| 
 |  
 
 LỊCH SỬ ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE, SÀI GÒN 
Minh Tâm3/19/2012 
Năm  1659, Đức Thánh Cha Alexandre VII phái ba Giám mục thuộc Hội Thừa Sai  Hải Ngoại Paris sang Á châu mở đầu công cuộc truyền giáo dưới sự chỉ đạo  của Thánh Bộ Truyền Giáo. Đức cha Cotolendi Đại diện Tông tòa cho Giáo  hội Trung Hoa. Đức cha Pallu Đại diện Tông tòa cho Giáo hội Đàng Ngoài.  Đức cha Lambert Đại diện Tông tòa cho Giáo hội Đàng Trong. Ngài đã giao  cho các vị Huấn Dụ năm 1659, tóm tắt về ba điểm sau: 
 
1-    Huấn luyện ơn gọi cẩn thận theo khả năng và hoàn cảnh cho phép để thiết lập hàng giáo sĩ người bản xứ thánh đức, đông đảo. 
2-    Hòa mình vào các phong tục tập quán của đất nước bản địa. Tránh dính líu đến những vụ việc chính trị. 
3-    Không quyết định bất cứ điều gì quan trọng trước khi tham vấn ý kiến của Tòa Thánh. 
 
Trong  tinh thần vâng phục, hy sinh, kiên trì bám sát mục tiêu của người chiến  sĩ Phúc Âm, các vị Thừa sai nêu cao gương tuân giữ Lời Chúa dạy trong  Thánh Kinh qua Huấn dụ của Đức Giáo Hoàng. Dù phải tù đầy, hao mòn thân  xác hoặc phải hiến cả mạng sống, các ngài cũng không tiếc, như lời Thánh  Phaolô: “Giờ đây tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những  gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho  đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Ngài là Hội Thánh” (Cl  1, 24-29). Tín hữu, lương dân và quan quân đương thời không khỏi ngạc  nhiên, ngỡ ngàng và cảm động trước lòng nhân ái, nhiệt huyết của những  con người xa lạ, từ đâu không biết. Không là đồng bào, không cùng dòng  máu chủng tộc, da vàng mũi tẹt. Những con người học vị cao chưa từng có ở  xứ An Nam. Những nhà bác học làu thông những nền văn minh kim cổ. Các  ngài lại cùng ăn, cùng ở, cùng học, cùng làm, cùng sống chung với thứ  dân hạ cấp, quê mùa, mù chữ, bán khai… Động lực nào? Mục đích nào? Không  ai biết! Dân Việt chỉ biết các ngài xả thân không vì danh, không vì  lợi… 
 
Gần hai thế kỷ sau, vào đầu thế kỷ XIX, một tờ báo tại Paris  đã vẫn tiếp tục đăng quảng cáo tuyển người đi truyền giáo hải ngoại như  sau: “Chúng tôi sẽ cống hiến cho các bạn không lương bổng, không bảo  hiểm, không người chỉ dẫn, không chế độ hưu trí… mà phải làm rất nhiều  công việc nặng nhọc, chỗ ở tồi tàn, rất ít an ủi, rất nhiều thất vọng,  đau ốm thường xuyên, một cái chết đau đớn trong cô đơn và một nấm mồ vô  danh”. (Saint of the day, January 23, 2005, http://www.americancatholic.org) 
 
Đúng  là chỉ có những kẻ điên mới từ giã nếp sống tiện nghi, an nhàn để chuốc  vào thân những bất trắc khủng khiếp, cô đơn nghiệt ngả, thiếu thốn mọi  bề. Hoặc đó là những vị anh hùng khác thường có trái tim nồng say tình  mến Chúa và đồng loại, dám sống, dám chết cho lý tưởng cao vời. Họ nối  gót theo vị Tông Đồ Dân Ngoại thành người điên, kẻ dại vì Đức Kitô. Tình  yêu có những lý lẽ riêng của nó! ‘Thiên Chúa đã đặt chúng tôi làm  Tông Đồ hạng chót như những kẻ bị án tử hình, bởi vì chúng tôi đã nên  trò cười cho thế gian, cho thiên thần và loài người ! Chúng tôi điên dại  vì Đức Kitô…’ (1 Cor 4, 9-10). Ngày nay, họa chăng chỉ có những  người, vì lòng mến, đã dấn thân nơi các thí điểm truyền giáo thuộc thế  giới thứ ba, hoặc đến với thổ dân da đỏ, da đen, da nâu… mới có thể đồng  cảm với các vị Thừa Sai Dân Ngoại ngày ấy. 
 
NHÀ CHUNG JUTHIA 
 
Ngày  09-09-1659, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII thành lập địa phận Đàng Ngoài  gồm khu vực Chúa Trịnh và vương quốc Lào ủy thác cho Đức cha Francois  Pallu. Địa phận Đàng Trong gồm khu vực Chúa Nguyễn và xứ Cao Miên giao  cho Đức cha Lambert De Lamotte. 
 
 Đức cha Pierre Lambert de la MotteĐức cha Pierre Lambert de la Motte 
           Sinh ngày 16-01-1624 tại Lisieux, Pháp quốc. 
Năm 1646 làm thẩm phán tòa án Rouen. 
27-12-1655: Thụ phong linh mục tại Coutances. 
11-6-1660: Tấn phong Giám mục tại Paris đặc trách địa phận Đàng Trong. 
22-8-1662: Tới Juthia, thủ đô Thái Lan. 
Từ 1669-1676: Đi kinh lược Đàng Ngoài một lần Đàng Trong hai lần. 
15-4-1679: Lâm bệnh và qua đời tại Thái Lan. 
http:/vi.wikimedia.org/kiwi  
1625:  Tháng 12, Sãi Vương (Nguyễn Phúc Nguyên) ra sắc chỉ cấm người Việt Nam  Công giáo không được mang trên mình hoặc treo trong nhà thánh giá và các  ảnh tượng. 
1628: Ngày 18 tháng 6, Trịnh Tráng ra lệnh cấm người Việt Nam không được tiếp xúc với các Tây dương Đạo trưởng. 
 
Đức  cha Lambert dấn thân đến với giáo dân Việt Nam vào thời Chúa Hiền Vương  Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) cấm đạo, trục xuất các Đạo trưởng gay gắt  nhất. Không thể định cư tại Đàng Trong, Đức cha Lambert đành phải đặt  trụ sở Giám mục tại Juthia, kinh đô Thái Lan. Ngài là vị Giám mục Đại  diện Tông tòa đầu tiên không thường trú tại Việt Nam. Từ Juthia, ngài đi  kinh lược ba chuyến tại Việt Nam, lần I tại Đàng Ngoài 1669-1670, hai  lần đến Đàng Trong: lần I từ 1671-1672, lần 2 từ 1675-1676.  
 
Nhằm  gầy dựng những lớp giáo sĩ bản xứ kế thừa sứ vụ truyền giáo tại vùng  Viễn Đông xa xôi này như Huấn Dụ năm 1659, Đức cha Lambert De La Motte  đã cầu nguyện và ra sức vận động với quốc vương Thái Lan về việc thành  lập một Chủng viện. Năm 1665, Đức cha đã lập được một Trường Chung tại  Juthia, có thể thu nhận 100 chủng sinh thuộc các nước trong miền Đông Á.  Các thánh linh mục tử đạo miền Nam đều xuất thân từ đây.  
 
Tháng  3-1668, tại Thái Lan, Đức cha Lambert phong chức hai linh mục Việt Nam  đầu tiên của Đàng Trong: Joseph Trang và Luca Bền. Tháng 6, cũng tại  Thái Lan, ngài đã phong chức cho hai linh mục Việt Nam đầu tiên của Đàng  Ngoài được phong chức là cha Benedito Hiển và cha Gioan Huệ. 
 
Năm  1669 ĐTC giao cho Đức cha Lambert quản nhiệm thêm vương quốc Thái Lan.  Tháng 5-1676: Trong chuyến công tác mục vụ tại Đàng Trong vì không quen  khí hậu khắc nghiệt miền nhiệt đới, lại thêm chay tịnh quá mức Đức cha  đuối sức và ngả bệnh. Về tới Thái Lan sức khỏe yếu dần, ngày 15.4.1679  ngài an nghỉ trong Chúa, vừa tròn 55 tuổi. 
 
