn Địa Đàng.


    “Nơi đây như một bức hoạ chưa có dấu tay phá hoại của loài người. Nơi đây có núi cao, có rừng rậm, có thung lũng nên thơ, có thác ào ào đổ nước, có không khí trong lành và cảnh thiên nhiên hiền hoà vĩ đại. Nơi đây, cảnh nào cũng gợi tâm hồn suy phục uy quyền Thiên Chúa và tán tạ lòng Chúa chí nhân”.


    Ombria vui, Ombria hùng tráng. Ombria đã thể hiện được hai vẻ đẹp khắc khổ và dịu dàng.


    Người Ombria đẹp, hơi chất phác nhưng dễ gây thiện cảm. Nhờ có nhiều đức tính hồn nhiên và mãnh liệt nên trông họ có vẻ nhẹ nhàng và có duyên. Hàng mấy thế kỷ thông minh và đạo hạnh đã góp công tu dưỡng cho họ một tinh thần truyền thống còn in sâu mãi giữa dân chúng cho đến ngày nay. Qua các thời đại, Ombria đã đào tạo cho Giáo hội những con người trung thành dũng cảm làm tốt nhiệm vụ Công giáo, như thánh Bênêđictô, thánh Phanxicô. Người dân ở đây bao giờ cũng trung kiên và trọng danh dự.



    ASSISI.



    Nơi sinh trưởng của Phanxicô là Assisi. Assisi nổi tiếng là một miền có bầu trời không gợn mây, có mặt trời rực rỡ, có bầu không khí trong vắt và nước mát lạnh. Assisi là một ngọn đồi nhỏ và xinh nổi lên giữa hai miền Spoleta và Perousia, về phía tây cánh đồng Ombria. Trên đỉnh đồi có một pháo đài kiên cố, xây đã lâu đời, gọi là Rocca Magna. Xa trông như chiếc mũ triều thiên đặt trên đồi. Đứng trên tàn tích ấy nhìn chung quanh toàn cảnh, ta thấy bên phải chân trời vươn xa về một thung lũng mênh mông là thung lũng Spoleta; bên trái trùng điệp từng lớp núi nối dài về một cảnh bát ngát xa xôi; sau lưng ta là cánh đồng màu mỡ, trước mặt ta là nhà cửa xây từ thấp lên cao.


    Ở đây, nhấp nhô từng chóp tháp sẫm đen, từng cánh cửa nứt rạn, từng dãy nhà như đang khiển chân lên nhìn xuống cánh đồng xa. Rải rác đó đây là những ngôi nhà thờ mang nhiều kỷ niệm phan sinh đang mãi mãi trang điểm châu thành, như Đại Thánh Đường Assisi đang giữ hài cốt thánh Phanxicô, nhà thờ thánh Chiesa Nova xây trên nền nhà thân phụ thánh nhân, nhà thờ Gréogio nơi Phanxicô học vỡ lòng, nhà thờ thánh Nicôla nơi thấy trò bói nghĩa Phúc Âm, xa hơn là nhà nguyện thánh Đamianô, chính tay thánh nhân đã xây lại, sau cùng ngoài kia, giữa cánh đồng rộng là Đại Thánh Đường Đức Bà Thiên Thần nơi thánh Phanxicô từ trần.


    Xen lẫn giữa châu thành là nhiều dinh thự, đền miếu cổ. những tàn tích lịch sử này nói rằng người dân Assisi đã biết yêu chuộng nghệ thuật từ thuở xa xưa nào. Đây là ngôi đền tráng lệ thờ nữ thần Minerve, một ngôi đền cổ rất quý, kiến trúc theo nghệ thuật Hy Lạp. Nhìn lên cao, kia là pháo đài Rocca Magna, trong cảnh đổ nát, vẫn cố thủ bám vững trên thành. Đó đây, từng luỹ đá hoang tàn nhắc lại thiên anh hùng ca bất diệt của một dân tộc yêu tự do hoà bình. Nơi đây, con cháu muôn đời vẫn thấy bóng dáng các vị anh hùng đã từng múa gươm chiến thắng cho tự do độc lập của quê hương.


    Assisi còn ghi tên nhiều vị thánh tử đạo đã đổ máu hy sinh, gieo mầm Công giáo và từ những thời đại anh hùng ấy về sau tinh thần sùng đạo vẫn ăn sâu giữa mọi tầng lớp giáo dân.


    Quê hương thánh Phanxicô bao giờ cũng gieo nhiều ấn tượng sâu xa độc đáo vào thâm tâm người du khách, nhất là người du khách Công giáo thành tâm.



    GIA ĐÌNH



    Giữa châu thành ngày nay, ngôi nhà xưa của thân phụ thánh Phanxicô vẫn còn để lại nhiều di tích. Nếu cũng giống các ngôi nhà lân cận thì ngôi nhà ấy gồm năm căn, và trong những căn ấy Phanxicô đã ở cho tới tuổi hai mươi lăm.


    Phanxicô là con đầu. Kế sau là Angelo và một em trai thứ ba nữa.


    Tổ phụ ngài là người tỉnh Toscana đến Assisi lập nghiệp. Ông Phêrô Bernađônê, thân phụ ngài, là một trong số các đại thương gia, chuyên nghề bán các hàng vải, hàng dạ, giàu có nhất trong thành phố. Công nghệ trong nước nằm cả ở trong tay họ. Họ chuyên việc giao dịch với các nước ngoài. Ngựa họ phi mãi tới các thị trấn miền Bắc để trao đổi hàng hoá.


    Gia đình Phanxicô phát đạt vào lúc Assisi cũng như các đô thị lớn nước Ý đang ký kết những hiệp ước thương mại và tương trợ lẫn nhau với các nước miền Địa Trung Hải. Quý tộc chưa hẳn đã vào giai đoạn xuống dốc. Tiểu tư sản nhờ buôn bán mà trở thành triệu phú. Hai giai cấp đua nhau ăn sang mặc đẹp, hội hè đình đám liên miên. Hàng tơ lụa vì thế bán rất chạy.


    Cũng nhờ hoàn cảnh và địa vị ấy mà sau nhiều chuyến giao dịch buôn bán, ông Phêrô Bernađônê cưới được bà Pica, một cô gái thượng lưu, quê ở xứ Provence, miền nam nước Pháp. Quê ngoại Phanxicô cũng là đất văn vật, phong phú thi ca. Cảnh trời ở đây rất là thơ mộng. Bà Pica là người mẹ hiền, thương con đến nỗi nhiều khi quá nuông chiều con. Bà lại dạy con học tiếng quê ngoại, và chính bà đã mở đường cho con sau này thích ngâm nga các khúc anh hùng ca và những câu hát tình tứ của miền Nam nước Pháp.
    Phanxicô ra đời nhằm lúc ông thân sinh vắng nhà. Không chờ ý kiến người cha, bà Pica đã cho đưa con đến nhà thờ Thánh Rufinô lãnh phép rửa tội và đặt tên con là Gioan.


    Được tin mừng, ông Bernađônê vội trở về nhà và việc đầu tiên của ông là đặt cho cậu con một cái tên thật vừa ý ông. Từ đây cậu Bernađônê được gọi là Phanxicô (Francesco). Không ai hiểu rõ lý do việc đổi tên này. Truyện ba người bạn đồng hành là cuốn tiểu sử Thánh Phanxicô, do ba anh em trong dòng, đồng thời với ngài viết cũng chỉ nói: “Chính ông thân sinh, trong một lúc vui mừng đã đặt tên con là Phanxicô, khi ông vừa trẩy từ một xứ xa xôi về”.


    Chung quanh chuyện Phanxicô ra đời tuyên truyền có hai giai thoại. Một giai thoại kể rằng: mãn kỳ thai nghén, bà Pica khó sinh. Bỗng có một người khách lạ, ăn mặc theo lối người hành hương, đến nhà bảo bà cứ xuống chuồng bò là sinh được, vì con bà không muốn ra đời trên nhung lụa.


    Giai thoại thứ hai kể: Lúc lễ rửa tội kết thúc họ hàng bồng Phanxicô về nhà. Bỗng có một người lạ mặt đến xin bồng em bé một lát. Họ hàng do dự mãi, nhưng rồi cũng chiều ý khách. Khách ngắm nhìn em bé một lúc, rồi vẽ dấu Thánh giá lên vai em và bảo thân nhân rằng: cha mẹ nên chăm sóc việc giáo dục em nhỏ này thật chu đáo, nhất là chăm riêng về đức dục vì sứ mệnh ngày mai của em rất là vĩ đại. Em sẽ là một trong số các đầy tớ hoàn hảo nhất của Thiên Chúa ở trần gian.
    Chữ ký của Gia Nhân

  2. Được cám ơn bởi:


  3. #2
    Gia Nhân's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: ✛ Louis
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sông Nước - Miền Tây
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 3,130
    Cám ơn
    4,023
    Được cám ơn 15,423 lần trong 2,929 bài viết

    Post

    CHƯƠNG II. THỜI VUI VẺ TRẺ TRUNG




    Về thời thơ ấu và nền giáo dục đầu tiên của Phanxicô, chúng ta không có sử liệu đầy đủ. Các nhà chép truyện chỉ ghi rằng: “Phanxicô được gửi đến trường học thuộc nhà thờ thánh Georgiô”.


    Chắc hẳn ở đó Phanxicô chỉ học những môn thường thức cần thiết vừa đủ dùng trong việc giao dịch buôn bán sau này, như đọc và viết tạm được tiếng nước nhà, kèm theo một ít La ngữ, vì cổ ngữ này thông dụng trên toà giảng và trong hành chánh công đường. Thêm vào đó một ít giáo lý căn bản vừa đủ giúp sống một đời, nếu không thánh thiện lắm thì cũng không phải là tội lỗi nhiều.

    Có sách lại chép: “ Phanxicô không phải là một người hay chữ”.


    Về giáo dục gia đình của Phanxicô, có lẽ cũng như Cêlanô, nhà chép truyện thánh Phanxicô đầu tiên, đã viết về nền giáo dục gia đình của hầu hết thiếu niên con nhà khá giả thời ấy: “Cha mẹ vẫn theo thói nuôi con trong ăn chơi và uỷ mị…”. Nếu ta không cho những điều trên đây là đúng hẳn thì đức dục của Phanxicô cũng không được chu đáo là bao, vì thánh Bônaventura trong truyện thánh Phanxicô của ngài, cũng đã chép:“Phanxicô được nuôi dưỡng giũa phù hoa và giữa những con người phù hoa của trần thế”.


    Tuy vậy, Phanxicô không phải là không có nhiều xu hướng tốt làm nền móng cho xây dựng mai sau. Cậu đã thừa hưởng của mẹ cậu, một tâm hồn nhân hậu với một khí phách hiên ngang của người hiệp khách đương thời. Bà vốn thuộc một dòng họ quí tộc miền nam nước Pháp.


    Còn cha cậu? Người phú thương đã để lại cho con một trí tuệ sắc bén, minh mẫn, thêm vào đó, cái tài tháo vát thích nghi là những đức tính của kẻ xuôi ngược giũa chợ đời. Ông là một trưởng giả của thời đại, ham lợi, hiếu danh, việc tu đức đối với ông vẫn là việc phụ. Nhưng trong lúc tìm danh lợi, ông cũng không đến nỗi bán rẻ lương tâm. Bao nhiêu tài năng và ý chí ông dốc cả vào việc khuếch trương gia sản, mong một ngày kia với đồng tiền ông sẽ trèo lên thang danh vọng.


    Muốn cho con nối được nghiệp nhà, ông Bernađônê đã sớm cho cậu dự phần vào công việc buôn bán. Bởi thế, Phanxicô đã sớm lăn lộn với đời và cũng không lạ những thói tục người đời. Chàng trai trẻ ấy đã đón nhận tất cả những thị hiếu của một giai đoạn lịch sử đang biến chuyển, biến chuyển từ phong kiến sang Công xã, từ Đế quốc sang quốc gia địa phương, từ đời sống khắc khổ dung dị sang đời sống xa hoa phù phiếm. Cũng như phần đông con nhà khá giả thời ấy, Phanxicô là một chàng công tử phong lưu, thích ăn diện bảnh bao và rộng phung phí. Tuy chưa đến nỗi sa đà truỵ lạc, nhưng cũng khá phù phiếm xa hoa.


    Nhắc lại thời trai trẻ ấy, sau này Phanxicô đã nói một câu hối hận: “Khi tôi đang sống trong tội lỗi…”. Nhưng không có một dấu vết nào chứng tỏ rằng Phanxicô đã qua một thời kỳ ăn chơi phóng đãng. Có lẽ Phanxicô cũng đã yêu, yêu tha thiết đắm say, nhưng yêu theo kiểu những tay mã thượng anh hùng mà chàng vẫn ngưỡng mộ cái tinh thần nghĩa hiệp suốt một đời tận tuỵ hy sinh vì người đẹp, tương trưng cho cái gì quý giá mong manh mà những cánh tay rắn rỏi mạnh mẽ phải bảo vệ và tôn kính.


    Bởi thế Phanxicô thuộc vào hạng người hào hoa phong nhã, đúng như Truyện Ba Người Bạn Đồng Hành đã chép: “Phanxicô không bao giờ mở miệng nói một lời thô tục. Khi gặp ai trắng trợn nói ra những chuyện thô lỗ tục tằn là Phanxicô làm như không nghe thấy”.

    Tao nhã và lịch thiệp, Phanxicô lại còn là một tâm hồn quảng đại. Hình như không bao giờ cậu biết từ chối ai việc gì. Tiệc tùng với chúng bạn và nhất là bố thí cho người nghèo là đức tính trổi trang nhất của chàng phong lưu công tử ấy. Cậu đã tự quyết tâm không bao giờ từ chối ai ngửa tay nhân danh Chúa xin mình bố thí. Có một lần, vì quá bận rộn khách hàng, Phanxicô đã xua tay đuổi một người hành khất. Nhưng rồi cậu thấy lương tâm bứt rứt, và không một phút do dự, cậu đã vội bỏ cửa hàng và khách mua bán, chạy theo tìm cho được kẻ hành khất để xin lỗi. Cử chỉ ấy là do một lời lương tâm trách móc: “Giá kẻ nghèo khó kia nhân danh một người bạn nào sang trọng đến vay ta một số tiền, chắc hẳn ta đã niềm nở đón chào. Nay người ấy đến với ta nhân danh Vua Trời cao cả thì ta lại đuổi đi”.


    Tất cả những tính hư cũng như nết tốt nói trên đã tạo nên một con người phong phú đầy tương phản. Giữa đám đông chúng bạn, Phanxicô vẫn mang một sắc thái riêng biệt, nhưng chưa rõ rệt lắm. Người ta chỉ có cảm giác mơ hồ rằng con người ấy có thể có một hứa hẹn ở ngày mai.



    MỘNG CÔNG DANH



    Nói đến ngày mai của con mình, ông Bernađônê đã có một chương trình vạch sẵn. Con trai ông sẽ làm nên danh phận. Bạc tiền có sẵn, ông chỉ còn mong rằng cậu con ông với vẻ tài hoa lịch thiệp hơn người sẽ có ngày đưa dòng dõi ông lên bậc thang quý tộc. Cốt cách đài các của cậu đã từng làm cho nhiều người lầm tưởng rằng cậu xuất thân từ một gia đình vương giả. Nhiều kẻ khác cũng đã kháo nhau rằng Phanxicô sẽ có một tương lai rực rỡ.


    Có một chàng nọ ở Assisi hình như cũng được ơn nói tiên tri. Mỗi lần gặp Phanxicô ở đâu là anh vội cởi áo choàng trải đường cho cậu bước lên. Ai chế nhạo anh, anh cũng chỉ một mực trả lời: “Suy tôn cậu Bernađônê là tôi báo trước sự nghiệp của cậu. Rồi đây chẳng bao lâu nữa thiên hạ đều suy tôn cậu”.


    Rồi đây Phanxicô sẽ thế nào? Một giáo sĩ? Một hiệp sĩ? Một thi nhân? Ta thử tìm xem tâm tư người thương gia trẻ tuổi ấy còn ôm ấp những hoài bão gì.


    Trước hết là một sức sống dồi dào mãnh liệt đang lên và cùng dâng theo một thứ tình cảm phong phú thanh tao hướng về đẹp hơn hướng về thành lạc, say sưa nghĩa bạn hơn đắm đuối tình yêu đôi lứa. Tất cả đang vươn lên một độ yêu đời, và ham mê hoạt động theo kiểu người hiệp sĩ anh hùng.


    Dĩ nhiên nghề buôn bán với những tính toán sắp xếp đều không hợp với con người phong phú ấy. Văn chương có thể quyến rũ một phần nào tâm hồn nghệ sĩ, nhưng lại không đáp trọn nhu cầu múa may đang thúc đẩy tay chân. Và trong lúc chờ đợi tìm một hướng đi nhất định cho đời mình, cuộc đời nay đây mai đó của những anh chàng hát dạo là hấp dẫn nhất đối với Phanxicô.


    Những anh chàng hát dạo này, từ nước Pháp sang, đi khắp các nơi, bán vui cho những cuộc đình đám tại các lâu đài phong kiến. Họ hát những thiên anh hùng ca và diễm tình ca. Đề tài hầu hết là những cuộc phiêu lưu mạo hiểm của những trang hiệp khách anh hùng theo đuổi một cuộc tình duyên lý tưởng với những bậc giai nhân kín cổng cao tường.


    Ở trường học ca hát này, Phanxicô đã học được rất nhiều bài.


    Một tâm hồn như thế, làm sao mà thu được vào công việc đo nhung đo lụa, và xếp bạc vào tủ hằng ngày? Cho nên trong lúc chờ đợi một ngày mai vùng vẫy, cậu Bernađônê đã rộng tay phung phí, tiệc tùng đãi bạn và bố thí cho người nghèo. Trong hàng ngũ thanh niên thành Assisi, phần nhiều là quý tộc phú thương, Phanxicô vẫn chiếm giải nhất. Đã bao lần cậu đứng đầu tổ chức những cuộc liên hoan náo nhiệt và sau những yến tiệc linh đình, đoàn trai ngông kéo nhau nghênh ngang khắp các đường phố đưa duyên lên lan can lâu đài quyền quý với những khúc hát tình tứ đong đưa.


    Những cuộc vui của lớp trẻ nhiều lúc cũng quá độ. Tất nhiên những tiếng dị nghị không khỏi đến tai gia đình. Tuy cưng con và cũng hãnh diện có một đứa con tài hoa, nhưng đôi lần ông bà Bernađônê cũng răn bảo:“Nhà ta đâu có phải vương hầu bá tử gì mà tiền bạc con đem phung phí, để đãi đằng cho cả một lũ chơi ngông”. Lời trách này cũng chỉ là chiếu lệ, còn trong thâm tâm ông bà vẫn nghĩ, trẻ ai lại không chơi, thời phóng túng sẽ qua đi, rồi đâu lại vào đấy.


    Riêng bà Pica, lại càng quả quyết hơn. Có ai ám chỉ đến đời sống buông tuồng của đứa con yêu thì bà không ngần ngại bầu chữa: “Vâng, nhưng rồi các ngài sẽ thấy thằng con tôi có ngày làm đẹp lòng Chúa”.


    Mẹ nào mà chẳng bênh con, nhưng dám công khai tuyên bố như thế, chắc hẳn cặp mắt tinh vi của bà Pica đã thoáng nhìn thấy một cái gì. Và bà đã không lầm. Cái bề ngoài đang buông tuồng ấy đang che đậy cả một bầu nhiệt huyết của một con người giàu trực giác, kềm theo một ý chí vững vàng của những kẻ quyết thể hiện khát vọng lòng mình. Thái độ hào hoa chỉ là phản ánh một tâm hồn khoáng đạt và tính ngông cuồng chỉ là bước đầu của một người sẽ vượt lên khỏi những ước lệ thông thường để đạt đến cái tinh thần chủ yếu của mọi sự. Cho nên cùng với cha xuôi ngược hay cùng với bạn vui đùa, Phanxicô vẫn ở trên tất cả. Chàng vẫn không thấy lòng mãn nguyện. Chàng vẫn khao khát một khung trời cao rộng hơn. Khung trời cao rộng ấy chưa rõ là đâu, nhưng có lẽ Phanxicô đã thoáng thấy, ở một đời tung hoành với yên ngựa mà chàng đã mơ ước, khi để lòng theo điệu nhạc của những khúc anh hùng ca trên miệng người hát dạo.


    Cuộc đời hiệp sĩ hấp dẫn Phanxicô, chẳng phải vì đó là ngưỡng cửa mở đường trên thang danh vọng, nhưng vì đó cũng là cuộc đời đầy gian nan thử thách, đem lại cho tâm hồn phóng khoáng những thú vui cao rộng ly kỳ. Trên nền trời lý tưởng của Phanxicô đang chiếu sáng ngôi sao vinh dự của một đời công danh hiển hách.


    NGƯỜI TÙ BINH



    Muốn lập công danh thì chỉ có một nẻo đường là theo chân vị công hầu nào đó trong những cuộc tranh hùng đang tiếp diễn khắp nơi.
    Cả thế giới Châu Âu đang lâm vào tình trạng rối ren của thời kỳ các Công xã nổi dậy đòi quyền tự trị, chống lại quý tộc và Đế Quốc Nhật nhĩ man. Nhân dân thành Assisi cũng đã bao phen quật khởi và sau hai lần thất bại vào năm 1174 và năm 1177, cuộc đảo chính năm 1179 đã thành công. Ách thống trị phong kiến bị lật đổ và Công xã tự trị được thành lập. Quý tộc bị trục xuất khỏi Assisi, phải chạy sang Pêrousia tị nạn. Để trả thù, giai cấp này lợi dụng mối hiềm khích cố hữu giữa hai thành rồi xúi giục Pêrousia tuyên chiến với Assisi vào năm 1201. Cuộc giao tranh này kéo dài mãi hơn một chục năm trời.


    Trong một cuộc đánh nhau tại cầu Thánh Gioan vào năm 1202, Phanxicô đã anh dũng chiến đấu trong hàng kỵ mã, và vị anh hùng trẻ tuổi, sau khi thua trận, đã bị bắt đem về Pêrousia làm tù binh. Trong trại giam, Phanxicô được xếp vào hạng tù binh quý tộc. Những ngày giam cầm cực khổ và buốn tẻ kéo dài. Trong lúc các bạn đồng cảnh than thân trách phận thì Phanxicô vẫn giữ khí phách hiên ngang, không lúc nào chàng thôi vui cười ca hát.


    Thấy Phanxicô như thế, bạn chàng rất bực bội:


    - Anh điên rồi sao? Lâm vào tình cảnh này mà cũng cười đùa vui vẻ được?
    Phanxicô thản nhiên đáp:


    - Các bạn bảo tôi buồn làm sao được? Tôi đang tưởng đến ngày mai, ngày mà tôi sẽ được thiên hạ suy tôn như một tướng lãnh anh hùng?


    Nói rồi chàng lại càng hát càng cười. Nguồn vui từ chàng trai trẻ ấy dần dần truyền sang tất cả trại giam. Có một anh chàng khó tính nhất trong tù không ai chịu nổi, cũng bị chinh phục bởi thái độ hoà nhã vui vẻ của cậu Bernađônê.


    Tháng 11 năm 1203, hai thành ký tạm hiệp ước đình chiến. Phanxicô và các bạn được trả lại tự do. Quần áo tả tơi, mặt mày xơ xác, nhưng lòng vui sướng, đoàn binh trở về quê hương.
    Chữ ký của Gia Nhân

  4. Được cám ơn bởi:


  5. #3
    Gia Nhân's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: ✛ Louis
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sông Nước - Miền Tây
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 3,130
    Cám ơn
    4,023
    Được cám ơn 15,423 lần trong 2,929 bài viết

    Post

    CHƯƠNG III. ĐI TÌM LÝ TƯỞNG ĐỔI MỘT HƯỚNG ĐỜI.


    Về Assisi, Phanxicô lại trở lại cuộc đời cũ. Nhưng không bao lâu chàng ngã bệnh. Có lẽ đó là hậu quả của hơn một năm trời tù ngục. Cơn bệnh đã giữ chàng liệt giường đến hàng tuần và qua những ngày thụ bệnh, tâm tư của chàng thanh niên ấy đã bắt đầu đổi hướng.


    Vừa tạm gọi là bình phục, chàng lần bước ra cánh đồng, dạo chơi và ngắm cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Nhưng chàng đã thất vọng. Cảnh vật xưa kia đã đem cho chàng vui tươi, nay trở nên vô vị lạ thường. Có lẽ lần này là lần đầu tiên con người vui vẻ trẻ trung kia mới cảm thấy cái rồ dại của những ai để lòng lân la những vật mà một sớm một chiều đã mất hết sức quyến rũ. Chàng bỡ ngỡ hoang mang, lui gót trở về, lòng mang nặng một nỗi buồn vô căn cứ.


    Nhưng đó chỉ là ấn tượng thoáng qua, có lẽ chỉ là một phút tâm hồn xao xuyến vì cơ thể mới thoát khỏi một cơn bệnh nặng. Rồi khi sức khoẻ đã hoàn toàn trở lại, mộng công danh sự nghiệp cũng trở lại theo.


    Một cơ hội rất thuận tiện đã đến với Phanxicô. Hầu tước Gentili, một nhà quý tộc thành Assisi, đang chuẩn bị quân trang hành quân lên miền Pouilla, nơi chiến tranh đang kịch liệt giữa hai phe quý tộc về việc tôn lập người giám hộ cho vị ấu chúa, con hoàng đế Henri IV vừa mới băng hà. Một bên là quân cần vương, cùng với hoàng hậu, nhất định suy tôn Đức Giáo Hoàng Innôcentiô III làm giám hộ. Một bên là quân của giai cấp quý tộc nước Đức chỉ muốn suy tôn Markward, một võ tướng người Đức. Phe thứ hai này chỉ sợ ảnh hưởng của Giáo triều Rôma quá mạnh.


    Cuộc chiến tranh bùng nổ từ năm 1198. Ban đầu quân của ấu chúa Frédéricô II và quân của Giáo triều Rôma ở vào thế yếu. Nhưng từ năm 1202, chiến cuộc đổi chiều, khi một võ tướng xứ Normandie, tên là Gauthier de Brienne, đứng vào hàng ngũ quân cần vương. Nhân dân miền Nam nước Pháp và toàn cõi nước Ý rầm rộ kéo đến xin tòng quân để ủng hộ vị Hoàng đế đã được Giáo triều Rôma bảo trợ. Phanxicô lần này nhất định theo chân vị hầu tước Gentili, gia nhập quân đội của Giáo triều. Chàng chắc chắn sẽ lập được nhiều chiến công và sẽ được tuyên dương cùng tấn phong vào hàng hiệp sĩ chính thức trước mặt ba quân ngay ở ngoài chiến địa.


