 
  Giáo lý viên là ai? Công việc của họ là gì? Để thực hiện  những công việc này, họ phải được huấn luyện ra sao? Đây là những vấn đề  liên quan đến căn tính đặc thù của giáo lý viên và “việc huấn luyện”  cho những người thi hành sứ vụ dạy giáo lý mà phần 5 chương 1 và chương 2  của tài liệu Hướng dẫn tổng quát đề cập đến, trong đó 2 khía cạnh chính  yếu được đưa ra đó là thừa tác vụ huấn giáo trong việc phục vụ Lời và  việc đào tạo trong việc phục vụ dạy giáo lý.
      1.    Căn tính của giáo lý viên trong Giáo Hội
      Việc dạy giáo lý được ủy thác cho giáo lý viên với sự khác biệt  về vai trò và sự đa dạng về nhiệm vụ. Đây là một sứ mạng có tầm quan  trọng ngoại thường trong hoạt động mục vụ của các cộng đoàn, đòi hỏi sự  suy xét nghiêm túc trước những đòi hỏi của sự chọn lựa rao giảng Tin  Mừng cũng như trong viễn tượng truyền giáo của cộng đoàn.
      Lý do thuần túy của việc dạy giáo lý nảy sinh từ một sự cấp  thiết nội tại đó là niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Đây là một hồng ân hoàn  toàn nhưng không mà không thể không được loan truyền cũng một cách  nhưng không để làm nổi bật lên tầm quan trọng của nó.
      Ý thức về ơn gọi xuất phát từ một tác vụ có hiệu lực, qua sự  biểu lộ bằng việc làm với một tinh thần hoàn toàn sẵn sàng tự nguyện  phục vụ Lời trong đời sống Giáo Hội: đây là điều mà không phải giáo lý  viên nào cũng ý thức như thế.
      1.1.   “Ơn gọi” và căn tính của giáo lý viên
      Mỗi sứ vụ đều đi kèm với một ơn gọi, nói cách khác, mỗi ơn gọi  đều có một sứ vụ. Cho nên, "ơn làm" giáo lý viên, luôn là một ân ban của  Chúa Thánh Thần: “người ta không chọn để trở thành giáo lý viên, nhưng  là đáp lại một lời kêu mời của Thiên Chúa” (HĐGM Italia 1982, 12).
      Như mọi Kitô hữu, trách nhiệm dạy giáo lý của giáo lý viên giáo  dân được đặt nền tảng trên bí tích Rửa tội và Thêm sức. Tuy nhiên trách  nhiệm này cũng đòi hỏi một ơn gọi đặc biệt, thể hiện hai hướng rõ rệt,  một là nhờ sự hướng dẫn của Thánh Thần, Giáo Hội nhận biết và kêu gọi  một số con cái mình đảm nhận một vai trò đặc biệt là “làm giáo lý viên”;  đằng khác, được linh hứng bởi Thánh Thần, những người này đáp trả lời  mời gọi, và như thế, đón nhận một đặc sủng từ Thiên Chúa để có thể làm  chứng cho Đức Kitô với tư cách là giáo lý viên (x. Báo cáo Hội nghị  khoáng đại S.C. Pro Gentium Evangelization 1970, in Omnis Terra, tháng  6/1970, tr. 352).
      Nói về ơn gọi giáo lý viên, Bộ Rao giảng Phúc âm cho Các dân tộc chỉ dẫn rất rõ ràng:
      “Ơn gọi giáo lý viên không những bắt nguồn từ bí tích Thánh tẩy  và Thêm sức, mà còn do lời mời gọi đặc biệt của Chúa Thánh Thần hay một  “đặc sủng được Hội Thánh nhìn nhận” và được Giám mục minh nhiên ủy  nhiệm. Điều quan trọng là làm thế nào để ứng sinh giáo lý viên nhận ra ý  nghĩa siêu nhiên và có tính xã hội của lời mời gọi này, hầu có thể đáp  trả như Ngôi Lời vĩnh cửu: “Này đây, con đến” (Dt 10,7), hoặc như tiên  tri Isaia: “Này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8).
      Như thế, trong thực tại truyền giáo, ơn gọi giáo lý viên vừa có  tính chuyên biệt, nghĩa là dành riêng cho huấn giáo, vừa có tính tổng  quát vì tham gia vào các tác vụ tông đồ để xây dựng và phát triển Hội  Thánh” (CDGLV, 2).