Một Giám mục trẻ,  ngoài ba mươi tuổi, đã quyết tâm ăn chay trường đến mãn đời, trừ ngày  Chúa nhật và Bát Nhật Phục sinh. Mỗi ngày nguyện ngắm ba giờ đồng hồ.  Đánh tội hãm xác hằng đêm… Ngài thấu hiểu trọng trách của vị thừa sai là  chiến đấu với ác thần để mang các linh hồn về cho Chúa. ‘Giống quỉ này  không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện’ (Mt 17, 21). Giáo  hội Việt Nam đang ra sức vận động xin thành lập mở án Chân phước cho  ngài, quả là điều hợp tình hợp lý. 
 
Trước lúc qua đời, ngài đã ân  cần để lại di chúc sáu điều. Điểm bốn dưới đây, ngài đã di chúc lại cho  công trình Chủng viện tông tòa Đàng Trong. Qua đó, chúng ta thấy công  tác đào tạo linh mục bản xứ mãi mãi nằm trong quả tim nhân ái của ngài  Giám mục Thừa sai thánh đức. 
 
        Điều Bốn.- Tôi  để lại cho Chủng Viện đã được thiết lập nhằm lo việc hoán cải dân ngoại  tại Paris, nơi khu phố Saint-Germain của Paris, tất cả mọi tài sản  thuộc về tôi lúc tôi từ trần, thuộc bất kỳ loại nào, từ tiền cho thuê  nông trại, của cải thừa kế, các lợi tức thường niên và bổng lộc của chức  vụ, các khoản thu nhập, các công trái, v.v., nói chung, tất cả những gì  tính được là tài sản để lập nên một ngân quỹ dùng vào việc thiết lập và  duy trì chủng viện của giáo phận tông tòa Đàng Trong và việc chăm sóc  các kẻ ngoại đang học đạo, các tín hữu và các chủng sinh được nuôi dạy  trong chủng viện ấy. Vì việc này, tất cả ngân quỹ trên sẽ được sử dụng  ngay sau khi việc trao chuyển tiền bạc được thực hiện tại kinh thành  Xiêm La để tạo lợi tức cho mục đích ấy. (http:// daoquangtoan.pagesperso-orange) 
 
Sau  khi Đức cha Lambert qua đời, sự nghiệp Chủng viện chung cho miền Đông Á  tại Juthia vẫn đứng vững tròn một thế kỷ. Đó là một điều lạ trong một  vương quốc mà người Công giáo chưa đến một phần ngàn. Điều đó cho thấy  sức mạnh của ơn Chúa, qua lời cầu bầu của Đức cha Lambert trên Thiên  quốc. Mãi đến năm 1765, khi quân Miến Điện xâm lấn Thái Lan, Nhà chung  Juthia phải đành tàn lụi trong khói lửa chiến tranh.  
 
Nhà  trường chung dời về Chantabun thuộc Cao Miên. Các vị Thừa sai rất muốn  đưa Chủng viện về định cư tại Nam Kỳ, nơi chứa một kho ơn gọi Thiên  triệu dồi dào. Nhưng không thể, vì từ năm 1690 Chúa Nguyễn Phúc Trăn  (1678-1690) đến các đời Chúa Nguyễn sau: Nguyễn Phúc Tru (1671-1725),  Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) ra sắc chỉ cấm đạo tàn khốc đến cuối thế  kỷ XVIII. 
 
Năm 1723: Hai linh mục Dòng Tên người Italia Messari và  Buccharelli bị bắt: Messari chết trong tù (23.6.1723) và Buccharelli bị  chém đầu (11.10.1723). Đây là hai linh mục người nước ngoài đầu tiên bị  hành quyết ở Việt Nam. 
 
CHỦNG VIỆN LƯU ĐỘNG 
 
Chủng viện tại Hòn Đất, Hà Tiên. 
 
Xét  thấy số tín hữu tại Việt Nam đông nhất khu vực, người Việt hiếu khách,  đạo đức, lại thêm tư chất thông minh, học một biết mười, nên năm 1765  Đức cha Piguel (1764-1774) chuyển Nhà chung từ xứ Cao Miên về Hòn Đất,  cách thị xã Hà Tiên khoảng một giờ thuyền. Đức cha Piguel đặt cha  Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) làm Bề trên. Quan quân Việt Nam nghi cha  từ Thái Lan đến Việt Nam có thông đồng với vua Thái Lan nên họ đã bắt  giam cha Pingneau. Sau ba tháng giam cầm điều tra xét hỏi, kết quả không  có chứng cứ buộc tội gián điệp, họ đành thả cha về với nhà trường Hòn  Đất. 
 
Chủng viện tại Pondichery, Ấn Độ  
 
Về  sau, thời Chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777), trộm cướp thường đến phá  phách cơ sở, sát hại nhân sự, cha giám đốc Bá Đa Lộc đành di chuyển  trường về Mallaca, rồi lại chuyển sang Pondichery, Ấn Độ vào năm 1769.  Năm 1771, Nguyễn Nhạc khởi nghiệp. Đại Chủng viện chung Pondichery lúc  ấy có 39 chủng sinh gồm 12 người Trung Quốc, 16 người Đàng Trong, 5  người Đàng Ngoài, 4 người Thái Lan, 1 người Cao Miên và 1 người Mã Lai.  Các chủng sinh được chia thành 4 ban: ban thứ nhất là ban thần học và 3  ban còn lại học tiếng La-tinh, văn chương và tôn giáo.  
 
Chủng viện tại Cần Cao, Hà Tiên. 
 
Năm  1776, khi lên nhậm chức giám mục, Đức cha Bá Đa Lộc chuyển chủng viện  về Cần Cao, Hà Tiên. Nhưng cũng như ở Hòn Đất, Cần Cao cũng không tránh  khỏi nạn cướp bóc vì khu vực Hà Tiên sát biên giới Cao Miên. Thời buổi  đói khổ do hậu quả chiến tranh khốc liệt giữa nhà Tây Sơn và Chúa Nguyễn  Phúc Thuần, vua quan không thể kiểm soát được những vùng đệm biên giới  giữa hai nước. Năm 1778, cướp từ Cao Miên tràn qua biên giới đốt nhà  trường Hà Tiên, giết bảy bà phước và bốn chủng sinh.  
 
Chủng viện về Tân Triều, Đồng Nai. 
 
Ba  năm sau, Chúa Nguyễn Ánh chiếm lại được Biên Hòa, Đức cha Bá Đa Lộc  liền di chuyển Chủng viện về Tân Triều (Đồng Nai), cứ điểm chiến lược  của Nguyễn Ánh.  
 
Nhưng  tháng 3-1782 nhà Tây Sơn (1778-1802) quật khởi chiếm lại Đồng Nai.  Trường Chung lại di tản qua Nam Vang. Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc lúc đó  rất có thế lực, đưa thư đòi vua Miên phải bắt nạp những Việt Kiều lưu  trú tại Cao Miên, Đức cha và các chủng sinh phải trốn vào rừng Lào nương  thân gần 04 tháng. Cho đến tháng 7-1782, Đức cha Bá Đa Lộc và Trường  chung mới lục tục theo chân quân Nguyễn Ánh kéo về miền Nam, hy vọng vào  lời hứa bảo trợ của Chúa Nguyễn lưu vong này. 
 
                    Vua Gia Long (1762-1820) 
Tên húy: Nguyễn Phúc Ánh.  
Giai đoạn trị vì: 1802-1820.  
Ông có 31 người con: 13 trai, 18 gái. 
 
Nhưng  chưa yên bề được bao lâu, tháng 3-1783, Nguyễn Huệ chiếm lại Sài Gòn.  Đất Miên thì nguy hiểm từ người, đất Lào thì hiểm nguy từ thiên nhiên,  rừng thiêng nước độc, không biết phải nương thân nơi nào, Đức cha và các  chủng sinh đành lênh đênh ngoài biển khơi, khi ghé đảo này, núp đảo  khác.  
 