    Chàng vội vàng chuẩn bị quân trang, lòng náo nức một niềm vui vô hạn, với thói phung phí của chàng, với lòng háo danh của thân phụ, ai cũng có thể đoán được bộ quân phục của cậu Bernađônê sang trọng đến ngần nào! Trong lúc ấy có nhiều hiệp sĩ chính thức đành phải đứng ngoài hàng ngũ vì không đủ phương tiện sắm sửa quân trang. Phanxicô đã gặp một hiệp sĩ trong tình trạng ấy. Động lòng trắc ẩn và nghĩ mình chỉ là một kẻ thương gia, một người lính thường mà dám trang phục oai vệ hơn những con nhà tướng môn chính thức. Phanxicô đã không ngần ngại biếu người hiệp sĩ ấy nguyên cả bộ võ phục vừa mới sắm.


    Cử chỉ ấy đã đem lại cho Phanxicô một phần thưởng. Đêm sau, trong khi ngủ, một giấc mộng kỳ lạ đã đến với chàng. Chàng thấy nhà cha mẹ biến thành một lâu đài, chứa đầy quân trang vũ khí. Những cuộn hàng nhung lụa đã biến đi nhường chỗ cho những bộ yên cương lộng lẫy, những tấm thuẫn chói vàng, và đao kiếm sáng quắc. Ở một gian phòng trong lâu đài ấy, một người hôn mê đẹp đẽ dịu dàng đang chờ đợi tân lang.


    Bỡ ngỡ, Phanxicô đang tìm hiểu, thì tiếng vọng huyền bí đang cho chàng biết rằng bao nhiêu vũ khí trưng bày đó là để trang bị cho quân đội chàng, còn người đẹp là để dành riêng cho chàng đẹp lứa vừa đôi.


    Tỉnh giấc, lòng Phanxicô bỗng rộn rã tưng bừng. Mộng đẹp hẳn là báo trước con đường công danh rộng mở từ đây. Nhưng không hiểu sao, sau giây phút tưng bừng hy vọng ấy, lòng người chiến sĩ lại thấy ngấm ngầm một nỗi buồn sâu xa thấm thía. Rồi tần ngần và lưỡng lự, chàng phải cố gắng lắm mới có thể quyết chí lên đường.


    Và Phanxicô đã yên ngựa lên đường. Cừng với người mã phu, chàng vượt qua đỉnh núi Soubasiô, theo nẻo Folignô, tiến về Spoleta, và định sẽ theo đường Flaminô, qua giáo đô Rôma, tiến xuống mặt trận Nam Ý. Nhưng người chiến sĩ không bao giờ được theo chân tướng Gauthier de Brienne để tung hoành ngoài chiến địa, một sứ mệnh khác đang đón chờ chàng. Một chủ tướng khác sẽ gọi chàng.
    Đêm hôm ấy, trong quán trọ ở Spoleta, tiếng vọng huyền bí lại hỏi Phanxicô trong một giấc mộng thứ hai:


    - Phanxicô con đi đâu thế?


    - Thưa, con đi dự chiến ở Pouilla.


    - Thế à! Nhưng con hãy trả lời ta. Con chờ mong ơn huệ ở ai hơn? Ở một người làm chủ tất cả hay ở một kẻ chỉ vào hàng tôi tớ?


    - Thưa, dĩ nhiên là ở người làm chủ.


    - Vậy sao con lại đành theo chân kẻ làm tôi tớ chứ không theo chân người chủ mà trăm nghìn tôi tớ phải suy phục:


    - Lạy Chúa, con phải làm gì, xin Chúa truyền lệnh.


    - Phải làm gì? Thì con hãy trở về quê hương sẽ rõ. Cứ trở về đi, con sẽ hiểu được ý nghĩa cuộc ứng mộng đêm nay.


    Bừng tỉnh giấc, Phanxicô không tài nào nhắm mắt được nữa. Suốt đêm ấy chàng suy nghĩ miên man, và hôm sau, khi trời vừa sáng, chàng bỏ hẳn ý định tham dự chiến tranh, rồi cùng mã phu quay ngựa trở về Assisi.


    Hăng hái ra đi để rồi nửa đường trở lại, lẽ ra là một cái nhục. Thế nào cũng có người mỉa mai: “Thế mà cũng xênh xang gươm giáo!”. Nhưng mọi người đều ngạc nhiên trước thái độ của Phanxicô. Hình như chàng chẳng chú ý đến lời dị nghị mà còn thêm hãnh diện vì đã nửa đường quay lại.


    - Ồ, dự chiến! Đi hay về, nào có gì là quan trọng. Tôi không vì thế mà sau này không trở nên một vị vương hầu.
    Đó là câu Phanxicô đã trả lời những kẻ nhắc nhở đến cuộc dự chiến hụt của chàng. Đó có thể là một câu nói gàn để chữa thẹn, nhưng cũng có thể là cả một quyết định đang thành hình trong tâm trí con người kỳ khôi ấy. Mà có lẽ không chỉ là một câu nói gàn, vì Phanxicô đã thay đổi hẳn. Các bạn chàng cũng đều nhận thấy như thế.


    Trong các cuộc liên hoan, vì nể bạn, Phanxicô đành đến dự, nhưng rõ ràng tâm trí cậu đang để ở đâu đâu. Một ý định gì đang ám ảnh chàng hay bóng dáng ai đang hiển hiện trước mắt chàng. Ngày đêm Phanxicô như không còn va chạm gì với thế giới bên ngoài nữa. Chàng như chìm vào một cuộc tưởng niệm thẳm sâu. Chàng chỉ muốn ẩn dật trong khuất tịch của núi đồi để lẩn tránh một cái gì. Các bạn cũ đã cảm thấy rằng con người hào hoa phong nhã ấy đã khác hẳn xưa rồi. Một cái gì đã đến trong đời chàng huyền bí và sâu xa, nào ai biết được! Phanxicô chỉ riêng giữ bên lòng nỗi niềm tâm sự của mình.


    - Bỏ mộng công danh, rồi trở về với dáng điệu của kẻ bị thu hồn, thì chắc hẳn chàng đã vướng nợ ái tình!


    Đó là lời ước đoán của các bạn chăng. Thái độ khó hiểu của Phanxicô lại càng kích thích tính tò mò của lũ bạn trẻ. Chắc hẳn họ đã ngờ vực Phanxicô ích kỷ muốn chiếm một đoá hoa trời nào đó mà không báo tin cho anh em biết. Hễ vắng bóng chàng đâu là họ chia nhau tìm cho kỳ được để lôi kéo vào những cuộc vui, mà dĩ nhiên Phanxicô sẽ là người xuất túi trả tiền. Nhưng rồi đây cuộc đời vui của chàng phong lưu công tử ấy sẽ đến ngày chấm dứt.


    Chiều hôm ấy, sau khi tìm được Phanxicô, các bạn ồ ạt lôi kéo chàng, suy tôn làm “Vua bạn trẻ” và mười người như một đều đồng thanh sách nhiễu:


    - Thiết yến đi! Hoàng tử!


    Lịch thiệp và giàu tình bạn bè, Phanxicô đã thiết đãi một bữa tiệc linh đình hơn bao giờ hết. Một lần cuối cùng, Phanxicô đã sống hết cho tất cả nghi vệ và tài năng của một Ông Hoàng Tuổi Trẻ. Tiệc tan, bọn trẻ say xưa kéo nhau rông khắp các nẻo đường thành Assisi. Tiếng cười đùa, tiếng hát kéo dài tận trong đêm khuya. Riêng Phanxicô, chàng say một cơn say khác hẳn. Dáng điệu đàng hoàng, tay cầm phủ việt tượng trưng chức vị Ông Hoàng Tuổi Trẻ mà các bạn trao cho, Phanxicô đi lùi lại cuối đoàn, không hát, không ngâm thơ, để hồn lâng lâng trong một cuộc suy niệm hay một ý nguyện cầu.


    Êm hiền như nghĩa mẹ, ơn Chúa xuống giữa lòng con người đã bấy lâu tìm kiếm đợi chờ.


    Trong phút chốc, chàng thấy rõ tất cả cái hư vô của các thứ quyến rũ phàm trần và đồng thời chân nhận được những sự thực siêu hình xưa nay còn xa lạ. Tâm hồn chàng chìm sâu trong một suối tình thương, êm dịu chan hoà. Phanxicô dừng lại, mắt thôi nhìn, tai thôi nghe, và toàn thân thôi cử động.


    Các bạn đã cách một quãng xa, không thấy Phanxicô đâu, cùng nhau quay lại tìm. Đến gần, họ bỗng ngập ngừng. Người đứng trước mặt họ đâu còn nữa là kẻ mà họ vừa suy tôn là “Vua Bạn Trẻ”. Một thế giới đã phân cách họ với người bạn của những ngày vui tưng bừng náo nhiệt. Nhưng chẳng lẽ làm thinh, vài cậu cũng phải gượng đùa:


    - Hoàng tử của chúng tôi oai vệ quá! Sao ngài lại ngừng bước một mình ở đây? Lại tưởng đến nàng rồi hẳn? Bao giờ thì cử hành hôn lễ đấy, quân vương? Chẳng biết công chúa thần tiên diễm lệ đến ngần nào mà khiến Hoàng tử chúng tôi ngẩn ngơ đế thế?


    Phanxicô mỉm cười khó hiểu trả lời:


    - Các bạn nói đúng! Tôi đang nghĩ miên man đến ngày hôn lễ. Bạn đời của tôi là một giai nhân sắc tài đức hạnh vẹn toàn, các bạn chưa ai từng gặp một người như thế.


    Người đẹp của chàng trai ấy là ai? Chính Phanxicô cũng chưa rõ. Chàng chỉ tiên cảm và ra công tìm kiếm, đang vững dạ chờ mong. Mãi sau chàng mới rõ dung nhan người ước mơ ấy.


    Những cuộc vui trên là bước cuối cùng của đoạn đời vui vẻ trẻ trung. Từ đó, Phanxicô không cùng chúng bạn tổ chức những ngày lễ lạc hân hoan như thế nữa. Chàng chỉ biết trung thành với người đẹp trong lòng.


    Một tâm hồn biến đổi, một cuộc đời chuyển hướng vì đã đón nghe một tiếng gọi xa xăm. Đó là việc làm của ơn Chúa. Người ngoài cuộc chỉ biết thế thôi, chứ không mong gì phân tách diễn tả được tác động của ơn Chúa trong linh hồn ấy. Từ đây Phanxicô theo ơn Chúa gọi, tiến tới không ngừng, vượt hẳn ra ngoài khuôn khổ người thường. Hành động của chàng bị cho là điên cuồng rồ dại đối với những kẻ khôn ngoan, cái khôn ngoan trần thế.


    Tuy nhiên trong cuộc đời mới, Phanxicô đã mang theo tất cả những bản sắc riêng của tâm hồn. Hào hoa phong nhã, khí phách hiên ngang, cốt cách người hiệp sĩ, phong thái thi nhân, Phanxicô sẽ vận dụng tất cả những vốn liếng tự nhiên ấy để phụng sự lý tưởng mới của chàng.
    Chữ ký của Gia Nhân

  6. Được cám ơn bởi:


  7. #4
    Gia Nhân's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: ✛ Louis
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sông Nước - Miền Tây
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 3,130
    Cám ơn
    4,023
    Được cám ơn 15,423 lần trong 2,929 bài viết

    Post

    LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA




    Cắt đứt với dĩ vãng, Phanxicô còn phải tìm một lối đi giữa trăm vạn nẻo đường mở rộng. Chàng không khỏi hoang mang, nhưng vẫn đặt vững niềm tin vào Thiên Chúa. Để nghe rõ tiếng Chúa hơn, chàng xa dần những hoạt động buôn bán của nghiệp nhà và bắt đầu một cuộc đời tâm niệm nguyện cầu.


    Xa hẳn các bạn bè vui chơi, Phanxicô chỉ thổ lộ tâm tư với một người bạn thân, mà các nhà chép truyện không ghi tên tuổi. Cêlanô chỉ chép: “Người bạn ấy cùng Phanxicô chung một chí hướng và thường cùng chàng đàm đạo trong các cuộc dạo mát quanh vùng. Đôi bạn tâm giao thường dẫn nhau đến một hang đá gần thành. Hai người vừa đi vừa nói đến cái kho tàng quý báu, đối tượng mới đang quyến rũ lòng đôi bạn thanh niên. Lúc đến hang, thường thì chỉ một mình Phanxicô vào, để riêng mình ra trước mặt Chúa. Đây là nơi con người vừa trở lại đã sống những giây phút khắc khoải của tâm hồn đang bị xâu xé giữa trăm nghìn ý tưởng và xu hướng đối lập. Để tìm lại thế quân bình cho tâm giới, Phanxicô tha thiết cầu xin ơn trên soi đường chỉ lối. Nhìn lại quãng đời qua, chàng khóc lóc những tội lỗi mà giờ đây chàng ghê tởm và không khỏi run sợ một ngày kia rất có thể lại ngã về lối cũ. Ngần ấy thứ dày vò cấu xé tâm can, chàng đau khổ đến mực thất sắc, mỗi lần ra khỏi hang để cùng bạn trở về nhà.”


    Nhưng bỗng một hôm, sau một giờ cầu nguyện, Phanxicô ra khỏi hang, vẻ mặt hoàn toàn bình tĩnh. Cơn bão nội tâm đã lặng. Ánh sáng Chúa đã đuổi tan bóng tối. Một niềm vui tràn lan và bọc lộ ra ngoài. Không cầm được nỗi lòng, nhưng cũng khó bề bày tỏ được những gì còn chất chứa trong tâm tư, Phanxicô chỉ biết trả lời với những ai gặn hỏi thái độ mới của chàng:


    - Vâng, tôi bỏ chiến địa miền Pouilla trở về là để lập ngay chiến công giữa xứ sở.


    Hoặc:


    - Vâng, tôi sắp làm lễ thành hôn và người hôn thê của tôi là một tuyệt thế giai nhân người trần không ai sánh kịp.


    Một thay đổi rõ rệt trong sinh hoạt hằng ngày là Phanxicô chỉ còn đi lại với các bạn nghèo đang ốm đau, đói khát và sống nheo nhóc giữa châu thành. Xưa nay, Phanxicô vẫn thương hạng người xấu số ấy. Nhưng lòng trắc ẩn từ trên ban xuống ấy từ ngay đã biến thành một tình yêu đặc biệt, như tình tương giao của những người đồng cảnh. Sự giúp đỡ bạn nghèo mà chàng nhất quyết không bao giờ hẹp lượng, không phải là một sự bố thí của kẻ cao sang mà chỉ là thái độ san sẻ của một mối tình huyng đệ trong một tâm hồn đã bắt nguồn với tình yêu xả kỷ. Của cải vật chất trong tay chỉ tượng trưng cho sự cung hiến bản thân. Cho tất cả, cho mọi nơi, và mọi lúc đã thành một nhu cầu của tâm hồn. Vì vậy chẳng những bạc tiền mà đến cả một vật dụng trong tay cũng như y phục đang bận trên người, Phanxicô điều không ngần ngại biếu cho những ai thiếu thốn. Những ngày thân phụ vắng nhà, Phanxicô cố tình sắp lên bàn thật nhiều thức ăn để dành phần cho các kẻ nghèo thường đến các nhà vào buổi tan bữa, xin những thứ ăn còn lại. Bà Pica biết rõ ý con, nên không nói gì. Có lẽ người mẹ đã vui mừng về cử chỉ bác ái của con, dấu chỉ một đổi mới đang đến. Càng ngày thế giới nghèo càng thu hút Phanxicô. Cuối cùng chàng chỉ biết nghĩ đên người nghèo, giúp đỡ người nghèo và vui sống giữa người nghèo.


    Phanxicô với cái nghèo là tình cá nước. Chỉ đứng ngoài cuộc, đời nghèo mà rộng tay bố thí cho người nghèo, Phanxicô vẫn chưa thấy thoả tình. Chàng muốn trở nên một người nghèo để chung sống cuộc đời nghèo.


    Ý định ấy Phanxicô muốn thực hiện một lần xem thử. Và chàng đã thực hiện trong một dịp hành hương tại Rôma. Hôm ấy, đứng trước mồ thánh Phêrô, Phanxicô quan sát đoàn người trẩy lễ dâng cúng vào hòm tiền. thấy số tiền công đức chẳng là bao, chàng nói lớn: “Vị thủ lãnh Tông đồ phải được suy tôn với tất cả lòng quảng đại. Sao những người giàu sang kia lại hẹp hòi như thế?”.


    Nói rồi cậu Bernađônê, với một cử chỉ phóng khoáng mở rộng túi vàng, ném từng nạm như mưa vào hòm sắt. Những đồng tiền vàng rơi xuống nền đá cẩm thạch vang dội một góc thánh đường. Giữa sự ngơ ngác của mọi người, Phanxicô bình thản bước ra, xem cử chỉ của mình chỉ là một việc hết sức tự nhiên.


    Ra khỏi, Phanxicô đi lẫn vào đám đông hành khất trước sân thánh đường. Chàng xin đổi bộ áo sang trọng với bộ đồ rách nát của một người hành khất. Rồi sắp hàng với dân bị gậy, chàng ngửa tay ăn mày, chia với họ bữa cơm bố thí. Lần đầu tiên: lần đầu tiên được mang chính trên bản thân phù hiệu của Nàng Tiên Nghèo mơ ước bấy lâu, lòng Phanxicô dạt dào vui sướng. Nếu không còn một chút e ngại sợ phạm đến gia phong thì Phanxicô đã ở hẳn đây.


    Nhưng rồi, bước cuối cùng, chàng cũng sẽ vượt qua.




    CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN



    Về Assisi, Phanxicô sống ẩn dật hơn nữa. Ngày càng cầu nguyện tha thiết và lâu dài hơn. Chàng phong lưu công tử đang qua một thời chuyển hướng, lẽ tất nhiên là không tránh khỏi nhiều trở ngại cực lòng. Đường tiến đức không phải rộng rãi thênh thang gì, mà thói cũ nết xưa đâu có một sớm một chiều mà trừ diệt được. Con người xác thịt biết đã đến ngày mình phải khuất phục lại càng lồng lộn hơn xưa. Trong cuộc chiến đấu gay go nhưng âm thầm ấy, nhiều khi Phanxicô đã có ý định tháo lui. Thì ra chàng cũng mỏng giòn yếu đuối như ai.


    Một hôm, tiếng mầu nhiệm lại phán bảo: “Phanxicô, nếu con muốn gặp Ta, hãy khinh chê những của cải thế gian, hãy từ bỏ chính bản thân con, để yêu chuộng những sự đắng cay hơn những điều dịu ngọt. Chỉ có biến đổi hẳn cái bản thân con như vậy, mới có cơ thấu hiểu được ý Ta”.


    Phanxicô cúi đầu lĩnh lời dạy và hứa sẽ vâng theo.


    Nhưng trong công việc hoán cải một con người như Phanxicô, Chúa đã dự tính những nhát dao sắc bén và thần diệu. Và đây là nhát dao thần diệu nhất mà chính Phanxicô đã ghi lại trong Di chúc sau này: “Vào thời tội lỗi của đời tôi, tôi cho việc gặp những người mắc bệnh phong là không gì ghê tởm bằng. Nhưng thuở ấy chính Thiên Chúa thúc đẩy tôi tìm đến những người hẩm hiu xấu số ấy. Tôi theo lệnh Chúa và từ đó mọi sự đều biến đổi. Nhưng việc trước kia tôi cho là khó khăn không thể nào vượt qua được, nay bỗng trở nên rất dễ dàng. Rồi không bao lâu nữa, tôi từ bỏ hẳn thế gian”.


    Những người mắc bệnh phong, thời ấy ở khắp Châu Âu, thường lê gót trên các nẻo đường. Họ đã bị gạt ra ngoài lề xã hội. Vừa thoáng thấy họ, người ta đã vội tìm lối rẽ để khỏi phải ghé mắt nhìn tấm thân tàn rữa đầy máu mủ hôi tanh. Tất nhiên, trước đây một con người như Phanxicô, bao giờ cũng trưng diện bảnh bao, chỉ quen tiếp xúc với lớp người giàu có cao sang, thì làm sao đến gần được những bệnh nhân hôi tanh ghê tởm ấy. Có giàu lòng bác ái, thì cũng chỉ gián tiếp nhờ những người trung gian cấp phát của bố thí mà thôi.


    Nhưng một hôm, thả lỏng dây cương cho ngựa đi từng bước ở một nẻo đường quanh, anh chàng phong lưu công tử bỗng gặp một người phong đối diện. Phản ứng tự nhiên là gò cương quay ngựa lại. Nhưng Phanxicô trấn tĩnh được ngay, chàng vội vàng xuống ngựa, mở rộng hai tay ôm lấy người bạn tàn phế, kính cẩn trao cho một số tiền làm quà giao hảo. Phút chốc một niềm vui dâng cao xâm chiếm cả toàn thân chàng. Thiên Chúa đã giữ lời hứa. Người đã đổi cay đắng ra ngọt ngào cho những ai biết mến chuộng cay đắng hơn ngọt ngào.


    Lần thứ nhất người hiệp sĩ chiến thắng được mình. Vẫn chưa lấy làm đủ. Chàng vội lên ngựa phi nhanh về một trại phong gần thành. Đến nơi, chàng vào hẳn trong lữ viện của mọi đau khổ ở trần gian này, mời tất cả các người phong ở đấy lại, rồi tha thiết xin họ tha thứ cho chàng cái tội đã để lòng coi khinh họ bấy lâu. Chàng ở lại giữa họ, thân mật truyện trò và an ủi họ. Dùng dằng không nỡ dứt, trước lúc ra về, chàng biếu mỗi người một món tiền. Và như để hứa hẹn một ngày mai trở lại chung sống với họ, lúc cáo biệt, Phanxicô không ngần ngại hôn lên mặt tất cả các bệnh nhân.


    Mười mấy năm sau, khi đã đi tới cùng con đường thánh thiện, trong Di chúc, cuộc gặp gỡ đầu tiên này còn để lại một dư vị dịu dàng êm đẹp như một mối tình đầu. Mà thật, đây chính là một mối tình chứ không phải chỉ là một tấm lòng từ thiện đối với một phần nhân loại đau khổ. Cặp mắt siêu nhiên của Phanxicô đã nhận thấy, qua những tấm thân tàn tật ấy, hình tượng của một tấm thân đã tan nát treo trên núi Sọ. Trên hình thù ghê tởm của những người phong, Phanxicô đã yêu mến hình ảnh Con Người mà Thánh vịnh 21 đã ghi những nét thảm thương: “Tôi chỉ là thân sâu bọ, không phải là một con người nữa. Tôi là vật cho thiên hạ dể duôi, là giống cho muôn dân ghê tởm”.
    Chữ ký của Gia Nhân

  8. Được cám ơn bởi:


  9. #5
    Gia Nhân's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: ✛ Louis
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sông Nước - Miền Tây
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 3,130
    Cám ơn
    4,023
    Được cám ơn 15,423 lần trong 2,929 bài viết

    Post

    CHƯƠNG IV
    LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA - HAI MỐI TÌNH CHA

    Cách Assisi non một dặm, trên đượng đi Spoleta, giữa một đồi cây dần cằn cõi ngã nghiêng, thấp thoáng một ngôi nhà nguyện cổ, kính thánh Đamianô tử đạo. Ngôi nhà nguyện xây từ thuở xa xưa nào, nay đã đổ nát điêu tàn. Chỉ có một vị linh mục nghèo trông nom việc thờ phượng, sống qua ngày với của dâng cúng và tiến xin lễ.


    Một buổi chiều xuân năm 1206, Phanxicô một mình lủi thủi ghé vào viếng thăm Mình Thánh Chúa. Chàng quỳ gối, ngước mắt nhìn lên. Trên bàn thờ, có treo một tượng Chúa chịu đóng đanh, khuôn mặt trong rất dịu dàng hiền hậu. Chàng đang để lòng cảm thương Đấng đã chịu tử nạn vì chàng, bỗng hình Chúa khẽ động, làm môi mấp máy, rồi một tiếng tha thiết phán ra:


    - Phanxicô! con hãy lo xây lại nhà Cha đang đổ nát điêu tàn!



    Lời mầu nhiệm phán ra từ bức tượng có một tác động phi thường. Lòng chàng thêm thổn thức cảm thương Chúa. Từ đó, người ta thường gặp Phanxicô khóc than trên các nẻo đường hoang vắng: “Ôi! Đau lòng biết bao! Yêu người mà không được người yêu lại!”. Và cũng từ đó, đơn sơ và thành kính, Phanxicô nghĩ ngay đến việc sửa sang lại ngôi nhà nguyện. Chàng tìm đến dâng cho vị linh mục một món tiền mua dầu và sắm chiếc đèn chầu để có một ngọn lửa thờ trước tượng Chúa chịu đóng đinh.


    Mấy hôm sau, Phanxicô bắt tay ngay vào việc: Chàng vội vàng lên ngựa, mang theo ngững cuộn vải dạ cao giá nhất trong căn phòng thân phụ, rồi thắng ngựa phi về một phố chợ ở Folignô. Bán xong hàng, chàng bán luôn cả con ngựa, rồi mang túi bạc, một mạch về nhà nguyện Thánh Đamianô. Gặp vị linh mục, chàng kính cẩn vái chào, đem dâng tất cả số tiền và thuật lại rõ đầu đuôi câu truyện. Chàng không quên xin phép ở lại cùng vị linh mục già, để cùng giúp công xây dựng lại ngôi nhà nguyện và trông nom việc thờ phượng.
    Vị linh mục già không khỏi bỡ ngỡ. Ngài còn lạ gì cậu cả Bernađônê, một tay ăn chơi lọc lõi nhất trong thành. Hắn đã hết trò, nay lại còn đến quấy cả hàng giáo sĩ để mua vui cười cợt. Ngài liền từ chối. Sau cùng thấy chàng thanh niên nài nỉ mãi và có vẻ thành tâm, ngài vui lòng nhận cho chàng ở, còn món tiền ngài nhất quyết không nhận, vì là của thân phụ chàng. Hơi bất mãn, Phanxicô đem túi bạc nhét vào khe cửa sổ nhà nguyện. Thế là chàng phong lưu công tử kia đã thành người giúp việc cho vị linh mục nghèo, trông nom nhà nguyện thánh Đamianô.


    Riêng ông Bernađônê, từ ngày Phanxicô không dự chiến nữa trở về, ông đã nhận thấy con trai ông thay đổi hẳn. Đối với nghiệp nhà thì nhạt nhẽo thờ ơ, mà hễ ông vắng nhà vài hôm thì tiếng đồn, nào cậu cả chung sống với người hành khất, nào cậu cả lân la với người phong. Ông bắt đầu lo ngại cho tương lai con.


