| 
 |  
 
 Mã số: 17-036 
 CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ 
 
 Véo…! Véo…! Đùng…! Đùng…! 
 Tiếng đạn bắn đi rào rào trong không khí. Tiếng chân người chạy. Tiếng  còi lanh lảnh vang lên. Tiếng xe cảnh sát hú lên inh ỏi làm xé tan đêm  khuya tĩnh mịch. 
 Màn đêm đen kịch bị những tia sáng đèn pha quét qua  quét lại liên tục cho thấy có vài bóng người áo đen chạy vun vút giữa  những hàng cây sao su. Những chiếc xe đặc chủng của cảnh sát mở còi ầm ĩ  rồi lao nhanh vào đêm đen. Có tiếng loa phóng thanh vang lên, kêu gọi  những người chạy trốn hãy quay trở lại để được hưởng khoan hồng. Một  cuộc đào ngục vừa mới diễn ra. 
 Nhưng bỏ mặc tất cả, những bóng đen  vẫn lao nhanh vào đêm tối, bỏ lại đàng sau những tiếng súng nổ, tiếng  còi hụ, tiếng từ loa phóng thanh và hơn tất cả, đó là nhà tù khắc nghiệt  mà họ đã phải trải qua bao lâu nay để hướng về phía trước, về với bầu  trời tự do đang ẩn hiện trước mặt. Tất cả họ, kẻ thì lên kế hoạch tỉ mỉ,  người thì may mắn tình cờ tham dự vào, nhưng đều có chung một mục đích  đó là tìm lại cho mình khoảng trời không còn bị những bó buộc, những  luật lệ, nội quy hà khắc, một vùng trời mà nơi đó họ có thể làm lại cuộc  đời. Không ai muốn mình quay trở lại cái nơi tù túng và ngột ngạt kia  nữa. 
 Huỵch! 
 Một bóng đen vấp ngã có lẽ do vướng vào một sợi dây  nào đó. Nhưng thật may, nhờ vậy mà hắn tránh được một loạt đạn từ phía  sau bắn tới, làn đạn bay vút đi, làm gãy hàng loạt những cành cây cao su  phía trước. Đất đá bắn ra tung toé! Bóng đen may mắn vừa lết được vào  một mô đất khá cao thì cũng vừa kịp tránh được ánh đèn pha lướt qua. Có  lẽ người lính đuổi theo chỉ bắn theo quán tính mà không nhìn rõ được đối  phương đã di chuyển đi đâu. Liền sau đó là hai xe cảnh sát trờ tới,  những ánh đèn pha và những phát súng lại vang lên. Có những tiếng nói  lao xao và giọng của một người sĩ quan cho biết đã bắt được 5 người bỏ  trốn, một người bị bắn chết và vẫn còn 2 hay 3 kẻ đang đào tẩu. Ánh đèn  pha quét qua quét lại nhiều lần trước khi được lệnh truy đuổi theo hướng  khác và những chiếc xe đặc nhiệm lao đi và mất hút trong màn đêm đen  kịch. 
 Ẩn nấp sau ụ đất cao là một người đàn ông trung niên gầy gò,  tầm thước. Hắn chính là một trong 9 kẻ đào thoát khỏi nhà ngục trong đêm  qua. Từ khi tránh được loạt đạn và trốn được vào phía sau mô đất, hắn  không ngừng run rẩy, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Hắn không muốn  chết, không muốn bị bắt lại và khao khát được tự do, được hít thở khí  trời, được bước đi một cách thoải mái trên đường làng, được ngắm nhìn  những đoá hoa dại ven đường, thảnh thơi nhìn cánh bướm bay qua... Ôi!  Hắn mơ ước làm sao khung trời thơ mộng đó! Nhưng phải làm sao tránh được  những loạt đạn kia, tránh được ánh đèn pha sáng loáng và nhất là làm  sao có thể rời khỏi nơi đây mà không phải trở lại cái nhà tù ẩm mốc, tù  túng nọ. Lúc loạt đạn bắn sượt qua người, trong cơn thập tử nhất sinh,  hắn đã làm một việc mà từ hơn 30 năm nay hắn không hề nhớ đến: cầu  nguyện! Trong cơn nguy khốn, từ tận sâu thẳm trong tim, hắn thốt lên:  “Ôi, Giêsu! Maria, Mẹ ơi! Cứu con với!”. Trong tâm trí của hắn, những  tên Giêsu, Maria đã biến mất từ lâu thì nay, những tên ấy đột nhiên như  sáng lên, mời gọi hắn để đến nỗi trong cơn khốn cùng, hắn phải thầm kêu  lên, thì thào khẩn cầu xin trợ giúp. Đã lâu lắm rồi tâm hồn hắn mới có  dịp để nhớ lại thời kỳ ấu thơ, nhưng thật oái oăm thay, lại ở trong cái  hoàn cảnh khốn cùng như thế này… 