Nội lực yếu  kém, bị nhà Tây Sơn truy sát liên tục, Nguyễn Ánh cho thuộc hạ sang cầu  cứu đồng minh láng giềng Thái Lan. Sau chiến thắng vang dội đại quân  Thái Lan tại Rạch Gầm – Xoài Mút, trong cửa biển Cần Giờ, Gia Định ngày  20-01-1785 của Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh quay sang cầu viện Pháp quốc qua  trung gian của Đức cha Bá Đa Lộc. Cùng năm 1785, Đức cha mang hoàng tử  Cảnh vừa mới 05 tuổi sang Pháp nhờ hỗ trợ vũ khí chống lại nhà Tây Sơn.  Tháng 6-1789, bốn năm sau, Đức cha mới về đến Gia Định thành mang theo  nhiều vũ khí tối tân thượng hạng của Âu Châu, mở một trang sử mới cho  quân lực Nguyễn Ánh.  
 
Năm  1785, khi Đức cha Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, vua  Nguyễn Nhạc ra chỉ cấm đạo. Từ năm đó cho đến cuối triều đại, vào năm  1802, nhà Tây Sơn quyết tâm tận diệt đạo Giatô vì cho tín hữu Công giáo  là tay chân, thuộc hạ của Nguyễn Ánh.  
 
Năm  1798, vua Cảnh Thịnh gắt gao ra sắc chỉ bách hại Giatô giáo trên toàn  quốc. Giáo hữu vùng Quảng Trị rút vào rừng La Vang để tị nạn. “Trong  lúc lánh nạn tại đây, ban đêm họ họp nhau cầu nguyện và lần chuỗi. Bỗng  nhiên họ thấy một bà đẹp đẽ mặc áo choàng hiện ra gần gốc cây đa, họ  nhận biết ngay là Đức Mẹ vì có bồng Chúa Hài Đồng. Đức Mẹ ngỏ lời an ủi  và dạy bẻ lá quanh đó nấu uống sẽ được lành bệnh. Đức Mẹ còn hứa từ này  về sau ai đến cầu nguyện tại chốn này sẽ được Đức Mẹ ban ơn phù trợ”.  
 
       Tượng đồng Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh  
tại Saigon (không còn nữa). Hình Nguyễn Tấn Lộc 
 
Đức  cha Bá Đa Lộc lâm bịnh nặng trong khi hộ tống Nguyễn Phúc Ánh đánh  chiếm Quy Nhơn, tổng hành dinh của nhà Nguyễn Tây Sơn. Sau hai tháng lâm  bệnh, ông mất ngày 9 tháng mười 1799 tại cửa Thị Nại - Quy Nhơn, tỉnh  Bình Định, thọ 58 tuổi. Nhiều người tự hỏi nếu không có cặp bài trùng Bá  Đa Lộc-Nguyễn Phúc Ánh thì lịch sử Việt Nam đã xoay dần nơi nao? “Của  Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mc 12,17). 
 
Tính  từ thời điểm 1765, Đức cha Piguel chuyển nhà chung về Hòn Đất cho đến  khi Đức cha Bá Đa Lộc qua đời, chủng viện không có chỗ định cư gần nửa  thế kỷ! Đức cha Bá Đa Lộc qua đời, giới Công giáo không còn hy vọng vào  một sự bảo trợ của triều đại nhà Nguyễn Ánh nữa. 
 
Chủng viện tại Lái Thiêu 
 
Qua  đến thời Đức cha Labartette, giáo phận Trung và Nam Việt có 60.000 giáo  dân nhưng chỉ có 15 linh mục Việt Nam, năm linh mục thừa sai. Cuối thời  Gia Long, vì nhu cầu cấp thiết, Đức cha Labartette liều lập một cơ sở  Chủng viện tại Lái Thiêu, sát cạnh Sài Gòn.  
 
Vua  Minh Mạng lên ngôi được 05 năm thì hạ dụ cấm đạo, nhưng may nhờ có Tả  quân Lê Văn Duyệt ra tận Huế cương quyết can ngăn, nhà vua đành tạm  ngưng. Tháng 8-1832 Tả quân từ trần. Ngày 06- 01-1833, nhà vua liền ra  sắc chỉ cấm đạo triệt để toàn quốc, Trường chung Lái Thiêu lúc đó có 28  chủng sinh phải tan đàn xẻ nghé. Chỉ trong tháng đó, địa phận Đàng Trong  có 300 nhà thờ bị triệt hạ, 18 nữ tu viện bị giải tán. 
 
        Vua Minh Mạng (1791-1840). 
Tên húy: Nguyễn Phúc Đảm,  
Giai đoạn trị vì (1820- 1840) 
Ông là em của Hoàng tử Cảnh,  
Nhiều đại thần phản đối khi vua Gia Long  
lập ông kế vị, trong số đó có  
Tả quân Lê Văn Duyệt tại Gia Định thành.  
 
 Đức Tả quân Lê Văn DuyệtĐức Tả quân Lê Văn Duyệt  
 
Theo  lời trăn trối của vị tiền nhiệm, đồng thời cũng để thi hành Huấn Dụ năm  1659, Đức cha Guénot kế vị cố gắng tái lập Chủng viện chung tại Lái  Thiêu nhưng cũng không bền vì lệnh cấm cách quá khắt khe. 
 
Chủng viện tại Penang, Mã Lai. 
 
Năm  1841, Đức cha Guénot triệu tập Hội đồng Gò Thị, gồm các giám mục vùng  Đông Á, để cùng nhất trí một phương hướng chung về công cuộc đào tạo  linh mục bản xứ: Từ rày mỗi linh mục nuôi năm bảy chú, để chăm sóc, xem  xét, uốn nắn tính tình và dạy La ngữ. Khi có dịp thì gửi các chú sang  chủng viện Penang, Mã Lai, thành lập năm 1807, thuộc quyền hội Thừa Sai  Paris (MEP). Các chú học tại đó khoảng 7, 8 năm rồi sẽ trở về tập sự mục  vụ ít lâu tùy hoàn cảnh. Độ 35, 40 tuổi các thầy sẽ chịu chức linh mục. 
 
Dầu  chủng viện phải lưu động, bôn ba đây đó, các đấng Thừa sai vẫn một mực  kiên định trung thành với sứ mạng đào tạo “thợ gặt” cho Nước Trời. Không  gian lao nguy hiểm nào, kể cả cái chết cũng không làm nhụt quyết tâm  của các ngài. Phải kết luận rằng các vị đã tín thác, trông cậy, vững  lòng ngay cả trong cơn hấp hối. “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt quá ít,  Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2). 
 
ĐẠI CHỦNG VIỆN SÀI GÒN HÌNH THÀNH 
 
 Đức cha LEFÈBVRE 
 
Địa  phận Đàng Trong lúc đó (trước năm 1844) gồm nửa nước Việt, từ sông  Gianh trở vào miền Nam, thêm cả xứ Cao Miên và Thái Lan. Giáo hữu còn  ít, Địa phận lại rộng lớn, bao la, … đường sá thời đó chưa có, phương  tiện đi lại chỉ là ghe thuyền ở miền xuôi, miền sông nước hoặc xe ngựa ở  miền cao, chưa kể đến bao hiểm nguy do người và thiên nhiên chực chờ  bủa vây dầy đặc tứ phía. Một giám mục trong hoàn cảnh đó không thể chu  toàn trách nhiệm cho một nhiệm sở quá rộng lớn như vậy.  
 
Đức  Grêgôriô XIV, nguyên là Tổng trưởng Thánh Bộ Truyền Giáo, ngài rất am  hiểu tình hình khó khăn và đáng thương của các xứ truyền giáo, nên sau  khi đắc cử Giáo hoàng, ngài lập địa phận TÂY ĐÀNG TRONG (sau này gọi là  địa phận Sài Gòn) bao gồm các tỉnh: Bình Thuận, Di Linh, Lục tỉnh Nam  Kỳ: Đồng Nai (Biên Hòa), Gia Định, Định Tường (Mỹ Tho), Long Hồ (Vĩnh  Long), An Giang (Châu Đốc) và Hà Tiên; kiêm cả Cao Miên. Địa phận được  trao phó cho Giám mục Domonique Lefèbvre (1844-1864) lãnh đạo. Đức cha  lưu trú ở Cái Nhum thay thế Đức cha Alexandre. 
 