    Chiều hôm ấy, đợi con đi chợ mại không thấy về, ông cụ linh cảm như có một việc quan trọng đã xảy ra. Ông rảo tìm khắp các ngả đường phố và các vùng lân cận, cũng chẳng thấy Phanxicô đâu. Mãi vài hôm sau, dày công dò la tìm hỏi, ông mới biết đứa con ngông dại đã đến xin ở làm người giúp việc cho vị linh mục già coi nhà nguyện thánh Đamianô.


    Quả như điều ông đã đoán. Có thế nào con ông mới bỏ nghiệp nhà đang độ đi lên, để làm cái nghề ấy? Nhất định ông phải dành lại đứa con mà ông vẫn đặt nhiều hy vọng ngày mai. Cứ để vậy thì còn gì là thể thống?


    Tức giận đến cùng độ, ông họp tất cả thân bằng quyến thuộc thành một đoàn đông, rầm rộ kéo đến nhà nguyện thánh Đamianô. Nếp nhà nguyện điêu tàn và ngôi nhà chặt chội của vị linh mục già bị lục soát khắp nơi, nhưng chẳng ai thấy bóng dáng chàng thanh niên đã thoát ly gia đình đâu cả. Sau một hồi hò la nguyền rủa vô ích, tất cả hậm hực kéo nhau ra về. Thì ra thoáng thấy bóng người kéo đến, Phanxicô đoán biết chuyện sắp xảy ra, chàng đã nhanh chân chốn vào một hầm sâu.


    Từ đó sợ người nhà đến bất ngờ, Phanxicô ở mãi trong hầm sâu ấy suốt một tháng trời. Mỗi ngày có người đến mang cho ít thức ăn qua bữa. Lẩn trốn tất tưởi như thế, chàng lấy làm tuổi nhục lắm. Có một tâm tư thì bạn bè cũng như người thân thích không ai chịu hiểu. Chuyển một hướng đời thì phải giấu giếm rụt rè. Đến nay thi hành lệnh Chúa thì phải trốn xuống hầm như người vượt ngục. Suốt một tháng trời, chịu cực khổ, tâm hồn chàng thì phải qua bao nhiêu là thử thách. Chàng tha thiết xin ơn nâng đỡ và soi sáng. Trước mặt Chúa, chàng đã chân nhận được một cách thâm sâu sự hư vô bất lực của bản thân chàng. Nhưng Chúa chẳng bỏ người có lòng chân thành khiêm hạ. Trong đêm dày vẫn nhiều khi tràn lan ơn an ủi và chiếu rọi ơn soi sáng. Cuối cùng ơn Chúa đã thắng. Gạt bỏ tất cả lo âu sợ hãi, Phanxicô quyết định ra khỏi hầm để tiếp tục công việc đang bỏ dở. Chàng cương quyết chạm trán với mọi thử thách. Một tháng qua, trốn tránh là quá hèn nhát với một thanh niên đã tự nguyện hiến thân làm người chiến sĩ của Thiên Chúa.


    Ra khỏi hầm, bước chân lảo đảo, thần thể gầy gò, Phanxicô cương quyết tiến về Assisi. Một tháng ẩn nấp khổ cực dưới hầm đã ghi nhiều nét đậm trên gương mặt xanh xao và trong quầng mắt sâu tím của cậu Bernađônê.


    Lúc vừa bước đến quãng đường dẫn vào thành, mọi người đã kéo đến xúm quanh chàng.


    - Nó đây rồi!


    - Con ông Bernađônê đấy! Rõ con nhà vô phúc!


    - Điên rồi!


    - A thằng điên! Anh em ra mà xem thằng điên!


    Nhất là trẻ con lại càng tệ! Chúng vừa reo hò, vừa chế diễu. Chúng lấy đất đá ném từng loạt vào con người ngây như dại đang cúi đầu bước thẳng không để ý đến những việc xảy ra chung quanh.


    Rồi đám đông cùng theo Phanxicô tiến về phía nhà ông Bernađônê. Đứng trên lầu cao, ông đã nghe rõ những tiếng reo hò. Ông vội vã chạy xuống. Vừa nhận ra chính đứa con mình, người cha bỗng như điên như dại nhảy xổ vào, nắm lấy Phanxicô, đánh đập túi bụi một hồi rồi kéo thẳng về nhà, trói chặt, giam vào một căn phòng nhỏ hẹp.


    Ngày lại ngày, khi dọa nạt, khi dỗ dành, người cha vận dụng hết các phương thế để lôi cuốn đứa con trở về lối cũ, tiếp tục nghiệp nhà, gây dựng cơ sở và thanh danh. Nhưng vô hiệu. Lý luận, tình cảm, hình phạt, tất cả đều bất lực trước chí cương quyết của Phanxicô.


    Trong lúc ấy, bà Pica chỉ biết âm thầm khóc lóc và thành khẩn nguyện cầu, xin Chúa cứu thoát đứa con yêu khỏi tay áp bức của một người cha độc đoán, chỉ muốn đứa con sống theo quan niệm trưởng giả phú thương của ông.


    Một dịp may đến. Có công việc buôn bán lớn không thể bỏ qua. Sau khi nhắc lại cho cả nhà nghiệm lệnh không được thả Phanxicô, ông Bernađônê trẩy chợ ở phiên xa, vắng nhà một thời gian. Thừa cơ, bà Pica đã can đảm trái lời chồng, mở cửa phòng giam, trả lại tự do cho Phanxicô. Chắc hẳn sau nhiều giờ van lơn và bày tỏ nỗi lòng, bà mẹ hiền kia đã hiểu rõ chí hướng của con. Bà thôi không đem tình mẫu tử làm trở ngại bước tiến của con trên đường lý tưởng. Và có lẽ bà còn an ủi khuyến khích.


    Đến đây sứ mệnh làm mẹ thánh nhân đã trọn, bà Pica lui về bóng tối, tin vững vào bàn tay quan phòng Thiên Chúa. Người sẽ cho những dự đoán của bà về đứa con yêu được thực hiện đầy đủ vẹn toàn.


    Nhưng ông Bernađônê đã về. Ai cũng đoán trước được cơn thịnh nộ của ông. Bao nhiêu tực giận đều đổ trên đầu người vợ nhẫn nhục âm thầm. Và không chút chậm trễ, ông phóng thẳng đến nhà nguyện thánh Đamianô, nơi ông biết đứa con ngỗ nghịch kia đã lại đến ở.


    Vừa nghe tiếng om sòm của thân phụ, Phanxicô bình tĩnh ra chào. Và không nao núng trước cơn giận của cha, Phanxicô điềm nhiên thưa:


    - Thưa cha, hình phạt giờ đây khong làm sờn lòng con được nữa. Con sẵn sàng chịu đựng tất cả vì lòng yêu mến Chúa Kitô.


    Trước thái độ cương quyết của Phanxicô, ông Bernađônê biết rằng không làm gì được nữa. Ông đành nuốt giận trở về, sau khi đòi lại số tiền bán ngựa và bán hàng cho hả giận. Phanxicô chỉ cho cha túi bạc còn nằm nguyên trong khe cửa số nhà nguyện, bụi bặm đã bám đầy.


    Nhục nhã và tức giận, tay cầm túi bạc, ông Bernađônê trở về nhà. Dọc đường ông nghĩ đến một nước cờ cuối cùng mong sẽ dồn con ông vào thế bí, buốc chàng phải quay trở lại. Ông nhất định đầu đơn kiện thằng con bất hiếu, xin truất quyền thừa tự và trục xuất khỏi địa phương, nếu nó không trở về phục tùng cha mẹ. Hội đồng Công xã chấp đơn, đòi Phanxicô ra tòa hầu kiện. Nhưng Phanxicô không đi. Chàng nói: “Tôi là người của Thiên Chúa. Chỉ có Đức Giám Mục, đấng đại diện Thiên Chúa, là có thẩm quyền xét xử tôi”. Hội đồng Công xã cũng cho lời nói ấy là hợp lý.


    Không chịu buông tha, ông Bernađônê lại đệ đơn kiện con lên Tòa giám mục. Đức giám mục đương thời là Đức Cha Guiđô. Ngài cho đòi hai bên nguyên bị ra đối chứng trước tòa án địa phận.


    - Vâng, tôi xin ra hầu tòa trước Đức Giám mục, vì ngài vừa là cha, vừa là chủ các linh hồn.


    Phanxicô nói như vậy và đúng ngày tòa xử, chàng cùng với cha đối chất tại công trường Thánh Nữ Maria ngay trước dinh Giám mục. Phiên tòa hôm ấy rất là náo nhiệt. Mọi người đều nô nức đến xem và chờ đợi kết quả. Cậu truyện xích mích giữa hai cha con nhà Bernađônê đã làm dư luận thành Assisi xôn xao lâu rồi. Sau khi nghe lời buộc tội của ông Bernađônê, Đức Giám mục Guidô ngoảnh lại phía Phanxicô, đang đứng trầm ngâm như chìm vào một thế giới siêu nhiên, không quan tâm gì đến cảnh vật chung quanh. Giọng trang nghiêm và ôn tồn, ngài phán bảo:


    - Cha con đã bất mãn vì con. Ông kiện con vì tội trái lệnh cha mẹ, làm nhục thanh danh và vi phạm tài sản gia đình. Vậy nếu con muốn dâng mình làm tôi Chúa, con hãy hoàn lại cho cha con tất cả những gì là của cha con. Con không có quyền sử dụng tất cả các tài sản ấy, dầu là để làm việc công đức, sửa sang lại nhà Chúa. Con hãy can trường dũng cảm, đặt lòng trông cậy vào Chúa. Người sẽ trợ giúp con và ban cho con những điều cần thiết, để con hoàn thành sứ mệnh Người giao cho con. Con sẽ không thiếu một vật gì.”


    Lời xử của vị chánh án như một lời cổ võ. Phanxicô nhanh nhẹn đứng dậy lớn tiếng thưa:


    - Thân lạy Đức Cha, con xin theo quyết định của Đức Cha và để cho thật hợp lẽ công bằng, con xin hoàn lại thân phụ con của bộ áo con đang mặc đây, vì cũng là của cha con.


    Dứt lời, Phanxicô không để ai kịp đối đáp, chàng chạy thẳng vào một gian phòng cạnh đấy. Một phút sau, chàng trở ra, trên tay ôm bộ áo quần, trên mình chỉ còn manh áo nhặm, và trên mặt sáng lên một niềm vui giải thoát. Quần chúng đang xôn xao bỗng im bặt. Và giữa không khí ngạt thở ấy, tiếng Phanxicô bỗng vang lên:





    - Xin tất cả những người có mặt tại đây, hãy nghe tôi. Từ trước đến nay, tôi vẫn gọi ông Bernađônê là cha tôi, nhưng từ giây phút này về sau, tôi hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Tôi xin hoàn lại tất cả cho ông.


    Rồi nhẹ nhàng đặt mớ quần áo xuống dưới chân ông Bernađônê, chàng nói tiếp:


    - Thế là từ đây tấm thân trần này sẽ dâng lên Chúa và được thực sự nói lên rằng: Lạy Cha của tôi ở trên trời!


    Khổ tâm và tủi nhục, người cha vơ nhanh lấy mớ quần áo, vội vã lui ra. Dân chúng nhìn tấm thân gầy gò ốm yếu dưới manh áo nhặm mà cảm động. Có kẻ đến ưng rưng nước mắt. Riêng Đức Giám mục cũng không ngăn nổi xúc động. Ngài vội bước xuống tòa, đến gần Phanxicô, đưa vạt áo choàng che cho tấm thân trần của chàng. Cử chỉ ấy của đấng đại diện Chúa tượng trưng cho sự bao bọc che chở của Đấng Toàn Năng đối với con người đã thoát ly mọi sư để hoàn toàn phó thác trong tay Chúa.



    LÊN ĐƯỜNG HÀNH KHẤT

    Thế rồi với bộ áo cũ người làm vườn Tòa giám mục cho, Phanxicô từ nay đoạn tuyệt hẳn với đời, thênh thang bước chân vào con đường hoán cải.


    Chàng lấy vôi vẽ lên áo một hình Thánh giá. Đó là khí giới của chàng Hiệp sĩ Chúa Kitô. Chàng rời khỏi dinh Giám mục ra đi, lòng vui như hoa nở. Đã qua rồi giai đoạn đầy phân vân sợ hãi, dè dặt vò dò dẵm lối đi. Phanxicô tiến thẳng vào rừng. Chàng cần sống trong cảnh vắng lặng để tìm lại bình tĩnh cho tâm hồn sau một cuộc kịch chiến và cũng để tận hưởng niềm vui của ngày được chính thức tấn phong làm Hiệp sĩ Chúa Kitô.


    Nhịp theo bước chân đi chàng ca hát tán tụng tình yêu không bến không bờ của Thiên Chúa. Tiếng hát vang rộn cả một góc rừng.
    Bỗng từ một bụi ậm xông ra ba anh cướp, chộp ngay lấy chàng nhạc sĩ hát rong. Ba anh cướp nghe tiếng hát tưởng gặp được món hời, không ngờ lại vớ phải một anh chàng điên, vỏn vẻn có manh áo cũ. Bực mình, ba anh cướp gạn hỏi:


    - Mày là ai? Đi đâu mà nghêu ngao như thế?


    Phanxicô trả lời không chút sợ hãi:


    - Tôi là sứ thần Vua Cao Cả, phụng mệnh đi ca hát Tình Thương.


    Như để trả thù vì bị mắc lầm, ba anh cướp giã cho Phanxicô một trận tơi bời và đẩy mạnh chàng xuống một rãnh sâu ven rừng, rồi bỏ đi. Phanxicô mình mẩy xây xát vì gai góc, sau một hồi lâu mới bò lên được khỏi rãnh. Rồi như không có việc gì xảy ra, chàng lại vừa đi vừa hát. Lời tán tụng Chúa vang khắp mọi nẻo rừng.


    Qua khỏi rừng, chàng đến gõ cửa một đan viện dòng Bênêđíctô xin việc làm kiếm ăn. Các tu sĩ nhận chàng làm người phụ bếp, nhưng chàng không ở đó lâu.


    Từ giã đan viện, Phanxicô tìm đến một người bạn cũ ở Gubiô. Người bạn này biếu chàng một bộ y phục các nhà ẩn sĩ thường mặc: một cái áo dài, một dây da thắt ngang lưng, một đôi giày và một cái gậy.


    Sau khi từ biệt người ân nhân đầu tiên này, Phanxicô tìm đến trại phong, nơi chàng đã đến thăm và hẹn ngày trở lại. Thật là thỏa lòng mong ước bấy lâu. Sống giữa những bệnh nhân xấu số ấy, Phanxicô đem hết lòng thương mến săn sóc hầu hạ., rửa mụt, thấm máu, giặt dũ quần áo. Không có việc gì dơ bẩn mà chàng lại từ nan. Chẳng những thế chàng lại làm với một thái độ cung kính gần như làm việc thờ phượng. Người ta thấy chàng phong lưu công tử ngày trước bây giờ quỳ gối cúi đầu, hôn kính các vết thương ghê tởm in lên những tấm thân đã tàn rữa, mà trước kia có lẽ chỉ nghe nói đến chàng đã nôn mửa bỏ chạy. Thánh Bônaventura chép rằng: “Vì vậy Chúa đã ban cho nhiều người được lành bệnh, mỗi lần Phanxicô chạm đến vết thương”.


    Nhưng Phanxicô không thể ở lại với những anh em yêu dấu này được. Lệnh Chúa truyền còn ghi rõ trong tâm. Nhà nguyện Thánh Đamianô vẫn chưa trùng tu xong. Tuân theo ý Chúa, chàng lại từ giã các bạn phong, trở về nhà nguyện Thánh Đamianô và hẹn sẽ có ngày trở lại.


    Vị linh mục nhà nguyện Thánh Đamianô đã được người ta thuật lại phiên tòa ly kỳ hôm nọ, đang chờ mong chàng trai trẻ kỳ khôi nhưng đáng yêu ấy trở lại. Thì hôm nay chàng trở lại xin tiếp tục công việc đang bỏ dở.


    Nhưng làm sao để xây lại nhà nguyện với hai bàn tay trắng? Suy đi tính lại thì chỉ còn một phương tiện duy nhất là đi mời gọi sự cộng tác của những người hằng tâm hằng sản, hay nói trắng ra là đi ăn mày từng cửa. Thế rồi, ngày ngày Phanxicô về Assisi, đứng ở các ngã đường, ca hát những bà ngợi khen Chúa. Thiên hạ thấy vui rủ nhau đến vây quanh người hát dạo. Khi thấy thính giả đã khá đông, Phanxicô hùng hồn tha thiết trình bày công việc trùng tu nhà nguyện Thánh Đamianô và nhân danh Thiên Chúa kêu gọi mọi người góp phần vào việc công đức ấy.


    - Ai cho tôi một viên đá, người ấy sẽ nhận được một phần thưởng của Chúa Giêsu. Ai cho tôi hai viên đá, người ấy sẽ nhận được hai phần thưởng của Chúa Giêsu. Ai cho tôi ba viên đá, người ấy sẽ nhận được ba phần thưởng của Chúa Giêsu…
    Trong dân chúng có kẻ đứng lại, bĩu môi:


    - Rõ là điên! Con nhà giàu có lại bỏ đi ăn mày! Thừa của mà bố thí cho nó!


    Trái lại có nhiều kẻ thấy lòng nhiệt thành của nhà khổ tu trẻ tuổi mà cảm động. Và số đá thu được cũng đủ cho người thợ nề tập sự tiến hành công việc. Tấm thân xưa quen sống trong nhung lụa bạc tiền, nay lại phải ngày ngày đi khuân đá từ Assisi về nhà nguyện Thánh Đamianô, rồi tự tay trộn vôi xây tường, vất vả cực nhọc không thể kể siết. Nhưng với một tâm hồn thành thật hoán cải, Phanxicô say sưa công việc, quên cả dung nhan mỗi ngày một tiều tụy, thân thể mỗi ngày một hao mòn.


    Vị linh mục già thấy vậy động lòng thương. Tuy nghèo nhưng ngài vẫn cố gắng kiếm thêm thức ăn để bổ sức cho chàng thanh niên hăng hái. Một hôm thấy mình được cha sở cưng, Phanxicô tự bảo: Dễ thường và bao giờ bất cứ ở đâu ta cũng sẽ được người nuôi nấng chăm nom như thế này mãi sao? Đời của một người tự nguyện sống nghèo đâu phải như thế? Tưởng đến Chúa Giêsu xưa sinh nghèo sống khổ, chết trần chôn mướn, chàng cảm thấy xấu hổ đã sống đầy đủ và yên ổn.


    Thế là hôm sau, sau một ngày mệt lả vì khuân đá xây tường, Phanxicô lại lủi thủi về thành gõ cửa từng nhà một, xin mẩu bánh thừa hoặc bát xúp cặn. Có kẻ vừa thấy bóng cậu cả Bernađônê đã vội xua tay quát mắng hoặc thả chó cắn đuổi. Có kẻ không nỡ từ chối cũng bố thí cho ít nhiều. Bữa ăn bố thí đầu tiên là cả một công trình. Ngồi trên một vỉa hè đường phố, Phanxicô nhìn vào chiếc bình sứt miệng lẫn lộn thịt dư bánh thừa, mùi xông lên làm chàng nôn mửa. Tội nghiệp con người xưa kia chỉ biết cao lương mỹ vị, nay đang nhắm mắt bịt mũi bỏ vội vào miệng rồi cố nuốt, nuốt và nuốt nữa. Và lạ lùng! Người ăn cảm thấy ngon hơn tất cả sơn hào hải vị đã từng ăn trên bàn tiệc ngày xưa. Chỉ một lát, bình đồ ăn đã hết sạch, người hành khất đứng dậy rũ áo ra về lòng nhẹ nhàng thanh thản. Và trong bóng chiều sắp tắt, trên đường về nhà nguyện Thánh Đamianô tiếng ai lanh lảnh vang xa, sang trọng và dịu dàng như tiếng chim hót véo von, dâng lên Chúa muôn lời cảm tạ.


    Nhưng con người cũ chưa hẳn đã chết, và con người mới còn phải cố công hơn nữa.


    Như hôm nọ, đèn dầu trong nhà nguyện lụi tắt vì cạn dầu, Phanxicô xách bình vội vã vào một quán rượu lớn ở Assisi để xin dầu. Vừa ló đầu vào, kìa Phêrô, Andrê và các bạn vui vẻ độ nào! Toàn những khuôn mặt quen thuộc! Chàng vội vã lui ra, mặt đỏ bừng vì thẹn. Nhưng vừa bước ra được vài bước đã thấy lòng đay nghiến: “Hèn nhát! Đã chọn lấy đời nghèo, sao còn hổ thẹn!”. Chàng vội quay lại, tiến thẳng đến trước bàn tiệc, thú với mọi người phút chiến bại vừa qua, và ngửa tay xin tiền mua ít dầu về thắp đèn chầu. Chiều về, lúc rót dầu vào đèn, Phanxicô mới hiểu tất cả nhiệm mầu của cuộc đời hành khất tình nguyện.


    Ngày tháng qua. Nhà nguyện Thánh Đamianô đã trùng tu xong. Vị linh mục già cảm động, cầm lấy bàn tay đã lên chai của người thợ nề trẻ tuổi, và hết lời cám ơn khen ngợi.


    Rồi cuộc đời hành khất, xây lại nhà thờ như thế kéo dài suốt hai năm sau. Chưa nghe Chúa truyền lệnh mới, Phanxicô cứ trung thành thi hành lệnh cũ: “Sửa sang lại nhà Cha đang hoang tàn đổ nát”. Sửa xong nhà nguyện thánh Đamianô, chàng lại bắt tay xây dựng lại nhà nguyện Thánh Phêrô cất trên một đồi đất phụ cậm với tường thành. Cuối cùng chàng sửa lại nhà nguyện Porziuncôla.
    Nhà nguyện này chỉ là một gian nhà nhỏ, khuất sau một đồi cậy rậm. Được xây lên hồi nào, không ai rõ, chỉ biết rằng trước kia được gọi là nhà nguyện Đức Bà Thiên Thần, vì tương truyền đôi khi trong đêm vắng, các thiên thần hiện ra hợp lời hát mừng Thiên Chúa và Đức Mẹ. Nhưng đó là từ thuở xa xưa nào, chứ đời bấy giờ chỉ là một gian nhỏ hoang tàn đổ nát, chắng ai lui tới, trừ các trẻ chăn chiên những ngày giông tố đến tìm nơi trú ẩn.


    Phanxicô không đành nhìn một nơi thờ phượng phải chịu cảnh điêu tàn, nên chàng cố công xây lại. Đối với một ngôi nhà nguyện nhỏ, đặt dưới sự phù trợ của Nữ Vương các Thiên Thần, Phanxicô lưu luyến lắm. Chàng dựng một liều tranh bên cạnh, rồi ở luôn đấy. Đây là nơi bao ngày tháng Phanxicô đã sống say sưa trong tình yêu Chúa. Đây chính là nơi Chúa đã tỏ cho chàng biết ý định của người về đời chàng và nơi chàng tìm được nghĩa Phúc Âm.


    Ba năm qua, từ ngày Phanxicô tuyên bố chuyển hướng đời trước phiên tòa Giám mục, nhiều người đã theo dõi chàng từng bước. Thái độ bảo trợ của Đức Giám mục bảo trợ đã nói lên một phần nào cái ý mà ngài đã công nhận việc làm của Phanxicô là do lệnh Chúa. Nhưng phần đông vẫn cho nhà ẩn tu trẻ tuổi kia là một thằng điên hay một kẻ quá khích. Họ nhìn Phanxicô với cặp mắt hoài nghi, và sau một thời gian mỉa mai chế giễu chán rồi họ cũng quên, xếp Phanxicô vào hạng người sống ngoài lề xã hội chẳng đáng quan tâm.
    Khổ tâm nhất cho Phanxicô có lẽ là sự nguyền rủa của gia đình. Mẹ chàng thì không kể, bà Pica đã giải thoát con khỏi tay áp bức của người cha độc đoán, chắc hẳn là thuận tình cho con sống cuộc đời đạo hạnh kham khổ ấy. Nhưng là phận đàn bà, bà chỉ biết thương con, âm thầm cầu nguyện cho con đi cùng đường đã chọn. Trái lại, thân phụ và em trai Phanxicô là Angêlô thì không tiếc lời mắng nhiếc mỗi lúc gặp chàng.


    Một buổi sáng mùa đông, trời rét như cắt, Phanxicô đang quỳ gối cầu nguyện trong một ngôi nhà thờ. Cậu em bước vào, vừa trông thấy, liền chỉ cho người bạn đi sau và nói to:


    - Phanxicô đấy! Anh hãy thử hỏi chàng có thuận bán thì mua ít đồng mồ hôi.
    Phanxicô mỉm cười đáp lại:


    - Mồ hôi tôi không bán, hai cậu ạ! Tôi đã bán cho Chúa rồi. Chúa mua đắt hơn hai cậu nhiều.


    Con ông Bernađônê, hễ gặp Phanxicô đâu là ông không tiếc lời mạt sát và chúc dữ. Những lời đắng cay của thân phụ làm cho Phanxicô buồn tủi lắm. Thì ra thái độ trước tào án Giám mục chỉ là thái độ của một người muốn cắt đứt ngay những dây ràng buộc của tình phụ tử. Chàng cố tâm tàn nhẫn để thắng chính lòng mình. Chứ người con đâu phải là vô tâm hay bất hiếu. Để xoa dịu nỗi khổ tâm cứ bị phụ thân nguyền rủa, Phanxicô tìm đến người bạn hành khất già, tên là Albertô. Anh nói:


    - Xin ông nhận tôi làm nghĩa tử, để chúng ta cùng sang sẻ những của bố thí. Phần tôi, tôi xin ông điều này, cứ mỗi lần, trên đường hành khất, có gặp cha tôi, mà ông cụ cứ nhắm tôi nguyền rủa, thì xin ông hãy làm dấu Thánh giá trên tôi, rồi chúc lành cho tôi để bù lại.


    Ông lão Abertô nhận lời. Thế là Phanxicô yên lòng. Để đánh tan lời chúc dữ của người cha ruột, đã có lời chúc lành của người cha nuôi, nghèo.