 êêê 
 Khoảng 30 năm trước, khi  hắn còn là một đứa bé khoảng 10 tuổi, trong một ngôi làng nhỏ nơi một  vùng quê xa xôi, hắn cũng từng có một gia đình. Hắn còn nhớ mỗi sáng  chúa nhật, hắn được mẹ cho mặc bộ quần áo tươm tất, đi đến nhà thờ để  đọc kinh, dự lễ. Hắn còn được rước một tấm bánh màu trắng nhỏ từ tay ông  cha xứ già nua. Nhà hắn không khá giả lắm nhưng cũng đủ ăn, mọi người  sống hạnh phúc bên nhau cho đến khi mẹ hắn lâm bệnh nặng. Hắn không sao  quên được lần ngồi bên giường mẹ trong những ngày sau cùng, mẹ hắn đã  yếu lắm rồi, mệt mỏi và thở dốc vì căn bệnh ung thư hành hạ. Khi tỉnh  lại, thấy hắn ngồi bên, mẹ hắn trăng trối, từng lời, đứt quãng vì mệt  nhọc: 
 - Con ơi! Có lẽ mẹ con mình sắp xa nhau thật rồi. Mẹ không thể  chăm sóc con được nữa! Con hãy nhớ lời mẹ dặn, phải vâng lời cha con,  giữ lễ ngày Chúa Nhật và siêng năng đọc kinh để cầu nguyện cho mẹ nhé!  Mẹ mãi mãi yêu con… 
 Tâm hồn thơ ngây của một đứa bé 7 tuổi chưa đủ  lớn để hiểu nỗi đau khổ biệt ly nhưng cũng làm hắn nước mặt dàn dụa, ôm  lấy mẹ mà khóc thật thê lương. Đó cũng là những lời sau cùng khi mẹ hắn  còn tỉnh táo. Ba ngày sau đó, mẹ hắn đã ra đi trong một buổi chiều mưa  buồn rơi lạnh lẽo, lạnh của đất trời và lạnh cả trong tim. Một thời gian  sau, cha hắn tìm được người vợ mới và ít lâu sau đó, hắn có thêm một  đứa em cùng cha khác mẹ. Ban đầu, người mẹ kế cũng không đến nỗi cay  nghiệt lắm, hắn cũng được cho ăn uống, thậm chí vẫn được đi học như  trước. Tuy nhiên, từ lúc đứa em khác mẹ chào đời, lại thêm kinh tế khó  khăn nên người mẹ kế dần đổi tính. Cha hắn lại thêm tật uống rượu say  sưa, nhà cửa ngày một thêm túng thiếu. Người cha nghe theo lời người vợ  kế, dần trở nên lạnh nhạt, hắt hủi đứa con riêng sớm mồ côi mẹ. Hắn bị  đánh đòn thường xuyên hơn, đôi khi chỉ vì những lời thêm thắt, nhỏ to  bên gối của người mẹ kế. Hắn không được đi học nữa, ở nhà cho heo gà ăn  và chăm sóc em, lại còn bị người dì ghẻ tìm cớ thường xuyên chửi mắng,  đánh đập, đúng là “mấy đời mẹ kế mà thương con chồng”! Cha hắn, ngoài  những khi đi vác lúa mướn, trở về nhà thì say xỉn, đánh hắn nhiều hơn.  Một ngày nọ, hắn đưa võng cho đứa em một cái thật mạnh nhằm để rảnh tay  làm việc hơn, cậu bé nảy người một cái và văng ra khỏi võng. Đứa bé khóc  ngất lên, tím tái cả mặt mày, người mẹ kế xót con, xông đến túm lấy hắn  đánh túi bụi. Hắn bị đánh ngã dúi vào tường, sưng cả mặt mày. Bà ta  chưa hả, còn đay nghiến sẽ mách lẻo với cha hắn. Quá đau, lại nhớ đến  những trận đòn của cha, hắn lồm cồm ngồi dậy rồi chạy biến ra khỏi nhà,  không dám quay trở lại nữa… 