Vào năm đó, Địa  phận Sài Gòn được 23.000 giáo dân, ba cha Thừa sai Pháp và 16 linh mục  bản xứ, giữa một tình trạng thật bi đát: đói khổ, giặc giã. Tín hữu bị  cấm cách triệt để phải lẩn trốn khắp nơi, các cơ sở tôn giáo gần như bị  triệt hạ hoàn toàn. 
 
Đức cha Dominique Lefèbvre, Giám mục tiên  khởi Địa phận Sài Gòn, quê ở Bayeux, Pháp quốc, sau khi chịu chức phó  tế, ngài gia nhập hội Thừa Sai Paris. Tháng 09-1833, ngài thụ phong linh  mục và ngày 15-03-1835 xuống tàu sang Nam Việt, dù biết rõ đó là thời  vua Minh Mạng bắt đạo rất gắt gao, triệt để, hàng trăm đồng liêu của  ngài đã ra đi mà không bao giờ trở về cố quốc. Đúng như lời Chúa Giêsu  đã báo trước: “Này Thầy sai anh em đi như con chiên đi giữa sói rừng”  (Lc 10, 3). 
 
Năm 1844, khi nhận gánh vác Địa phận Sàigòn, ngài còn  đang ẩn trốn tại Cái Nhum. Các bạn đồng liêu vẫn gọi ngài là “ông  thánh”, và thực sự ngài có lòng đạo đức, hoàn toàn tín thác vào Chúa.  Ngày 31-10-1844, ngài bị bắt theo sắc chỉ cấm đạo của vua Thiệu Trị.  Ngài bị giải ra tới kinh đô Huế, đi bộ mất 51 ngày đường, để lãnh án tử.  
 
                  Vua Thiệu Trị: 1807-1847. 
Tên húy: Nguyễn Phúc Tuyền, 
Giai đoạn trị vì: 1841-1847. 
Ông có 64 người con:  
29 hoàng tử, 35 công chúa. 
 
Trong  vòng lao lý, ngài vẫn canh cánh bên lòng: “Một chủng viện, một chủng  viện trường cửu cho Sài Gòn”. Ngài luôn nhớ tấm gương giáo hội Nhật Bản  phải lâm vào cảnh tang thương vì không có linh mục bản xứ. Trong cơn cấm  đạo, các Thừa sai bị trục xuất hoặc bị giết, không có linh mục bản xứ  thì không có ai nâng đỡ tinh thần giáo hữu và không ai tiếp tục rao  giảng, nuôi dưỡng Đạo Chúa, nên Giáo Hội các nơi đó phải sụp đổ. Quả  thật, “Người làm thuê không phải là mục tử và vì chiên không thuộc về  anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ đàn chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và  làm cho chiên tán loạn” (Ga 10,12). 
 
Ngài cũng đã nói: “Âu châu  có thể cung cấp thừa sai. Các vị ấy có thể tử đạo để vun tưới cánh đồng  truyền giáo. Tây phương có thể gieo vãi đức tin khắp nơi, nhưng nếu  không lo đào tạo giáo sĩ bản quốc thì chỉ làm việc nửa chừng”. 
 
Ngài  bị giam cầm nửa năm. May nhờ có đô đốc Cecile thúc bách, triều đình trả  tự do cho các vị Thừa sai. Tháng 4 năm 1845, nhà vua đồng ý trả tự do  cho Đức cha kèm lệnh trục xuất khỏi nước Việt. Ngài đành phải lên tàu  Pháp qua Singapore, lúc đó gọi là Phố Mới. 
 
Một tháng sau, thuyền  buôn của ông Lái Gẫm (thánh Lê Văn Gẫm) lén đưa ngài trở lại Việt Nam.  Ngài vừa lên bờ đã bị quan quân vây bắt và lại giải ra Huế. Trong chuyến  này chỉ có thánh Gẫm được phúc tử đạo, còn ngài lại bị ép lên tàu trở  lại Phố Mới. “Tôi bị giằng co giữa hai đàng, ao ước của tôi là ra đi để  được ở với đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần; nhưng ở lại đời này thì  cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1, 23). Đức cha than phiền: “Uổng thay,  gươm kề tận cổ mà lại trở về yên lành, thất vọng biết bao. Tôi thấy  triều thiên tử đạo rất gần, nhưng tôi lại phải tự nhủ: triều thiên đó  không dành cho tôi. Tuy nhiên, khi còn một giọt máu trong huyết quản  trên giải đất tử đạo này thì vẫn còn hy vọng đôi chút.”  
 
Mấy  ai coi cái chết nhẹ tợ lông hồng? Thưa có, hàng trăm linh mục Thừa sai,  linh mục Việt Nam và hàng trăm nghìn giáo dân, con cháu Lạc Hồng, đã  hiên ngang như thế đó. “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất;  còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được  mạng sống ấy” (Mc 8, 35). 
 
Không đành lòng rời xa đàn chiên của  mình để tìm kiếm sự an nhàn cho bản thân, ít lâu sau, Đức cha lén trở về  Việt Nam. Lần này may mắn hơn, ngài không bị bắt, nhưng với án trục  xuất trên vai, quan quân gặp ngài thì có quyền tiền trảm hậu tấu nên  ngài không thể đi lại, xuất hiện như trước kia được. Tòa Giám mục của  ngài là chiếc thuyền con chui rúc trong những con rạch vắng bóng người,  đầy thú dữ. Đến tối, ngài mới lần mò trở về tìm đến nhà giáo dân để giải  tội, dâng lễ, giảng dạy cho con dân Nước Trời, cho công dân nước Việt  biết làm lành lánh dữ. Ngài vui mừng, gặp gỡ, chung sống với những kẻ  thân thương ấy cho đến hừng sáng, rồi lại lên đường tiếp tục cách sống  lẻ loi, phiêu bạt, chập chờn trôi nổi đó đây như kẻ tội đồ hại dân hại  nước. “Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được  hoàn thành, và tất cả dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tim 4, 17). 
 
Chủng viện tạm tại Thị Nghè, Sài Gòn. 
 
Trước  tình hình khó khăn máu lửa như thế, năm 1850, ngài vẫn cố gắng lập một  Chủng viện tạm tại Thị Nghè, nay là nhà dưỡng lão Thị Nghè (Phú Mỹ), do  chính ngài coi sóc dạy dỗ. Lúc phải lẩn trốn để bảo tồn lực lượng thì  tạm uỷ thác lại cho cha Triêm hoặc cho cha Lộc (thánh tử đạo Phaolô  Lộc), người gốc giáo xứ An Nhơn, giáo hạt Xóm Mới ngày nay. 
 
Chủng viện tạm tại Cù Lao Giêng, tại Cái Nhum. 
 
Cùng  năm ấy, ngài cũng lập một Nhà trường tạm tại Cù Lao Giêng, tục gọi là  trường Đầu Nước. Ngài giao cho cha Borelle, Bề trên Địa phận, phụ trách.  Thêm một Nhà trường tạm nữa, đặt tại Cái Nhum, Vĩnh Long, giao cho cha  Pernot quản lý. Thực chất các Nhà trường này chỉ là nơi quy tụ khoảng 10  chú (tiểu chủng sinh). Các chú học La ngữ và những môn tối cần thiết  khác nhằm chuẩn bị sang Đại Chủng viện tại Penang. 
 
Năm 1855, vua  Tự Đức hạ lệnh cấm đạo toàn quốc. Trước tình thế quá khó khăn này, ngài  phải chạy sang Miên. Tuy nhiên khi nào có thể, dù án tử treo lơ lửng  trên đầu, ngài cũng cố len lỏi về thăm con chiên tại miền Hậu Giang, Hà  Tiên, cũng có lúc căng buồm lang thang ra tận hải đảo Phú Quốc mù khơi.  Người bản xứ thấy hình như việc đào tạo linh mục bản xứ và công tác mục  vụ chăm sóc giáo dân là lẽ sống của ngài. Nếu phải sống mà không chu  toàn hai sứ mạng đó thì sống không bằng chết. “Bởi vậy tôi cam chịu mọi  sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cùng đạt ơn cứu  độ trong Đức Kitô và được hưởng vinh quang muôn đời (2 Tim 2, 10). 
 