      Hướng dẫn tổng quát 1997 cũng khẳng định rõ ràng:
      “Ơn gọi của người giáo dân dấn thân vào việc dạy giáo lý xuất  phát từ bí tích Rửa tội và được củng cố bằng bí tích Thêm sức. Nhờ hai  bí tích này mà người giáo dân được tham dự vào chức vụ Tư tế, Tiên tri  và Vương đế của Đức Kitô. Thêm vào ơn gọi chung làm tông đồ, một số giáo  dân cảm thấy được Thiên Chúa kêu gọi nơi nội tâm để đảm nhận trách vụ  giáo lý viên. Hội Thánh khuyến khích, phân định ơn gọi này và trao cho  họ nhiệm vụ dạy giáo lý.
      […] Việc cảm thấy mình được mời gọi làm giáo lý viên và đón  nhận sứ mạng đó từ Hội Thánh có thể mang nhiều mức độ nhiệt tình khác  nhau, tùy theo tính chất riêng của mỗi người (HDTQ, 231).
      1.2.  Vai trò của giáo lý viên
      Nếu nhìn giáo lý trong viễn tượng loan báo Tin Mừng thì vai trò  của giáo lý viên được thực thi trong tương quan với toàn bộ hoạt động  của Giáo Hội, nghĩa là trong tiến trình rao giảng Tin Mừng: hoạt động  truyền giáo - giáo lý khai tâm – hoạt động mục vụ - hiện diện và làm  chứng trong thế giới.
      Các giáo lý viên ở các xứ truyền giáo được các văn kiện mô tả như:
      “những chuyên viên, những chứng nhân trực tiếp, những người rao  giảng Phúc âm không thể thay thế; họ là những người tiêu biểu cho sứ  cmạnh căn bản của các cộng đoàn Kitô hữu” (RM, 73).
      “Giáo lý viên là một giáo dân được Giáo Hội đặc cử , tùy theo  những nhu cầu địa phương, để làm cho Đức Kitô được nhận biết, yêu mến và  bước theo, nơi những người chưa biết Chúa và ngay cả nơi các tín hữu”  (Hội nghị khoáng đại BRPD, 1).
      “Giáo lý viên không phải đơn thuần chỉ là người giúp đỡ linh  mục, nhưng thực sự là chứng nhân của Đức Kitô trong cộng đoàn của mình”  (Hội nghị khoáng đại BRPD, I. 1).
      Dựa vào bản chất và nhiệm vụ của giáo lý, chúng ta có thể nói,  giáo lý viên là “thừa tác viên Lời Chúa”, là “thầy dạy, nhà giáo dục đức  tin và là chứng tá” (HDTQ 237, 238).
      1.2.1.Một ý thức quyết tâm theo Chúa Giêsu
      Việc huấn luyện giáo lý viên hướng đến một đức tin trưởng thành  diễn ra trong tiến trình hòa nhập giữa toàn bộ nội dung đức tin nơi  Chúa Giêsu và kinh nghiệm sống.
      Giáo lý viên luyện tập nhuần nhuyễn một hành trình đức tin  thường xuyên nhằm củng cố quyết tâm theo Chúa và không ngừng xác quyết  điều đó. Xây dựng đức tin trưởng thành đó là sự đóng góp vào việc hình  thành nên giáo lý viên trưởng thành, đó là người không sợ phải nghe  những câu hỏi, những vấn đề, những hồ nghi, những linh cảm mà cuộc sống  đặt ra. Khi khởi đi từ những điều đó thì giáo lý viên cũng có dịp rà  soát lại gương mặt Thiên Chúa nơi mình, để chính Lời Chúa với những dấu  chỉ về sự hiện diện của Ngài và các chứng nhân chất vấn mình.
      1.2.2.Một ý thức trách nhiệm thuộc về Giáo Hội
      Giáo lý viên không thi hành sứ vụ theo tính cách cá nhân, nhưng  như một người được Giáo hội sai phái. Giáo lý viên chu toàn thừa tác vụ  Lời trong sự hiệp thông với Giáo Hội và trong sự tương tác với những  thừa tác vụ khác.