 Từ đó, hắn trở thành lạc lõng, bơ vơ,  khi thì phụ trông hàng cho những chiếc xe chở trái cây lên thành phố,  lúc khác lại đi xin ăn hay phụ bưng bê cho các quán ăn ven đường. Cuộc  sống cứ lầm lũi và hắn tha phương lên tận thành phố, một thị tứ sầm uất  và cũng có đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro. Hắn bị cuốn theo vòng xoáy của  đô thị rồi dần nhập bọn vào một nhóm lưu manh, đi trộm cắp trong các  khu chợ, móc túi, đòi nợ thuê… Không chừa một việc xấu nào mà không làm.  Một lần nọ, nhóm của hắn bàn nhau vào “phá két” một người giàu có nọ.  Cả bọn 3 người, trèo vào nhà, mở cửa lớn, mở được két sắt một cách thuận  lợi nhưng lúc sắp thoát ra thì bị phát hiện. Người phụ nữ chủ nhà bất  ngờ thức giấc và la to lên. Một tên trong bọn trong lúc hoảng hốt đã vớ  lấy cây gậy ở góc tường và đập vào người phụ nữ bất hạnh. Thật không may  lại trúng nhằm chỗ hiểm, người phụ nữ ngất lịm đi trong vũng máu. Hắn  không nhớ rõ lúc đó tình hình hỗn loạn ra sao. Có rất nhiều người chạy  đến, những tiếng la hét, đánh nhau, vật lộn huỳnh huỵch. Hai tên đồng  bọn đã chạy thoát còn hắn thì không được may mắn như vậy. Hắn bị bắt  cùng với tang vật là cây gậy còn dính máu và xác người phụ nữ xấu số.  Không có tiền bạc, chẳng có người thân, không có người bào chữa, hơn nữa  nhiều người trong vùng từng nhìn thấy hắn đi chung với bọn xấu, nhân  chứng và tang vật ngay trước mặt nên hắn bị kết án 30 năm rồi bị đưa đến  cái nhà tù mà hắn đã thụ án được 15 năm nay. Ở đó, hắn phải sống chung  đụng với những bọn xấu khác, cướp của, giết người, buôn lậu… và phải làm  việc suốt từ sáng đến tối, có khi còn không được ăn no. Bầu không khí  tù túng và ngột ngạt vì bọn cai ngục, lại thêm đám “đại bàng”, bảo kê  trong tù, những ai thường xuyên nạp tiền “mãi lộ” cho chúng thì được yên  thân, bằng không thì sẽ không đời nào được yên ổn. Chúng sẽ dùng nhiều  cách để ức hiếp và chèn ép các tù nhân không được ai thăm nom, không gởi  “quà cáp” cho chúng như hắn. Những lúc ấy, hắn thèm muốn được hít một  chút khí trời, thèm được thong thả nhìn ngắm bình minh lên, muốn được  nghe tiếng chim ca ngoài cửa sổ… Số phận dung rủi làm sao, hắn tình cờ  biết được âm mưu vượt ngục của một đám tù nhân khác nên đã âm thầm theo  sát bọn ấy để tìm đường trở về tự do. Và giờ đây, hắn đang ẩn nấp sau mô  đất này, người run lẩy bẩy, miệng lầm rầm cầu xin Chúa và Đức Mẹ ban  ơn; những lời kinh mà trải qua bao năm tháng của thời gian, làm cho hắn  chỉ còn nhớ lõm bõm, câu được câu mất… 
 êêê 
 Hắn đang bước đi nhẹ  nhàng trên con đường làng. Đầu xuân. Khí trời mát mẻ. Bầu trời trong  xanh và cao thẳm. Có những con chim nhỏ đang chuyền trên cành và cất  giọng hót líu lo. Khung trời mơ ước của hắn bấy lâu nay đây rồi. Hắn  khoan khoái hít một hơi dài cho căng phồng lồng ngực. Một cảm giác mới  thoải mái làm sao! Đã 3 hôm kể từ ngày trốn khỏi nhà tù, hắn len lỏi qua  những hàng cao su, băng qua nhiều con đường mòn xa tít, lội qua biết  bao con suối mới đến được ngôi làng nhỏ này. Hắn đã trộm được vài bộ đồ  của một nhà dân nào đó bên đường để thay cho bộ áo được phát cho trong  tù dễ bị nhận dạng. Râu ria cũng được cạo sạch, nhẵn bóng. Ở cái vùng xa  lạ này, sẽ không ai biết hắn, họ sẽ nghĩ rằng hắn là một người lương  thiện nào đó từ xa mới đến. Có một cánh đồng trồng dưa bên đường mòn.  Ruộng dưa xanh mướt, những quả dưa to tròn, bóng lưỡng trông như những  chú heo con đang nằm bú mẹ. Ở xa hơn, có vài chú dê con đang lon ton  theo mẹ. Một chú dê nhỏ tinh nghịch nhảy nhót bên cạnh ụ đất và một lúc  sau trượt chân nên té lăn ra, đoạn kêu be be như trẻ con đang khóc nhè.  Mẹ chú bên cạnh kêu lên đáp lại như muốn nói: 
 - Con yêu của mẹ! Con nghịch quá! 