Mãi  đến năm 1859, Pháp chiếm đóng Lục tỉnh ngài mới có thể về lại Sài Gòn  tiếp tục công tác mục vụ và đào tạo linh mục tương lai, một sứ vụ hằng  canh cánh trong lòng của ngài. 
 
                Vua Tự Đức (1829-1883). 
Tên húy: Nguyễn Phúc Thì,  
Giai đoạn trị vì: 1847-1883, 36 năm.  
Thời gian trị vì dài nhất triều Nguyễn. Ông không có con.  
Từ cuối năm 1849 đến hết năm 1850,  
cả nước bị dịch bệnh làm chết 589.460 người  
(theo tài liệu của các vị thừa sai, ôn dịch đã giết một phần năm tổng số quốc dân). 
 
Trước  ngày mất Nam kỳ Lục tỉnh, trong khói lửa chiến tranh khốc liệt, quan  quân nhà Nguyễn vẫn cố tìm thời giờ thẳng tay càn quét các cơ sở Công  giáo. Do các thế lực thù địch gán cho đạo Chúa là nguyên nhân chiến  tranh thuộc địa, Tây Dương Đạo trưởng là gián điệp của Pháp, giáo dân và  linh mục bản xứ là tay sai của Tây … những người đương thời thường dễ  hiểu lầm thiện ý tuyệt hảo của các vị Thừa sai và những giáo dân lương  thiện. Trong thời kỳ cuối, trước lúc chính quyền thuộc về tay người  Pháp, những cơn bắt đạo lại nổi dậy bất ngờ và mãnh liệt chưa từng có  như để trả thù, như để trút cơn hận lên những con chiên vô can, vô tội.  
 
“Hãy  coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng và sẽ đánh đập  anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua  chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết”  (Mt 10, 17). 
 
Năm 1860, trong một bản báo cáo gửi về Rôma, Đức  cha Lefèbvre đã viết: “Nội trong năm 1860 ở tại địa phận Sài Gòn có đến  300 người Công giáo mang gông xiềng… Có nhiều người Công giáo đã chạy  vào khu vực do quân đội Pháp chiếm đóng. Nơi đây, họ được hưởng tự do  vui sống, vì họ thoát được nanh vuốt của vua chúa tàn nhẫn. Bởi không  làm gì được họ nên quan quân mới phao vu Công giáo theo địch, rồi tàn  sát những người Công giáo còn sống dưới quyền của họ”. 
 
Thực ra họ  là những con dân trung với vua, hiếu với nước. Công đồng Juthia năm  1669, nơi chương 9 (b) có dạy các tín hữu: “Phải dâng những lời nguyện  chung, những lời nguyện riêng, những kinh đọc, những lễ tạ ơn cho mọi  thứ người, cho vua chúa và những kẻ cầm quyền…” Khi bị xiềng xích, biệt  giam hay đối diện với đại đao của đao phủ nơi pháp trường, họ vẫn không  oán hận bất kỳ ai: quân, quan hay vương đế, mà còn một mực vui lòng tha  thứ cầu nguyện cho những người vô tình làm khổ mình do hiểu lầm đáng  tiếc, như Đức Giêsu đã dạy: “Thầy bảo anh em: Hãy yêu mến kẻ thù và cầu  nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (x. Mt 5, 43-48). 
 
Đáng tiếc  hơn nữa là cho đến ngày hôm nay, thuộc thế kỷ XXI, kỷ niệm 350 năm ngày  thành lập hai Địa phận Tông tòa đầu tiên tại Việt Nam, kỷ niệm hơn 475  năm đất nước Âu Cơ đón nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu độ chúng sinh, vẫn còn  không ít con dân nước Việt chưa đồng cảm với thiện ý của giới Công  giáo, dù giáo dân Công giáo Việt Nam luôn đồng hành với dân tộc trong  mọi biến cố thăng trầm của lịch sử. 
 
12.6.1909: Mật thám Pháp bắt  ba linh mục của giáo phận Vinh và sau đó đày đi Côn Đảo vì tội tham gia  chống Pháp. Đó là linh mục Đậu Quang Lĩnh, Thư ký Tòa Giám mục. Linh mục  Nguyễn Thần Đồng, Quản xứ nhà thờ Chính tòa Vinh. Linh mục Nguyễn Văn  Tường, Quản lý Nhà Chung Xã Đoài. Hàng ngàn chiến sĩ Công giáo đã anh  dũng hy sinh nằm xuống cho cuộc chiến chống thực dân. Nhiều linh mục và  giáo dân Công giáo dưới vĩ tuyến 17 cũng đã tập kết ra Bắc sau hiệp định  Genève năm 1954 để xả thân đóng góp xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.  
 
Chưa  kể tín hữu Công giáo cả nước cũng đã đóng góp tích cực về mọi mặt kinh  tế, nghệ thuật, văn hóa, y tế, xã hội… tạo nên sự hưng thịnh của tổ  quốc. Hơn thế nữa, những người lãnh đạm nhất đối với anh em Công giáo  Việt Nam cũng phải công nhận sự đóng góp to lớn của thiên tài, của nhà  tư tưởng lớn Alexandre De Rhodes đối với nền văn học nước nhà. Ngài đã  Việt hóa mẫu tự La Tinh, khai sinh chữ quốc ngữ Việt Nam. 
 
          Linh mục Alexandre De Rhodes 
Cha Đắc Lộ (Alexandre De Rhodes)  
sinh ngày 15-3-1591 tai Avignon, Pháp quốc. 
1618: Thụ phong linh mục, nhận bài sai đến Nhật Bản. 
27-12-1624: Đến Hội An, Đàng Trong giảng đạo 18 tháng. 
Từ 1640 đến 1645: Cha thường đến giúp chỉnh đốn, giảng dạy tại địa phận Đàng Trong. 
03-7-1645: Bị trục xuất lần ba, cha rời bỏ Đàng Trong, vĩnh viễn rời bỏ Việt Nam. 
05-11-1660: Cha từ trần tại Ispahan, Ba Tư. 
 
Đầu  năm 1625, ngài Rhodes có mặt tại Thành Chiêm (Thanh Chiêm, Kẻ Chăm)  cách Hội An về phía Tây chừng 4km. Cha Alexandre, do lệnh trục xuất của  chúa Nguyễn, phải rời bỏ Đàng Trong ngày 9-7-1645. Ngài tôn kính mang  theo di tích thánh là sọ của thầy giảng Anrê Phú Yên tử đạo ngày  26-7-1644, mà chính cha chứng kiến tận mắt. Từ đó trở đi, không bao giờ  cha Alexandre trở lại nước Đại Việt này nữa. Theo cha Chézaud, vị đại ân  nhân của nền văn học Việt Nam qua đời khoảng 10 giờ đêm, ngày 5-11-1660  khi đang truyền giáo tại xứ Ba Tư. 
 
Phiên âm chữ Latinh cho tiếng  Việt là một kiệt tác độc nhất vô nhị trên thế giới. Từ nửa thế kỷ trở  lại đây, nhiều học giả thuộc các nước trong khu vực như Nhật Bản, Trung  Hoa, Hàn Quốc… ao ước chia sẻ phát kiến độc đáo của các vị Thừa sai dành  cho Việt Nam, để áp dụng rộng rãi vào chữ viết bản xứ, nhằm hỗ trợ cho  cạnh tranh kinh tế đối ngoại và cuộc chiến trên mạng toàn cầu… nhưng kết  quả rất hạn chế. Chỉ có dân tộc Việt Nam hưởng trọn kiệt tác ấy. Tiếc  cho công đức của ngài chưa được dân tộc Lạc Hồng ghi ơn và tôn vinh xứng  tầm. Lại có không ít người lại muốn sửa đổi kiệt tác nghìn năm ấy, để  quên đi công đức của ngài, bất kể những hổn loạn chữ nghĩa khôn lường  cho dân tộc. Vị Thừa sai này là đỉnh cao trí tuệ nhân loại, hàng ngàn  năm trước không có một ai bằng ngài và ngàn năm sau có lẽ không có ai  như ngài.  
 