      Mỗi thừa tác vụ, như là sứ vụ của Giáo Hội, bao gồm sự chuẩn  nhận của cộng đoàn hoặc của người có thẩm quyền để công nhận với tư cách  chính thức của Giáo Hội. Trong Giáo Hội địa phương là giáo phận thì  việc phân định ơn gọi giáo lý viên trực thuộc thẩm quyền Giám mục (x.  RdC 145, 192), còn trong các giáo xứ thì thuộc thẩm quyền các linh mục  và những cộng sự viên của Ngài (x. HĐGM Italia 1982, 11, 22, 32).
      1.2.3.Khả năng trợ giúp “sự tương tác giữa đức tin và cuộc sống”
      Một trong những thái độ căn bản của thừa tác vụ giáo lý là “làm  người bạn đường” của các học viên giáo lý, như Chúa Giêsu với hai môn  đệ trên đường Emmaus.
      Con đường là hình ảnh đặc biệt có khả năng gợi lên môi  trường/nơi chốn dạy giáo lý ngày nay. Mô trường đó chính là cuộc sống mà  chúng thể hiện trong thế giới như sự chuyển động của những tình cảnh  khác nhau, bước này nối tiếp bước kia, hoặc đôi khi tách rời nhau. Giáo  lý viên nhìn nhận nó và cư xử với người đương thời như những người bạn  đường thân tình. Cho nên cần để ý đến nền văn hóa của thời đại như một  cách cảm nhận cuộc sống theo những bình diện có tính quyết định.
      Sự lưu ý này giúp ta hiểu việc Thiên Chúa thăm viếng dân Người  trong thời đại ngày nay được người ta nhìn nhận ra sao, có những vấn đề  gì. Giáo lý viên có thể cảm nhận nơi thâm sâu nhân loại việc phục vụ của  mình khi mình giúp anh em không khép lại một cách vội vàng trong một  quãng đường nào đó, nhưng trải dài cái nhìn trên suốt con đường là cuộc  sống, những biến cố trên đường đến từ xa và đem chúng ta đi xa, trong đó  chắc chắn có những người đức tin còn mơ hồ, có những người sai lạc đức  tin, có những người rút lui không tiếp tục hành trình đức tin nữa, và  cũng có những người có tín hiệu tốt vì được niềm tin soi sáng.
      1.3.  Phân loại và nhiệm vụ
      Xét theo thời gian, có hai loại giáo lý viên: giáo lý viên trọn  thời gian, hiến cả đời mình cho công cuộc Huấn giáo và được chính thức  công nhận; giáo lý viên bán thời gian, cộng tác có giới hạn (CDGLV, 4).
    Xét theo hình thức giáo lý, có các kiểu mẫu giáo lý viên khác nhau:  giáo lý viên cho thiếu nhi, giáo lý viên cho người trưởng thành, giáo lý  viên cho giới trẻ, giáo lý viên cho người dự tòng, giáo lý viên dành  cho những cuộc gặp gỡ chuẩn bị lãnh các bí tích (hôn nhân, rửa tội, thêm  sức…), giáo lý viên cho người cao niên, giáo lý viên cho những người có  hoàn cảnh đặc biệt (x. HDTQ, 232).
      1.4.  Linh đạo của giáo lý viên
      Vì giáo lý viên có một ơn gọi và sứ vụ quan trọng được Giáo Hội  ủy thác, nên họ cần có một linh đạo rõ ràng, sâu xa, nghĩa là một linh  đạo trong Chúa Thánh Thần, nhờ đó họ không ngừng được canh tân trong căn  tính đặc thù của mình. Do đó trong linh đạo giáo lý viên, lời mời gọi  nên thánh chính là nét đặc thù của mình. Đó cũng là nét đặc thù của mỗi  Kitô hữu, như Bộ Rao giảng Phúc Âm cho các Dân tộc nhìn nhận:
    “Như mỗi tín hữu, giáo lý viên “được mời gọi nên thánh và truyền giáo”,  nghĩa là thực hiện ơn gọi riêng của mình “với lòng nhiệt thành của các  thánh”. Linh đạo giáo lý viên liên kết chặt chẽ với thân phận là “Kitô  hữu” và “giáo dân” vốn cho họ dự phần, theo mức độ của mình, vào chức vụ  tiên tri, tư tế và vương đế của Đức Kitô” (CDGLV, 6).
      Có thể nói được rằng: Mỗi giáo lý viên đích thực là một vị  thánh, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vui sướng bày tỏ: “Nhà truyền  giáo đích thực chính là một vị thánh”.