 Đã lâu rồi, hắn không được thấy cảnh này! Một khung cảnh mới nên thơ và  an bình làm sao. Hai đứa bé con, một trai một gái, chắc là hai anh em,  chạy đến đưa cho hắn một nửa trái dưa đỏ mọng ngon lành rồi chạy biến đi  trong tiếng cười trong trẻo. Ở chòi canh đàng kia, một người đàn ông  trạc trung niên, đang cười với hắn. Hắn cũng cười đáp lễ rồi cắn một  miếng vào quả dưa. Dưa chín mọng, ngọt lịm trong miệng và tan vào đầu  lưỡi! Hắn chưa từng được nếm trải hương vị ấy bao giờ! Cuộc đời này thật  đẹp làm sao, cuộc sống thật đáng yêu và hạnh phúc quá chừng! Hắn như  quên mất mình là ai, hắn vẫn còn là tên tù nhân trốn trại 3 hôm trước… 
 Hơn hai tuần nay, hắn trú mình trong một căn chòi canh rẫy của người  dân trong làng. Mùa này căn chòi bỏ hoang, không có ai phát hiện hay  quấy rầy hắn. Tối đến, hắn lần mò vào trong làng để tìm chút gì đó có  thể ăn tạm! Có lúc thì mấy chén cơm nguội, lúc khác là mấy củ khoai, quả  bắp người ta ăn tối còn để dành lại cho buổi sáng ăn lót dạ để đi làm.  Ban ngày, hắn ở lại trong căn chòi canh suy tư, ngẫm nghĩ về cuộc sống  và những tháng ngày sắp tới. Hắn phải làm gì đây? Sống làm sao để có thể  cảm thấy lòng mình được thanh thản, nhẹ nhàng, được tự do mà không phải  chạy trốn, lẩn tránh như hiện nay. Hắn không muốn trở lại đời sống cũ,  không muốn suốt đời làm một kẻ bất lương. Sau khi ăn nửa quả dưa chín  mọng bên đường, hắn men theo đường làng, cuối cùng lại dẫn đến một ngôi  nhà nguyện nhỏ của làng. Nhà nguyện đang có thánh lễ vì hôm ấy là chiều  chúa nhật. Không biết nghĩ sao, hắn lại lần mò vào ngồi nghe giảng, một  việc mà đã gần 30 năm nay, hắn không hề biết đến. Hắn như tìm lại được  cái cảm giác an bình của ngày xa xưa, trong vùng quê nghèo xa xăm ngày  đó. Linh mục từ nơi khác đến và chỉ dâng lễ ở đây mỗi tháng 1 lần. Trời  xui đất khiến thế nào, hắn lại theo đoàn người vào toà giải tội. Hắn  khao khát được tâm sự, muốn được nghe một lời khuyên, nhưng trong hoàn  cảnh của hắn, ai là người có thể ngồi nghe hắn nói mà không tố giác hắn?  Ắt hẳn chỉ có người của Chúa mà thôi. Gần 30 phút ngồi nghe hắn kể lể  chuyện cuộc đời với những hận thù, đánh giết, tranh giành lừa lọc nhau  để tìm sự sống; chuyện không đầu không đuôi, ngắt quãng, lộn xộn nhưng  cha già vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Sau đó, ngài còn giảng giải một loạt  đạo lý gì đó, hắn cũng không nhớ rõ, chỉ nhớ một câu sau cùng đó là: 
 -…Con hãy tha thứ, khi nào con có thể làm cho thập giá Chúa nở hoa, khi ấy con sẽ tìm thấy bình an đích thực…! 