    Trái với lớp người trên, một số khác không ít, tự nhiên thấy có thiện cảm với chàng thanh niên kỳ quậc ấy. Họ thầm bảo: Điên đâu mà cặm cụi mấy năm trời, sửa hết nhà nguyện này đến nhà nguyện khác? Điên đâu mà có vẻ mặt dịu dàng khiêm tốn và giọng nói đằm thắm thiết tha ấy? Điên đâu mà nhẫn nhục chăm sóc người phong và thương họ đến một tình thương không giới hạn? Vì thế, mỗi lần gặp Phanxicô lủi thủi trên đường hay đến gõ cửa xin đá, xin thức ăn là họ như bị một sức mạnh vô hình lôi cuốn. Họ không hiểu được, nhưng họ cảm thấy ở con người kỳ lạ ấy có một cái gì đặt chàng vào một thế giới khác hẳn thế giới lừa lộc đua chen này. Qua khóe mắt làn môi, qua bước đi giọng nói của người hành khất, họ cảm thấy như khun g trời mở rộng, và sau những câu trao đổi với chàng, họ còn giữ lại một dư vị thiêng liêng, làm dịu lòng trần thế, soi sáng trí phàm hèn. Mỗi lần bố thí cho chàng, họ ngạc nhiên vì chính họ là kẻ được bố thí một của gì quý, nhiệm mầu không thể tả ra được.


    Riêng Phanxicô, dù thiên hạ chê cười, dửng dưng hay thương mến, chàng vẫn âm thầm tiến bước trên con đường làm tôi Chúa. Ban ngày làm bạn với lớp người đói rách, nhất là những người phong, những người xấu số hơn hết. Rồi tối lại, chàng một mình lặng lẽ trở về túp lếu tranh, cạnh nhà nguyện Đức Bà Thiên Thần thức khuya cầu nguyện.





    BÀ CHÚA NGHÈO.


    Cuộc đời cứ tiến nhịp nhàng như thế cho đến ngày 12 tháng 10 năm 1208. Sáng hôm ấy, bên ngoài, lúc mặt trời vừa tắm đồi cây trong bầu ánh sáng vàng tươi, mấy con chim đang tung tắng trước cửa ngôi nhà nguyện đã trùng tu từ năm trước, thì bên trong, lễ kính Thánh sử Luca bắt đầu. Có lẽ Phanxicô đã cố mời cho được một vị linh mục thuộc đan viện núi Soubasiô thỉnh thoảng đến dâng lễ. Nhà nguyện này vẫn thuộc các đan sĩ Bênêđictô trên núi ấy. Và sáng nay có lẽ chỉ một mình chàng giúp lễ và dự lễ.


    Đưa sách lễ qua phía Phúc Âm, Phanxicô kính cẩn đứng nghe. Đến đoạn: “Các con hãy đi loan báo tin vui khắp nơi rắng: Nước Trời đã đến gần. Những gì các con nhận được nhưng không, hãy cho lại người khác nhưng không,. Ra đi, đừng mang theo tiền bạc, dây thắt lưng và bị đi đường, đừng mang theo hai áo, giày và gậy, bởi lẽ người làm công sẽ được người ta trả công”. Phanxicô bỗng có ấn tượng như Chúa vừa xé toang trước mắt chàng lớp màn đen sau hết. Đây rồi, đây chính là điều chàng đã tìm kiếm bấy lâu.


    Lời Phúc âm vang dội bên tai như lệnh xuất quân của vị chủ tướng của chàng hiệp sĩ đã tình nguyện phụng sự. Phanxicô không ngần ngại gì nữa. Lời của Đấng Hắng Sống đã truyền rõ cho chàng sứ mệnh: Rao truyền tin vui khắp nơi và sống nghèo.


    Trong bộ y phục mới, Phanxicô có cảm tưởng như một Hiệp sĩ đang thênh thang bước đi trên con đường phục vụ một ông Hoàng oai phong và một Bà Chúa xinh đẹp.


    Từ những ngày được ứng mộng thuở còn theo đuổi công danh, hình ảnh Bà Cháu đã nỡ đẹp trong lòng chàng hiệp sĩ hào hoa phong nhã. Nhưng bà là ai? Tên bà là gì? Phanxicô vẫn chưa biết rõ. Qua những lời hứa hẹn nhiệm mầu, chàng thấy phải đợi chờ và qua bao gian nan thử thách chàng vẫn một lòng chung thủy. Muốn phục vụ bà, chàng phải qua một thời kỳ lột xác, đắng cay nhiều hơn dịu ngọt, hay đúng hơn, chỉ lấy đắng cay làm dịu ngọt. Cho tới hôm nay, Vua Trời Cao Cả đã chứng giám tấm lòng thành, cho chàng được yết kiến bà.


    Ông Hoàng mà chàng hiệp sĩ phụng thờ là Đức Kitô. Bà chúa mà chàng hiệp sĩ quyết xông pha trận mạc, đem chiến lợi phẩm về dâng, là Bạn Trăm Năm của Đức Kitô, từ lúc sinh ra nơi hang đá, bò lừa, cho đến lúc chết trần trên thập giá.


    Bà Chúa Nghèo hiện rõ giữa tâm hồn người hiệp sĩ với trăm nghìn vẻ đẹp nhiệm mầu huyền ảo. Giờ đây, Phanxicô mới thấy rõ quá trình của một cuộc gặp gỡ thiêng liêng. Và trên mọi nẻo đường đã có bàn tay Chúa dẫn dắt.


    Đoạn tuyệt với đời ăn chơi, và mộng công danh không thực hiện nữa đã đành là chưa đủ. Còn cái bạn thân nặng ích kỷ yếu hèn cũng cần phải lột xác. Cành cây man dại phải được bàn tay Đấng Nghệ Sĩ Tuyệt Vời uốn nắn cho. Đau đớn xót xa, từng mảnh bản thân phải cắt xén. Lời từ của thân phụ đã cắt đứt liên hệ với gia đình. Cái hôn đặt lên má của những người phong thân tàn ma dại hôi tanh đã chế ngự được thói đài các phong lưu, dung dưỡng xác thịt. Đời hành khất nhục nhã đã đánh ngã được lòng tự cao tự đại. Cuối cùng lệnh truyền giáo chấm dứt cuộc đời ẩn dật bình an trong suy tư cầu nguyện.


    Hôm nay mới thật là trần trụi. Chỉ còn một thái độ nghèo tuyệt đối, gồm trong một ý dâng hiến hoàn toàn. Con người đền tội, đã lột hết cái mình xấu xa ích kỷ để nhường chỗ cho một nhân vị khác sống động hơn, là Chúa Giêsu.


    Giờ phút này, Phanxicô mời thật đã hiểu được nghĩa Phúc Âm.
    Chữ ký của Gia Nhân

  10. Được cám ơn bởi:


  11. #6
    Gia Nhân's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: ✛ Louis
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sông Nước - Miền Tây
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 3,130
    Cám ơn
    4,023
    Được cám ơn 15,423 lần trong 2,929 bài viết

    Post

    CHƯƠNG V
    NHỮNG NGƯỜI TỰ NGUYỆN BÌNH AN


    Mấy ngày sau buổi đọc. Phúc âm ấy, một đà sức mạnh từ Chúa truyền xuống thúc đẩy Phanxicô vươn lên đỉnh trọn lành và mở ngay một mùa rao giảng việc đền tội.


    Phanxicô trở về Assisi.


    Trên đường về, gặp những người đang cần cù làm các công việc thường ngày, Phanxicô dừng bước, chào hỏi niềm nở:


    Chào anh em ! Xin Chúa ban bình an cho anh em !


    Rồi tiếp đó, Phanxicô lân la nói về ăn năn thống hối. Dáng người thanh niên ăn chơi kia không ai thấy nữa. Giờ đây, tâm hồn đã hướng cả về trời, Phanxicô như đang bừng lửa sốt mến và rạng ánh vuit tươi. Người nghe phấn khởi theo những lời đơn sơ phát ra từ một tâm hồn đã siêu thoát khỏi trần gian. Mỗi câu nói là một tia lửa hồng bắn vào thâm tâm người nghe, như có sức mạnh Chúa Thánh Thần ban xuống. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, nhưng về sau họ cũng thán phục.


    Về Assisi, lần giảng chính thức của Phanxicô đầu tiên là ở nhà thờ Thánh Georgiô. Đây là nơi Phanxicô đã học đọc, học viết.


    Thành Assisi lúc này đang sống trong tình trạng hỗn loạn, nên trước khi nói lời Thiên Chúa, bao giờ Phanxicô cũng mở đầu bằng câu: “Xin Chúa ban bình an cho anh chị em”. Chính Thiên Chúa đã dạy Phanxicô lời chào bình an ấy. Và Phanxicô luôn dùng lời chúc ấy. Bao giờ ngài cũng tin rằng cứ chúc rồi sẽ có hiệu quả. Ngài chúc cho các ông các bà, người già người trẻ, cho tất cả những ai gặp ngài lâu hay chỉ mới thoáng qua đường. Nhờ ơn Chúa, nhiều khi lời chúc ấy đã kêu gọi được kẻ lạc xa hòa bình biết thành tâm quay lại. Rồi họ lại tự nguyện làm con cái và chiến sĩ hòa bình.


    Truyện Thánh Phanxicô do Ba Người Bạn Đồng Hành kể ghi rằng trước lúc Phanxicô trở lại, ở Assisi cũng đã có người dùng lời chúc ấy. Người này thường rảo khắp các nẻo phố, nói mãi một lời: “Hòa bình và hạnh phúc ! Hòa bình và hạnh phúc”. Rồi khi Phanxicô ra giảng, chẳng còn ai thấy bóng “ông Gioan Tiền Hô” báo trước công vụ tông đồ của Phanxicô này nữa.


    Phanxicô không phải là người thứ nhất đã mang sứ mệnh hòa bình đến Assisi. Xưa nay đã có nhiều tu sĩ giảng rong và đông Khâm sai Tòa Thánh đến giảng. Nhưng hòa bình chưa thực hiện được. Vì các vị đến giảng đây thường không đứng vào cương vị, quên giữ hoà khí với người ngang quyền. Lắm khi các ngài nhúng tay vào những cuộc tương tranh giữa các giai cấp hay giữa các gia tộc. Hoặc giả các ngài có trung thành với mục tiêu đi giảng nữa, thì các đảng phái hay gia nhân lại lợi dụng danh vị các ngài, nhờ ảnh hưởng các ngài cho mạnh cuộc tương tranh – Trái lại, lời Phanxicô đã làm động lòng người nghe, vì lời Phanxicô nói chứng tỏ ngài có nhân đức thánh thiện, khác hẳn những người tới giảng trước. Phanxicô không xếp một hạng người nào làm đối phương hết. Ngài không chỉ trích, không thóa mạ, không kết án và không khai trừ người tội lỗi. Lời ngài nói không bao giờ lộ vẻ khinh khi những nhược điểm yếu đuối của con người. Ngài chỉ thương hại và chỉ giảng như một người được Chúa mặc khải mà thôi. Cho nên lúc này hơn bao giờ hết, dân thành Assisi mới thấy rõ mình đắc tội với hòa bình. Họ ao ước được gặp con người của Chúa có lời nói đơn sơ và cách làm thánh thiện kiểu bình dân ấy. Có mặt ngài, họ cảm thấy hạnh phúc và chính Phanxicô cũng cảm thấy sung sướng vì được đi truyền đạt sứ mệnh Chúa.
    Tất cả những điểm phi thường ấy đã hấp dẫn nhân dân và qua những lời đơn giản, con người mới này đã truyền đạt cho thế gian một phương pháp mới tìm lại hòa bình, là đặt tình yêu Chúa Giêsu làm mục tiêu cho đời sống như Phúc âm dạy.


    Từ đây tiếng nhạo cười đã hết. Người nghệ sĩ nghèo ca hát tình thương Thiên Chúa càng ngày càng thêm rõ mặt.


    Phanxicô đến với dân chúng như một vị tiên tri. Người tội lỗi được nghe truyền ơn cứu chuộc và những tâm hồn đau khổ biết tìm lại nguồn vui. Phanxicô chỉ làm cái việc nhắc lại Phúc âm đã trở lại sức tác dụng và ý vị trước mắt buổi đầu. Người môn đệ đã làm sống lại vị Thầy Chí Thánh xưa và nhân đức người giảng đã thêm uy tín cho sứ mệnh. Đã ba năm nay, người người đều tai nghe mắt thấy Phanxicô sống như một ẩn sĩ nghèo và tận hiến giúp đỡ người phong.


    Riêng những người có thiện tâm chờ đợi thì đang cùng Phanxicô cảm thông và cầu xin ơn soi sáng. Gặp Phanxicô, họ đã gặp một lời khuyến khích và thấy trước con đường phải tìm đi. Nếp áo Phanxicô mặc bỗng thành một lá cờ lý tưởng phất cao. Nhiều kẻ nhận thấy rằng đây là một hình thức sinh hoạt tôn giáo, một dòng tu mới đã ra đời.




    NHỮNG ANH EM TIÊN KHỞI

    Trong độ mùa xuân năm ấy, Porziuncôla không còn là nơi ở ẩn cho riêng mình Phanxicô nữa. Chỉ trong vòng mấy tháng mà đã có mười hai môn đệ theo gót thầy. Những môn đệ tiên khởi này, Phanxicô gọi tên là “Anh Em Hiệp sĩ của Bà Chúa Nghèo”.


    Đến đầu tiên là một người Assisi, đơn sơ và tốt bụng. Về người này sử sách không còn chép lại điều gì. Thoáng qua như một cái bóng đẹp, người ấy vụt biến giữa thời gian.


    Tiếp theo, xếp đặt theo thứ vị truyền thống là anh Bernađô Quintavallô, anh Phêrô Catanê, và anh Êgiđiô. Ba tâm hồn thật là cao quý như truyện kể lại sau đây.



    BERNAĐÔ QUINTAVALLÔ VÀ PHÊRÔ CATANÊ.



    Bernađô Quintvallô được Thánh Bônaventura kể là người anh cả trong Dòng. Theo thời gian anh là người đến trước và theo mức thánh thiện anh cũng xứng đáng trăm phần.


    Cũng như Phanxicô, anh thuộc giới nhà buôn giàu có. Nhưng khác Phanxicô về tính tình và tư cách. Tính anh đắn đo chín chắn. Giá trị sự vật ở đời được anh cân nhắc kỹ càng, nhất là các hành động của Phanxicô. Anh tự hỏi: cậu cả Bernađônê đi giảng lẽ hòa bình và thống hối, cậu có một lối xử sự khác thường, cốt cách con người và nội dung câu chuyện, câu nói không giống hẳn mọi người. Tại sao lại thế và như thế để làm gì? Tất cả đã làm xao xuyến lòng anh, nên tuy khôn ngoan và tỉnh táo, Bernađô vẫn bị sức hấp dẫn của Phanxicô lôi cuốn theo.


    Sau những lần gặp gỡ riêng tư và kín đáo, nay đã đến lúc Bernađô mời Phanxicô về nhà, và từ đó Phanxicô cũng thường tới lui tạm trú.


    Trong ngôi nhà Quintavallô hiện nay còn giữ được nguyên vẹn ở đường Sbaraglini thành Assisi. Một đêm kia cả Phanxicô và Bernađô cùng ngủ chung một phòng. Bernađô cố thức, nhưng làm bộ ngủ say, mong bắt gặp ở Phanxicô một điều gì khác lạ. Qủa nhiên sau một giác ngủ ngắn, Phanxicô nhẹ nhàng bước xuống khỏi giường, quỳ gối xuống nền nhà cầu nguyện mãi. Suốt đêm dài Bernađô lắng nghe Phanxicô cầu nguyện và giữa cơn sốt mến của tâm hồn thầm lặng, chốc chốc lại phát ra vài lời than thở với Chúa hay Đức Mẹ.
    Từ đêm đó, gương sáng của Phanxicô không làm cho Bernađô hoài nghi hay lý luận nữa. Ngay buổi chiều hôm sau, Bernađô hỏi người khách đáng kính của anh rằng:

    - Theo anh nghĩ, khi một người muốn bỏ hết tài sản mình có thì phải làm thế nào?
    Phanxicô trả lời:

    - Tôi tưởng tài sản của người ấy là do Chúa ban. Vậy tốt hơn hết là đem trả lại cho Chúa.

    - Anh nói rất hợp ý tôi. Vâng, vì lòng mến Chúa, tôi xin từ bỏ hết tài sản của tôi. Anh tính dùng vào việc gì cho hợp lý thì xin anh cứ tự tiện lấy dùng.

    - Cám ơn anh. Nhưng tôi nghĩ, sáng mai ta nên đến nhà thờ để hỏi lại ý kiến Phúc âm, xem về điểm này, Chúa dạy môn đệ Người thế nào.

    Ngày hôm ấy, có một sinh viên đã đậu tiến sĩ luật, tên là Phêrô Catanê, cũng được Chúa Thánh Thần soi sáng, để hỏi ý kiến Phanxicô và xin đi theo ngài như một học trò theo thầy giáo. Phanxicô rất vui mừng và cám ơn Chúa vì một người trí thức đã biết vui sống cuộc đời nghèo Phúc âm.


    Sáng ngày mai, Phanxicô và Bernađô đi tìm Phêrô, rồi ba anh em đem nhau đến dự lễ ở nhà thờ Thánh Nicôla tại công trường thành Assisi. Thời ấy sách Phúc âm thường để cạnh bàn thờ cho mọi người tiện dùng. Lễ xong, Phanxicô mở Phúc âm ba lần. Lần đầu gặp mấy lời Thánh Mathêô:“Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về bán hết tài sản, phân phát cho người nghèo, như thế là con tích trữ kho báu trên trời, rồi trở lại theo Thầy”. Mở lần thứ hai, ba anh em cùng đọc: “Khi đi đường, các con đừng mang theo đồ tùy thân, bị gậy bánh tiền cũng đừng mang theo, đừng mặc hai áo.” Lần thứ ba, sách mở đúng câu: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ bản thân đi rồi vác thánh giá mà theo Thầy”.


    Vui mừng hiện lên mặt, Phanxicô nói to lên:

    - Hai anh ạ! Đó là những điều hai anh phải làm. Đó cũng là những điều sẽ phải làm tất cả những ai muốn nhập bọn chúng ta.

    Bói xong nghĩa Phúc âm, ba anh em trở về. Nhà luật sư Catanê gia nghiệp chẳng lớn lao gì, nên công việc thu xếp sử không kể lại. Còn Bernađô thì ít ngày sau đem cả gia tài phát chuẩn cho dân nghèo ở Assisi. Anh trao từng vốc bạc cho mỗi người tha hồ nhận. Bữa phát chẩn ấy Phanxicô cũng hiện diện. Ngài vừa phát giúp Bernađô vừa hát to tiếng ngợi khen Chúa.


    Cảnh phi thường này đã lôi cuốn rất đông dân chúng đến xem. Ai cũng bỡ ngỡ và hỏi nhau rằng sao lại có người coi khinh của trần gian đến thế. Và giữa những người hiếu kỳ ấy, một vị linh mục tên là Sylvêtê bỗng tách ra, lại gần Phanxicô và nói:

    - Có món tiền anh mua đá xây nhà thờ năm ngoái chưa trả cho tôi. Tiện đây xin anh cho lại.
    Phanxicô vội thưa:

    - Vâng, nợ cha, con xin trả.

    Nói xong, Phanxicô trao cho vị linh mục hai ôm quần áo. Sau lại trao hai ôm nữa rồi thưa:
    - Thưa cha, như thế này đã đủ chưa?

    Vị linh mục im lặng, ôm gối quần áo ra về, chân bước ngượng ngùng.


    Bernađô và Phêrô là những người tai mắt trong thành, ơn Chúa lại gọi hai anh một cách phi thường. Cố nhiên là dư luận rất xôn xao. Buổi phát chuẩn rộng tay càng gây thêm ấn tượng. Nhưng ba anh vẫn dửng dưng đưa nhau về Porziuncôla. Ai kể được Phanxicô vui mừng biết bao, vì đã có hai bạn đồng hành.



    ÊGIĐIÔ
    Bảy ngày sau tin Bernađô phát chuẩn mới đến tai Êgiđiô. Vừa nghe tin ấy Êgiđiô nhất định tìm đến Phanxicô xin nhập đoàn.
    Êgiđiô là con một nhà nông ở ngoại ô thành Assisi. Của cải trần gian chẳng có gì, nhưng anh được Chúa phú bẩm cho tính tình cao thượng, và lòng mộ mến việc thiêng liêng. Phần lớn thì giờ anh thường dành riêng để suy gẫm. Anh là một người có óc lý luận kèm theo một trí thông minh dồi dào.


    Truyện Êgiđiô tìm đến Phanxicô sau đây tỏ ra anh là một người khôn ngoan, nhưng lại rất đơn giản. Đã từ lâu anh chỉ nghĩ đến việc linh hồn, nên khi vừa được biết Phanxicô nhận các bạn cùng đồng chí hướng tu hành, anh vội vàng tìm đến xin theo. Sáng sớm hôm ấy, anh từ giã bà con, đến tìm Phanxicô ở nhà thờ Thánh Georgiô. Nhưng Phanxicô lại ở Porziuncôla. Êgiđiô xem lễ xong vội vàng sang Porziuncôla. Đến ngã tư gần trại phong San Salvtor anh gặp Phanxicô từ trong một lùm cây rậm bước ra. Vội vàng anh lại quỳ xuống dưới chân đầy tớ Chúa, xin ngài nhận làm môn đệ. Phanxicô vội vàng đỡ Êgiđiô dạy rồi dịu dàng nói:

    - Em ạ! Hôm nay em được một ơn quý trọng vô cùng. Giá Hoàng đế đến Assisi này để chọn một hiệp sĩ mà ngài đã chọn em, thì chắc em lấy làm hãnh diện lắm. Đằng này chính Thiên Chúa đã gọi em làm hiệp sĩ trong đoàn quân bé mọn của các anh đây. Thật là một vinh dự lớn lao!

    Nói rồi anh em dắt tay nhau về túp lều tranh Porziuncôla. Vào lều, Phanxicô giới thiệu Êgiđiô với Bernađô và Phêrô:

    - Đây là Êgiđiô, một người em rất tốt. Thiên Chúa đã gửi đến cho chúng ta. Nào chúng ta hãy mở tiệc mừng em!
    Chiều hôm ấy, Phanxicô dẫn Êgiđiô vào thành xin vải may áo dòng cho anh. Dọc đường về, gặp bà lão nghèo xin bố thí, Phanxicô bảo Êgiđiô cởi áo mới biếu bà. Êgiđiô vâng lời cởi áo biếu ngay. Về sau kể lại cảm tưởng lúc biếu áo, Êgiđiô nói: “Vừa trao cái áo cho bà lão, tôi thấy áo bay thẳng lên trời cao. Tôi thấy lòng tôi rung lên vì sung sướng. Toàn thân tôi như bay lên tận mây xanh. Nhưng tôi còn sung sướng hơn nhiều, lúc chiều hôm ấy cha thành mặc cho tôi cái áo thô của đức nghèo”.


    Sau này danh tiếng Êgiđiô vang lừng khắp nơi. Nhiều nhà trí thức tìm đến anh để hỏi han và nhờ anh giúp giải quyết những vấn nạn khó khăn. Anh có nhiều lời nói khôn ngoan. Anh bạo nói, chẳng nể sợ ai. Về khoa tu đức, tiến sĩ Bônaventura đã kể Êgiđiô là một bậc thầy.




    MỘT SỐ ANH EM KHÁC




    Một thời gian ngắn sau ngày Êgiđiô nhập đoàn, Phanxicô nhận thêm ba người khác. Cả ba đều là dân thành Assisi.


    Anh Philiphê là một. Tục gọi anh là Philiphê Dài, vì người anh cao. Về sau anh giảng rất lợi khẩu, danh tiếng vang xa. Người ta bảo nhau: “Chúa đã lấy than đỏ tôi luyện môi anh”. Lời anh giảng vừa thâm thúy cao xa vừa ngọt ngào như mật ong. Anh hiểu thấu nghĩa Thánh Kinh và dẫn giải rất rõ ràng, mặc dầu anh đã không theo học một trường nào.


    Linh mục Sylvêtê là hai. Ngài vừa tốt bụng lại vừa khôn ngoan đến hay do dự. Tuy cảm phục lòng đạo đức của Phanxicô, nhưng ngài vẫn còn nghi ngờ ý chí trung kiên của những người đi giảng không có chức giáo sĩ. Ngài lại e rằng không được xứng đáng lúc phải xếp hàng với lớp thanh niên bồng bột xung đột như người điên. Nhưng từ bữa nhận mấy ôm quần áo về, đêm nằm không ngủ, hơi thẹn với lương tâm. Một đêm ngài nằm mơ, thấy một con rồng quái đản, uốn lượn trăm khúc, bao chặt lấy Assisi, đang lăm le nuốt thành.

    Sylvêtê sợ quá lúc nghĩ đến tai nạn sắp xảy ra. Bỗng Phanxicô hiện đến. Từ miệng Phanxicô mọc ra một cây Thánh Giá mạ vàng, cao vút đến tận trời, hai cánh tay giang ra tận cùng giới hạn mặt đất. Trước cảnh ấy con rồng khiếp sợ bay mất. Giấc mơ tái diễn ba đêm liền. Syltêvê công nhận đây là một dấu hiệu Chúa ban. Ngài tìm gặp Phanxicô, kể lại giấc mơ, rồi ít bữa sau xin nhập gia đình. Rồi từ đó ngài yên cảnh tĩnh mạc, chỉ chuyên chú đọc kinh cầu nguyện và chiêm ngưỡng cảnh trên trời.


    Ba là Môricô. Anh là nhân viên trại phong San Salvator. Trước đây anh đã nhập đoàn Anh Em Mang Thánh Giá và có lần Phanxicô đã chăm sóc anh bị bệnh nằm trong một dưỡng đường.


    Tiếp sau ba anh này, Phanxicô còn nhận thêm hai người nữa là Barbarô và Gioan. Barbarô ít năm sau theo Phanxicô sang truyền giáo ở miền Tiểu Á. Còn Gioan sử gọi là Gioan nón, vì anh cứ khăng khăng giữ mãi cái nón của anh, không chịu đội lúp như các anh em khác. Anh còn khác anh em khác nhiều điểm nữa. Tình anh thích những điều mới lạ. Hễ nói đến vâng lời là anh không chịu được. Về sau anh xuất khỏi dòng và chết thê thảm. Anh Gioan Nón đã đi ngược nẻo đường của thầy như ông Giuđa xưa.


    Phần các anh em trên đều xứng đáng với danh hiệu là những người bạn đồng hành của vị Thánh Nghèo thành Assisi. Các anh đã trung thành sống một đời nghèo theo chính nghĩa Phúc Âm.
    Chữ ký của Gia Nhân

  12. Được cám ơn bởi:


  13. #7
    Gia Nhân's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: ✛ Louis
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sông Nước - Miền Tây
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 3,130
    Cám ơn
    4,023
    Được cám ơn 15,423 lần trong 2,929 bài viết

    Post

    CHƯƠNG VI
    KINH NGHIỆM BUỔI ĐẦUNHỮNG NGÀY THỬ SỨC



    Giờ đây nhà tu hành trẻ của chúng ta đã đứng đầu một nhóm chiến sĩ Phúc âm can đảm, sẵn sàng theo lệnh của đức Nghèo.