      Thật vậy, hành trình nên thánh được diễn tả qua những biểu hiện  của linh đạo giáo lý viên: đón nhận Lời Chúa (đón nhận chính Chúa); đón  nhận Giáo Hội & thế giới; đời sống trung thực; nhiệt tình truyền  giáo; sùng kính Đức Mẹ. Giáo lý viên được tham dự vào tình yêu của Chúa  Cha, hiệp thông mật thiết với Đức Kitô và để Chúa Thánh Thần hướng dẫn,  biến đổi thành chứng nhân can đảm của Đức Kitô và thành người nhiệt tình  loan báo Lời Chúa. Sự gắn bó mật thiết này được nuôi dưỡng bởi lòng yêu  mến Giáo Hội và những con người trong thế giới, cùng với Giáo Hội, yêu  mến Mẹ Maria và hăng say lên đường rao giảng Tin Mừng, nhất là cho những  người chưa tin (xem thêm CDGLV 6, 7, 8, 9).
      2.      Việc huấn luyện giáo lý viên
      Chúng ta có thể khởi đi từ một xác tín cơ bản: bất kỳ một hoạt  động mục vụ nào cũng có thể gây phương hại nếu như không có sự huấn  luyện kỹ lưỡng cho những người cộng tác. Thật vậy, những phương tiện làm  việc và sự chuẩn bị công phu của các chuyên viên sẽ vô ích nếu như các  giáo lý viên không hiểu được các chiều kích của chúng và không có khả  năng sử dụng chúng. Theo nghĩa này, Hướng dẫn tổng quát khẳng định:
      “Tất cả những nhiệm vụ này nảy sinh từ việc xác tín rằng bất cứ  hoạt động mục vụ nào cũng có thể làm tổn hại đến phẩm chất công việc,  nếu không tận dụng những người thực sự được đào tạo và chuẩn bị kỹ càng.  […] Vì vậy, việc đào tạo thích hợp cho các giáo lý viên cần để ý đến sự  đổi mới các tài liệu huấn luyện hay một tổ chức huấn giáo tốt hơn.
      Vì thế, mục vụ giáo phận phải dành ưu tiên tuyệt đối cho việc đào tạo giáo lý viên giáo dân” (HDTQ 234).
      2.1.  Mục đích của việc đào tạo giáo lý viên
      Quy chiếu về bản chất và mục đích của huấn giáo, chúng ta nhận  thấy rõ việc đào tạo giáo lý viên bao gồm 2 mục đích chính yếu sau:
      -          Nhằm giúp các giáo lý viên có khả năng thông truyền  Tin Mừng cho những ai ước ao hiến thân cho Chúa Giêsu Kitô (Giáo lý viên  – người truyền thông Tin Mừng).
      “Việc đào tạo này nhằm giúp các giáo lý viên biết cách linh  hoạt hữu hiệu một lộ trình huấn giáo, trong đó, xuyên qua các giai đoạn  cần thiết, họ loan báo Chúa Giêsu Kitô, giảng dạy cho biết đời sống của  Người bằng cách đặt nó trong toàn bộ Lịch sử Cứu độ; giải thích mầu  nhiệm Con Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân loại; và cuối cùng giúp  người dự tòng hay học viên giáo lý trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa  Giêsu Kitô qua các bí tích khai tâm” (HDTQ 235).
      -          Nhằm làm cho các giáo lý viên có khả năng thông truyền Tin Mừng nhân danh Hội Thánh (bản chất Hội Thánh).
      “Khi được đào tạo, giáo lý viên hiệp thông với ý muốn của Hội  Thánh. Hội Thánh như vị Hôn Thê, bảo tồn toàn vẹn và tinh tuyền đức tin  đã nhận được của Phu Quân, và, như là “Mẹ và Thầy”, Hội Thánh muốn  truyền đạt Tin Mừng với tất cả sự xác thực tự thân khi thích nghi Tin  Mừng vào các nền văn hóa, tuổi tác và hoàn cảnh. Bản chất Hội Thánh về  việc truyền đạt Tin Mừng phải thấm nhập toàn bộ công cuộc đào tạo giáo  lý viên”. (HDTQ 236).
