|
Hỏi: Như chúng ta đã biết, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã chủ sự lễ tuyên Chân Phước cho Đức Gioan Phaolô II vào ngày 1-5 vừa qua. Thánh Bộ Phụng Tự cũng quy định lễ kính Chân Phước Gioan Phaolô II được ấn định như lễ nhớ vào ngày 22-10 hàng năm trong lịch riêng của Giáo phận Rôma và các Giáo phận ở Ba Lan. Có nơi gọi Đức Cố Giáo Hoàng là Á Thánh. Vậy Á Thánh và Chân Phước có giống nhau không? Tại sao gọi là Chân Phước? Tại sao gọi là Á Thánh?
Đáp: Có lẽ từ Á Thánh dễ cắt nghĩa hơn. Theo từ điển Hán Việt, á có nghĩa là kém một bậc, đứng hạng nhì; ví dụ thời xưa á nguyên là người thi đậu hạng nhì (kém trạng nguyên); ngày nay trong các cuộc thi sắc đẹp, á hậu là người đoạt giải nhì (kém hoa hậu). Theo nghĩa đó, Á Thánh có nghĩa là người kém Hiển Thánh một bậc, sắp lên Thánh.
Từ Chân Phước thì dịch sát với nguyên ngữ Latinh Beatus. Beatus tự nó có nghĩa là người có phước, người được hạnh phúc (vì thế đôi khi người ta cũng dịch Beatus là “Đấng phúc lộc”). Tuy nhiên, trong thần học Kitô Giáo, từ này mang nhiều ý nghĩa khác nhau tuỳ theo bối cảnh, văn mạch và thời đại.
Khi vừa mở sách Tân Ước, chúng ta gặp thấy từ “Beatus” trong bài giảng trên núi của Tin Mừng Mátthêu, trong tuyên ngôn về Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, phúc thay ai hiền lành, phúc thay ai sầu khổ, v.v…” (x. Mt 5,1-12). Những bậc người đó được ca ngợi là có phúc, bởi vì họ được chuẩn bị thuận tiện để đón nhận Nước Thiên Chúa, được Thiên Chúa làm gia nghiệp, được nhìn thấy Thiên Chúa. Bước sang Tin Mừng Luca, chúng ta thấy lời chúc tụng “phúc thay” được bà Êlisabét áp dụng cho Đức Maria: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Điều này cũng được chính Chúa Giêsu khẳng định: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28).
Từ đó văn chương Kitô Giáo trong các thế kỷ đầu tiên gọi những tín hữu chết trong ơn nghĩa Chúa là “Beati”, những người đã đang vui hưởng hạnh phúc bên cạnh Chúa, bởi vì trước đây họ đã đi theo con đường các Mối Phúc Thật. Nói khác đi, các “Beati” (các Phúc nhân, các Chân Phước) là chính các vị Thánh, những người đã tuân giữ luật Chúa; đã sống đạo đức thánh thiện.
Hỏi: Như vậy các “Chân Phước” cũng là các “Thánh” phải không?
Đáp: Đúng thế, như vừa nói ở trên, những tín hữu đã sống đời đạo đức thánh thiện, đã đi theo con đường Bát Phúc, thì sau khi qua đời, được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên cạnh Chúa, thông dự vào chính sự thánh thiện của Chúa. Vì thế, không lạ gì mà trong các thế kỷ đầu tiên, phụng vụ dùng lẫn lộn các từ “Chân Phước” và “Thánh Nhân”. Một trường hợp điển hình là Đức Maria. Các sách phụng vụ vừa gọi là Thánh Maria (Sancta Maria), vừa gọi là Chân Phước Maria (Beata Maria).
Hỏi: Thế thì, từ hồi nào các Chân Phước bị giáng cấp xuống hàng Á Thánh?