    Từ buổi đoàn có vỏn vẹn có bốn người, các chiến sĩ đã lên đường thử sức. Bốn người chia thành hai toán đi giảng đạo. Phanxicô đi cùng Êgiđiô đến Marchia Ancônê, là một tỉnh láng giềng với Ombria. Còn Bernađô và Phêrô đi về hướng nào không ghi rõ.


    Lúc đầu dân chúng không nô nức, Phanxicô đành ca hát để hấp dẫn. Ngài hát những bài tán tụng lòng nhân lành Thiên Chúa bằng thổ ngữ Provence. Ngài còn tùy hứng hát những bài vui diễn tả lòng mộ mến Đức Nghèo. Qua thôn, qua xóm, hễ gặp ai là ngài đứng lại gợi chuyện. Nói chuyện thôi, lần đi giảng này chưa phải là đi giảng. Khi dừng lại ở một công trường hay một ngã ba, xen vào bài hát tùy hứng, Phanxicô chỉ nói vài lời, nhắc nhở mọi người kính sợ Chúa và lo ăn năn hoán cải. Còn Êgiđiô không quen đến chỗ đông người, thường chỉ im lặng, đứng vào một góc công trường. Khi Phanxicô dứt lời, anh ngại ngùng nói tiếp:

    - Anh chị em ạ! Cứ làm đúng như lời người anh em thiêng liêng của tôi nói đây – Anh tôi nói rất đúng. Không ai nói hơn anh tôi được.

    Truyện Thánh Phanxicô do Ba Người Bạn Đồng Hành thuật, kể rằng chuyến đi đầu tiên này, các vị thừa sai mới không thu được kết quả nào đáng kể. Gặp lắm nơi, dân chúng không buồn

    - Bọn người đi chân đất, mặc áo thô, huyên thuyên này muốn gì? Chúng nó dở hơi hay là điên?

    Một số ít hỏi như thế, còn số đông lắc đầu chán nản. Họ cho đó là điềm chơi không hay. Đàn bà yếu bóng vía và trẻ con nhát đảm cứ gặp anh em là hú hồn bỏ chạy. Vài kẻ khôn ngoan không rõ đây là thánh hay điên đành im lặng.


    Riêng Phanxicô, ngài không chú trọng đến kết quả. Đức tin thúc đẩy đi thì đi. Thành công là việc Chúa Quan Phòng, đến sớm hay muộn, bao giờ cũng được. Ngài thấy lòng luôn luôn sáng bừng hy vọng và như sắp được đứng đầu một đạo binh đông đúc. Quân binh toàn là hiệp sĩ tuyển lựa của bà Chúa Nghèo, cùng nhau đi truyền đạt khắp thế gian sứ mệnh hoán cải, thương yêu và hòa bình.
    Trên đường về Porziuncôl, Phanxicô tâm sự với Êgiđiô:

    - Em ạ, dòng ta như một người đánh cá, thả lưới xuống nước, kéo lên đủ thứ cá. Cá nhỏ thì loại đi, chỉ lấy nguyên cá lớn. Chúng ta chỉ chọn lọc và chỉ giữ lại những phần tự tốt thôi.

    Thấy Phanxicô nhận thêm đồng bạn, người Assisi lại càng thắc mắc. Họ hỏi nhau:

    - Anh chàng này sẽ đi tới đâu? Chừng nào anh ta mới dừng lại?

    Khả nẳng phản ứng và chí thông minh dè dặt truyền thống của người dân thành Assisi trước những sự kiện mới lạ, giờ đây đã chỗi dậy. Trong nhà ngoài đường dân thành bảo nhau chán nản:

    - Bọn Phanxicô quấy rối trật tự. Chúng đã gieo vào những ý nghĩ mới giữa nề nếp thành nhà. Tương quan gia đình bằng hữu không còn nữa rồi. Chúng dám can thiệp vào việc riêng nhà người ta. Có người đang ăn chơi đình đám bỗng vì chúng bỏ bạn bè ra đi. Có người đang chuẩn bị báo thù nhà và lo rửa nhục cho gia tộc, bỗng vì chúng tra gươm vào vỏ, thôi không nói chuyện giết chóc đổ máu nữa. Có phải vì chúng mà sinh ra rụt rè do dự thế này thì còn làm ăn gì được nữa!
    Dân thành còn kết tội anh em:

    - Bọn Phanxicô chỉ được cái ăn bám. Nếu chúng biết giữ lại chút ít của cải thì đâu phải lê những tấm thân khỏe mạnh như thế đến cửa người ta mà ăn xin.

    Và từ đây, đi hành khất, anh em được bố thí thì ít mà chịu sỉ nhục thì nhiều. Cả một dư luận phản đối. Tình trạng có thể đi đến đụng chạm. Đức Giám mục Guiđô phải can thiệp vào. Ngài muốn Phanxicô chặn đứng lại một thác nước vừa mới khai thác. Năm ngoái khích lệ Phanxicô ở tòa án, vị Giám mục Assisi có ngờ đâu rằng người thanh niên ấy muốn lập đoàn lập hội. Lần này ngài bảo thẳng Phanxicô:

    - Cơm ăn nhà ở là sự cần thiết cho bất cứ một nhóm người nào. Nay xét tình trạng các con không cơm ăn nhà ở, xét nhân tình lại xáo động vì các con, cha thấy rằng lối sống của các con quá cực khổ. Liệu rồi có kham nổi mãi không?
    Thoáng hiểu ý Đức Cha muốn gì, Phanxicô đành xếp lại lòng vị nể ân nhân, thưa lên:

    - Kính lạy Đức Cha, nếu có tài sản, chúng con lại phải dùng khí giới để bảo vệ. Đức Cha cũng đã thấy của riêng thường gây nên tranh dành kiện cáo nhau, tổ hại lòng mến Chúa yêu người. Vì thế chúng con chẳng dám co của riêng ở thế gian này.

    Tình trạng không ổn trong thành vì tranh giành tài sản cũng làm chứng cho lời Phanxicô nói. Vị Giám mục chẳng biết nói gì hơn. Để ngài an tâm, Phanxicô trình bày với ngài rằng anh em không lười biếng và lúc nào cũng cần mẫn kiếm việc làm nuôi thân. Trường hợp tối cần mới phải đi ăn xin từng nhà.


    Những tháng tiếp sau, tình trạng đã ổn, Đức Giám mục lại giúp thêm điều kiện sống chung. Nhưng anh em vẫn cố gắng theo ơn gọi. Ai cũng khuôn mình theo đòi hỏi của bà Chúa Nghèo. Nhà cửa không có. Porziuncôla chỉ là nơi tạm trú, để gọi là nơi tập hợp mà thôi. Mười hai anh em mà chỉ vỏn vẹn có túp lều tranh chật hẹp, trước đây vốn chứa không đủ bốn anh em. Thời giờ thì dốc vào việc giúp ích đồng bào. Những ngày không đi giảng để làm chứng Phúc âm thì mỗi người đi làm một việc. Có người đi làm công cho các đan viện hay các nhà tư. Có người cày thuê cuốc mướn ngoài đồng. Có người lại chăm sóc bệnh nhân trong các trại phong lân cận. Như thế lại còn đến ngửa tay xin ăn từng nhà là cũng vì có những người tàn tật, những người phong phải nuôi dưỡng, nhất là đi làm công thì Phanxicô nhất định không cho nhận tiền bạc, không cho lo lắng đến ngày mai.


    Đi ăn mày thì anh em vẫn ngại lắm. Buổi đầu thì Phanxicô cố tránh cái nhục ấy cho anh em. Truyện Thánh Phanxicô do Ba Người Bạn Đồng Hành thuật kể rằng hằng ngày sẵn thân hình yếu đuối và sức khỏe kém, Phanxicô vẫn ngửa tay xin từng nhà.


    Đến những ngày sức quá yếu mà không ai dám tình nguyện đi thay, ngài mới bảo anh em:

    - Anh em yêu dấu, rồi anh em cũng phải can đảm đi xin. Vì theo gương Chúa chúng ta và Mẹ Thánh Người, anh em đã chọn đời nghèo trần trụi. Đừng tưởng đây là việc nhục nhã khó làm. Anh em chỉ nói nguyên lời này: “Xin anh chị em bố thí cho tôi vì lòng yêu mến Chúa”. Các ân nhân của anh em sẽ được đền ơn lại và sẽ được nhận một ơn lành vô giá là tình yêu Chúa. Như thế là anh em lại đứng vào thế kẻ đổi trăm phần lấy một. Thôi, đừng thẹn thùng mắc cỡ nữa. Cố can đảm mà đi.
    Buổi ấy anh em chưa đông để đi đôi cho có bạn. Mỗi người đi riêng một lối. Nhiều bữa đi về thỏa mãn lắm. Có anh còn cao hứng so đo kết quả hơn thua. Dĩ nhiên là anh đầy bị hài lòng, được cha thánh ban lời khen. Từ đó anh em hiểu rõ giá trị lối ăn xin khiêm nhường này. Ai nấy điều cho đó là một hân hạnh, một ơn riêng, và tranh nhau đi. Nhưng để hạn chế bớt lòng nhiệt thành và tránh lạm dụng, ai muốn đi phải có phép riêng.


    Về thời biểu hằng ngày của anh em thì ngày đi làm việc, tối về thức khuya cầu nguyện. Mỗi đêm anh em chỉ ngủ vài giờ rồi dậy sớm đọc kinh ngợi khen Chúa.


    Từ đầu hè đến cuối thu năm 1209, sống bên cạnh nhà thờ Đức Bà Thiên Thần, Phanxicô chú trọng đến việc huấn luyện anh em, bần cùng hóa anh em và tạo cho anh em một hoàn cảnh chỉ còn biết bám chặt vào Chúa Quan Phòng. Phanxicô thấy phải lo lắng cho các môn đệ biết sống đời sống thiêng liêng, hướng dẫn họ trên đường lý tưởng, giáo dục, ủi an và dạy họ cách suy gẫm cầu nguyện. Ngài tập cho họ biết khiêm nhường thống hối, và khuyến khích họ tiến bước vững vàng trên con đường hoàn thiện. Như một họa sư dạy các họa sĩ trẻ tuổi nghiên cứu một bức danh họa, Phanxicô cũng dạy anh em hiểu biết thân thế Chúa Giêsu. Dư âm những bài học này còn vang vọng lại trong Di Chúc: “Khi Chúa ban cho tôi có anh, không ai bảo tôi phải theo một lối giáo dục nào hết. Chỉ có Chúa Cao Cả dạy tôi thể thức huấn luyện anh em mà thôi”. Như thế là vị Thánh Tổ sáng lập dòng mới này không nợ nần gì các nhà lập luật và các vị tu hành xưa. Ngài không theo đường lối có sẵn và không bắt chước ai.


    Riêng anh em, càng hiểu Lời Chúa cao siêu càng nhận thấy vô số nhược điểm trong đời sống thiêng liêng. Bernađô run sợ về ơn bền đỗ. Phêrô bị lẽ khôn ngoan người đời làm cho rụt rè do dự, muốn rẽ đường. Êgiđiô siêu nhiên là thế mà cũng đâm ra hoa mắt trước hào nhoáng của thế trần. Nỗi ưu tư trong tâm hồn riêng ai cũng có, nhưng anh em âm thầm chịu đựng, họa hoằn lắm mới có người để lộ cuộc chiến đấu nội tâm ra ngoài.


    Chung một lòng yêu mến Đức Nghèo, chung một mục đích thể hiện lý tưởng Phúc âm, cảnh sống ấy đoán kết anh em thành một khối và thêm sức mạnh cho mỗi người. Sau mỗi chuyến đi giảng về, anh em gặp lại nhau, ai cũng hân hoan vui sướng. Bao nhiêu gian khổ tan biến hết.


    Đối với anh em, Phanxicô là một vị thiên thần hộ mệnh. Được săn sóc anh em ngài cho là một hạnh phúc. Còn anh em đối với Phanxicô thì thực lòng tin cậy, đem tâm sự kể rõ cho ngài nghe, từ một cơn cám dỗ cho đến một ý nghĩ thầm kín trong lòng, không ngại ngùng em lệ. Nhiều lúc không cần phải nói ra, vì Chúa cho ngài thấy rõ chuyện lòng anh em như đọc trên một trang sách mở ra trước mắt.
    Lúc đi công tác tông đồ, anh em vẫn giữ nguyên mức sống như ở Porziuncôla. Ngày thì tận tụy lo việc giảng dạy hoặc lo giúp đỡ anh em phong và dân nghèo. Đêm đến thì nằm nhờ ở xó bếp góc lều, hoặc những nơi dành riêng cho tôi tớ nhà giàu sang, cùng lắm thì có hè phố và cửa nhà thờ. Khi bị ai tàn nhẫn gạt công thì anh em chạy đến bàn ăn Chúa, nghĩa là đi ăn mày từng nhà. Bị ai sỉ nhục thì anh em nhớ đến lời dạy của Phanxicô, tập kiên nhẫn và suy về sự khó Chúa Giêsu.


    Nhờ lối tu dưỡng của vị Thánh Nghèo, đời anh em chỉ còn là một đời khách lữ hành theo gót Thầy Chí Thánh, thể hiện Phúc âm. Đó là nguồn vui bất diệt của anh em trong cuộc đời khắc khổ này.




    MỘT CHUYẾN ĐI XA


    Mùa đông 1209 đã đến. Phanxicô định đi giảng một chuyến xa và lâu. Ngài tập trung anh em lại và nói:

    - Thánh ý Chúa muốn rằng kẻ được hưởng ơn Cứu chuộc phải làm việc để tự cứu mình và cứu anh em khác. Riêng đối với con cái Đức Nghèo, ý Chúa lại rõ ràng hơn. Vậy ta sẽ đi khắp thế gian, đêm lời nói và gương lành giảng lẽ thống hối cho mọi người. Ta sẽ gặp gian khổ. Nhưng gian khổ đến đâu ta cũng giữ tâm hồn độc lập, quyết không làm nô lệ những sự chóng qua ở đời này. Ta sẽ hướng chiêm ngưỡng lẽ đới đời. Rồi sẽ có kẻ niềm nở đón tiếp anh em và nghe lời giảng dạy. Nhưng cũng có rất nhiều người sỉ nhục và tẩy chay anh em. Dẫu sao anh em cũng phải khiêm tốn trả lời những kẻ hỏi han và hết lòng biết ơn những kẻ cay nghiệt.


    Nghe lời dạy, anh em nhớ lại những kinh nghiệm không may về trước và tưởng đến những thất bại đang chờ. Ai cũng lo ngại. Phanxicô phải nói để làm yên lòng mọi người:

    - Tôi dốt, anh em dốt, nhưng anh em đừng lấy thế làm buồn. Thiên Chúa sẽ giữ lời người hứa. Người sẽ nói qua miệng anh em. Vả chăng đã đến lúc các nhà thông thái đến trợ lực chúng ta rồi. Hiện nay số anh em đang ít, nhưng anh em cũng đừng lấy thế làm lo. Có điều này, nếu đức bác ái không buộc, thì tôi chẳng nói đâu, nhưng bây giờ thì tôi phải nói để anh em rõ, là Chúa đã cho tôi biết, rồi đây Dòng ta sẽ phát triển khắp mặt đất này. Trong tai tôi đang nghe văng vẳng tiếng chân đi của nhiều người, từ Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, và các nước khác đang nô nức tới nhập đoàn ta.

    Anh em nghe nói điều phấn khởi. Phanxicô liền chia anh em làm bốn đoàn, hai người một. Bernađô và Êgiđiô đi Tây Ban Nha theo hướng nhà thờ Thánh Giacôbê Compostellô. Phanxicô và một anh em khác đi về hướng nam đến Riêti. Còn bốn anh nữa thì đi về hai hướng khác.


    Giờ lên đường, mỗi người quỳ gối xin Cha thánh chúc phúc lành. Phanxicô âu yếm hôn anh em, đỡ anh em dậy và nói với mỗi người:
    - Anh yêu dấu, anh cứ tin cậy vào Chúa. Chúa sẽ giúp anh.

    Lãnh phép lành xong, anh em chia tay, ra đi, cương quyết trung thành với lời Phanxicô dạy. Khi qua một cây Thánh giá dựng bên đường, anh em liền quỳ gối đọc một kinh Lạy Cha. Khi vào một nhà thờ thì trước hết anh em cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, chúng con thờ lạy Chúa nơi đây và trong khắp các nhà thờ trên thế giới. Chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh giá mà chuộc tội thiên hạ.”


    Gặp ai, anh em cũng vẫn giữ lời chào: “Xin Chúa ban bình an cho anh em” đủ cho ai đó hiểu rằng ơn bình an kia anh em đã được và anh em đang hân hoan muốn san sẻ với mọi người.


    Không may cho anh em là qua nhiều thành thị hoặc xóm làng lối ăn mặc nói năng của anh em, khiến mọi người ngạc nhiên bỡ ngỡ. Họ tưởng lầm anh em là một lớp người man rợ từ phương nào tới. Nghe lời chào bình an những kẻ ác tâm và khó tính vội ngắt lời:
    - Chào gì kỳ vậy? Cứ chào như các tu sĩ khác có được không?

    Đã có anh em nản lòng, xin Phanxicô bỏ lời chào ấy, nhưng ngài thản nhiên bảo:

    - Anh cứ yên tâm. Những kẻ ác tâm kia chưa nhận rõ được điều Chúa muốn. Chúa đã lập ra đoàn ta. Bổn phận ta là phân biệt đoàn mình với các đoàn khác. Chúa đã dạy ta lối chào bình an thì ta cứ làm theo ý Chúa.

    Đến những nơi, gặp kẻ sẵn lòng nghe thì anh em cứ nói với họ lời khuyên thống hối rằng:


    Anh chị em ơi, hãy kính sợ và làm vinh danh Thiên Chúa. Hãy ngợi khen và chúc tụng Người. Hãy cảm tạ tôn thờ Chúa Toàn Năng đã tạo dựng muôn loài, là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Đừng trì hoãn nữa. Hãy mau mau đi xưng hết các tội lỗi vì giờ chết đã gần rồi. Cứ ban phát rộng tay, anh chị em sẽ được ban phát lại. Cứ tha thứ cho người, anh chị em sẽ được tha thứ. Phúc cho ai chết khi đã thống hối ăn năn, người ấy sẽ đi thẳng về Nước Trời. Vô phúc cho ai không thống hối cải chừa, những đứa con của quỷ dữ ấy sẽ phải xuống Hỏa Ngục cho lửa đốt đời đời với cha chúng nó. Xin anh chị em hãy cẩn thận giữ mình, lo tránh xa điều ác và bền đỗ làm điều thiện cho đến cùng.


    Phanxicô không ưa dài lời. ngài cho rằng giảng dài những tín lý trừu tượng đối với anh em là việc khó lại có thể sai lầm, nên chỉ khuyên anh em giảng đơn sơ như trên.


    Chuyến đi này, anh em giảng ít, nhưng tập kiên nhẫn nhiều. Truyện Thánh Phanxicô do Ba Người Bạn Đồng Hành thuật, kể lại: “Qua miền nào, nhân dân cũng cho là anh em ăn mặc lố lăng. Có nơi họ bảo anh em là người man rợ. Nơi khác, họ tưởng anh em là bọn cướp trá hình, nên tay dùi tay gậy, họ đuổi anh em đi xa. Nhiều người không biết anh em ở đâu tới. Tự hỏi có phải là một phái rối đạo nguy hiểm nào chăng. Còn anh em thì tự giới thiệu là người thuộc nhóm “Anh em đền tội ở thành Assisi”. Vì tên này là tên đầu tiên Phanxicô đặt cho anh em. Nhưng tên này cũng chẳng làm an lòng ai. Có người còn quá quắt lấy bùn ném hoặc cầm lúp đầu anh em mà lôi như bao tải. Ở vài nơi, anh em bị lột áo giữa công chúng. Nhưng bị ngược đãi mấy, anh em cũng để mặc ý mọi người. Vì theo lời Phúc âm, anh em không phản đối người xấu bụng, anh em chỉ kiên nhẫn chờ người ta thôi đánh đập hoặc trả quần áo lại cho”.


    Nhiều lần anh em phải chịu đói rét suốt mấy ngày. Như bữa kia gặp người an mày rét run cầm cập, Êgiđiô cởi cái áo ngoài đem cho. Hai mươi ngày sau, không xin được áo khác, Êgiđiô đành thử sức với cái rét cực độ của mùa đông năm ấy.


    Kể tiếp chuyến đi giảng này của Bernađô và Êgiđiô, Truyện Thánh Phanxicô do Ba Người Bạn Đồng Hành thuật, viết:


    “Hai anh em qua Florencia bị ngược đãi quá. Một chiều mùa đông Bắc Ý, rét như cắt, anh em tìm mãi chẳng ai cho tạm trú. Cuối cùng có bà kia động lòng trắc ẩn, cho tạm ở xó lò bánh bên cửa ra vào. Đêm ông chồng về, thấy hai anh em, ông tức giận, càu nhàu vợ:
    - Sao bà lại cho bọn vô công rồi nghề, quấy rối xã hội này trọ đây

    Bà vợ dịu dàng đáp:

    - Thì ông đã thấy, nghĩ khôn nghĩ dại, tôi đã không cho họ vào nhà, chỉ cho nằm ngoài cửa. Lò bánh còn vài thanh củi cháy dở, họ có lấy đi cũng không phải là mất nhiều.

    - Lỡ rồi thì cho ở. Nhưng tôi cấm bà không được cho họ mượn mền đắp.

    Đêm ấy rét như cắt vào da. Hai anh em chỉ chập chờn được vài giấc ngắn. Mền đắp đã có áo Đức Nghèo. Lửa sưởi đã có lòng mến Chúa.


    Sáng hôm sau, bà chủ vào nhà thờ, thấy hai anh em đang quỳ gối cầu nguyện. Bà nghĩ thầm:


    “Nếu là trộm cướp thì sao cầu nguyện sốt sắng như thế?”. Bà đang tự hỏi thì gặp lúc ông Guiđô đi phát chẩn tế bần trong nhà thờ. Lúc phát đến hai anh em, ông cho tiền, hai anh em không nhận, ông hỏi:

    - Cũng nghèo như người khác, tại sao tôi biếu tiền, hai ông lại không lấy?

    - Thưa ông, vì chúng tôi đã tự nguyện sống nghèo và không dùng tiền.

    - Chắc hẳn xưa kia hai ông cũng có của.

    - Thưa vâng. Chúa ban cho chúng tôi cũng khá, nhưng chúng tôi đã cho hết vì lòng mến Chúa.

    Bà kia vẫn theo dõi câu chuyện lúc nghe đến đây, bà vội vàng xin lỗi và,mời anh em về nhà để tiếp đãi. Nhưng hai anh em khiêm tốn cảm ơn và từ chối. Còn ông Guiđô đã hiểu hai anh em là hạng người nào, nên mời về nhà riêng, chỉ một căn phòng rồi nói:
    - Căn phòng này là của Chúa sắm sẵn cho hai thầy, xin hai thầy cứ tùy tiện.

    Bernađô và Êgiđiô trọ lại đó mấy ngày. Khi hai anh em đã đi sang xứ khác, ông Guiđô còn nhắc nhở mãi gương sáng và lời lành của hai anh em. Ông cũng bắt chước và làm phước rộng tay hơn trước”.


    Kết thúc chuyến đi này, Truyện do Ba Người Bạn Đồng Hành nhận xét thêm: “Ít khi anh em được may mắn như hôm ấy. Kể chung thì anh em thất bại từ đầu chí cuối”.


    Riêng Phanxicô, chuyến đi này đã gặp may. Ở Riêti ngài thu được nhiều kết quả. Dân miền này hư hỏng lắm, thế mà ngài đã cải thiện được một số đông. Trong số đó có nhà hiệp sĩ Tancredi. Tancredi sau này cũng nhập đoàn và trở thành một môn đệ tốt nhất của vị Thánh Nghèo.


    Truyện kể rằng khi gặp Tancredi, Phanxicô khuyên:

    - Anh Tancredi ơi, bấy lâu nay anh đã mang gươm cho thế gian rồi. Từ nay hãy gia nhập đoàn chúng tôi. Tôi sẽ phong anh làm hiệp sĩ của Đức Kitô.

    Nhà hiệp sĩ xin vâng. Vào dòng, Tancredi đổi tên là Angêlô và được tiếng là một tu sĩ có lời nói và cử chỉ rất nhã nhặn lịch sự. Sau khi Phanxicô từ trần, Angêlô và hai anh em nữa là Lêô và Rufinô kết thành nhóm Ba Người Bạn Đồng Hành chép truyện Thánh Phanxicô.
    Cũng ở Riêti, Phanxicô được một ơn phi thường. Đã lâu rồi, cứ mỗi lần nhớ lại thời gian phôi pha khi chưa trở lại, niềm vui của ngài như vương vấn một bóng mây buồn. Nhiều lúc quên mình, Phanxicô vui nhìn công việc Chúa làm giữa anh em. Nhiều lần cao hứng, ngài đã hát những khúc tán tụng Chúa Chí Tôn. Nhưng thời gian cũng trôi qua, nỗi ưu phiền kia càng ám ảnh, nhất là vài tháng gần đây.
    Một hôm ở Poggiô Bustonê, Phanxicô vào cầu nguyện trong một hang đá cao chừng ngàn thước trên thung lũng. Suy về những năm trai trẻ buông lung, toàn thân Phanxicô run rẩy, nước mắt ràn rụa, miệng cứ lặp đi lặp lại nhiều lần:

    - Lạy Chúa! Con van lạy Chúa! Xin Chúa tha thứ cho kẻ tội lỗi là con đây.

    Bỗng tâm hồn như lắng xuống, Phanxicô vui sướng ngất ngây. Khi tỉnh lại, bóng ưu phiền đã biến tan đâu mất. Phanxicô thấy lòng đổi mới. Ngài tin rằng mọi tội lỗi về trước đã được Chúa tha và ơn Chúa sẽ giữ gìn đến giờ sau hết. Chúa lại ban cho Phanxicô thấy trước Dòng Nghèo sẽ thành một đạo binh lớn, đi chinh phục Nước Trời khắp trần gian.


    Tuy nhiên Phanxicô vẫn thấy mình tội lỗi hơn mọi người. Nhà nghệ sĩ thường thấy rõ hơn ai hết sự cách biệt giữa mình với cái đẹp tuyệt đối. Phanxicô cũng thế, một phần nào ngài lượng biết sự cách biệt vô cùng giữa Thiên Chúa Toàn Thiện với con người tội lỗi khốn nạn. Cho nên không bao giờ dám khoe khoang tự mãn. Phanxicô chỉ nhìn mình là kẻ sau hết mọi người.