 Tối hôm nay, sau gần hai tuần, hắn vẫn không hiểu lời cha già nói. Làm  sao thập giá, cây gỗ khô đét thế kia, có thể nở hoa cho được? Hắn phải  tha thứ cho ai? Người dì ghẻ cay nghiệt năm xưa? Ông bố nghiện rượu đã  không còn thương hắn? Hay là cho cuộc đời đã đưa đẩy hắn trở thành tội  nhân như hôm nay? Hắn không biết, và cũng không thể suy nghĩ thêm được  gì. Tâm trạng trống rỗng, buồn bã, cô đơn vì dù cho tạm thời không còn  trong nhà tù ngột ngạt kia nữa, cũng không phải chịu những đòn roi, bất  công và đã được hưởng chút không khí của tự do nhưng với tình trạng cô  độc không người chia sẻ thì thật là bi thảm không kém. Thật chẳng khác  nào Robinson trên hoang đảo, cho dù trước mặt hắn không xa là ngôi làng  nhỏ với những con người hiền hoà, chất phác. Hắn lại lần mò vào trong  làng nhưng lại không vào các bếp để tìm thức ăn như thường lệ, hắn đang  muốn đi tìm cái khác cần kíp hơn. Dò dẫm trong đêm, hắn lần đến nhà  nguyện nhỏ nơi cha già dâng lễ lần trước. Nhà nguyện nhỏ bé, đơn sơ chỉ  được khép lại bằng cánh cửa bằng gỗ, không có khoá. Hắn nhẹ mở cửa ra  rồi lách mình vào. Bóng điện nhỏ xíu trên tường, ngay cạnh tượng chịu  nạn không đủ để thắp sáng căn phòng bé nhỏ. 
 Hắn ngồi xuống, yên lặng  nhìn lên thánh giá, chung quanh là màn đêm tĩnh mịch, tuyệt nhiên không  một tiếng động nào. Hắn ngồi nhớ lại cả một quãng đời đã qua: từ những  ngày tháng êm đềm khi còn có mẹ, lời trăng trối khi mẹ hắn sắp lìa đời,  những trận đòn roi của người cha nát rượu, lời mắng mỏ cay nghiệt của  người dì ghẻ, quãng đời lăn lộn kiếm sống với biết bao sự lọc lừa, dối  trá, những thủ đoạn để tồn tại, rồi đến những năm tháng tủi nhục đè nén  trong chốn lao tù, cuộc chạy trốn và sau đó là quãng thời gian bình yên  nơi cái xóm nhỏ này, hình ảnh hai đứa bé chia cho hắn nửa quả dưa, chú  dê con kêu be be theo mẹ… Tất cả như một cuộn phim quay chậm cứ dần dần  hiện lên trong đầu hắn. Những tháng ngày sắp tới, làm sao để được sống  an lành, tránh xa những tháng ngày đen tối với những mánh khoé, lừa dối,  đàn áp lẫn nhau để kiếm tìm sự sống. Lời của cha già lại văng vẳng vang  lên “con hãy làm sao cho thập giá nở hoa”. Tâm trạng hắn rối bời, thập  giá khô như vậy thì sao mà nở hoa được? Lời của cha già như một lời  thách đố, vừa như lời mời gọi tha thiết. Bất giác, hắn bước lại gần  thánh giá, quỳ xuống, cầm lấy thánh giá trên tay rồi nhìn xem chăm chú  như thể đang tìm xem có cách thức kỳ diệu nào để làm thập giá có thể trổ  hoa hồng được không. Hắn cứ cầm tượng chịu nạn rồi nhìn mãi, nhưng thập  giá cũng chỉ là một cây khô với hình Chúa Giêsu bị đóng đinh trên đó,  làm gì có thể nở hoa ra được. Hắn thấy dường như chính hắn đang bị đóng  đinh trên cây gỗ, cũng cô đơn, lạc lõng, giống như Chúa Giêsu trên thập  giá kia, chắc hẳn ngài cũng đau đớn lắm. Ngài đã bị người đời vu khống,  bị lăng nhục, chịu đủ mọi cực hình để rồi cuối cùng phải cô đơn và chết  trên thập giá. Hắn cũng đang đau khổ, cũng đang bị người đời truy đuổi,  bị thế gian cho là xấu xa và không được hoà vào cuộc sống bình lặng  thường ngày. Tượng chịu nạn vẫn như đang nhìn hắn, vẫn dang tay ra như  gọi mời hắn hãy đến nắm lấy tay Ngài. Chúa Giêsu như đang nói: “Con ơi,  Ta cũng đang buồn, cũng cô đơn, cũng bị người đời ruồng bỏ như con đây.  Sao con không đến cùng Ta để chúng ta cùng nhau chia sẻ, cùng nhau tâm  sự?”. 