Đáp: Từ khi có sự thay đổi quan điểm Giáo luật về sự thánh thiện. Từ đầu, chúng ta bàn về khái niệm về Chân Phước và sự thánh thiện dưới khía cạnh thần học, trong mối tương quan với Thiên Chúa. Từ thế kỷ thứ XVI trở đi, Toà Thánh sử dụng hai từ này theo khía cạnh khác nhau, đó là sự tôn kính trong phụng vụ. Cho dù một tín hữu đã nói tiếng thánh thiện, đã thực hành các nhân đức cách anh hùng, nhưng sau khi họ qua đời, không được phép gọi họ là “Beati” (Phúc Nhân) bao lâu chưa có nghị quyết của Toà Thánh. Thiết tưởng cũng nên biết rằng trong thiên niên kỷ thứ nhất, việc nhìn nhận đời sống thánh thiện của các tín hữu thuộc thẩm quyền của Giám mục. Từ việc công bố bộ luật năm 1234, thẩm quyền được dành cho Toà Thánh. Duy Đức Giáo Hoàng mới có thẩm quyền tuyên Thánh, nghĩa là ghi danh tính một người tín hữu vào sổ các Thánh. Đó là ý nghĩa của từ canonisatio: cano là danh mục, sổ bộ; canonisatio là ghi danh vào sổ bộ. Một khi người tín hữu nào được canonisatio thì được gọi là “Thánh” và được phép tôn kính công khai. Cho đến thế kỷ thứ XV, các Thánh (Sancti) cũng được gọi là Chân Phước (Beati) như trước kia. Thế nhưng, sang thế kỷ thứ XVI, Toà Thánh cho phép một vài nơi được tôn kính vài người tuy nổi tiếng thánh thiện nhưng chưa được tuyên Thánh: những người đó được gọi là Beati (Chân Phước) chứ không được gọi là Sancti (Thánh). Các nghị định này được gọi là Beatificatio và trở nên thông dụng từ thế kỷ XVII. Với sắc lệnh ngày 13-3-1625 của Đức Urbanô VIII (được kiện toàn với đoản dụ Caelestis Hierusalem ngày 5-7-1634), sự phân biệt từ ngữ trở nên rõ ràng: beatificatio là tuyên Chân Phước, canonisatio là tuyên Thánh. Việc Giáo Hội tuyên Chân Phước cho phép được tôn kính một tôi tớ Chúa; nhưng sự tôn kính này bị giới hạn trong một Hội Dòng, một Giáo Hội địa phương. Với việc tuyên Thánh, sự tôn kính mang tính cách bắt buộc trong toàn thể Giáo Hội.
Hỏi: Thế nào là cho phép tôn kính?
Đáp: Việc tôn kính bao gồm nhiều chi tiết. Trước tiên, được phép đặt chân dung (hình ảnh) lên trên bàn thờ. Tiếp đến, các tín hữu có thể đọc kinh nhờ xin vị Chân Phước chuyển cầu. Thêm vào đó, hằng năm lịch phục vụ dành một ngày kính nhớ với bài lễ và kinh nguyện.
Hỏi: Làm thế nào để được tuyên Chân Phước?
Đáp: Những thủ tục tuyên Thánh đã được thay đổi trải qua thời đại. Nói chung, để được tuyên Chân Phước cần phải chứng tỏ rằng người tín hữu đã sống đời đạo hạnh. Tiêu chuẩn đo lường mức độ đạo hạnh quen gọi là “thực hiện các nhân đức anh hùng”, nghĩa là họ đã thực hành tất cả các nhân đức (tóm lại trong ba nhân đức đối thần: tin, cậy, mến; và bốn nhân đức “căn bản”: khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ) một cách phi thường*. Tính cách phi thường này không những chỉ muốn nói lên tầm độ xuất sắc của tôi tớ Chúa, nhưng còn chứng tỏ tác động phi thường của Chúa Thánh Thần trong đời họ. Nói thế không có nghĩa là bất cứ vị Chân Phước nào cũng thực hiện tất cả bảy nhân đức cách phi thường; thường mỗi vị nổi bật một vài nhân đức nào đó hơn các nhân đức khác, ví dụ như can đảm nơi các vị Tử đạo. Dù sao, nhân đức trổi vượt hơn cả là đức ái.
Hỏi: Có cần phải làm phép lạ để trở thành Chân Phước không?