    MỘT LẦN HỘI Ý


    Cêlanô kể rằng sau mấy tháng ở Riêti, bỗng một hôm Phanxicô náo nức muốn gặp lại anh em. Ngài tha thiết xin Chúa gọi anh em về. Chúa nhận lời. Và vài bữa sau, tất cả anh em, không ai rủ ai, lục tục kéo nhau về Porziuncôla. Không ai hiểu vì sao đã muốn về như thế. Anh em gặp nhau vui mừng hớn hở, kể lại cho nhau nghe những ơn Chúa ban riêng, rồi thú nhận với nhau những sơ suất khuyết điểm đã qua và chờ lời người anh cả khuyên dạy chỉ bảo. Phanxicô hết lòng tạ ơn Chúa. Ngài cũng hào hứng kể lại những ơn Chúa ban, nhất là ơn mặc khải về Dòng ngày mai sẽ phát triển rộng lớn khắp nơi.


    Trong câu truyện tâm sự, anh em đều thông cảm chung một hoài bão tông đồ: rao giảng rắp nơi Nước Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh. Hoài bão ấy được nâng niu không phải vì danh dự riêng cá nhân hay đoàn thể, nhưng chỉ vì anh em đều nóng nảy yêu mến Chúa Giêsu. Ai cũng mong Chúa Giêsu mau thành vị Thầy của toàn thế giới trong hình thức khó nghèo và khiêm hạ. Và ai cũng muốn chia sẻ với đồng loại niềm vui của lòng mình đang chan chứa.


    Tuy lòng rạo rực hân hoan, Phanxicô vẫn nhớ mình là thủ lãnh. Ngài cho anh em những nhận định về đoàn thể và sứ mệnh chung. Đoàn thể sẽ thêm người và ảnh hưởng thêm sâu rộng. Anh em không thể tránh khỏi một vài giai đoạn thử thách. Việc đoàn kết và điều khiển sẽ không còn đơn giản như trong một gia đình. Phanxicô nói:

    - Anh em ạ, đời sống chung những ngày đầu tiên đây cũng dịu hiền như ta đang ăn quả ngọt ngào. Nhưng rồi đây, lẫn với quả ngọt ngào, người ta sẽ cho anh em ăn những quả chua chát. Chua chát lắm, mặc dù có vẻ đẹp bên ngoài. Chua chát đến nỗi không ai còn ăn nổi!

    Nhưng ngài cũng nhận định thế thôi. Lời tiên tri chưa thể hiện. Và anh em đang vui sống những ngày hấp dẫn của lý tưởng khó nghèo. Trong niềm tin tưởng hôm nay, Phanxicô chỉ thấy cần báo trước cho anh em những hăm dọa của ngày mai.


    Dòng anh em sẽ mở rộng khắp hoàn cầu, thì cố nhiên anh em phải được đảm bảo rạch ròi. Mà chỉ một chủ quyền có công hiệu thiết thực khắp hoàn cầu mới bảo đảm được. Anh em sẽ thề quyết theo chủ quyền ấy hướng dẫn. Đến đây Phanxicô nghĩ ngay đến ngôi Giáo hoàng, đại diện Chúa Giêsu.


    Sau những ngày cầu xin ý Chúa, anh em quyết định sang Rôma, yết kiến Đức Giáo Hoàng.
    Chữ ký của Gia Nhân

  14. Được cám ơn bởi:


  15. #8
    Gia Nhân's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: ✛ Louis
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sông Nước - Miền Tây
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 3,130
    Cám ơn
    4,023
    Được cám ơn 15,423 lần trong 2,929 bài viết

    Default

    CHƯƠNG VII
    TRƯỚC GIÁO TRIỀU RÔMA LÊN ĐƯỜNG


    Năm 1210. Mùa xuân mới về.


    Gió hiền hòa tung tia nắng đẹp giữa không gian. Mười hai anh em từ giã Porziuncôla, lên đường đi Rôma. Lúc ra đi, Phanxicô đề nghị:
    - Anh em hãy chọn một người trong đoàn làm người dân đường. Mọi người phải vâng lòi anh ấy như vâng lời Chúa. Anh chỉ ngã nào, ta theo ngã ấy. Anh bảo trọ lại đâu, ta trọ lại đấy.
    Anh Bernađô đắc cử.


    Và cuộc hành trình thật là may mắn. Ngày mùa xuân dài, anh em đi được nhiều đường đất. Tối đến anh em thường gặp những người từ tâm cho tạm trú. Riêng Phanixicô, chuyến đi này, ngài đầy niềm tin tưởng. Thế nào lúc đọc bản luật Nghèo, do Phanxicô vắn tắt soạn thảo, và đệ trình lên bản luật Dòng, Đức Giáo Hoàng Innôcentiô III cũng châu phê không ngần ngại. Ở trần gian này Đức Nghèo chính là bạn trăm năm của Chúa Cứu Thế. Đức Giáo Hoàng là đại diện Chúa Cứu Thế, dễ thường ngài lại không nhận ra?
    Phanxicô mơ rằng trên đường đi, ngài gặp một cây cổ thụ, vừa to vừa cao, cành lá vươn dài che kín cả một vùng. Phanxicô bỡ ngỡ dừng chân. Bỗng một sức mạnh linh thiêng thổi Phanxicô cùng cao lên, ngang ngọn cây cổ thụ. Thế rồi, không phải cố gắng gì, Phanxicô chỉ thoáng đưa tay một cái, toàn thân vĩ đại kia đổ xuống nằm dài trên mặt đất.


    Phanxicô cho đó là điềm lành Chúa báo. Anh em tin rằng với ơn Chúa, Đức Innôcentiô, vị Giáo Hoàng vĩ đại và đanh thép kia, sẽ chiếu cố đến đoàn người hèn mọn, phê nhận bản luật Nghèo. Công việc sẽ chẳng khó khăn gì. Là những tâm hồn nồng nhiệt, đoàn người đơn giản này cứ tưởng, ở trên trời cũng như ở dưới đất, tất cả mọi người đều hướng về một việc là hoàn thành sứ mệnh của Bà Chúa Nghèo mà anh em đang phụng sự.


    Xuống khỏi thung lũng Spoleta, băng qua cao nguyên Riêti, hôm nay anh em đến giữa Rôma. Từng đôi mắt sáng ngời nhìn lên cung điện nguy nga của Đô Thành Bất Diệt. Từng đôi chân bước vui vui, không chút ngại ngùng e lệ.



    ĐỨC GIÁO HOÀNG INNÔCENTIÔ.



    Vào thời ấy, nhất là dưới triều Đức Innôcentiô, Rôma đã có tính cách quan trọng đánh mạnh vào trí tưởng tượng của các tầng lớp nhân dân và của các dân tộc. Đối với những ai cho thế kỷ XIII là “Thế kỷ Hoàng kim Công giáo” và thời đại Phanxicô là “ một thời đại văn minh điển hình”, thì Đức Innôcentiô III cũng hiện lên như “Một vị Giáo Hoàng hiển hách nhất của lịch sử” – Kể những vị Giáo hoàng chủ trương thuyết lưỡng quyền, thì vị áp dụng hiệu quả nhất là ngài.


    Ở Ý, ngài phế quyền hoàng đế và đuổi hết quan chức của Hoàng đế ra ngoài lãnh thổ Giáo hoàng. Ở Sicilia, bà quốc mẫu suy tôn ngài làm giám hộ của hoàng thái tử sau này sẽ kế nghiệp lên ngôi Hoàng đế. Ở Đức, ngài phế vua Frédéric Suabe, lập Othon Brunswick, sau lại ra vạ tuyệt thông Brunswick, lập Fréderic II thế vị. Ở Anh, vua Jean sans Terre mất lãnh thổ, thành chư hầu ngài. Các vua nước Hung, nước Aragon và nước Castille cũng thế. Chỉ có nước Pháp và vua Philippe- Auguste là đang tính việc phản đối ngài.
    Cả thế giới Công giáo đều ở dưới con mắt kiểm soát chu đáo của ngài. Trực tiếp hay gián tiếp, các vấn đề chung toàn đế quốc hay riêng từng dân tộc, các vấn đề trí thức tinh thần hay các vấn đề thuần túy Công giáo, tất cả ngài đều từng trải hết. Nhưng Giáo triều luôn luôn vẫn là trọng tâm hoạt động của ngài. Hoạt động chính trị chỉ là một hình thái trong tư cách của ngài thôi. Ngài lại là một tu sĩ khắc khổ trong đời sống tư và có một đức độ cao cả rất đáng khâm phục.


    Nguyện vọng duy nhất của ngài là làm cho thế giới nên toàn thiện. Đối với ngài, việc phát huy uy quyền giáo hoàng trong địa hạt chính trị văn hóa chẳng qua là một phương tiện để đạt tới sự thánh hóa trần gian. Chủ trương này sai hay đúng, ta không bàn cãi - Duy có một điều ta quyết là vị giáo hoàng này chỉ muốn thiết lập thế quyền trên các dân tộc Công giáo, để nhờ đó dễ thực hiện việc thấm nhuần Phúc âm khắp mọi giai cấp và mọi tầng lớp người ở trần gian.



    GIÁO PHÁI.


    Vương quyền đế nghiệp đã ở dưới quyền điều khiển của Đức Innôcentiô thì các lạc giáo cũng đã vì ngài mà thất điên bát đảo.
    Công cuộc cải cách của ngài đã phải đụng đầu với hàng giáo sĩ lệch lạc, với lớp tiên tri giả, với các giáo phái rối đạo và một số đông Công giáo bất mãn.


    Không kể các vua chúa có đạo, vì tư lợi, đứng lên trực tiếp phản đối lưỡng quyền, coi thường vạ tuyệt thông, đem vũ lực trả lời Đức Giáo hoàng và lôi cuốn dân khinh mạn quyền thiêng liêng của Giáo hội, ta vẫn phải thừa nhận điểm này: một phố giáo sĩ đã diễn ra một cảnh rất đáng buồn. Sống giữa chế độ địa chủ, các vị này quá chú trọng việc đời, bỏ phế hẳn nhiệm vụ giáo sĩ, giảng dạy ít, không học hành gì, mua bán của thánh, sinh hoạt tự do và biếng lười. Sở dĩ có tình trạng ấy là vì một số giáo sĩ thời đó là dòng dõi quý tộc, ra tranh giữ địa vị giáo sĩ để hưởng quyền lợi và bổng lộc, có điều kiện căn bản là đức độ tu hành thì các vị rất thiếu. Tình trạng ấy rất trầm trọng và phổ biến đến chính Đức Innôcentiô, trong sắc chỉ “Quamvis” ra ngày 8-6-1218 đã nói: “Phải có sắt với lửa mới mong chữa lành được”. Đó là lý do làm cho ngài đau lòng. Tuy nhiên ngài vẫn kiên nhẫn trước thử thách. Ngài đã chọn một số Hồng y đồng quan điểm với ngài về những vấn đề cải cách cấp thiết và mảnh dẻ này.


    Đâu đâu người ta cũng bàn đến công cuộc cải cách. Tuy đã có những vị thánh, như Thánh nữ Elisabeth de Schonau, Thánh nữ Reldegarde, Thánh nữ Ludgarde, được Chúa phái đến đánh thức những người chăn chiên chỗi dậy giữa đêm trường mù mịt, hoặc để báo trước phép công thẳng Chúa sắp thực hiện, đánh xuống trên ngai hoàng đế và trên ngai giáo hoàng bất xứng và chuẩn bị cho Chúa Thánh Thần tu dưỡng một lớp dân mới, nhưng cũng có rất nhiều nhà tiên tri giả đến quấy rối trật tự Giáo hội và náo động lòng người.


    Tai hại nhất thì có Joachim de Flore (1145-1202). Lối giải thích và tính toán của ông đưa đến một chủ trương rất ngây ngô. Ông cho rằng: sinh hoạt của nhân loại diễn tiến theo ba thời kỳ điều khiển bởi Ba Ngôi: Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ áp dụng luật Maisen, con người vâng lời mù quáng và sợ hãi. Thời ký thứ hai là thời kỳ ơn nghĩa, vâng lời người con thảo vì đức tin. Thời kỳ này không được hoàn hảo và đã kết liễu không khả quan gì, nên một thời kỳ thứ ba sẽ đến tiếp tục, kể từ năm 1260, khai mạc thời kỳ ngự trị của Chúa Thánh Thần. Tự do và tình thương sẽ kéo dài đến tận thế.


    Những người chủ trương cải tạo như Joachim de Flore này đều muốn quay về với Phúc âm. Nhưng khốn nỗi, đa số muốn Công Giáo hơn Giáo Hoàng. Họ muốn dạy đạo cho Giáo Hội, nên họ đã rơi vào đạo rối.


    Chẳng hạn như đoàn Vaudois ở Lyon, do Phêrô Valdez chủ trương. Đoàn này lúc mới thành lập đã được Đức Giáo Hoàng Alexandre III khen ngợi và tạm cho phép giảng luân lý. Nhưng rồi họ vượt quá giới hạn, lệch lạc giải thích Thánh Kinh và tín lý, vượt luôn cả quyền giám mục địa phương. Một số lập thành giáo phái Vaudois, đặt Thánh Kinh trên quyền tài phán của Giáo hoàng. Họ quyết rằng: Xưng tội với giáo hữu đạo đức hơn xưng tội với linh mục thiếu tư cách. Họ chối luyện ngục, chối ân xá và việc tôn kính các thánh, viện lẽ hàng giáo sĩ lợi dụng để làm tiền. Một số khác, ít hơn, biết hối cải, năm 1208, đến suy phục Đức Innôcentiô III xin thành lập nhóm “Người Công Giáo nghèo”.


    Rồi đến một đoàn khác, gọi là “ những kẻ khiêm hạ”, xuất phát từ Lombardia. Đoàn này gồm ba dòng: Dòng các Anh, Dòng các Chị và Dòng Ba. Tất cả là những phần tử có cảm tình với các giáo phái Vaudois và Patarins. Mãi đến năm 1201 đại đa số mới thoát khỏi tình trạng hoài nghi và được Đức Innôcentiô III phê chuẩn sinh hoạt.


    Trong số người bất mãn thời ấy, thật ra, vẫn có những tâm hồn thánh thiện, chỉ cầu mong theo dõi gương lành Chúa Kitô và các thánh Tông Đồ. Nhưng cũng có một số rất đông toàn là những người ngụy biện điêu ngoa, không ai có thể chịu được. Tệ hơn hết là những người mượn danh nghĩa cải cách để lôi cuốn thế giới vào tình trạng hỗn loạn. Những người ấy là phái Cathares. Ở Ý, phái này có tên là Patarins. Ở Pháp gọi là Albigeois. Ở Đông Âu là Bogomiles. Ở Bắc Âu là Bulgares.


    Nhập cảng có lẽ từ Balkans,, những người Cathares chủ trương thuyết Nhị nguyên: nguyên tác lành là Thiên Chúa, nguyên tắc dữ là Satan. Loài người là tác phẩm công cộng của hai nguyên tắc. Chúa Giêsu nhập thể có mục đích khuyến khích ta ba việc: phản đối Satan, khởi ngụy với Giáo hội Rôma là tay sai của Satan ở trần gian và gia nhập giáo hội Cathares. Giáo hội Cathares có đủ điều kiện hướng dẫn loài người lên Thiên đàng.


    Lý do gây nên bất mãn tiềm tàng kéo dài nuôi sống những thuyết rối đạo và những tổ chức giáo phái kia chính là một thứ Công giáo hình thức hẹp hòi.


    Người giáo hữu, trong một buổi chờ mong phục hưng tôn giáo, đã trực giác được rằng: môt vị tiên tri chân chính sắp xuất hiện trên trần gian mang lại cho linh hồn họ tự do vui vẻ. Vị tiên tri ấy phải là một tâm hồn giản đơn và thẳng thắn, có thể bóc hẳn cái vỏ tập quán để trình bày Chân lý huy hoàng sống động, giới thiệu Chân lý ấy với người giáo hữu và người đạo rối như một đứa con đẻ hợp pháp của Đức tin Công giáo. Nhưng vị tiên tri ấy xuất hiện từ đâu và như thế nào? Không ai biết được và cũng không ai ngờ rằng một bình minh đã bắt đầu chiếu sáng. Đức Innôcentiô III, vị Giáo hoàng thiên tài và đạo hạnh xuất chúng hẳn là phải có một ý chí phán đoán siêu quần và một trực giác vượt hẳn thời gian. Nhưng lúc đến giờ phải chân nhận con người đang chờ đợi thì ngài lại không hiểu con người ấy. Cho nên, lần đầu tiên gặp Đức Giáo hoàng, Phanxicô đã thất bại.


    BUỔI CHẦU ĐẦU TIÊN


    Theo Mattheu Paris, một nhà sử học đồng thời với thánh Phanxicô, kể thì tính vốn chất phác, cho nên khi tới đền Latran, Phanxicô tự tiện đi thẳng vào, vô tư như đi vào nhà một người quen thuộc. Trong hành lang đền Latran, Đức Innôcentiô đang đi bách bộ. Đầu hơi cúi, có lẽ ngài đang suy nghĩ những dự định lớn lao. Một tâm hồn như Phanxicô bước thẳng đến trước mặt ngài và trình bày ngay nguyện vọng. Nhìn từ bộ áo thô nghèo đến mái tóc thiếu trật tự, Đức Innôcentiô tưởng Phanxicô là một người chăn heo đâu đó đã phát điên. Ngài gắt:

    - Luật Dòng cái gì? Đi ra mà lo chăn heo của con. Muốn giảng thì giảng cho heo!


    Không để Đức Giáo hoàng nói lần nữa, Phanxicô vội vã đi ra một chuồng heo, bôi bẩn lên người, rồi trở vào quỳ thưa:

    - Lạy Đức Thánh Cha, con đã làm xong việc Đức Thánh Cha truyền. Cúi xin Đức Thánh Cha rộng lượng ban điều con xin.

    Đức Innôcentiô tự bảo, đây không phải là bộ dạng của một vị lãnh tụ giáo phái muốn nổi loạn. Ngài nghĩ lại, phàn nàn đã xử tệ với Phanxicô, và sau khi bảo Phanxicô đi tắm rửa, ngài hứa cho Phanxicô một buổi chầu.


    Chuyện Mattheu Paris kể có thể là giai thoại. Nhưng cứ xét bản tính khiêm hạ của Phanxicô và lối phát biểu nhiều khi quá cứng cỏi nặng lời của Đức Innôcentiô, thì tưởng giai thoại này không xa sự thật là bao nhiêu. Sự thật là lần đầu tiên Phanxicô vào bệ kiến Đức Giáo hoàng, vì quá đường đột nên bị ngài ngộ nhận điên. Ngài đuổi ra.




    GIÁO TRIỀU PHÊ NHẬN LUẬT DÒNG.



    Đáng lẽ trước khi kể nốt truyện Đức Giáo hoàng quyết định phê nhận luật Dòng, ta hãy xem lại nét đại cương của luật sơ thảo ấy. Nhưng nguyên bản chính thức luật này không còn truyền đến tay ta nữa. Ngày nay chỉ có bản xây dựng lại, không làm căn cứ được. Cêlanô và Truyện Ba Người Bạn Đồng Hành cũng chỉ nói rằng: Bản luật này rất ngắn, gồm những câu trích trong Phúc âm và ít nhiều chỉ thị đại cương chú trọng vào Đức Nghèo và Đức Khiêm hạ để khuôn đúng anh em vào một đường lối chung.


    Bản luật ấy, kể về chi tiết, thì như thế nào chưa đủ ai rành rõi để có thể làm chính cương cho một Hội Dòng.


    Phanxicô bơ vơ chưa biết làm thế nào để xin Đức Giáo hoàng phê nhận luật Dòng, thì may mắn làm sao! Trong dịp này lại có Đức Giám mục thành Assisi về Giáo triều bái mạng. Bất ngờ gặp anh em ở đây Giám mục Guiđô tưởng anh em đã từ giã hẳn Assisi rồi. Ngài rất lấy làm tiếc. Anh em định làm vui lòng ngài và trình bày chủ định sang Rôma chuyến này. Để giúp anh em một cách đắc lực, Đức Giám mục liền giới thiệu Phanxicô với Đức Hồng Y Gioan Phaolô. Đức Hồng y nhận lời cho anh em trọ trong dinh thự ngài.


    Đức Hồng Y Gioan Phaolô là tai mắt ở Giáo triều. Tài đức của ngài lại vượt hẳn thành phần Hội đồng Hồng Y. Đức Giám mục Assisi lấy tình bạn nài xin rồi lấy tình bạn mà cam đoan rằng: Những “Người Đền tội thành Assisi” này quả có lòng thành kính đối với anh em, Đức Hồng Y cũng xác nhận rằng: Anh em quả có lòng đạo hạnh và khiêm hạ. Tuy nhiên, cứ theo tinh thần bảo thủ của nhà cầm quyền, ngài không thấy cần thiết phải lập một dòng mới. Ngài cố khuyên Phanxicô đừng chủ trương lập một dòng mới lạ, chỉ nên cùng anh em gia nhập một trong những dòng hiện hữu.


    Phanxicô không để Đức Hồng y ủy dụ dễ dàng. Ngài nghĩ rằng biện hộ cho bản Luật Dòng ngài là một bổn phận thiêng liêng và vẫn khiêm nhường, Phanxicô thưa lên:

    - Kính thưa Đức Ông, Chúa không gọi chúng con sống trong một ẩn viện hay sống trong cánh rừng hoang vắng, nhưng là sống một đời sống mới, trên nền tảng Phúc âm.

    Thái độ khiêm hạ của Phanxicô đã chinh phục được Đức Hồng y theo quan điểm của anh em. Thành tâm và chu đáo như một vị giám hộ, Đức Hồng y đem việc trình lên Đức Giáo hoàng. Kết quả là người sáng lập Dòng được một buổi chầu đặc biệt, để trình bày dự định trước Giáo triều.


    Buổi chầu đến, Phanxicô và anh em quỳ xuống dưới chân Đức Innôcentiô. Ngài vẫn giữ một thái độ nghiêm khắc nhưng đã sẵn lòng nghe Phanxicô trình bày. Cải cách Giáo hội là việc ngài chú trọng nhất, nhưng bất cứ trường hợp nào ngài cũng xử sự khôn ngoan.
    Vừa nghe xong chương trình sinh hoạt mới của Phanxicô, các Đức Hồng y đều phản đối. Có vị cho rằng: Đây là một tên thủ lãnh giáo phái nghèo, kiểu “ Phái nghèo ở Lyon” hôm nay đến xin phê chuẩn bản luật có cái mã ngoài Phúc âm, để ngày mai lại đi tập hợp nhân dân khởi ngụy chống các Đức Ông. Nhiều vị khác cho rằng: một đoàn tu sĩ không thể tồn tại được, nếu không có tài sản hay bổng lộc. Và tất cả đồng thanh cho rằng: lối sinh hoạt đúng nghĩa đen Phúc âm như thế là ngoài sức con người. Chính Đức Giáo hoàng cũng ngại ngùng, ngài nói:

    - Này các con yêu dấu, lòng nhiệt thành của các con làm cho ta yên tâm rằng các con có thể theo lối sinh hoạt này được rồi. Nhưng còn những kẻ theo gót các con, chắc họ sẽ nhận thấy lối sinh hoạt này là quá khắc khổ, không thể theo được.

    Đức Hồng y Gioan Phaolô vội vàng thưa lên:

    - Kính lạy Đức Cha, kính thưa các Đức Ông, tôi thiết tưởng nếu chúng ta phi lời xin của người nghèo này vì những lý lẽ viện ra lúc này, thì chẳng phải chúng ta đã quyết hẳn rằng Phúc âm không thể thực hành được. Quyết như thế là thóa mạ Chúa Kitô, tác giả Phúc âm.

    Lý luận đanh thép này đã ấn tượng sâu xa trên cử tọa. Đức Innôcentiô trầm ngâm đôi lát rồi quay lại bảo Phanxicô:

    - Con hãy đi cầu nguyện xin Chúa cho Giáo triều biết rõ thánh ý ngài. Khi biết rõ thánh ý Chúa rồi, ta mới có thể trả lời dứt khoát với con được.

    Giáo triều ngại ngùng về bản Luật. Thái độ ấy có lý do. Vì bản Luật không khỏi có vài điểm tương đồng với chương trình hoạt động của các nhà cải cách thời ấy đã đi quá đã. Ai chẳng nghe tiếng Phêrô Valdez? Ai chưa từng gặp những người đạo rối Cathares len lỏi gieo rắc bất mãn và phá rối khắp nơi?


    Dẫu sao, những ngại ngùng của Giáo triều cũng tan biến trước lòng đơn giản và chân thành của Phanxicô.


    Các nhà viết truyện kể lại rằng: Khi Phanxicô đang cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho Giáo triều thì Chúa đã báo mộng cho Đức Giáo Hoàng, Chúa lại khiển hứng cho Phanxicô một chuyện ngụ ngôn. Trong buổi chầu thứ ba tiếp đến, Phanxicô đem chuyện ngụ ngôn ra kể:


    “Lạy Đức Thánh Cha, ngày xưa ở một khu rừng hoang vắng, có một người đàn bà rất nghèo nhưng rất đẹp. Có ông vua kia gặp nàng đem lòng yêu. Người đàn bà sinh mấy đứa con. Đàn con lớn lên, mẹ gọi lại bảo rằng: “Các con đừng vì nghèo mà thẹn. Các con là con vua”. Nàng lại bảo mấy đứa con lớn hơn rằng: “ Các con cứ về triều mà tìm cha các con. Thế nào cha các con cũng nhận được mặt và niềm nở đón các con”. Biết điều bí mật, biết rõ dòng dõi hoàng tộc, đàn con tin tưởng hăng hái đi về triều. Vua nhìn đàn trẻ đẹp quá, nhận được chúng giống nét mặt mình. Vua hỏi:

    - Mẹ các con là ai?

    - Tâu đức vua, là người đàn bà nghèo ở khu rừng hoang vắng.

    Nghe trả lời đúng sự thật, vua vui mừng ôm sát đàn con vào lòng rồi bảo:

    - Các con đừng sợ nữa. Ta đây thật là cha các con. Các con là những kẻ thừa nghiệp cha. Thường ngày cha tiếp bao nhiêu là người lạ ngồi ăn đồng bàn với cha thì nhất thiết cha phải nuôi dưỡng các con. Bao nhiêu bạc vàng châu báu xưa nay cha thu tích là có ý để dành cho các con.

    Nói xong vua truyền đi xin bà mẹ cho tất cả các con khác về triều để vua nuôi dưỡng trong cung điện.”


