|
Thánh Giu-se Nguyễn Duy Khang được các tĩn hữu Việt Nam tôn kính Trong số bốn Thánh tử đạo ở Hải Dương. Tuy Thánh nhân sau hơn một tháng, nhưng vẫn được chung vinh dự với linh mục An-ma-tô Bình , hai Đức Cha Giám mục Va-len-ti-nô Vinh và Héc-nô-xin-la Liêm, vì đã cùng chung lao khổ với ba vị huynh trưởng trong dòng Đa-Minh.
Là người trợ tá của Đức Giám mục Héc-mô-xin-la Liêm, thầy đã theo sát người cha chung của giáo phận Đông Đàng Ngoài trong những ngày lưu lạc. Rồi khi quân lính vây bắt Đức Cha thì với nhiệt tâm của thánh Phao-Lô tông đồ xưa trong vườn cây dầu, thầy định dùng võ lực để chống cự. Nhưng sau cùng, thầy nghe lời của Đức Giám mục mà mình muốm bảo vệ. Thầy chấp nhận bị bắt để làm chứng cho việc cao thượng hơn: Làm chứng cho tình thương, cho tấm lòng nhân ái thứ tha của tin mừng.
Giu-se Nguyễn duy Khanh chào đời năm 1832, tại Cao Mại, xã Trà Vi, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. cha mẹ cậu là người giáo hữu đạo đức, hường dẫn các con vào đời sống ngay từ nhỏ. Nhưng cha cậu qua đời sớm, cậu được mẹ săn sóc tận tình. Bà lo liệu cho cậu được học hành, gợi cho cậu ý muốm hiến dâng mình cho Thiên Chúa và gửi cậu vào nhà Đức Chúa Trời giúp việc cho cha Mát-thêu Năng dòng Đa-Minh.
Sau 10 năm sống với vị linh mục lão thành thánh thiện này, cậu Giuse Khang được cha gửi vào chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng la-tinh, chuẩn bị cho sứ vụ linh mục trong tương lai. Giai đoạn này thầy Giuse Khang xin gia nhập dòng ba Đa- Minh và được anh em tín nhiệm bầu làm trưởng tràng điều hành mọi công việc trong nhà như lao động , nấu ăn, liên lạc với các cha bề trên. Mặc dù bận rộn, thầy Khang vẫn nêu gương sáng cho anh em trong việc học hành và kỷ luật. Những ai đã tiếp súc với thầy đều nói thầy đạo đức, có tính cương trực, nhưng lại luôn hòa nhã với hết mọi người.
Khi đó, Đức Cha Héc-mô-xin-la Liêm cùng ở Kẻ Mốt đã tín nhiệm thầy một cách đặc biệt và trọn thầy làm phụ tá riêng. Thầy Khang vui vẻ phục vụ Đức Cha cách tận tình: Từ đó việc dọn bàn thờ, sắp sếp các hồ sơ, sao chép các hồ sơ luân lưu, cho đến công tác cơm nước, liên lạc. có lần thầy còn đào hang trú ần cho hai cha con nữa.
Giáo Hội Việt Nam lúc ấy đang trong tình trạng bị bách hại khốc liệt, dười thời vua Tự Đức. Để tiêu diệt hết đạo Gia-tô trong cả nước, nhà vua ban hành chiếu chỉ Phân sáp ngày 5/8/1861. Theo chiếu chỉ đó, mọi tín hữu theo đạo Gia-tô già trẻ lớn nhỏ, nam nữ đều phải phân tán vào các làng ngoại giáo. Các tĩn hữu bị khắc chữ vào má, gia đình bị phân chia, vợ một nơi chồng một nẻo, con cái mỗi đứa mỗi miền. Các thánh đường, nhà chung, tài sản của giáo hữu bị tịch thu, bị chia chác hay là phá hủy.
