Vị thánh quan thầy của nước Phổ sinh trong một gia đình giầu có và quyền thế nhưng từ trần cách đơn sơ như một người nghèo.
Sau khi kết hôn với một người quý tộc và đạo đức, Jutta và chồng sống rất đạo hạnh, cả hai quý trọng chân lý và cố gắng trau dồi nhân đức. Trong một cuộc hành hương đến các thánh địa ở Giêrusalem, người chồng lâm bệnh và từ trần. Bà quả phụ Jutta ở vậy nuôi con.
Sau khi con cái đã khôn lớn và có đủ nhu cầu cho đời sống, bà Jutta quyết định sống một cuộc đời chỉ để làm vui lòng Thiên Chúa. Bà bán mọi y phục, nữ trang, đồ đạc đắt tiền và gia nhập dòng Phanxicô Thế Tục, với chiếc áo dòng tầm thường.
Kể từ đó trở đi, cuộc đời bà tận tụy cho tha nhân: chăm sóc người đau yếu, nhất là người bị cùi; lo cho người nghèo ngay ở các lều tranh lụp xụp của họ; giúp đỡ người tàn tật và mù lòa mà bà cho họ sống ngay trong nhà. Nhiều người quý tộc thời ấy đã cười nhạo bà Jutta là không biết dùng thời giờ cho đúng. Nhưng bà Jutta đã nhìn thấy diện mạo của Thiên Chúa trong các người bất hạnh và cảm thấy vinh dự khi được phục vụ.
Vào khoảng năm 1260, trước khi từ trần không lâu, bà Jutta sống gần những người ngoại đạo ở miền đông nước Ðức. Ở đó, bà dựng một mái nhà đơn sơ và không ngừng cầu nguyện cho sự hoán cải của những người chung quanh. Trong nhiều thế kỷ, bà được sùng kính như vị quan thầy đặc biệt của nước Phổ.
Ðức Cha Ða Minh Minh tên thật là Henares, sinh ngày 19/12/1765 tại Baena nước Tây Ban Nha. Năm 18 tuổi, ngài nhập dòng Ða Minh, chịu chức linh mục và được gửi sang địa phận Ðông Bắc Phần ngày 29/10/1790. Tại đây, ngài học Quốc ngữ và được trao phó cho việc điều khiển Chủng Viện Tiên Chu, sau đó làm cha chính địa phận và rồi Bề Trên dòng Ða Minh.
Tháng 9 năm 1800, Ðức Thánh Cha Piô VII chọn ngài làm Giám Mục hiệu tòa Phessa, phụ tá cho Ðức Cha Ignatiô Delgado, nhưng mãi tới hơn hai năm sau, lễ tấn phong mới được cử hành tại Phú Nhai (ngày 09/02/1803). Ðức Cha Ða Minh có một đời sống thật trọn hảo, một lòng bác ái bao la và hằng mong được phúc tử đạo. Cùng cộng tác với Ðức Cha có thầy Phanxicô Ðỗ Văn Chiểu, sinh năm 1797 tại Trung Lễ, xứ Liên Thủy, tỉnh Nam Ðịnh. Từ nhỏ thầy đã được huấn luyện trong nhà Ðức Chúa Trời để làm thầy giảng. Sau đó, thầy đã gia nhập dòng Ða Minh và theo giúp việc Ðức Cha Ða Minh Minh (Henares).
Dưới thời vua Minh Mạng cấm đạo, Ðức Cha Ða Minh và thầy Chiểu phải lẩn trốn tại làng Kiên Lao cùng với Ðức Cha Delgado. Nhưng khi Ðức Cha Delgado bị bắt thì Ðức Cha Ða Minh và thầy Chiểu phải xuống thuyền trốn ra Hải Dương. Dọc đường bị một kẻ phản bội tố giác nên cả hai cha con cùng bị bắt ngày 09/6/1838 gần họ Hà Quang, xứ Trung Thành. Cả hai bị hốt vào cũi và giải về tỉnh.
Ngay hôm 25/6 năm ấy, triều đình ra lệnh xử tử hai ngài, nhưng vì không kịp nên các quan đã cho dời lại hôm sau. Vì thế, ngày 26/6/1838, cả hai vị bị dẫn tới pháp trường chịu trảm quyết. Ðầu Ðức Cha Ða Minh bị treo ba ngày rồi bị ném xuống sông, nhưng sau đó một ngư phủ đã vớt được. Sau này, thi hài của Thánh Đaminh Minh đã được long trọng rước hài cốt Ngài về tòa Giám Mục Bùi Chu
Ðức Thánh Cha Lêô XIII đã phong hai ngài lên bậc Chân Phước ngày 27/5/1900.
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô suy tôn Hiển Thánh ngày 19/6/1988.