    Nhìn đôi mắt đăm chiêu của vị Giáo hoàng, Phanxicô thản nhiên nói tiếp:

    - Lạy Đức Thánh Cha: Khu rừng hoang vu là thế gian này, ít nhân đức tươi tốt. Người đàn bà nghèo được vua sủng ái và sinh nhiều con là chính tôi mọn đang chầu trước Đức Thánh Cha đây. Chúa Kitô đã ban cho tôi mọn này nhiều con cái, nhằm mục đích thể hiện lại những nét chính của cha bằng cách tập theo đức nghèo của ngài. Những đứa con ngồi ăn đồng bàn với vua là anh em tôi mọn này, không bao giờ Chúa để túng thiếu. Chúa là Đấng rộng rãi nuôi dưỡng hết vạn vật kể cả những người tội lỗi.

    Cả Giáo triều vừa bỡ ngỡ vừa cảm phục. Mọi người vừa nghe nhà thơ rong, bận đồ rách rưới mà lòng say sưa ca hát hạnh phúc sống cuộc đời nghèo. Ngờ vực đã tan trước ánh sáng sự thật, Phanxicô quả quyết không phải là một nhà cải cách nguy hiểm hoặc một người đạo rối Cathares nguyền rủa Thiên Chúa ác nghiệt đã bắt sống kiếp làm người. Phanxicô cũng không phải là một người kiêu ngạo lầm tưởng được ơn Chúa soi rồi căn cứ vào một số nhân đức hẹp hòi của mình, muốn bắt mọi người phải toàn thiện toàn mỹ và nói xấu mọi người. Dưới mắt xác nhận của Giáo triều, Phanxicô chỉ là một đứa con khiêm hạ của Thiên Chúa, không lên án giáo sĩ cũng không lên án giáo dân. Người con ấy chỉ nuôi một hy vọng là thông niềm vui của tâm hồn mình với bất cứ ai mong muốn.

    Vị giáo hoàng lão luyện chính trị đã hiểu rõ: điều mà thế giới đang cần để cải thiện, chính là có được cái não trạng của nhà thơ rong này. Ngài sực nhớ đến giấc mộng ngài đã thấy cách đây mấy hôm. Ngài thấy đại Thánh đượng Latran, đầu và mẹ các thánh đường, đang nghiêng về một bên sắp đổ. Giữa lúc nguy nan ấy, bỗng từ đâu chạy đến một tu sĩ nghèo. Tu sĩ nhẹ đưa vai đỡ bên mái đổ. Toàn bộ đại thánh đượng đứng thẳng lên, giữ lại thế quân bình.


    Giờ đây, ngài chắc chắn người tu sĩ nghèo, đang đứng trước mặt ngài đây, có thể đưa vai nâng đỡ Giáo hội.


    Tuy không ban chiếu chỉ, ngài cũng đã dùng lời nói long trọng chấp nhận bản Luật của Phanxicô trước Hội đồng Hồng Y. Và sau một vài huấn từ cần thiết chân tình, ngài truyền cho Phanxicô chịu trách nhiệm hướng dẫn anh em. Còn Phanxicô tuyên hứa phục tùng Đức Giáo hoàng.


    Bữa ấy, Phanxicô lãnh chức phó tế. Những anh em chưa có giáo phẩm đều lãnh phép cắt tóc. Và tất cả mười hai anh em đều được phép giảng lễ thống hối, nghĩa là nói với giáo dân những lời khuyên luân lý.


    Thế là Dòng Phanxicô đã trực thuộc với giáo hội Rôma. Trong lúc chờ đợi một sắc chỉ phê chuẩn vĩnh viễn, Giáo hội đã nhận cho anh em bắt đầu thời kỳ thứ nhất. Tan buổi chầu, lúc cho anh em lui, Đức Innôcentiô còn thân ái dặn dò:


    Các con về. Ta chúc bằng an cho các con. Xin Chúa ở cùng các con. Nếu Chúa cho oàn các con phát triển mạnh thì các con trở lại trình cho ta hay. Ta xét nếu cần, ta sẽ ban cho các con nhiều đặc ân và ký thác cho các con nhiều nhiệm vụ quan trọng.

    Vốn không vụ hình thức, Phanxicô được lời nói của Giáo Hoàng đã cho là đủ. Lòng mãn nguyện, Phanxicô cảm tạ Chúa, đưa anh em đến viếng mộ hai Thánh Tông đồ, rồi lên đường ra khỏi giáo đô.




    ORTÔ, NƠI TẠM TRÚ.



    Trên con đường đất bột, dưới ánh mặt trời, anh em ngược theo bờ sông Tibrô, định qua Ortô để về Spolêta.


    Gần tới Ortô, đoàn người dừng lại giữa một đám rừng hoang vắng. Suốt hai tuần lễ ở đây, anh em sung sướng hưởng cảnh nghèo thực sự. Say sưa với Đức Nghèo, anh em cương quyết không bao giờ rời bỏ nhân đức dịu dàng êm ái này nữa. Tình trạng nghèo thiếu ở đây thật là hết độ. Giữa cảnh hoang vu, không còn ai đến quấy rối thời gian cầu nguyện lâu dài của anh em. Chia phiên nhau, vài anh em lên thành thì xin ít nhiều của ăn, đang khi anh em khác ở nhà cầu nguyện. Đến bữa, anh em cùng nhau chia mẫu bánh, chút đồ ăn và chút nước lã. Của ăn thừa lại, không tìm ra người để cho, thì cất vào một góc để ăn ngày khác.


    Anh em ai cũng mến cảnh hoang vu này. Có anh đâm ra sợ vì quá tha thiết chốn này mà sao lãng nhiệm vụ Chúa ủy thác cho chăng. Đàng khác, có anh nghiêng hẳn về lối sống ẩn dật không thiết quay về sống giữa loài người nữa. Phanxicô phải nhắc lại cho anh em biết nên noi gương Chúa Kitô nói rồi ngài đưa anh em lên đường về Assisi.
    Chữ ký của Gia Nhân

  16. Được cám ơn bởi:


  17. #9
    Gia Nhân's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: ✛ Louis
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sông Nước - Miền Tây
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 3,130
    Cám ơn
    4,023
    Được cám ơn 15,423 lần trong 2,929 bài viết

    Post

    CHƯƠNG VIII
    RIVÔ – TORTÔ- VƯỜN NHÂN ĐỨC

    Chuyến này trở lại thành nhà, anh em không về Porziuncôla nữa. Một đàng, vì mười hai người không thể ở hết trong lều Phanxicô đã cất; đáng khác, rút kinh nghiệm cánh rừng cám dỗ ở Ortô, Phanxicô không dám ở hẳn một chỗ nào nhất định nữa. Anh em đành hạ trại ở Rivô - Tortô, từ cuối hè đến hết mùa đông.


    Rivô - Tortô nghĩa là “Dòng suối quanh co”, cách Porziuncôla hai dặm. Địa hình bây giờ khó nhận định, vì dòng suối đã cạn từ bao giờ.
    Trời đã trở về mùa thu.


    Cảnh Ombria đã đẹp lại càng đẹp thêm. Gió hài hòa. Nắng dịu và ấm. Bầu trời trong suốt như thủy tinh. Những lúc mặt trời đã khuất sau rặng núi, ngước trông lên, như một tấm thảm muôn màu. Và đêm đến, ngàn sao lấp lánh, sáng ngời.


    Trước vẻ đẹp phong phú thiên nhiên, lòng Phanxicô như lắng xuống, ngài say sưa thưởng thức như buổi thiếu thời đã từng say sưa cái vẻ huy hoàng rực rỡ của những tổ chúc đình đám ăn chơi. Ngài mở rộng tâm tư và những vẻ đẹp thiên nhiên kia bây giờ là những cái đà mới cho lời tán tụng.


    Ngài thông cảm ấn tượng ấy cho anh em. Ngài bảo: Vũ trụ là một quyển sách khổng lồ, trong đó tên Chúa đã âm thầm ghi lên từng trang từng chữ. Tâm hồn muốn tìm Chúa, chỉ cần lưu ý một chút cỏn con, là thấy Chúa dễ dàng và có thể phụng thờ yêu mến Chúa qua bao nhiêu kỳ công sáng tác của Ngài.


    Nhưng Rivô - Tortô chưa hẳn là một thắng cảnh chỉ gợi toàn tư tưởng đẹp. Rivô - Tortô còn là một mùa xuân nhân đức nở hoa. Những thứ hoa đặc biệt là: đức khôn ngoan đi đôi với lòng đơn giản, đức khó nghèo với lòng khiêm hạ, đức bác ái với đức vâng lời. Nhưng kể ra, đức nghèo vẫn là đức được đặt làm căn bản độc đáo cho cả dòng.




    ĐỨC NGHÈO



    Người khác có thể sống một cuộc đời nghèo vì lý do triết lý, đạo đức hay hy sinh, bác ái. Phanxicô và anh em muốn nghèo vì tình yêu Chúa Kitô. Thấy Chúa xưa nghèo thiếu, Phanxicô đem lòng thương mến và muốn được như ngài. Phanxicô coi đức nghèo như người bạn tâm giao đã không bao giờ rời xa Chúa từ hang đá Bethléem đến đỉnh núi Sọ. Nhưng từ ngày Chúa ngự về trời, đã hai mươi thế kỷ, bà Chúa nghèo ở lại, bị mọi người ruồng rẫy coi khinh, bơ vơ không nơi nương tựa.


    Đọc sách “Giao ước linh thiêng của thánh Phanxicô và Bà Chúa Nghèo” kể lại cuộc gặp gỡ lần đầu tiên giữa đoàn Hiệp sĩ Chúa Kitô và Bà Chúa Nghèo, ta thấy tuy Đức Nghèo được đề cao nhưng lại có nhiều đòi hỏi khắc khe.


    Hai đoạn chính của sách kể chuyện nhà thơ rong Thiên Chúa cùng mấy người bạn đồng hành, không bị không gậy, hai tay không, phiêu lưu mạo hiểm khắp bốn phương trời, cố tìm cho được Bà Chúa Nghèo xinh đẹp, đã bị phụ tình. Sau khi đã lên thác xuống ghềnh, vượt qua bao nhiêu gian hiểm, anh em gặp Bà trên đỉnh núi cao.


    Gặp bà, nhà thơ rong cất lời ca tụng duyên dáng cao quý của bà và tha thiết xin bà đưa đường chỉ lối tìm đến Chúa Kitô.


    Gặp anh em, Bà Chúa Nghèo cũng vui mừng hớn hở. Bà kể lại cho nghe cuộc đời lưu lạc bơ vơ, bị trần gian bạc đãi của bà, giọng đượm buồn và ngụ ý trách móc. Anh em cảm động ứa nước mắt, thề quyết thủy chung với bà. Rồi thỉnh bà về thăm tu viện anh em ở.
    Sau đây là đoạn trích trong Giao Ứơc Linh Thiêng, kể lại bữa tiệc anh em tổ chức mừng Bà Chúa Nghèo đến thăm tu viện.


    “Thức ăn đã dọn, anh em mời Bà Chúa Nghèo dùng bữa. Bà Chúa truyền:


    Trước bữa ăn, yêu cầu anh em hướng dẫn tôi tham quan nhà nguyện, phòng tu nghị, nội viện, phòng ăn, phòng ngủ, chuồng nuôi gia súc gia cầm, bàn ghế chạm trổ bóng nhoáng và tòa ngang dãy dọc của anh em. Các cơ sở ấy ở đâu, tôi chỉ thấy anh em bình thản vui vẻ, như đã được thỏa mãn, nên tôi được an ủi và tràn đầy vui mừng.


    Anh em thưa lên: “Tâu lệnh Bà, tâu Hoàng hậu, các tôi tớ của bà đi đoạn đường xa, đã thấm mệt, và hẳn lệnh Bà đi với chúng tôi cũng mệt. Xin lệnh Bà vui lòng, chúng tôi cùng ăn uống lấy lại sức, sau đó chúng tôi xin thi hành theo ý lệnh Bà.


    Bà Chúa nói: “Ý kiến hay ! Vậy anh em hãy đi lấy nước để chúng ta rửa tay, nhớ lấy thêm cái khăn để lau tay”. Anh em vội đi tìm một cái bình đựng được nhiều nước, nhưng tìm không có, đành đưa ra một cái chậu sành nhỏ, đựng được ít nước. Anh em dội nước lên tay bà, vừa nhìn chung quanh như tìm cái khăn. Nhà không có khăn, một anh em đành đưa vạt áo để Bà Chúa lau tay. Bà Chúa nói lời cảm ơn, nhưng lòng bà ngợi khen Chúa đã ban cho Bà những người bạn đồng hành như thế.


    Anh em mời Bà Chúa đến chỗ đặt bàn ăn, trên bàn thức ăn đã dọn sẵn. Bà Chúa đưa mắt thoáng nhìn, chẳng thấy gì ngoài bốn năm ổ bánh lúa mạch thứ thường, đặt trên mấy nắm cỏ. Bà rất ngạc nhiên và tự nghĩ: “Ai đã từng thấy như vậy chưa, từ xưa tới nay. Ngợi khen chúc tụng Chúa, là Thiên Chúa, Chúa đã quan tâm đến hết mọi người! Chúa có thể những gì Chúa muốn. Chúa dạy dân Chúa biết làm những gì đẹp lòng Chúa. Và Bà Chúa cùng anh em ngồi xuống, đồng thời dâng lời cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban mọi ơn lành.
    Bà Chúa truyền bưng các đĩa đựng món ăn ra. Anh em đem đặt giữa bàn một cái tô sành đựng nước lã, để mọi người chấm bánh khô cho mềm, dễ ăn, nhà không có các món nấu nướng chiên xào.


    Bà Chúa truyền thôi thì đem món rau sống ra cũng được. Nhưng anh em không có vườn để trồng rau. Anh em vội chạy vào ven rừng hái một ít rau dại đem về dâng lên cho bà. Bà bào: “Xin cho ít muối, vì rau đắng khó ăn”. Anh em thưa: “Xin lệnh bà chờ cho một lát, để anh em có đủ thời giờ về xin ở thành phố, và cũng còn tùy nếu có người cho”- “Vậy xin cho con dao, để cắt bỏ các lá rau đã vàng và cắt bánh đã khô và cứng”.


    “Thưa trong anh em không ai làm nghề thợ rèn. Sau này chúng tôi sẽ tìm cho bà một con dao, tạm thời xin bà dùng răng để cắn bánh”- “ Nhà có rượu không ?” Anh em thưa: “Tâu lệnh bà, chúng tôi không có rượu, vì nguyên sơ con người chỉ sống bằng bánh và nước. Hơn nữa bà là bạn trăm năm của Đức Kitô, uống rượu không tốt, rượu là chất độc hại. Sau khi đã dùng bữa, anh em cảm thấy vui hơn, vì đã được sống trong cảnh nghèo vinh quang, còn hơn cảnh giàu có sung túc gấp bội. Anh em dâng lời chúc tụng Chúa đã ban cho ơn trọng đại như thế và anh em mời Bà Chúa Nghèo đi nghỉ. Bà cũng cảm thấy mệt. Bà phải nằm giữa đất, không chăn không chiếu. Bà truyền lấy gối để kê đầu. Anh em bê hòn đá đặt dưới đầu bà.


    Sau giấc ngủ ngắn và ngon, bà yêu cầu anh em hướng dẫn bà đi tham quan tu viện. Anh em đưa bà lên một ngọn đồi cao, rồi vun tay chỉ bốn phương trời. – “Tâu lệnh bà đó là tu viện của chúng tôi”.


    Bà cảm động. Bà còn nói thêm ít lời huấn dụ khuyến khích nữa rồi từ giã anh em.


    Đức Nghèo có những đời hỏi khắt khe, nên đời sống của anh em ở Rivô - Tortô quả thật là khắc khổ.


    Túp lều anh em tạm trú cũng chẳng rộng đủ dung nạp con số mười hai người. Túp lều ấy bỏ hoang làm nơi ẩn cho khách lỡ đường tránh mưa gió. Bé và thấp, không đủ chỗ, nhưng Phanxicô vẫn từng nhắc lại: Đường lên trời bắt đầu từ lều tranh hẳn ngắn hơn từ cung điện. Ngài lấy phấn trắng ghi lên xà tên mỗi anh em để khi tới giờ cầu nguyện hay nằm ngủ, ai nấy đều có chỗ riêng, khỏi mất trật tự và làm ồn ào.


    Khổ về chỗ ở, anh em lại thiếu thốn cả cái ăn. Các nhà dưỡng phong hay các thôn xóm anh em tới làm công, có lẽ cũng nghèo, cũng ít việc làm, nên thường thường anh em phải nuôi thân với cũng của thừa, ăn mày từng cửa. Bữa ăn sơ sài kham khổ, bụng đã quen rồi, mà lắm khi vẫn không có. Anh em đành lượm củ cải rơi rớt ngoài đồng hay trên các ngã đường, đem về luộc.


    Sự thiếu thốn làm khổ tâm anh em hơn hết là không có lấy một ngôi nhà nguyện nhỏ, cho dẫu bằng tranh. Nhà nguyện của anh em chỉ là một cây Thánh giá to bằng gỗ, cắm giữa trời, có lẽ dưới bóng một cây cổ thụ. Sách đọc là đó. Sách kinh là đó.


    Bàn thờ cũng là đó nữa. Có khi lẻ tẻ từng người, có khi tất cả mười hai anh em, quỳ gối chung quanh, lặng lẽ suy về cuộc tử nạn của Chúa Cứu Thế, suy cho đến độ lòng thổn thức và nước mắt chảy ròng ròng mới thôi.



    HÃM MÌNH



    Mức sống ở Rivô - Tortô đã khắc khổ, thế mà hễ Phanxicô không cấm là anh em còn tự nguyện sát phạt thân thể nhiều cách. Thường khi Phanxicô phải điều chỉnh lại lòng nhiệt thành quá độ ấy.


    Một hôm cả dòng đang ngủ bỗng vùng dậy. Có tiếng rên dài: “Chết mất! Chết mất thôi!”. Mọi người xôn xao, Phanxicô ra lệnh:
    - Anh em! Dậy! Dậy! Đốt lửa lên!


    Khi căn lều đã sáng ánh lửa theo lệnh Phanxicô, ngài hỏi:

    - Ai là người sắp chết?

    - Thưa anh, em.

    Nhìn người anh em trẻ tuổi, mắt trắng dã, chân tay buông xuôi, ngài dịu dàng hỏi tiếp:

    - Tại sao mà chết? Em đau bệnh gì?

    - Thưa anh, vì đói quá!

    Phanxicô bảo lấy đồ ăn và bánh dọn bữa cơm bất thường. Cả nhà cùng ăn với người sắp chết đói. Tiện thể người khuyên anh em đừng giữ chay nhiệm nhặt quá:

    - Anh em ạ. Mỗi người phải xử sự theo tính trời. Có người mạnh khỏe, ăn ít vẫn sống được. Ai ăn nhiều thì đừng bắt chước người ấy. Mọi người phải liệu cho thân thể đủ sự cần thiết để nó có thể phục vụ tinh thần. Đừng quá độ trong lúc ăn uống, đã có hại cho xác lại có hại cho linh hồn. Nhưng cũng phải cẩn thận, đừng nhịn ăn quá độ. Điều Chúa đòi hỏi ta, không phải là những việc hãm mình, mà chính là thái độ đền tội hãm mình thành thật. Về điểm này, anh em không nên theo kiểu hãm mình của tôi. Đứng đầu gia đình chung, tôi có bổn phận riêng phải hãm mình. Vả cái bụng tôi chỉ cần vài ba miếng đồ ăn đơn sơ là đủ sống rồi.

    Vài ba miếng đơn sơ ấy, nhiều lần Phanxicô còn rắc tro hay pha thêm nước lã vào. Cử chỉ này đã làm phiền lòng anh Bonaparte, là anh nấu bếp. Một bữa, anh buồn và trách Phanxicô:

    - Anh bảo em không buồn làm sao được. Một đàng em cứ lo lắng nấu món ăn cho vừa để anh khỏe mạnh. Một đàng, anh lại tìm cách phá cho nó hư đi. Nấu cho ngon rồi phá đi thì nấu làm gì?
    Phanxicô an ủi:

    - Này anh Bonaparte, thì hai đàng chúng ta đều có ý ngay lành cả. Tôi làm việc tôi, còn anh, anh cứ lo nấu ăn cho ngon. Hẳn là Chúa không quên đền công cho mỗi người chúng ta.

    Ở Rivô - Tortô, nhiều lần Phanxicô đã phải nhắc lại vấn đề hãm mình. Ngài nêu nguyên tắc sau này:

    - Anh em chỉ cần sát phạt thân thể mình, một khi đã cung cấp cho nó đủ nhu cầu, mà nó còn cố tình lười biếng. Trường hợp lười biếng, thì đối với thân thể cũng như đối với chú lừa đã cho ăn uống đầy đủ mà vẫn không chịu tải đồ, cứ lấy đòn mà nói chuyện với nó.

    Phanxicô lại chủ trương rằng sự sống là một ơn lành Chúa ban. Người bảo:

    - Khi đau cũng như khi lành, người tu sĩ phải khiêm tốn nói ra điều mình cần. Nếu không được như ý thì phải kiên nhẫn chịu đựng bệnh tật của mình vì lòng mến Chúa. Đó là đường lối người tu sĩ đi tìm triều thiên tử đạo.

    Những lối hãm mình không có hại cho thân thể mà còn có lợi cho linh hồn cũng được ngài nhắc tới luôn. Chẳng hạn hạn ngài khuyên anh em không nên tìm nghe tin tức mới lạ, vì chính trị cũng như về khoa học. Chúng chỉ làm xao lãng tâm trí và làm mất thì giờ. Mùa thu ấy, Hoàng đế Othon IV, từ Rôma về Rivô - Tortô. Ngoài đường xe ngựa rầm rộ. Phanxicô vào lều đóng cửa lại và khuyên anh em không nên ra xem. Đã không ra xem, ngài còn bảo một anh em ra đợi bên đường, bảo cho Hoàng đế biết danh vọng không bền và danh vọng riêng của Hoàng đế cũng sắp tan. Lời tiên báo đã ứng nghiệm. Othon bị Đức Giáo hoàng ra vạ tuyệt thông và đặt Frédéric lên thế vị.



    LÒNG KHIÊM HẠ




    Một hôm nghe đọc bản Luật Dòng đến câu: “Anh em phải tự coi mình là kẻ nhỏ mọn hèn hạ, sau hết mọi người”. bỗng Phanxicô có ý kiến lấy hai chữ “Hèn mọn” đặt tên cho anh em. Ngài bảo nghỉ đọc rồi tuyên bố: Đó chính là đường lối của anh em, từ nay về sau phải gọi là “Anh em Hèn mọn”.


    Cái tên ngài đặt đây đã nói rõ được địa vị của anh em trong xã hội cũng như trong Giáo hội. Địa vị sau hết. Đối với Phanxicô, đức Khiêm hạ cũng phải như đức Nghèo. Đã san sẻ cảnh nghèo đói của Chúa xưa thì cũng phải san sẻ những nỗi nhục nhã của ngài. Phanxicô nói: “Bỏ hết của cải vật chất mà còn giữ lại một thứ của là lòng tự ái, thì nói bỏ hết thế nào được”.


    Theo Cêlanô, thì tư cách anh em ở Rivô - Tortô rất phù hợp với tên “Hèn mọn”: Anh em sống như những người bạch đinh, những người thường dân, những thành phần thấp nhất trong xã hội, mai danh ẩn tích, không muốn phô trương và thường lại tìm cơ hội để rước lấy điều nhục nhã. Nếu không có cơ hội, thì anh em lại tạo ra cơ hội. Chẳng hạn như Giuniphêrô sau này cởi áo đóng gói thành gói, đội lên đầu rối cứ như thế mà đi khắp thành Assisi, cho mọi người chế nhạo.




    LAO ĐỘNG VÀ GIẢNG DẠY



    Đi đôi với việc huấn luyện anh em, Phanxicô cũng chú trọng đến việc chân tay và việc giảng dạy giáo dân. Sống đời nghèo không phải là sống lười biếng. Ở Rivô - Tortô, anh em vẫn hiểu và vẫn giữ đúng định luật cao cả của sự làm việc.


    Anh em mỗi người một việc và thường lao động như đi làm thuê làm mướn cho đồng bào, trong nhà ngoài đồng. Thường anh em cũng rao giảng lời Chúa cho khách qua đường hay dân nghèo, những khi anh em làm công cho họ.


    Riêng Phanxicô, ngoài những giờ lao động, ngài đi giảng ở các công trường hay trong các nhà thờ. Đức Giám mục Guiđô quên thế nào được đứa con yêu dấu bao lần ngài ủng hộ. Nói đến chuyện vừa giảng bằng lời nói, vừa giảng bằng việc làm, thì còn ai hơn được Phanxicô? Ngày nay khách du lịch đến viếng nhà thờ chính tòa thành Assisi, còn được thấy một phòng nhỏ bên cạnh. Nơi đây Phanxicô thường đến trú đêm, dọn bài giảng, để ngày mai giảng lễ sớm.


    Nói đến giảng và nghe giảng, thì công chúng thông cảm rất nhanh, Cười dễ mà khóc cũng dễ, hoan nghênh ngay và cũng phản đối ngay. Thuyết phục quần chúng ấy là phải để lòng nói với lòng. Họ ưa điệu nói của kịch lý, kèm theo cử chỉ lớn với động tác mạnh, Phanxicô từ tư cách đến điệu bộ lại thích hợp với thính giả, ngài đã nói bằng thân thể lẫn tâm hồn. Không cố gắng gì mà tự nhiên lời nói rung động theo nhịp lòng. Rồi tay chân, thân thể cử động hòa nhịp với lời nói.


    Cái tài làm cảm động người nghe, Phanxicô có thừa: tiếng nói dồi dào, êm dịu, trong và rõ, dễ dàng uốn theo ý nghĩa của từng câu từng phần. Chỉ có một điểm đáng tiếc là Phanxicô dáng người thấp bé, thân thể gầy guộc, không lôi cuốn ai. Bao nhiêu đường nếp tự nhiên, thanh lịch lại bị lấp đi dưới bộ áo thô nghèo. Thế nhưng khi ngài nói thính giả lại quên ngay dáng người xấu xí, chỉ còn biết cảm thông ngọn lửa nồng nhiệt đang đốt cháy tâm hồn kẻ tông đồ. Những lúc ấy, đối với thính giả, Phanxicô là con người của thế giới khác. Tâm hồn hướng về trời, đôi mắt cũng đăm chiêu về phía ấy, con người này đem hết sức thiêng lôi cuốn mọi người cùng lên cao với mình.


    Lẽ thống hối, lẽ hòa bình và bác ái, đó là ba đề tài chuyên giảng của Phanxicô và anh em. Ngài mạnh tay lột trần những căm thù ghen ghét đang sôi sục giữa các đảng phái trong châu thành. Ngài nhắm thẳng vào kiều vọng của lớp quý tộc và thị dân vì họ quá tham lam quyền hành gây nên thù oán với lớp dân đen. Giữa những cuộc giao tranh huynh đệ tương tàn, dưới mọi hình thức, Phanxicô đã hô to tiếng gọi hòa bình, át cả lời hô báo oán, tiếng gọi hòa bình đã lọt tai mọi người, những mối thù truyền nghiệp, truyền họ, truyền nhà, những mối thù giai cấp dần dần long rễ, đứt chân và nếu không ngã hẳn thì cũng ít có điều kiện nảy nở lan tràn thêm.