      2.2.  Những chiều kích của việc huấn luyện
      Theo một lược đồ khá phổ biến, người ta phân biệt ba chiều kích cơ bản liên quan đến:
      -          Căn tính của người tín hữu (bản thân giáo lý viên)  nghĩa là chú trọng đến sự huấn luyện nhân bản và Kitô giáo (như người  tín hữu và như người tông đồ);
      -          Khả năng truyền đạt “những hiểu biết đức tin”, được  biểu lộ bởi sự trung thành với sứ điệp (biết rõ sứ điệp mình truyền đạt)  và với con người (người đón nhận sứ điệp đó) trong môi trường và trong  lịch sử.
      -          Khả năng “biết làm” hay là khả năng làm việc, bởi vì  việc dạy giáo lý là một hoạt động truyền thông: giáo lý viên là một nhà  giáo dục của con người và giáo dục đời sống con người. (HDTQ 238).
      Ngoài ra, theo UNESCO và tài liệu của HĐGM châu Mỹ Latinh, một  chiều kích mới cần bổ sung đó làkhả nănghợp tác, nghĩa là khả năng“cùng  sống và làm việc chung với nhau” (team work).
      2.2.1.“Con người” giáo lý viên: trưởng thành nhân bản, trưởng thành Kitô hữu và trưởng thành tông đồ
    Những đặc điểm của “giáo lý viên”:
      -          Mộtsự trưởng thành nhân bản là yếu tố cơ bản đầu  tiên: việc thực hiện huấn giáo giúp giáo lý viên tăng trưởng trong sự  quân bình về tình cảm, óc phán đoán, sự thống nhất nội tâm, khả năng  giao tiếp và đối thoại, tinh thần xây dựng và làm việc nhóm, tôn trọng  và yêu mến những học viên giáo lý (HDTQ 239).
      -          Một linh đạo Giáo Hội sâu xa, để làm xuất phát tính  xác thực của sứ điệp mà giáo lý viên thông truyền; về cách thế mà nhờ  dạy giáo lý cho những người khác, giáo lý viên sống và dạy giáo lý trước  hết cho chính mình;
      -          Một ý thức tông đồ sâu sắc về việc Loan báo Tin  Mừng, nhờ hiểu biết kế hoạch của Giáo Hội địa phương để làm sao cho có  sự hòa hợp giữa sứ mạng và việc thực hiện sứ mạng đó, bảo đảm một sự  tiến triển hữu hiệu.
      2.2.2.      Khả năng “hiểu biết” của giáo lý viên: việc huấn luyện kinh thánh-thần học và nhân học
      Một thầy dạy đức tin phải biết ngọn nguồn đức tin mà mình giảng  dạy. Việc huấn luyện kinh thánh-thần học cung cấp cho giáo lý viên  những hiểu biết có hệ thống về sứ điệp Kitô giáo, sứ điệp này xoay quanh  mầu nhiệm trung tâm là Đức Kitô (HDTQ 240) với một vài tính chất sau:
      -          Hiểu biết ý nghĩa của những giai đoạn lớn của Lịch  sử cứu độ: Cựu ước, Tân ước (cuộc đời Đức Kitô), đời sống Giáo Hội;
      -          Phát triển có hệ thống những điều cốt lõi quan trọng  của sứ điệp Kitô giáo: Kinh Tin Kính, phụng vụ, đời sống luân lý và cầu  nguyện… như Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy;
      -          Việc huấn luyện mang tính tổng hợp về sứ điệp truyền  đạt, trong đó những yếu tố được kết cấu chặt chẽ và tôn trọng phẩm trật  các chân lý;
      -          Khả năng lý giải niềm hy vọng, được hiểu là những  chân lý mà giáo lý viên giảng dạy trước tiên hết phải là những điều giáo  lý viên tin, giáo lý viên sống và giáo lý viên làm chứng;
      -          Liên kết giữa những chân lý được mạc khải với kinh  nghiệm con người, nối kết những phương diện khác nhau của cuộc sống để  phê phán nó dưới ánh sáng Tin Mừng; suy luận thần học theo giáo lý (HDTQ  241).