Trong bối cảnh đó, ngày 18/9, Đức Cha Héc-mô-xin-la Liêm vô cùng đau đớn phải giải tán chủng viện Kẻ Mốt. Linh mục Khoa, đại diện ngài nói với các chủng sinh: '' Anh em khỏi chào Đức Cha, kẻo ngài không cầm nổi nước mắt''. Riêng thầy Khang nhất quyết xin và được chọn theo Đức Cha cho tới cùng. Khi giã từ các bạn, thầy nói nửa đùa nửa thật:''Tôi nhất định theo, Đức Cha, các quan có bắt ngài, ắt theo, mất đầu con chân sợ gì''. Từ đêm đó, hai cha con bắt đầu sống lưu lạc. Tương lai tuy mờ mịt, nhưng thầy Khang luôn vẫn vui tươi nhờ lòng tin phó thác va tâm tình dâng hiến mạng sống nếu Chúa muốm.
Ba tuân lễ đầu, thầy Khang cùng cha sống trong hang trú ẩn ở thọ Ninh. nhưng quan quân đã phát hiện nơi ẩn đó, nên hai cha con phải bỏ đất liền, xuống một thuyền đánh cá. Thầy Khang trèo thuyền qua thị Xã Hải Dương đến tá túc trên thuyền của một giáo hữu tên Bính. Chính nơi đây đã thánh tòa'' Tòa Giám mục'' lưu động của các chủ chăn. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức Cha Va-len-ti-nô Vinh và linh mục An-ma-tô Bình đi thuyền từ Kẻ Mốt xuống. thật là cuộc gặp ghỡ vô cùng cảm động và vui mừng của bốn thánh tử đạo Hải Dương. Các vị tạ ơn chúa vì vị cơ may đặc biệt này, trao đổi tin tức và cùng nhau cầu nguyện cho giáo Hội. Đến sáng, các vị chia tay mỗi thuyền đi một ngã.
Một hôm gia đình trương Bính xảy ra cuộc cãi lộn. Người con trai tức giận cha mẹ nên tố cáo cha mẹ chứa chấp đạo trưởng. Thế là đội bảng liên đem gia nhân đến bắt Đức Cha. Thấy họ tới nơi, thầy Khang liền nhổ cây sào trống thuyền và chạy lên đứng chặn trước mặt họ như mốn ngầm bảo: Phải bước qua sác tôi, rồi muốm bắt ai thì bắt.
Nhưng vị linh mục kha kính và nhân ái đến nằm lấy tay thầy, ngài nói: '' đứng làm gì hại họ , hãy phó thác mặc cho chúa ''. Thầy Khang nghỡ ngàng quay lại nhìn người cha gia và chợt hiểu ý của ngài, thầy chỉ nói được một lời '' Thưa vâng '', rồi bỏ sào tre xuống đưa tay cho lính trói. Lính giải hai vị vào thành Hải Dương và giam mỗi vị một nơi.
Một tháng dưởi trong tù, thầy Khang được sống chung với một số giáo hữu. Thầy liền tổ chức cho các phòng giam đọc kinh mối ngày ba lần và mỗi tối làm việc thống hối đền tội chuẩn bị đón nhận phcú tử đạo. Trong thời gian này, thầy bị đưa ra toa tra tấn ba lần, bị đánh đòn hai bên mông. Lần nào thầy cũng can đảm chịu đựng, không hề tiết lộ một chi tiết nào về hàng giáo sĩ, không chịu bỏ đạo như các quan yêu cầu. Sau mỗi trận đòn, các giáo hữu trong ngục đầu nấu nước rửa và xoa bóp cho thầy dịu bớt cơn đau.
Đặc biệt trong tù, thầy Khang vẫn tiếp tục viết thư cho các bạn đang lưu lạc ở làng Hảo Hội. Một lá thư thầy viết.
'' Các quan tra tấn tôi một kì để hỏi Đức Cha đã ở những đâu, song tôi không trả lời, trái lại vui lòng chịu đòn. xin anh em cầu nguyện cho tôi ''.
Trong lá thư khác viết.
'' Anh em cho tôi một cái quần, vì quân tôi cũ, phải đòn nhiều đã rách nát. Cũng xin gửi cho tôi xin một cài mền để khi tôi chết, có cái mà liệm xác đem chôn ''.
Ngày 6/12/1861, thầy Giuse Khang được nghe bản án trảm quyết ở Kinh Đô gửi ra, thầy vui vẻ theo lính ra pháp trường Năm Mẫu, nơi đã thấm máu người Cha kính yêu của thầy ngày 1/11 trước đó. Sau khi bị chém đầu, dân chúng an táng thi thể thầy ở ngoài ruộng.
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
|
|