 Hắn thấy thương Chúa quá, Người có khác gì hắn đâu! Tự nhiên,  hắn thấy mủi lòng, nước mắt cứ tuôn trào ra. Hắn ôm thập giá vào lòng  rồi bật khóc nức nở. Tiếng khóc của một người được dịp tuôn ra sau bao  năm dài tâm hồn chai sạn, chìm sâu trong cuộc đời tội lỗi, lầm lạc.  Tiếng khóc của một đứa con thơ được trở về với cha mình. Những giọt nước  mắt của thống hối, của lòng thành muốn quay về tìm kiếm sự ăn năn. 
 - Cha ơi, Cha có biết không! Con ở bên ngoài khổ sở lắm. Xin cho con được trở về với Cha! 
 Những giọt nước mắt của hắn đã rơi, ướt đẫm trên tượng chịu nạn. Hắn  thấy hình như bức tượng đã bị dơ vì bụi bẩn, lại bị những giọt lệ làm  cho lem luốc thêm ra. Hắn bèn lấy tay lau, nhưng lau mãi vẫn chưa hết.  Hắn liền lấy vạt áo ra lau thánh giá gỗ, từng chút, từng chút một, từ  vòng gai trên đầu bức tượng, đến hai cánh tay rồi xuống đến tận chân.  Mấy chỗ đinh trên tay và chân bức tượng, hắn cứ lau mãi mà vẫn chưa hết.  Hắn cứ lau miệt mài, lệ vẫn cứ tuôn rơi. Đột nhiên, cả căn nhà nguyện  như bừng sáng lên! Giật mình, hắn ngừng lau, suýt nữa thì buông rơi  thánh giá gỗ. Trên tay hắn không còn là thập giá cũ kỹ bị lem luốc nhưng  đã là một cành hoa hồng! Một cành thật hồng tươi, đỏ chói với những  bông hoa đã nở toả ra mùi hương thoang thoảng. Vòng gai trên thập giá  cũng sáng đầy hoa hồng. Lời của cha già hôm nọ lại vang lên “con sẽ được  tha khi làm cho thập giá nở hoa hồng”. Chúa Giêsu trên thập tự như đang  tươi cười nói: 
 - Con ơi, Cha đợi con đã hơn 30 năm nay. Con nay đã  về rồi. Cha mừng lắm. Con hãy cứ khóc đi cho thoả. Cha tha thứ hết mọi  tội của con rồi! 
 Người tù bất giác lại ôm chầm lấy tượng chịu nạn và  lần này hắn còn khóc to hơn. Lần này là tiếng khóc của mừng vui và hy  vọng! Hắn đã tìm được con đường trở về… 
 êêê 
 Hôm sau, dân làng  xôn xao vì trong làng vừa xảy ra một vụ mất cắp kỳ lạ. Đàn gia súc của  họ vẫn còn nguyên, vẫn bình yên gặm cỏ bên đồi; không có nhà nào bị cạy  tủ, cũng không có căn bếp của gia đình nào bị lục lạo như mọi khi. Nhưng  cây thánh giá gỗ cũ kỹ trong nhà nguyện thường ngày thì đã không cánh  mà bay và từ đó về sau không còn ai tìm thấy tượng chịu nạn ấy nữa! Có  lẽ người tù hôm nọ đã mang đi cùng với mình sau khi anh ta nghe được  thông tin những người tù chung thân sẽ được ân xá hoàn toàn khi đã thụ  án được từ 15 năm trở lên trong dịp đại lễ kỹ niệm mừng thành phố tròn  500 tuổi sắp tới chăng?    | 
 |