      Khởi đi từ lời mời gọi của Công Đồng Vatican II (GS 62b), tài  liệu Hướng dẫn tổng quát (HDTQ 242) lặp lại một ý thức cần thiết về nhân  học thông qua việc nghiên cứu những khoa nhân văn như Tâm lý và Xã hội  học, Sư phạm và Truyền thông, để:
      -          Tiếp xúc với sự năng động của nhân cách chi phối hành vi của con người;
      -          Hiểu những nhu cầu và những ước muốn thầm kín sâu xa của tâm hồn con người;
      -          Làm cho phù hợp với những bước tiến hóa của chu kỳ sự sống con người;
      -          Hiểu những kinh nghiệm tôn giáo mở ra cho con người đến sự siêu việt;
      -          Đi vào trong bối cảnh xã hội-văn hóa, nơi con người sống và chịu ảnh hưởng.
      2.2.3.      Tính “chuyên nghiệp” của giáo lý viên: khả năng truyền thông và sư phạm
    Tầm quan trọng của sư phạm đã được đề cập trong các văn kiện như Gaudium et Spe
  s số 62, Dạy Giáo lý (Catechesi Tradendae), số 58,  và trong  Hướng dẫn tổng quát (HDTQ 244) cũng nhấn mạnh khi đề cập đến khả năng  “biết làm” của giáo lý viên: giáo lý viên là một nhà giáo dục nghĩa là  người làm cho sự trưởng thành đức tin trở nên dễ dàng nơi học viên giáo  lý, với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, theo cách cá nhân, để họ trở  thành chủ thể chính yếu trong việc học hỏi nhờ tôn trọng nền sư phạm độc  đáo của đức tin. Giáo lý viên cũng cần phải có khả năng chú ý đến con  người; sự khéo léo giải thích và đáp ứng những đòi hỏi về giáo dục; khả  năng sáng tạo để khơi dậy tiến trình học tập; nghệ thuật hướng dẫn một  nhóm người đến sự trưởng thành; khả năng lập kế hoạch hoạt động giáo  dục.
      2.3.  Những tiêu chuẩn huấn luyện
      Một vài tiêu chuẩn cần phải quan tâm trong việc huấn luyện giáo lý viên, để đạt được mục đích dự phóng:
    -          Việc đào tạo giáo lý viên là để đáp ứng những nhu cầu Loan  báo Tin Mừng cho thời đại hôm nay, với những giá trị, những thách đố và  những bóng tối của nó;
      -          Quan tâm đến khái niệm huấn giáo hiện thời, để không  chỉ loan truyền một giáo huấn nhưng là đào tạo Kitô hữu toàn diện, nhờ  phát triển những nhiệm vụ khai tâm, giáo dục và giảng dạy;
      -          Nhắm đến việc đào tạo những giáo lý viên biết kết  hợp chiều kích chân lý với chiều kích ý nghĩa đức tin, sự chính xác về  lý thuyết và thực hành, sự chuẩn xác về ý nghĩa Giáo hội và ý nghĩa xã  hội, nhằm giúp khắc phục những xung đột trong đời sống đức tin;
      -          Không thể không biết đến nét đặc thù của giáo dân  trong Hội Thánh, cần chú trọng đến tính cách trần thế của bậc sống giáo  dân cũng như hình thức linh đạo của họ;
      -          Trong hoạt động huấn luyện, không tách rời sư phạm  huấn luyện giáo lý viên với sư phạm giáo lý trong việc truyền thụ đức  tin (HDTQ 237).
      Trong viễn tượng này, có thể ghi nhận một vàiđịnh hướng nền  tảng cho việc huấn luyện những Kitô hữu trưởng thành, nhờ ân huệ Thánh  Thần và để cộng đoàn Kitô hữu nhìn nhận, các giáo lý viên trở nên những  thừa tác viên Lời Chúa và để huấn luyện các giáo lý viên khác nữa.
      Điểm quy chiếu trước hết mà cũng là cùng đích của giáo lý viên  đó chính là Đức Kitô - Thầy và Chúa - và Chúa Thánh Thần. Đây là điểm  phát xuất để định nghĩa căn tính của Giáo lý viên, mặc dù có nhiều kiểu  mẫu và vai trò khác nhau (người bạn, người cha, người mẹ, người thầy,  linh hoạt viên, nhà giáo dục, vv): Đức Kitô được nhìn nhận như tiêu  chuẩn cuối cùng, như ý nghĩa cùng đích của cuộc sống. Sự biến đổi nội  tâm này phát xuất từ sự khẳng định “tôi sống nhưng không phải tôi sống  mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”, sự khẳng định này cũng tạo nên khả  năng đúng đắn cho việc dạy giáo lý, hiểu như là việc giáo dục đức tin  cho người khác chứ không phải là giáo dục văn hóa hay tinh thần.
