|  | 
  Á BÍ TÍCH  Lm. LG. Huỳnh Phước Lâm
 
 
 
 1. Á bí tích là gì ?
 
 
 Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 60,  trình bày khái niệm về các á bí tích như sau:
 
 “Giáo Hội Mẹ Thánh còn thiết lập những á bí tích. Đó là những dấu chỉ  thánh, vì một phần nào phỏng theo những bí tích, nhờ đó biểu trưng những  hiệu quả - nhất là những hiệu quả thiêng liêng - và thông ban hiệu quả  đó nhờ sự bầu cử của Giáo Hội. Nhờ các á bí tích, con người được chuẩn  bị lãnh nhận hiệu quả chính yếu của các bí tích và thánh hoá những hoàn  cảnh khác biệt trong cuộc sống”.
 
 Bộ Giáo luật đã lấy lại những lời của Công đồng Vatican II trên đây để  đưa ra định nghĩa: “Các á bí tích là những dấu chỉ thánh, nhờ đó, phần  nào phỏng theo các bí tích, những hiệu quả, đặc biệt là những hiệu quả  thiêng liêng, được biểu thị và được thông ban nhờ lời khẩn cầu của Giáo  Hội” (Điều 1166).
 
 - Là dấu chỉ, các á bí tích phải dễ hiểu đối với những người tham dự vào  việc cử hành.
 
 - Là dấu chỉ thánh, các á bí tích phải biểu lộ cho các tín hữu những giá  trị thiêng liêng được diễn tả.
 
 Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1668, đã nêu lên đặc điểm của á bí tích:
 
 “Hội Thánh thiết lập các á bí tích để thánh hoá một số thừa tác vụ trong  Hội Thánh, một số bậc sống, những hoàn cảnh rất đa dạng của đời Kitô  hữu, và cả việc sử dụng những vật hữu ích cho con người. Theo quyết định  mục vụ của các giám mục, á bí tích còn được dùng để đáp ứng với những  nhu cầu, với văn hoá và lịch sử riêng của dân Kitô giáo trong một vùng  hay một thời đại. Á bí tích luôn luôn gồm một kinh nguyện, kèm theo  thường là một dấu chỉ xác định như đặt tay, dấu thánh giá, rẩy nước  thánh (để nhắc lại bí tích Thánh Tẩy)”.
 
 
 2. Tương quan giữa bí tích và á bí tích  như thế nào?
 
 
 
 2.1. Tương đồng
 Các á bí tích, một phần nào phỏng theo các bí tích, cho  nên có những điểm tương đồng như sau:
 
 - Đó là những dấu chỉ thánh khả giác.
 
 - Đó là những phương tiện công cộng để thánh hoá.
 
 - Phát sinh những hiệu quả nhất là những hiệu quả thiêng liêng.
 
 - Việc ban phát bí tích và á bí tích là những hành vi phụng tự công cộng  (x. Điều 834).
 
 - Hiệu quả phát sinh từ mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, Đấng đã chịu  nạn, chịu chết và sống lại. Chính Người là nguồn mạch ban năng lực cho  tất cả các bí tích và á bí tích [1] (x. SC 61).
 
 2.2. Khác biệt
 Tuy nhiên, giữa bí tích và á bí tích có sự khác biệt ở 3  điểm chính yếu sau đây:
 
 2.2.1. Sự thiết lập
 
 Á bí tích do Giáo Hội thiết lập và không bị giới hạn về số lượng. Còn bí  tích do Chúa Giêsu thiết lập và chỉ có 7 bí tích mà thôi.
 
 2.2.2. Hiệu năng
 
 Hiệu năng của các bí tích phát sinh do việc cử hành (ex opere operato),  còn hiệu năng của á bí tích phát sinh dựa trên hành động và lời khẩn cầu  của Giáo Hội (ex opere operantis Eccesiae).
 
 2.2.3. Hiệu quả
 
 “Các á bí tích không ban ơn Thánh Thần như các bí tích, nhưng nhờ lời  cầu của Hội Thánh, chuẩn bị chúng ta đón nhận ân sủng và giúp chúng ta  “cộng tác với ân sủng”.
 
 Tất cả các bí tích nhằm mục đích chính là phát sinh ân sủng mà chúng  biểu thị và mục đích thứ hai mới nhằm phát sinh những ân lộc trần thế;  trái lại, các á bí tích không được thiết lập để phát sinh ân sủng, nhưng  để chuẩn bị con người đón nhận ân sủng cũng như để thánh hoá những hoàn  cảnh khác biệt trong cuộc sống (x. SC 60-61).
 
 
 2.3. Liên hệ
 Dù sao, chúng ta cũng đừng quên rằng giữa bí tích và á bí tích có sự  liên hệ: các á bí tích lệ thuộc vào các bí tích, vì chúng chuẩn bị tâm  hồn để lãnh nhận bí tích hoặc chúng nối dài hiệu quả của bí tích.
 
 
 3. Thẩm quyền của Giáo Hội đối với các á  bí tích như thế nào?
 
 
 Các á bí tích là những hành vi thờ phượng Thiên Chúa,  thuộc về nghi thức phụng vụ. Cho nên, Giáo Hội luôn luôn có quyền thiết  lập, bải bỏ, thay đổi hay thích nghi tuỳ theo nhu cầu lợi ích của mỗi  thời đại hay của mỗi dân tộc. Cũng vậy, chính Giáo hội có thẩm quyền để  đưa ra ý nghĩa chính xác của mỗi á bí tích, cũ cũng như mới.
 
 Điều 1167:
 
 §1. Chỉ một mình Tông Toà mới có thể thiết lập những á bí tích mới, hoặc  chính thức giải thích những á bí tích đã được chấp nhận, huỷ bỏ hoặc  thay đổi á bí tích nào đó trong số các á bí tích ấy.
 
 §2. Khi thiết lập hoặc ban các á bí tích, phải cẩn thận tuân giữ các  nghi lễ và các thể thức đã được quyền bính Giáo Hội phê chuẩn.
 
 Việc bó buộc “phải cẩn thận tuân giữ các nghi lễ và các thể thức đã được  quyền bính Giáo Hội phê chuẩn” không loại trừ những sự thích nghi đặc  biệt cần thiết dành cho vị chủ sự mà các sách Nghi Thức đã tiên liệu.  Thông thường trong các cuốn Nghi Thức đang sử dụng, Giáo Hội đã dành  nhiều tự do cho vị chủ sự để có thể thích nghi với những tập quán và tâm  thức rất khác nhau.
 
 Điều 1167 trên đây không nói gì tới hậu quả của việc không tuân giữ  những nghi lễ và những công thức đã được chuẩn nhận.
 
 Giáo luật hiện hành còn quy định là các Giám mục có bổn phận phải liệu  sao để cho kỷ luật của Giáo Hội không bị lạm dụng, trong những điều liên  quan đến việc cử hành các bí tích và á bí tích (x. Điều 392 §2).
 	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất: |  |