|
Chương IV: Gian truân sinh nhẫn nại, nhẫn nại sinh trung kiên (Rm 5,3)
Khi tới Giê-ru-sa-lem, ông Sao-lô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ. Ông Ba-na-ba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Sao-lô đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giê-su tại Đa-mát thế nào. Từ đó ông Sao-lô cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giê-ru-sa-lem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. Ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do-thái theo văn hoá Hy-lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông. Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô. (Cv 9,26-30)
Đức kiên trì anh hùng của Thánh Phaolô qua nhiều cơn thử thách và nỗi khổ cực trong suốt cuộc đời đã được thánh nhân kể ra nhiều lần trong các lá thư của mình.
Chứng từ được biết đến nhiều nhất được tìm thấy trong lời bào chữa chi tiết và mãnh liệt về tính chính thống và hợp pháp trong công việc truyền giáo của ngài, và trong những lời đả kích dũng cảm và thường là quyết liệt của thánh nhân, chống lại những người đặt vấn đề về sứ vụ của thánh nhân với tư cách là một tông đồ, nhất là vì những khốn khó thánh nhân đã chịu (xc. 2Cr 4,7-15; 6,3-10; 11,23-33), tình trạng yếu đuối thể lý (xc. 2Cr 10,1,10; 1Cr 2,1-5), sự thiếu thốn về quyền uy ân sủng (xc. 2Cr 12,12; 13,3), và trách nhiệm của thánh nhân là tự do rao giảng Tin Mừng[1]. Một số các đối thủ của thánh nhân thuộc về cộng đoàn Kitô hữu ở Côrintô (xc. 2Cr 10,10; 11,4,12-15, 21-23), số khác không thuộc cộng đoàn đó (xc. 2Cr 13,5-10).
Trong phần tự biện hộ cho mình, Phaolô hoàn toàn ý thức rằng, một đàng huênh hoang về những việc làm của mình và những thành công là “điên rồ” (xc. 2Cr 11,1,16-21; 12,11), đàng khác, ngài có quyền tự hào vì vinh quang của ngài chỉ dựa trên sự yếu đuối (xc. 2Cr 11,30; 12,5; 13,9), bởi vì rõ ràng những thành công trong công tác tông đồ không phải do ông, nhưng chỉ do Đức Kitô mà thôi (xc. 2Cr 12,9; 4,7; 1Cr 1,27-31; 3,6).
Dựa trên khẳng định này, Phaolô cũng nói rõ “chúng tôi đang sống trong xác phàm, nhưng không chiến đấu theo tính xác thịt. Thật vậy, vũ khí chiến đấu của chúng tôi không thuộc về xác thịt, nhưng nhờ Thần Khí, có sức mạnh đánh đổ các đồn luỹ. chúng tôi đánh đổ các kiểu lý luận và mọi thái độ kiêu căng đưa mình lên chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng tôi bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng mà tuân phục Đức Kitô” (2Cr 10,3-5).
Mục đích của việc biện hộ của ông là chiếm lại những người tín hữu đã bị các đối thủ lừa gạt và đã ngã gục dưới sức mạnh của họ. Dựa trên sự hiền lành và khiêm nhường của Đức Kitô, Phaolô kêu gọi họ hoà giải trước khi ông dùng quyền uy mà can thiệp (xc. 2Cr 10,1-11). Ông tuyên bố rằng khi ông nại đến quyền uy của mình, thì “không phải chính ông truyền lệnh”, “nhưng chỉ tự hào trong Chúa”, và về điều mà chính Thiên Chúa hoàn tất qua ông như để làm chứng rằng ông là một tông đồ do chính Thiên Chúa “truyền lệnh” (xc. 2Cr 10,17-18). Ông quyết tâm chỉ hành động “theo quyền hành Chúa đã ban cho ông để xây dựng, chứ không phải để phá đổ” (2Cr 13,10).
Đoạn Kinh Thánh về phần biện hộ của ông Phaolô, khởi đầu với lời nhập đề ngắn gọn nhắc đến nguồn gốc Do Thái đích thực của ông[2], được chia thành năm phần, mỗi phần kể đến một nỗi khổ ông phải chịu với tư cách là “thừa tác viên của Đức Kitô”, hơn hẳn các đối thủ của ông.
Phần đầu tiên nói về nỗi đau khổ thể lý: “Tôi còn hơn họ nữa…, vất vả nhiều hơn, ở tù nhiều hơn, chịu đánh đập hơn gấp bội, suýt chết nhiều lần. Năm lần tôi bị người Do Thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần chịu đánh đòn, một lần bị ném đá” (2Cr 11,23-25).
Trong phần hai, Thánh Tông Đồ kể đến những chuyến đi để loan báo Tin Mừng: “Ba lần bị đắm tàu; một ngày một đêm trôi giạt giữa biển khơi. Hành trình nhiều chuyến, nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, nguy hiểm trong sa mạc, nguy hiểm ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tại Damas, tổng đốc của vua Arêta đã cho canh gác thành để bắt tôi. Nhưng qua một cửa sổ, tôi đã được thả xuống dọc theo tường thành, và tôi đã thoát khỏi tay ông ta” (2Cr 11,25-26, 32-33).