      Chỉ khi khởi đi từ trọng tâm là Đức Kitô, giáo lý viên mới có  khả năng lột mặt nạ của những tình trạng bối rối hay của những bào chữa  có thể tiềm ẩn sau hai chọn lựa chính yếu tạo nên việc canh tân giáo lý  đó là do thiếu vững chắc về thần học, giáo lý ẩn nấp trong “kỹ nghệ nhân  học” hoặc trong “thuyết tâm lý dạy học”. Vì vậy, ở nhiều nơi, giáo lý  biểu lộ sự hoài niệm những hình thức cũ và những quy luật luân lý an  toàn. Giáo lý viên phải xác tín rằng nếu chỉ có sự hiểu biết mang tính  suy luận về những chân lý trừu tượng để cổ võ một đức tin trưởng thành  không thôi chưa đủ mà còn phải có sự gắn bó thiết thân với Đức Kitô nữa.
    Không gian lý tưởng cho việc phục vụ hoặc hiện tại hóa đặc sủng của  việc dạy giáo lý là cộng đoàn trưởng thành và năng động, bởi sự linh  hoạt của Chúa Thánh Thần. Những thời điểm hoặc những chặng huấn luyện  của giáo lý viên là những thời điểm của một cộng đoàn giáo dục về:
      -          Việc lắng nghe Lời Chúa; một “việc lắng nghe mang  tính Giáo Hội”, trong sự hòa hợp với Giáo Hội, trong quá khứ cũng như  hiện tại; một “việc lắng nghe lịch sử” nghĩa là khả năng đối chiếu với  hoàn cảnh ngày hôm nay, đó là tình trạng khủng hoảng, xung đột, tình  trạng thiếu vắng những giá trị; một “việc lắng nghe tiên tri”, nghĩa là  khả năng loan báo niềm hy vọng, khả năng hứa hẹn một tương lai tươi sáng  hơn, khả năng luyện tập một chức năng phê bình hiện tại, khả năng làm  nổ ra những mâu thuẫn;
      -          Việc cầu nguyện và phụng vụ, như sự diễn tả và hiện tại hóa niềm tin và Đức Giêsu Kitô, chết và sống lại;
      -          Việc dấn thân sống đức ái trong cộng đoàn và với cộng đoàn, hướng đến những người “yếu kém”, rốt hết;
      -          Mở ra cho việc truyền giáo và việc phục vụ tha nhân.
      Để thực hiện lộ trình huấn luyện giáo lý viên như thế này, điều  quan trọng là cần có một chương trình đúng đắn có phương pháp, dựa trên  toàn bộ những quan điểm trên; mà quan trọng hơn đó là cần có những kiểu  mẫu đề nghị kế hoạch cụ thể: giáo lý viên trưởng thành năng động. Ở  đây, trước tiên hết hướng đến việc huấn luyện những giáo dân lớn tuổi,  những người trưởng thành trong đức tin, để với tư cách là người bạn  đường, họ có thể đề nghị với người khác như là kiểu mẫu cụ thể và thực  tế, theo cách mà những thế hệ trẻ thấy là khả tín và có thể trở thành  những Kitô hữu trưởng thành trong một Giáo Hội mà giáo sĩ ít hơn giáo  dân, một Giáo Hội được làm nên bởi những Kitô hữu nam và nữ.
      Md Phạm Thúy
      Sách tham khảo
    BỘ RAO GIẢNG PHÚC ÂM CHO CÁC DÂN TỘC, Chỉ dẫn dành cho giáo lý viên.  Tài liệu định hướng ơn gọi, việc huấn luyện và thăng tiến giáo lý viên  trong các xứ truyền giáo trực thuộc Bộ Rao giảng Phúc Âm cho các dân  tộc, Vatican, 1993.
    ĐINH ĐỨC ĐẠO, Spiritualità missionaria del catechista, Roma, 1995.
    ISTITUTO DI CATECHETICA, Andate & insegnate. Manuale di Catechetica, Elledici (TO), 2002.
    THÁNH BỘ GIÁO SĨ, Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý, Nxb Đông phương, 2008.
  Nguồn: giaolyductin