Thiết tưởng  cũng nên nghĩ đến những đóng góp to lớn của hai tín hữu Trương Vĩnh Ký  và Nguyễn Trường Tộ… mà những ai hiểu biết chút ít về lịch sử cận đại  Việt Nam đều biết đến hai vị này.  
 
 Petrus Trương Vĩnh Ký 
      Tháng  6-1863, Phái bộ Phan Thanh Giản lên đường sang Pháp điều đình việc  chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam bộ đã nhượng cho Pháp theo Hòa ước Nhâm  Tuất. Trong phái bộ có chủng sinh (sau này là linh mục) Phaolô Nguyễn  Hoàng của Địa phận Nam Đàng Ngoài (Vinh) với tư cách là thông dịch viên  của triều đình và Petrus Trương Vĩnh Ký cũng là thông dịch viên do Soái  Pháp ở Sài Gòn cử đi theo giúp phái bộ. Ông là người có công trạng phổ  biến chữ quốc ngữ cho toàn nước An Nam. 
 
Tháng giêng năm  1859, quan quân bao vây làng Đầu Nước. Lúc đó có hai cha tại Nhà trường  Cù Lao Giêng: cha Borelle và cha Quý (thánh Phêrô Đoàn Công Quý). Hai  cha tranh nhau ở lại, cuối cùng Thánh Quý là người bản xứ được ở lại, vì  cho rằng quan quân không thể biết ngài là linh mục. Khi quan đến tra  hỏi, không dám nói dối, ngài hiên ngang xưng mình là Đạo trưởng, họ bắt  giam ngài và vua Tự Đức xuống lệnh xử trảm ngày 31-07-1859 tại Châu Đốc. 
 
Trường  Cái Nhum, trường Thị Nghè dần dần cũng chung số phận ly tán. Ngày  3.7.1853: Thánh Philipphê Phan Văn Minh, cha giáo Chủng viện Cái Nhum,  bị hành quyết tại Đình Khao, Vĩnh Long. 
 
Ngày 21-12-1858: cha  Phaolô Lộc, Giám đốc Nhà trường Thị Nghè bị bắt. Chưa đầy hai tháng sau,  ngày 13-02-1859, ngài bị trảm quyết tại Trường Thi (hiện nay là góc  đường Hai Bà Trưng và Xô Viết Nghệ Tỉnh). 
 
“Phúc cho anh em khi vì  Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ  xấu xa. Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng  dành cho anh em thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông  họ đối xử như thế” (Lc 6, 22-23). 
 
Nếu nói được: “Máu tử đạo trổ  sinh tín hữu”, thì cũng có thể nói: “Lao tù và máu tử đạo làm nền móng  và trổ sinh Chủng viện Thánh Giuse Sàigòn”.  
 
A - CHA WIBAUX, NHÀ XÂY DỰNG 
 
          Linh mục WIBAUX  
Cha Théodore Louis Wibaux sinh tại Roubaix  
ngày  20-03-1820. Theo truyền thống gia đình, ngài theo học trường luật.  Nhưng khi vừa mãn trường luật, theo ơn Chúa gọi, ngài đã vào chủng viện  để rồi năm 1846 cha thụ phong linh mục. 
 
Ngày 24-11-1857, cha  Wibaux gia nhập Hội Thừa sai Paris. Ngày 08-02-1858, xuống tàu sang Việt  Nam, cho tới đầu tháng giêng 1860 cha mới đến được Sàigòn. Trước khi  sang Việt Nam, cha có đến xứ Ars, mong được thỉnh ý cha Thánh Vianney.  Thánh nhân liền bảo: “Cha hãy mau qua nơi đó, nhiều linh hồn đang chờ  đợi cha”. Lời ấy quả thật linh ứng.  
 
Cha  đến đúng lúc Sàigòn đã ổn định trong tay người Pháp. Tuy nhiên, địa  phận Sàigòn vẫn còn trong tình trạng hoang tàn, di chứng của chiến tranh  thuộc địa vẫn còn hằn sâu dấu ấn trên vùng đất cuối hoang vu, kham khổ,  an phận của quê hương này. Thánh ý Chúa đã sắp xếp gửi ngài đến lúc  thời cơ thuận tiện để xây dựng ngôi nhà vật chất: Chủng viện Sàigòn. Qua  cơ sở vật chất ấy, Hội Thánh quyết tâm xây dựng những tâm hồn linh mục  nhiệt thành, thánh thiện, kiên định ra đi xây dựng Nước Trời trường cửu,  bất kể muôn nghìn khổ nhọc, xương máu đang chào đón họ. 
 
Linh mục  sử gia Louver đã viết: “Đông phương đóng cửa không cho Tây phương xâm  nhập, lại còn sát hại các sứ đồ rao giảng Phúc Âm. Lời người tông đồ  không chọc thủng được thành lũy Đông phương, thì đại bác lại phá vỡ…  Người Âu tưởng rằng nhờ vũ khí mà họ mở được thị trường mới. Nhưng Chúa  Quan phòng có mục đích sâu xa hơn và hướng dẫn tham vọng người ta đến  một cứu cánh mà họ không thể ngờ. Các dân tộc phải phối hợp nhau chuẩn  bị một ngày mà Đức Kitô đã phán: Erit unum ovile et unus Pastor – Sẽ nên  một ràn và một chủ chăn” 
 
Khi cha Wibaux vừa đặt chân đến đất  Sàigòn, ngay ngày hôm sau Đức cha Lefèbvre liền đưa cha đi ngắm nhìn địa  thế để tìm nơi định cư lâu dài cho Đại Chủng viện Sàigòn. Như thế đủ  hiểu ước mơ xây cất Đại Chủng viện cho Địa phận Sàigòn đã chiếm lĩnh hết  tâm trí Đức cha. Tìm được rồi, các ngài phải cầu nguyện và vận động với  chánh quyền. Mãi cho đến giữa năm 1862, đề đốc Bonnard mới chấp thuận  và ngày 28-08-1862 chính thức ký giấy nhường lại cho Hội Thừa Sai Paris  07 mẫu đất. Đức cha dành bốn mẫu giao cho Chủng viện còn ba mẫu chia cho  Nhà Trắng (Saint Paul De Chartre) vì chính ngài, vào năm 1860, đã mời  các xơ dòng Trắng sang Nam Việt để tiếp tay với ngài nơi cánh đồng bội  thu trĩu hạt. Ngày 20-05-1860, theo lời mời của Đức cha Lefèbvre, Hội  Dòng đã gởi 2 nữ tu đầu tiên đến phục vụ tại Sàigòn. Trong khi đợi chờ  ngày Chủng viện hình thành, Đức cha giao cho cha Wibaux coi sóc Chủng  viện tạm tại Thị Nghè. 
 
Một vị giáo sư đại học tại Paris, kinh đô  ánh sáng, giờ đây phải sống chung với 10 chú học sinh trong hai gian nhà  tranh ẩm thấp, hễ thủy triều lên thì lội nước, còn thủy triều xuống thì  lội bùn. Thật đức tính hy sinh thừa sai cao cả dường bao!  
 
Nhưng  nào có yên! Chủng viện tạm ấy không yên ổn lâu, chưa đầy hai năm, cơ sở  nghèo nàn ấy cũng bị quân kháng chiến thiêu rụi trong ngọn lửa vô tình.  Cha con dắt díu nhau về kho Năm, gần nhà thờ Xóm Chiếu. Giữa thể kỷ 19,  nơi đây thật hoang vu, tránh được kháng chiến quân, nhưng lại gặp phải  thú dữ. Sau vụ việc ông Ba mươi vồ mất con heo cưng của các chú chủng  sinh, cha Wibaux lại đưa chủng sinh về trung tâm Sàigòn. 
 