Đáp: Không cần, nếu ta hiểu là phải làm phép lạ lúc còn sống. Bởi vì việc thực hiện các nhân đức cách phi thường đã là một phép lạ rồi. Còn khi nói đến thủ tục tuyên Chân Phước sau khi đương sự đã chết thì khác. Thủ tục thay đổi tuỳ theo thời đại. Trong bộ Giáo luật hiện hành, thủ tục tuyên Chân Phước bắt đầu bằng việc điều tra về việc thực hành các nhân đức cách anh hùng. Bước tiến sau đó sẽ thay đổi tuỳ theo hồ sơ có phải là một vụ Tử đạo hay không. Nếu là một vị Tử đạo, thì chỉ cần chứng minh sự kiện chết vì đức tin là xong. Còn nếu không phải là vị Tử đạo thì đòi phải có một phép lạ. Cần phải ghi nhận là phép lạ diễn ra sau khi đương sự đã qua đời chứ không phải là lúc còn sinh tiền. Giáo Hội đòi hỏi phép lạ ra như để biết rằng vị tôi tớ Chúa đang hoan hưởng hạnh phúc bên cạnh Chúa, và có khả năng chuyển cầu cho chúng ta.
Hỏi: Còn để được tuyên Thánh, Giáo luật đòi thêm điều kiện nào nữa?
Đáp: Trước khi trả lời câu hỏi, cần phải nhấn mạnh rằng không phải là các Thánh thì thánh thiện hơn các Chân Phước. Vì thế thiết tưởng dịch Chân Phước là “Á Thánh” thì không đúng cho lắm, bởi vì xét về đời sống thánh thiện thì các Chân Phước và các Hiển Thánh đều như nhau. Không phải với việc tuyên Thánh thì Chân Phước trở nên “Thánh” thêm chút nữa. Như đã nói trên đây, sự khác biệt chỉ có tính cách Giáo luật, mở rộng tầm mức tôn kính từ chỗ nhiệm ý đến mức bó buộc và phổ quát. Nhưng đó là nói theo nguyên tắc đặt ra hồi thế kỷ XVII, chứ ngày nay không còn giá trị mấy nữa, nhất là từ sau Công đồng Vaticanô II. Thực vậy, lịch phụng vụ phổ quát được cải tổ sau Công đồng đã quyết định giảm thiểu các ngày kính các Thánh, bởi vì muốn chú trọng hơn vào Đức Kitô. Do đó, lịch phổ quát chỉ kính những Thánh nào nổi tiếng hoặc vì tượng trưng những vùng khác nhau trên thế giới.
Bây giờ đi vào câu hỏi đã nêu. Thủ tục tuyên Thánh hiện nay chỉ đòi thêm một phép lạ nữa. Như vậy là không cần phải mở lại hồ sơ về việc thực hành các nhân đức cách anh hùng. Hồ sơ này đã đóng với việc tuyên Chân Phước. Vì vậy mà tôi mới nói là vị Hiển Thánh không thánh thiện hơn vị Chân Phước. Để kết thúc mục giải đáp lần này, thiết tưởng nên nói qua những dự án cải tổ thủ tục tuyên Thánh mà một số học giả đã nêu lên từ Công đồng Vaticanô II.
1. Có tác giả đề nghị trở lại với tập tục của thiên niên kỷ thứ nhất, nghĩa là để cho mỗi Giáo Hội địa phương thiết lập danh sách các Phúc Nhân, không cần sự can thiệp của Toà Thánh. Tôi nghĩ rằng đề nghị này khó được chấp nhận.
2. Một đề nghị khác yêu cầu loại bỏ hồ sơ phép lạ khỏi thủ tục tuyên Thánh, nghĩa là sau khi hoàn tất hồ sơ nhân đức anh hùng thì công bố Chân Phước ngay. Điều này vẫn còn được tranh luận.
3. Một ý kiến khác xem ra thực tế hơn là trở lại với thủ tục tuyên Thánh thời buổi mới ra đời hồi thế kỷ thứ XIII, nghĩa là loại bỏ sự phân biệt giữa Chân Phước và Hiển Thánh. Khi đã hoàn tất các hồ sơ thì tuyên Thánh luôn, khỏi cần phải tuyên Chân Phước nữa.