    Lịch sử nội trị Assisi còn ghi một bản thỏa hiệp ký kết cuối mùa đông 1210 - 1211, ngày mồng 9 tháng 12. Nhân danh bản thỏa hiệp này, hai giai cấp lớn nhỏ trong thành cùng long trọng ký kết, đồng tâm cộng tác làm cho thành Assisi giàu mạnh. Hai bên hứa không liên kết với Đức Giáo hoàng hay Hoàng đế, với một quốc vương hay với bất cứ một châu thành nào, khi không có sự thỏa thuận chung của toàn dân. Ngoài ra hai bên còn ký kết tôn trọng quyền lợi riêng của nhau và từ đây sống hoàn toàn hòa hảo. Những tù chính trị và những kẻ lưu vong được gọi về. Toàn thể dân chúng thuộc lãnh thổ Assisi đều được hưởng quyền lợi như dân thị xã. Chữ ký đôi bên đều có danh dự bảo đảm. Các thứ thuế má đều được quy định hẳn hoi.


    Đứng trước kỷ nguyên hòa bình đang mở cửa này, không ai dám từ chối ảnh hưởng của Phanxicô. Những bài giảng ở công trường và ở nhà thờ chính tòa lại được đời sống của anh em ở Rivô - Tortô phụ họa vào, để cấu thành ảnh hưởng sâu xa giữa ý thức dân thành.



    LÒNG MẸ.



    Với những bài học khó nghèo, khiêm hạ, kiên nhẫn và đơn sơ, anh em ở Rivô - Tortô còn nhận được ở Phanxicô một tình thương chan hòa êm dịu. Anh em thường gọi ngài là “Bà mẹ rất yêu dấu”.


    Một bữa kia, anh Sylvêtê lộ vẻ mặt thiểu não. Nhưng chẳng ai để ý đến, vì cả nhà ai ai cũng sống trong kỷ luật khắc khổ. Riêng Phanxicô ngài nhận thấy ngay. Ngài tự bảo: Chắc đây là tại buổi sáng bụng không. Giá có ít chùm nho cho anh ta ăn là hết. Sáng hôm sau, trời chưa sáng hẳn, Phanxicô đã dậy đánh thức Sylvêtê, rồi khi cả nhà đang ngủ, hai anh em dắt nhau đến một vườn nho gần đấy, hái mấy chùm ăn điểm tâm.


    Một bữa khác, Phanxicô đi đường với anh Lêô. Dọc đường Lêô mệt quá. Gần đấy có vườn nho chín muồi. Phanxicô hái ít chùm. Lêô ăn xong là khỏe ngay. Nhưng ông chủ vườn băng rào chạy ra, chẳng nói chẳng rằng, giơ cao gậy đánh mãi vào lưng người hái trộm. Phanxicô chịu đòn, miệng hát lời ngợi khen Chúa.


    Trên quãng đường còn lại, thỉnh thoảng Phanxicô quay nhìn Lêô và hát:


    Anh Lêô được ăn nho.
    Phanxicô bị đánh ra trò,
    Miệng Lêô ngọt vị đường,
    Thân Phanxicô đã giãn xương.


    Ở Rivô - Tortô, Phanxicô săn sóc anh em với hai bàn tay và một lòng mẹ. Phanxicô là linh hồn của anh em. Có ai bị cám dỗ hoặc bị khó khăn, không đợi phải nói ra, Phanxicô đã đoán biết. Ngài lo lắng và đau khổ hơn chính nạn nhân. Lời ngài bao giờ cũng giàu sức an ủi. Như một người mẹ đảm đang, ngài lo trước đủ chuyện. Kinh nghiệm đã cho ngài thấy những trở ngại của buổi đầu của những kẻ nghe tiếng Chúa gọi và đang trung thành dấn thân vào đường hẹp. Ngài biết rõ những nỗi vui buồn đang cấu kết ở giai đoạn đầu của một người muốn sống đời sống thiêng liêng, khi cảm thấy mình có hạnh phúc cũng như bị đau khổ.


    Đáp lại, anh em đối với Phanxicô cũng hết tình anh em. Ở Rivô - Tortô, dòng mới đến ở chưa ổn định gì như ngày ở Porziuncôla. Đối với anh em, Phanxicô giải quyết tất cả, Phanxicô là kỷ luật, là tư tưởng, là hy vọng, là dây thắt chặt anh em với nhau và toàn thể anh em với Chúa. Trên đoạn đường gay go anh em vừa đặt chân lên, Phanxicô là nghị lực, là sức cố gắng của những bàn chân mềm yếu đang dò dẫm bước đi. Đó là ý nghĩ của toàn thể anh em. Câu truyện sau đây sẽ nói hết:


    Như thường lệ, mỗi đêm thứ bảy, Phanxicô lên nhà thờ chính tòa Assisi dọn bài giảng ngày mai. Đêm ấy, ở Rivô - Tortô, anh em chia nhau, người nằm ngủ, người thức cầu nguyện cầm canh. Bỗng tất cả đều sửng sốt nhìn lên. Kìa một cổ xe, trên xe lửa cháy đỏ rực, hiện ra và chạy khắp các xó lều. Trên đỉnh cổ xe, có một quả cầu lửa sáng chói. Người anh em được ánh lửa chiếu sáng. Linh hồn của anh em cũng được ánh lửa đó chiếu sáng. Mỗi người đều thấy rõ tâm trạng của những anh em khác. Sau khi cổ xe biến mất rồi, anh em mới tìm hiểu hiện trạng phi thường ấy và mọi người đều đồng ý kết luận rằng: đó là tinh thần của Phanxicô đã biểu diễn sức hiện diện giữa anh em người. Sáng hôm sau thấy Phanxicô tự nhiên biết chuyện đã xảy ra đêm qua, anh em đều cho rằng mình tin đúng.


    BỊ ĐUỔI.



    Tuy nhiên, Rivô - Tortô vẫn chưa phải là tổ ấm đầu tiên, êm hiền và trường cửu của anh em.


    Ngày kia, đúng giờ kinh chung của gia đình, có một bác nhà quê dắt con lừa đứng trước cửa lều. Bác bảo con lừa:

    - Vô đây! Vô đây! Có cái chuồng lừa nào sạch sẽ hơn cái chuồng này nữa không? Vô mau!

    Rồi thúc con lừa vào bừa căn lều, bác vừa hét vừa mắng con lừa thậm tệ. Nào chiếm đoạt chỗ trọ chung của mọi người. Nào ăn không ngồi rồi, vô tích sự. Trong ý bác định chửi anh em, nhung bác nhắm bụi tre nhè bụi hóp. Phanxicô cực lòng vì anh em bị sỉ nhục tội nghiệp. Rồi sợ bị tình nghi mâu thuẫn với đức Nghèo, phần sợ không đủ yên tĩnh để cầu nguyện, Phanxicô không phản đối bác nhà quê. Ngài chỉ nói:

    - Anh em ạ! Sự thật Chúa không gọi ta làm nghề mở quán cho lừa trọ. Chúa gọi ta cầu nguyện và dẫn đường cho người đời được rỗi.

    Nói rồi, ngài dẫn anh em ra khỏi lều và từ giã luôn Rivô - Tortô.
    Chữ ký của Gia Nhân

  18. Được cám ơn bởi:


  19. #10
    Gia Nhân's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Aug 2009
    Tên Thánh: ✛ Louis
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sông Nước - Miền Tây
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 3,130
    Cám ơn
    4,023
    Được cám ơn 15,423 lần trong 2,929 bài viết

    Post

    Chương IX - PORZIUNCÔLA
    THỜI ĐẠI HOÀNG KIM - NƠI PHÁT TÍCH.


    Bỏ Rivô- Tortô ra đi, anh em buồn rầu hỏi nhau:

    - Chúng ta đi đâu bây giờ?

    Phanxicô vội làm an lòng anh em:

    - Anh em yêu dấu, hình như Chúa muốn cho số anh em ta thêm lên. Ta hãy đi, kiếm một ngôi nhà nguyện nhỏ, làm chỗ đọc kinh nhật tụng và táng xác anh em ta chung quanh. Với lại cũng phải có một túp lều làm chỗ cho anh em hội họp.
    Mọi người đều đồng ý. Theo lối xử sự đặc biệt của Phanxicô, ngài tìm đến vị Giám mục Assisi như đứa con tận tình phó thác. Chẳng may, Đức Giám mục không đủ điều kiện để ủng hộ anh em. Đến gõ cửa các vị giáo sĩ ở nhà thờ thánh Rufinô, kết quả cũng chẳng may mắn hơn. Cuối cùng vị viện phụ Biển Đức ở núi Soubasiô đã làm thỏa nguyện anh em. Đức ông viện phụ giao cho anh em nhà nguyện Đức Bà Thiên Thần và khu đất nhỏ bên cạnh gọi là Poorziuncola. Ngài chỉ đặt điều kiện là dòng Phanxicô có mở rộng đến đâu đi nữa, thì nhà nguyện Porziuncôla vẫn được kể là nơi phát tích muôn đời ghi nhớ. Phanxicô đồng ý ngay. Ngài cho như thế là đặt dòng làm chư hầu mãn kiếp của Đức Mẹ Chúa Trời.


    Nhưng ngài không đồng ý nhận nhà nguyện và khu đất làm của riêng. Để tránh mọi ngộ nhận của anh em về sau và để đánh dấu rằng: đây chỉ là đất và nhà cho mượn tạm hằng năm, gọi là tiền thuế, ngài bảo anh em phải nộp cho Đan Viện Biển Đức núi Soubasiô một rổ cá. Cá ấy anh em bắt ở sông ở gần nhà. Lệ nộp cá lưu hành mãi cho đến lúc Đan Viện núi Soubasiô không còn. Mỗi khi anh em lên nộp cá, vị Viện phụ vẫn gửi lại một chai dầu làm biên lai nhận cá.


    Ai kể được nỗi vui mừng của Phanxicô lúc đưa anh em về Porziuncôla. Ngài quyến luyến nơi này, một đàng vì đây là nơi Chúa Giêsu và Đức Mẹ ưa riêng; đàng khác, đây là nơi Phanxicô đã chứng kiến sự thể hiện mộng Phúc âm. Giữa bốn bức tường nhà nguyện này về sau các Thiên Thần đã vì Phanxicô mà ca hát và trên trời đã mặc khải cho ngài nhiều bí nhiệm riêng.


    Giữa khu rừng ấy, Porziuncôla gồm nhà nguyện Đức Bà Thiên Thần, một nếp chòi tranh khá rộng làm chỗ hội họp chung và một số lều cá nhân cho mỗi anh em. Chòi tranh thường bằng cây trét đất sét, lều cá nhân chỉ gài bằng củi khô. Bao quanh tất cả những túp lều kia là một hàng rào cây sống.




    SINH HOẠT.
    Trong khu vực này, liên tục ngày đêm, anh em thay phiên nhau cầu nguyện. Chưa có đủ sách kinh để đọc theo đúng giờ giáo luật, thay vào đó anh em dành đcọ kinh Lạy Cha. Lối đọc kinh Lạy Cha ấy còn truyền đến bây giờ. Ngày nay trong các dòng Anh Em Không linh mục (Frères Convers) vẫn còn giữ.


    Nếp sinh hoạt bên trong được luôn luôn khuôn theo đúng tinh thần đoàn thể. Giup1 đỡ lẫn nhau, thi hành bác ái với nhau, đó là căn bản của Luật sơ thảo. Ở đây tình bằng hữu đã nở hoa và anh em đã thể hiện được luật yêu mến nhau hơn mẹ yêu con. Đúng như luật dạy: “Một người mẹ yêu con về phần xác như thế nào thì anh em tinh thần cũng phải yêu mến nhau như thế ấy”.
    Bữa kia, có đàn trẻ chơi ác lượm đá ném hai anh, nhưng không anh nào nghĩ đến việc tránh cho mình. Anh này dành anh khác đứng trước đỡ đá cho nhau.


    Ở đây anh em không chỉ biết quên mình, bỏ ý riêng để phục vụ hết mọi người và mọi người chỉ có một lý tưởng chung, sống theo một tinh thần chung, cho nên, thứ uy quyền thường phải có trong một hội đoàn, kể ra ở đây cũng không cần thiết lắm. Tuy nhiên người đứng đầu vẫn là Phanxicô.


    Đối với Phanxicô, thi hành uy quyền chỉ có nghĩa là làm sao anh em đi thẳng lối hẹp của ơn Chúa gọi, làm sao để mình có thể săn sóc phục vụ anh em như người hầu hạ. Ngài đem hết tài đức làm cho anh em thấm nhuần lối dùng quyền như thế. Trong mực sống thường ngày, thứ uy quyền Tòa Thánh đã ban cho ngài, họa hoằn lắm ngài mới đem ra thi thố. Ngài ủy một phần quyền ấy cho một anh em; ủy quyền ấy được anh em gọi là “mẹ.” Anh “mẹ” này phải đảm nhiệm vai trò đối ngoại và sinh hoạt vật chất. Các anh em khác được rảnh rang tha hồ cầu nguyện và chiêm ngưỡng lẽ trên trời. Luân phiên nhau, hết nhiệm kỳ, con lại làm mẹ, mẹ trở lại làm con.


    Mỗi người trong nhà đều được phân công. Ai cũng có một quãng thời gian dành riêng cho linh hồn. Ngoài ra anh em đều làm việc lao động. Ai cũng có một nghề cầm tay. Chính Phanxicô làm nghề thợ mộc, thường ngài đục bát đĩa gỗ dùng trong nhà. Về sau, ngài đúc bánh lễ. Ở Grecciô còn giữ được cái khuôn bánh ngài dùng xưa. Anh Êgiđiô thì có tài đan giỏ. Anh Giunphêrô có cả một gian hàng chứa giày dép hư.


    Để kiếm ăn, anh em vẫn ra làm thuê làm mướn cho mọi người như ngày còn ở Rivô- Tortô. Công việc làm thì giữ đúng Luật, chỉ nhận những việc hèn hạ. Cũng có nhiều bữa không tìm ra việc làm. Nhiều bữa gặp phải ông chủ bất nhân, quỵt công, không có gì ăn, phải đi ăn mày từng cửa.


    Mức sống hằng ngày như thế, Porziuncôla quả là một chỗ ở xứng đáng với Bà Chúa Nghèo. Từ nơi đây, Đức Nghèo đã đóng dấu sâu đậm vào tinh thần anh em cũng như tinh thần dòng vào ngày mai. Nơi đây, các tập tu đều phải thụ giáo những bài học đầu tiên để chuẩn bị đời sống tập thể. Bữa ấy thời tập tu chưa hạn định. Khi xét đủ tư cách và có ơn Chúa gọi thì Phanxicô cho mặc ó dòng rồi cho khấn. Một điều kẻ xin vào tu nhất thiết phải làm, là đem phân phát của cải cho dân nghèo. Trừ khi gia đình túng bẩn quá thì thôi. Còn dành lại cho gia đình cũng không được. Vì anh em có nhiệm vụ phải làm sáng rõ cái đẹp của lòng thảo và lòng thương đối với mọi người. Phanxicô cho rằng: theo luật bác ái của Chúa Kitô, thì dân nghèo được quyền ưu tiên đến nhận của cải anh em từ bỏ.


    Có một kia xin vào tu, cũng từ bỏ gia tài, nhưng lại đem của ấy cho bà con. Lúc nghe kẻ ấy trình lại, Phanxicô cười bảo:

    - Anh chưa bỏ hẳn nhà cửa bà con. Anh đem của cải cho bà con. Như thế là anh truất phần của người nghèo. Anh không đáng vào số những người những người nghèo vì Chúa. Thôi anh về.

    Trong những việc từ thiện anh em làm, Phanxicô đặt lên hàng đầu việc săn sóc người bệnh phong. Vì bác ái ngài gọi những người xấu số ấy là “các anh Kitô.” Theo gương ngài, anh em cũng yêu mến họ chí tình. Tình trạng bị bỏ rơi và đói khổ của nạn nhân càng kích thích lòng nghĩa hiệp của anh em.


    Có khi anh em bước quá cả giới hạn cần khôn ngoan. Chẳng hạn như anh Giacôbê. Anh được cử đến săn sóc một bệnh nhân ở vào giai đoạn cuối cùng của kịch bệnh. Bệnh nhân thành thối tha ghê gớm quá. Đã có lệnh không được ra khỏi giảng đường. Anh phàn nàn tình trạng bị nghiêm cấm ấy của người bệnh. Một bữa, thương quá, anh cho bệnh nhân ra ngoài rồi đưa về chơi với anh em ở Porziuncôla. Phanxicô đi giảng về, thấy bệnh nhân trong nhà. Ngài nghĩ đến sức khỏe của anh em, nói ngay rằng:


    - Anh Giacôbê, anh dẫn anh phong của chúng ta ra ngoài như thế, tôi tưởng vừa không tiện cho chúng ta, lại không tiện cho anh ấy.

    Nói dứt lời, ngài bỗng động lòng thương và tự trách mình, vì anh phong cũng đã nghe ngài nói. Ngài liền sấp mặt trước anh Phêrô, hiện làm “mẹ gia đình”, thú tội thất lễ với anh phong rồi ngài xin việc đền tội. Mẹ Phêrô trả lời:

    - Anh muốn đền tội thế nào, thì anh cứ làm.

    Ngài nói ngay:

    - Đây là việc tôi sẽ làm để đền tội tôi: Tôi sẽ cùng ăn một đĩa với “anh Kitô” của tôi.

    Tới bữa ăn, Phanxicô ngồi cạnh anh phong. Hai người ăn chung một đĩa.


    Sách “Những Bông Hoa Nhỏ” còn nhắc hai chuyện chung quanh vấn đề các “anh Kitô” này.


    Chuyện thứ nhất là chuyện anh Bentivôgliô. Anh này thương các anh phong đến không muốn rời nửa bước. Đang thời kỳ anh săn sóc một bệnh nhân, thì có việc phải đi đến một địa điểm khác. Anh không ngại cõng anh phong ấy đi mười dặm đường suốt một đêm.
    Chuyện thứ hai là chuyện một anh phong khó tính: Có một anh phong khó tính và ngạo mạn quá chừng. Ai cũng nghĩ anh bị quỷ ám. Anh em đến săn sóc đều bị anh đánh đập chửi mắng. Tệ hơn hết là anh báng bổ và nói phạm thượng đến Chúa và Đức Mẹ. Không ai có thể và muốn giúp anh nữa. Cố gắng nhịn nhục, chịu anh mắng chửi tàn tệ để thêm phần công phúc thì được. Nhưng nghe mãi những lời tục tĩu anh chửi Chúa và Đức Mẹ, thì ai cũng ngán và định bỏ anh.


    Nghe kể như thế, Phanxicô liền đến thăm. Ngài chào hỏi anh phong thân mật:

    - Anh thân mến của tôi ơi! Xin Chúa ban bằng an cho anh!

    Anh phong cau có mắng liền:

    - Bằng an? Bằng an gì? Chúa cướp hết hạnh phúc của tôi. Chúa cướp hết bằng an của tôi. Chúa để thân tôi tan rã thối tha thế này. Còn bằng an gì mà chúc nữa.

    - Anh ạ, nên nhẫn nại một chút. Bệnh tật Chúa ban cho chịu đời này có mục đích cho ta rỗi đời sau. Nếu ta vui lòng chịu ta sẽ được nhiều công nghiệp.

    - Bảo tôi nhẫn nại thế nào nữa? Suốt ngày thân tôi đau như xé. Mấy anh cha bảo đến giúp tôi lại làm cực tôi thêm nữa.

    Biết người bệnh bị quỷ ám, Phanxicô vội đi cầu nguyện rồi trở lại thăm lần nữa. Ngài nói:

    - Anh ạ, các anh em khác không làm vừa lòng anh. Thôi để tôi giúp anh.

    - Cha thì giúp tôi được gì hơn những người khác?

    - Anh muốn gì là tôi làm vừa lòng anh ngay.

    - Tôi muốn tắm. Người tôi thối quá, chịu không nổi!

    Phanxicô vội chạy ra vườn hái ít nắm lá thơm về nấu một nồi nước ấm rồi tự tay tắm rửa kỳ cọ cho anh phong, thật là nhẹ nhàng chu đáo. Với ơn Chúa, Phanxicô rửa đến đâu, bệnh phong tan biến đến đấy, da thịt lành hẳn. Anh phong cảm động, hối hận tội lỗi và khóc nức nở xin tha thứ. Mười lăm ngày sau, anh phong từ trần. Khi linh hồn anh bay về Thiên đàng, có ghé qua cảm ơn Phanxicô.


    ĂN MÀY.
    Đối với kẻ tập tu, việc khó nhất không phải là giúp người phong, mà là đi ăn mày. Phanxicô lấy việc chịu nhục nhã đi xin ăn làm một dấu có ơn Chúa gọi.


    Có một tu sĩ trẻ tuổi, đọc kinh thì làm chiếu lệ, công việc thì không ưa, bảo đi xin thì nhất quyết không chịu mà đến bữa lại ăn khỏe nhất nhà. Một bữa, Phanxicô gọi anh lại bảo:

    - Về đi thôi, anh ruồi ạ! Không chịu động tay động chân giúp vào việc nhà Chúa, còn ngồi hưởng công mồ hôi nước mắt của kẻ khác, thế mà không biết thẹn. Anh không khác gì con ong sắt vô tích sự, đã không làm việc cho bầy, anh lại xơi mật của những con ong cần mẫn.


    Nói rồi ngài cho anh về.


    Nhờ kinh nghiệm buổi đầu, ngài hiểu rõ tất cả ngượng ngùng của kẻ tập tu. Cho nên ngài chỉ giải quyết thẳng với những “anh ruồi” nhất định chối không chịu đi xin, cho là việc xấu hổ.


    Suy về đức Nghèo của Chúa Giêu, Phanxicô tin rằng: đi ăn xin từng nhà là một đặc ân, là được dự vào bàn tiệc của Chúa. Nhận của người ta tự động cho là khiêm hạ, nhưng đi xin ăn từng nhà lại là một việc suy tôn đức nghèo, bởi vì người xin phải tự hạ hơn.
    Để khích lệ anh em, Phanxicô thường nói về đức Nghèo của Chúa. Ngài nói:

    - Chúa sang trọng hơn bất cứ anh em nào ở đây. Thế mà ra đời, Chúa đã tự hạ làm kẻ nghèo. Ta đã chọn con đường nghèo vì yêu mến Chúa. Thế sao lại bảo đi ăn xin là xấu hổ? Nhận biên lai, giấy tờ làm bằng chứng để hưởng gia tài trên trời, mà lại thẹn? Rồi đây, vô số người sang trọng thông thái sẽ đến họp đoàn với ta. Họ sẽ cho đi xin ăn là một vinh dự. Anh em là những người dẫn đầu, anh em hãy làm cái việc mà rồi đây anh em sẽ truyền lại cho các thánh đến sau.

    Riêng các anh em tập tu cũng cho việc đi xin là một thử thách chứng tỏ ơn Chúa gọi. Có một anh tập tu vào hạng nhát thẹn và hay mắc cỡ nhất, một buổi sáng ra đi xin, đã phải cố gắng lấy hết can đảm mới bước đi được. Đến chiều về, được nặng bị, anh hát vang ngoài đường. Nghe tiếng hát, Phanxicô chạy ra đón, Ngài đỡ lấy bị, ôm anh vào lòng, hôn lên chỗ vai mang bị rồi nói to:

    - Phước cho anh nào vâng lời ra đi nhanh chân, khiêm hạ ngửa tay xin, rồi trở về vui vẻ!

    Chính ngài, ngài vẫn đi xin, để làm gương cho anh em. Gương lành và lời nói thay đổi được tình trạng, và dần dần anh em cũng quen việc hành khất.




    TIỀN BẠC
    Đi xin nhưng không bao giờ anh em được nhận tiền bạc, dầu khi người taa tự ý cho. Điểm này, anh em tuyệt đối phải giữ.
    Hữu hạn lắm, nhà có anh em đau ốm, không liệu thế nào hơn được, bất đắc dĩ Phanxicô mới cho nhận ít đồng bạc để mua thuốc.
    Phanxicô cấm nhận tiền bạc, bởi lẽ tiền bạc tượng trưng cho một thế giới mua bán duy lợi, thường gây ra tham vọng lừa dối lẫn nhau. Chế độ ấy đức Nghèo đã giải phóng cho anh em rồi. Tiền bạc lại là một dấu tư hữu. Quyền tư hữu, Phanxicô nhận cho người khác, không nhận cho anh em. Vả nữa, đức tin, đức cậy và tác phong tông đồ được Phanxicô kể là ba lý do buộc anh em phải xa lánh tiền bạc. Thái độ sinh hoạt tùy thuộc lòng hảo tâm của người cho, còn là một lời nhắc nhở người giàu làm nhiệm vụ đối với người nghèo. Phanxicô thường bảo anh em:

    - Anh em cứ đi xin. Lúc này là lúc Chúa để Anh Em Hèn Mọn đặt điều kiện cho kẻ lành làm những việc được quan tòa chí công khen tặng lời này: “Việc chúng con làm cho các anh em nhỏ bé nhất của Cha là việc chúng con đã làm cho Cha”.
    Vả chăng, theo hiện tình kinh tế thời ấy, tiền bạc là một thứ xa xỉ thặng dư, là phương tiện vạn xấu của một xã hội xa hoa. Vì thế Phanxicô kể tiền bạc như cạm bẫy ma quỷ. Đối với anh em lỗi về tiền bạc, thái độ của ngài thật là nghiêm khắc.


    Bữa kia, anh giữ nhà thờ thấy một đồng vàng, người hảo tâm nào đó dâng để trên bàn thờ. Anh đem đồng vàng gác lên ngưỡng cửa sổ. Không chủ tâm phản lệnh cấm, anh chỉ nghĩ: Cứ cất vào đấy, sau có cần mua gì thì đem ra mua. Biết hành động này, Phanxicô bất mãn lắm. Anh giữ nhà thờ đến quỳ trước mặt ngài xin nhận lỗi. Phanxicô bắt anh cắn đồng vàng trên miệng, tha ra ngoài hàng rào tu viện, nhả vào đống phân.


    Ở Porziuncôla, anh em xin nhập dòng ngày càng đông. “Anh mẹ” là Phêrô Catanê, lo lắng, không biết liệu cách nào để sắm cái ăn cái mặc.
    Chữ ký của Gia Nhân

  20. Được cám ơn bởi:


+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com