B - XÂY DỰNG TRONG MỌI TRỞ NGẠI 
 
Lúc  đó, có một cơ sở dạy Pháp văn của chánh quyền thuộc địa đang bỏ trống  vì cha giáo sư Puginier bận công tác phải trở về Bắc Việt. Đây là một  dãy nhà kiên cố, rộng rãi tại khu vực bệnh viện Nhi đồng 2 bây giờ. Thật  là một cơ ngơi lý tưởng cho các chủng sinh vô gia cư, lận đận rày đây  mai đó. Chánh quyền đồng ý cho đàn con của cha cư ngụ tại đấy với điều  kiện: một nửa dành lại để dạy Pháp văn. Vì tình thế bắt buộc, cha đành  chấp nhận điều kiện đó. Dầu vậy, cũng không bền, vì ít lâu sau, chánh  quyền đã lấy lại phần đất này để xây dựng một quân y viện là nhà thương  Đồn Đất (Grall) lúc bấy giờ - nay là bệnh viện Nhi Đồng 2. 
 
 Giữa  tình hình dầu sôi lửa bỏng như thế, việc hình thành chủng viện chính  thức thật cấp thiết vô cùng. Tuy nhiên, việc xây cất chủng viện vẫn phải  đương đầu với quá nhiều khó khăn, những lời ong tiếng ve về trình độ  giáo sĩ Việt Nam… Nhưng chính Đức cha Lefèbvre và cha Wibaux đều đồng  cảm tin tưởng về nhân đức hào hùng của 20 linh mục bản xứ hiện có nơi  Địa phận Sàigòn.  
 
“Tôi  buộc lòng phải khen ngợi chủng sinh của tôi ờ Sàigòn. Chủng sinh là  những con cái tôi yêu mến. Một người cha mà khen con, theo thường tình  rất đáng ngờ vực, tuy nhiên trường hợp này tôi chắc tình thương của  người cha không khoan nhu thiên vị đâu. Nếu Đức Giám mục của tôi mà cầm  bút, thiết tưởng ngài cũng đồng ý với tôi mà còn khen hơn nữa là khác”.  Năm 1870, trong tạp chí Truyền giáo, cha Wibaux đã có viết như vậy. 
 
Miền  Bắc còn trong vòng quản lý của vua Tự Đức, trong vòng 12 năm cũng đã có  nhiều linh mục bản quốc tử đạo. Ngoài Bắc, Đức cha Néez đã bênh vực  phẩm chất của các linh mục Việt Nam trước làn sóng phản đối của những  người đồng hương về công cuộc đào tạo linh mục bản quốc theo Huấn dụ của  Đức Thánh Cha năm 1659. Ngài đã xuất bản quyển “Hàng giáo sĩ Bắc kỳ thế  kỷ 17 và 18” để giới thiệu cho mọi người biết linh mục bản xứ thông  minh, tốt lành, kiên định trước nghịch cảnh như thế nào.  
 
 Chương  10, công đồng Juthia có ghi rõ: “Linh mục bản xứ thường là chọn trong  số các Thầy Giảng tuổi tác, đã ở lâu năm, nhiều kinh nghiệm truyền giáo  và đời sống đạo hạnh bảo đảm. Các Thầy sẽ được học La ngữ, biết cách  dâng lễ và làm các phép Bí tích, biết cách giải đáp các vấn đề lương tâm  và các ngăn trở hôn phối”  
 
Trở  ngại thứ hai là vấn đề tài chánh. Địa phận non trẻ, sau 40 năm bách hại  triệt để của ba đời vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, giờ đây gia tài  còn lại chỉ tấm lòng trung kiên giữa đống tro tàn nghi ngút khói. Vị chủ  chăn hai lần mang án tử vẫn xông xáo không mệt mỏi kiến thiết lại những  nơi thờ phượng, nơi cư trú. Giáo dân thì đa số nghèo túng, moi đâu ra  số tiền to tát để xây cất chủng viện trong tình cảnh túng thiếu đó. Phó  thác vào Chúa, cha Wibaux nghĩ ngay đến gia tài riêng của mình và lòng  rộng rãi của người em nơi quê nhà, cha mạnh dạn tiến hành công tác xây  dựng. Thầy Đậu từ Penang trở về bắt đầu gọi thợ phát cỏ, ban nền, đào  móng… 
 
C - ĐẶT VIÊN ĐÁ ĐẦU TIÊN – KHỞI CÔNG XÂY DỰNG 
 
 Qua  năm 1863, Đức cha Lefèbvre vui mừng, cảm động rơi nước mắt đặt viên đá  đầu tiên cho Đại chủng viện Sàigòn, cơ sở tư tưởng đầu não triết lý,  thần học trung tâm của địa phận Sàigòn hôm nay và mãi về sau. Cánh đồng  bất tận, óng ánh lúa vàng, chạy dài đến tít mù khơi như Lời Chúa tiên  báo: “Lúa chín đầy đồng, thợ gặt hiếm hoi…” (Lc 10, 2), mãi lắng đọng  nơi tâm tư các vị sáng lập chủng viện Sàigòn, những ân nhân vĩ đại của  Giáo hội Việt Nam, những ngôi sao không hề tắt trong tâm tưởng của mọi  con dân nước Việt từ ngày ấy cho đến ngàn sau. 
 
Tháng 7-1864: Đức  cha Lefèbvre khánh thành nhà nguyện và các cơ sở của Dòng Thánh Phaolô  (ở 6 đường Tôn Đức Thắng, quận I ngày nay) do ông Nguyễn Trường Tộ thiết  kế và thi công. Các kiến trúc cơ bản của thiên tài họ Nguyễn cách đây  gần 150 năm vẫn còn sừng sững cho tới ngày nay. Cụ Nguyễn Trường Tộ, một  nhân sĩ Công giáo quê ở làng Bùi Chu (thuộc xã Hưng Tây, huyện Hưng  Nguyên, tỉnh Nghệ An ngày nay) đã dâng lên triều đình Huế các bản điều  trần đầu tiên: Trần Tình khải, Thiên Hạ Đại Thế luận, Giáo Môn luận và  Tế Cấp bát điều.  
 
                     Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871) cun191.violet.vn 
Sinh  tại Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An. Ông học rất giỏi, ngoài việc học với  cha ở nhà, ông còn theo học nhiều thầy đồ nổi tiếng trong vùng. Tuy mất  sớm ở tuổi 43 nhưng ông đã đề xuất rất nhiều kế hoạch cải cách táo bạo,  nhằm đưa đất nước thoát khỏi cảnh trì trệ, tiến lên trở thành một quốc  gia dân giàu nước mạnh. Đáng tiếc, những bản điều trần của ông thời đó  đã không được trọng dụng. http://www.tiasang.com.vn     
 
Tiếc  thay chính quyền xã hội ngày ấy, vào thời khó khăn đó, đã không nhận ra  những việc cần cải cách để đưa đất nước đi lên đến chỗ phát triển, hùng  cường giữa trời bể năm châu. Tiếc thay, họ không biết tận dụng nội lực  thâm hậu, không kể lương dân hay giáo dân, của mọi từng lớp nhân dân nơi  hội nghị Diên Hồng ngày nào để tạo sức bật diệu kỳ đánh đuổi ngoại xâm.  Có lẽ do lòng ích kỷ, họ muốn bám chặt ghế ngồi của mình bằng chính  sách “bế quan tỏa cảng”, bất kể hậu quả nghiệt ngã mà ngàn đời sau phải  gánh chịu và phê phán. 
 
D - VỊ SÁNG LẬP, ĐỨC CHA LEFÈBVRE, QUA ĐỜI 
 
Tưởng  cũng nên chia sẻ tâm tình của Đức cha, để đồng cảm với ngài mà chính  các đồng liêu đã có lời chứng: Có lẽ tính tình cầu toàn của ngài đã  khiến ngài phải đau khổ vào cuối đời vì người đồng hương của mình. “Vì  nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 3, 17).  
 