Ý kiến này xem ra đang được nghiên cứu kỹ lưỡng, bởi vì ngày nay sự phân biệt giữa Chân Phước và Hiển Thánh không còn rõ rệt nữa. Việc tuyên Thánh không gia tăng gì thêm danh giá cho tôi tớ Chúa: ở đâu người ta đã tôn kính vị đó thì họ vẫn tiếp tục tôn kính như vậy trước hay sau khi tuyên Thánh; còn ở đâu người ta đã không tôn kính thì sau ngày tuyên Thánh cũng chẳng thay đổi thái độ. Cách riêng, nghi thức tuyên Chân Phước và nghi thức tuyên Thánh chỉ khác nhau vài chi tiết thứ yếu. Trước Công đồng Vaticanô II thì nghi thức rất khác nhau. Trong nghi thức tuyên Chân Phước thì Đức Hồng Y Tổng trưởng đọc sắc lệnh của Đức Thánh Cha trong một Thánh lễ do một chức sắc giáo triều chủ toạ, không có sự hiện diện của ngài. Còn trong nghi thức tuyên Thánh thì chính Đức Thánh Cha chủ toạ. Thế nhưng từ năm 1971 trở đi, Đức Thánh Cha đích thân chủ sự Thánh lễ, trong đó ngài đọc công thức tuyên Chân Phước và tuyên Thánh. Điều này làm cho các tín hữu không nhận thấy sự khác biệt giữa hai nghi thức nữa.
[Lưu ý: Thiết tưởng cũng nên biết qua, trước 1971, thông thường các lễ tuyên Chân Phước đều do Hồng Y chủ sự. Rất hiếm khi Đức Giáo Hoàng chủ sự. Vào năm 1971, Đức Phaolô VI đã đích thân tuyên Chân Phước cho cha Maximilianô Maria Kolbê. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, lúc bấy giờ là Hồng Y Karol Wojtyla của Tổng Giáo phận Krakow, đã đồng tế trong Thánh lễ. Từ đó về sau, tất cả các lễ tuyên Thánh đều do Đức Giáo Hoàng chủ sự. Trong suốt triều đại Giáo Hoàng của ngài, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đích thân cử hành 147 lễ tuyên Thánh bao gồm cả 62 lễ diễn ra tại hải ngoại và tại các thành phố Italya ngoài Vaticăn. Đức Gioan Phaolô II đã tuyên Chân Phước cho 1342 vị tôi tớ Chúa và tuyên Thánh cho 147 vị. Từ khi tiến trình tuyên Thánh được thiết lập vào năm 1588, tất cả các Giáo Hoàng trước Đức Gioan Phaolô II chỉ tuyên Chân Phước cho 1201 vị tôi tớ Chúa và tuyên Thánh cho 302 vị. Từ năm 2005, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã trở lại tập tục cổ truyền: ngài chỉ chủ toạ lễ nghi tuyên Thánh, còn lễ tuyên Chân Phước được uỷ cho Đức Hồng Y Tổng trưởng Thánh bộ tuyên Thánh].
* 1. Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì của lý trí và ý chí nhằm điều chỉnh hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê và hướng dẫn nếp sống chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Nhờ đạt được và củng cố thường xuyên bằng các hành vi và luân lý tốt, các đức tính nhân bản được ân sủng Thiên Chúa thanh luyện và nâng cao. Đó là các đức tính được gọi là các đức tính “căn bản”. Tất cả các nhân đức khác đều quy tụ quanh các đức tính này và tạo thành nền tảng cho đời sống đạo đức. Đó là: khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ.
2. Các nhân đức đối thần là các nhân đức có chính Thiên Chúa là nguồn gốc, động lực và đối tượng trực tiếp. Các nhân đức này phú bẩm trong con người cùng với ân sủng thánh hoá, giúp con người có khả năng sống tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi. Các nhân đức đối thần tạo nền móng và động lực cho hành vi luân lý của người Kitô hữu, làm sinh động các đức tính nhân bản. Chúng là bảo chứng cho sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong các khả năng của con người. Các nhân đức đối thần gồm có: đức tin, đức cậy, đức mến.
(xc. Toát yếu GLHTCG số 377 – 388, tr. 170-173, HĐGMVN – UBGLĐT, NXB Tôn Giáo 2007)
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
|
|