Dĩ  nhiên, ngài vẫn muốn đạo quân Tây phương đến giải thoát cho địa phận và  tín hữu khỏi cảnh tan tác, đầu rơi, máu chảy… Nhưng tiếc thay, họ đến  vì mục đích hoàn toàn thế tục, không quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi  tôn giáo thiêng liêng. Vì thế, ngài không hiểu vì sao họ quá chần chờ  hay cố tình không muốn ra tay bênh đỡ để một số đông giáo hữu bị tàn sát  và tài sản của Giáo hội Việt Nam nhiều lần bị tiêu hủy trước mắt họ! 
 
Lính  viễn chinh đồn trú tại Sàigòn lại thường dở trò bỉ ổi, làm nhục nhiều  thiếu nữ bản xứ, nên ngài cảm thấy quá đỗi đau lòng như đạo thánh Chúa  bị xúc phạm. Quá đau phiền, thất vọng cho ngài, người ta cảm thán cho  ngài: Bốn năm tạm gọi là hòa bình dưới bóng cờ Tam Tài (1859-1863) đã  làm cho ngài mau già hơn quãng thời 20 năm bị truy nã phải sống trôi  dạt, ngủ bờ ngủ bụi. 
 
Do đó, sau khi đặt viên đá đầu tiên cho cơ  ngơi chủng viện, chưa kịp nhìn thấy cơ sở ấy được hoàn thành, ngài đành  gạt nước mắt, đệ đơn thỉnh nguyện Đức Piô IX cho phép ngài từ chức. Ngày  11-12-1864, ngài xuống tàu rời Việt Nam thân thương của ngài. Giáo dân  tiễn ngài quá đông. Khi tàu rời cảng Nhà Rồng, nhiều tiếng nức nở vang  lên… quyện theo làn gió Đông Noel năm ấy như muốn bao bọc lấy con người  khả kính, khả ái một đời hy sinh cho Giáo Hội Việt Nam. 
 
Trước khi  về quê nhà, ngài không quên trực chỉ Rôma để tấu trình lên Đức Giáo  hoàng về tình hình địa phận thân yêu mà ngài đã gắn bó, vun đắp suốt cả  một đời. Xong việc, ngài về quê mong có giờ tịnh tâm, cầu nguyện cho  những con người hiền hòa của xứ An Nam, những người mà không bao giờ rời  khỏi tâm trí ngài. Nhưng vừa đến Marseille, một cơn bạo bệnh đã đến và  Thiên Chúa đã gọi ngài về an nghỉ trong tay Chúa vào ngày 30-04-1865,  sau trọn cuộc đời phục vụ Nước Chúa đầy gian nan, thử thách cả trong hai  mặt trận: mặt trận thuộc thể và mặt trận thuộc linh. 
 
E – KHÁNH THÀNH ĐẠI CHỦNG VIỆN SÀIGÒN 
 
 Đức cha MICHE  
 
Đức cha Lefèbvre ra đi, Tòa Thánh gọi Đức cha Miche đang cai quản Cao Miên về thay thế coi sóc địa phận Sàigòn.  
 
Trong  thời gian đó, cha Wibaux vẫn tiếp tục xây cất để chủng viện sớm hoàn  thành, mong bù đắp lại thời gian hơn hai mươi năm trước, khi mà Đức cha  Lefèbvre thân thương và đoàn con chủng sinh của ngài phải học tập trên  sóng nước bập bềnh, trong ánh đèn dầu chập chờn khi tỏ khi mờ. 
 
Vì  thiếu hụt tài chánh nên công trình xây dựng phải đình hoãn đến ba lần  để đợi chờ người em của ngài tiếp sức. Nhà chưa cất xong, vào năm 1865  đã có những cha: cha Võ, cha Dư, cha Nhu, cha Nhi, cha Đậu, cha Bình,  cha Đường, cha Thạch, cha Sâm mãn trường lớn Penang được Đức cha Miche  gọi về thụ phong linh mục trong nhà nguyện tạm của chủng viện. 
 
 Đại Chủng viện Thánh Giuse do cha Wibaux xây dựng. 
 
Mỗi  ngày có đến gần bốn mươi công nhân, chưa kể mấy chục chủng sinh trai  tráng trợ giúp, mãi đến ba năm sau mới hoàn thành. Năm 1866, Đức cha  Miche long trọng làm lễ khánh thành và cho khai giảng chính thức. Theo  di chúc của vị tiền nhiệm đã đặt viên đá đầu tiên, ngài đặt cho tên cho  cơ sở này: Chủng viện THÁNH GIUSE. 
 
Ngày làm phép chủng viện,  chủng sinh được 60 (gồm cả các chú và các thầy), Địa phận lúc ấy có  30.000 giáo dân, quy tụ trong 126 họ đạo lớn nhỏ do 17 linh mục bản xứ  và 25 linh mục thừa sai hướng dẫn. 
 
F - XÂY CẤT NHÀ NGUYỆN CHỦNG VIỆN 
 
 Nhà nguyện Chủng viện 
 
“Ba  dãy nhà dành cho chủng sinh lưu trú đồ sộ, mà nhà nguyện sơ sài thì  không thể được. Chỗ phượng tự, chính nó phải tôn nghiêm trang trọng,  huống chi là nhà nguyện của Chủng viện, cần phải bộc lộ, phải biểu tượng  hóa lòng tôn thờ đặc biệt của Chủng sinh, tất nhiên nhà nguyện phải  được đẹp đẽ uy nghiêm”, cha Wibaux suy nghĩ.  
 
Nghĩ  là làm, mặc dầu tài chánh eo hẹp, thiếu thợ lành nghề, nhưng với kinh  nghiệm đã qua, năm 1867, chưa đầy một năm sau ngày khánh thành Chủng  viện, cha Wibaux lại khởi công kiến trúc nhà nguyện cho chủng viện.  
 
Xây  dựng được hai năm trong lao tâm lao lực ngày đêm, qua năm 1867, cha lâm  bệnh nặng vì kiệt sức. Bác sĩ người Pháp khuyến cáo cha phải tịnh dưỡng  nếu muốn tiếp tục công trình của ngài. Cha đành sang trụ sở MEP tại  Hồng Kông, rồi trở về quê nhà Pháp quốc để dưỡng bệnh. Công tác xây dựng  nhà nguyện tạm ủy thác lại cho cha Đậu, vị phụ tá chuyên nghiệp, tiếp  nối công trình.  
 
Quả thật, Thiên Chúa Tình yêu thường rút từ sự dữ ra sự lành: 
Một  là nhờ cơn bệnh khó trị, cha có dịp bệ kiến Đức Thánh Cha PIO IX và  tường thuật những công trình cha đã thực hiện tại Việt Nam với những khó  khăn gặp phải khi xây cất Chủng viện Sàigòn. Đức Thánh Cha đã an ủi:  “Con đừng buồn, nhà chung đó là hạt giống châu báu sẽ trổ sinh nhiều hoa  quả tốt đẹp”. Ngài cũng chúc phúc, qua những thanh niên chủng sinh, cho  miền Nam Nước Việt một tương lai tươi sáng. 
 
Hai là trong dịp  này, phóng viên tạp chí Truyền giáo đã phỏng vấn cha Wibaux về tình  trạng Địa phận Sàigòn, nhứt là về công tác kiến tạo Chủng viện. Nhờ đó,  nhiều nhà hảo tâm đã ủng hộ tài chánh cho việc xây dựng và công cuộc đào  tạo giáo sĩ tại Việt Nam. 
 
Năm 1871, sức khỏe vừa bình phục, nghe  cha Đậu báo tin công trình xây cất tạm hoàn tất, cha vội vã trở lại quê  hương thứ hai để tổ chức khánh thành nhà nguyện. Chính ngài dâng cho  nhà nguyện: Tượng Đức Mẹ Maria đặt sau bàn thờ. Còn tượng hai thánh  Phêrô và Phaolô và các tượng nhỏ nơi bàn thờ cạnh, cả những đồ lễ chén  thánh đều do những ân nhân từ Pháp gửi sang dâng cúng. 
 
Đức cha  Miche làm phép nhà nguyện. Có đến 28 linh mục thừa sai và bản xứ đến  tham dự. Thời đó mà quy tụ được số linh mục như thế là một trường hợp  hết sức đặc biệt. 
                                
	
	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
 
	
    | 
 |