Phần thứ ba kể đến một số vất vả do sứ vụ: “vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2Cr 11,27).
Trong phần bốn, “không kể những điều khác”, ông nói về những nỗi khổ tinh thần, phát xuất từ nhiệt tâm tông đồ: “nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh. Có ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Có ai vấp ngã mà lòng tôi không cháy bừng?” (2Cr 11,28-29).
Trong phần năm, Thánh Phaolô bày tỏ những nỗi khổ sâu xa nhất liên hệ đến “những thị kiến và mạc khải của Chúa”, và việc ông “được đưa lên tầng trời thứ ba”. Nhằm ngăn ngừa tính kiêu căng về điều này, thánh nhân xác định: “để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường ấy, tôi đã bị một cái dằm đâm vào thân xác, đó là sứ giả của Xatan để nó đánh tôi, cho tôi khỏi phải tự cao tự đại. Về điều này, đã ba lần tôi xin Chúa đưa nó xa tôi, nhưng Người nói với tôi: “ơn của Thầy đủ cho anh rồi, vì quyền năng được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12,1-9).
Thánh Phaolô coi sự yếu đuối của mình như một yếu tố đặc biệt để nói lên sự trổi vượt trên các đối thủ: “nếu phải tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những điều cho thấy sự yếu đuối của tôi. Thiên Chúa, Đấng được chúc tụng muôn đời, là Thân phụ Chúa Giêsu, biết rằng tôi không nói dối… Về chính tôi, tôi sẽ chỉ tự hào về những yếu đuối của mình. Tôi rất thích tự hào hơn về những yếu đuối của tôi, để quyền năng của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui mừng khi mình yếu đuối, khi bị xỉ nhục, khốn quẫn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Quả thật, khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 11,30; 12,5,9-10). Sau cùng, ở cuối lá thư, thánh nhân nhấn mạnh: “chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu” (2Cr 13,9).
Gần cuối lá thư gửi tín hữu Côrintô, thánh nhân viết: “tôi chẳng thua kém gì các vị siêu tông đồ kia, dù tôi chẳng là gì. Các dấu chỉ của tông đồ được thực hiện giữa anh em: nào là đức kiên nhẫn hoàn hảo, nào là những dấu lạ điềm thiêng và phép lạ” (2Cr 12,11-12). Các điều ấy chứng tỏ rằng thánh nhân đích thực là người được Chúa sai đến.
Thánh nhân cũng nói với các tín hữu Côrintô: “Khi đến miền Makêđônia, thân xác chúng tôi chẳng được thảnh thơi chút nào; trái lại, ở đâu cũng gặp gian nan: bên ngoài phải chiến đấu, bên trong phải lo sợ” (2Cr 7,5). Ngay cả bệnh tật, điều vẫn là một ẩn số đối với mọi người, cũng không thể ngăn cản thánh nhân rao giảng cho người Galát (Gl 4,13-14).
Thánh nhân thực thi sứ vụ của mình qua việc “kiên trì chịu đựng khi bị gian nan, khốn quẫn, ngặt nghèo, đòn vọt, tù tội, khi gặp biến loạn, bị nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ”. Các hành động của Thánh nhân được thực thi bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa; lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ, khi vinh cũng như khi nhục”.
Thánh Phaolô không bận tâm về điều thiên hạ nghĩ về mình, điều đáng kể là sự thật: “Bị coi như bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; như vô danh tiểu tốt, nhưng chúng tôi được mọi người biết đến; như sắp chết, nhưng chúng tôi vẫn sống; như bị trừng phạt, nhưng chúng tôi không bị giết chết; như phải buồn phiền, nhưng chúng tôi luôn vui vẻ; như nghèo túng, nhưng chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; như không có gì, nhưng chúng tôi có tất cả” (2Cr 6,4-10).
Nỗi khổ lớn nhất của Thánh Phaolô xuất phát từ sự không hiểu biết của giới cầm quyền trong đạo Kitô tại Giêrusalem (xc. Cv 21,17-21), và những người Do Thái trở lại. Những người này muốn theo ông Môsê, coi trọng Lề Luật, đền thờ, việc cắt bì, và những thực hành đạo đức khác; bằng chứng về sự kiện này có thể thấy, một cách nào đó, trong quyết định của cái được gọi là Công Đồng Giêrusalem (xc. Cv 15,23-25). Những người này nại đến uy thế của ông Giacôbê (xc. Gl 2,12) và theo dõi ông Phaolô cách sít sao nhằm ngăn cản cuộc khởi hành của ông, chống lại sứ điệp của ông và nghi ngờ về tính hợp thức trong sứ vụ tông đồ của ông (xc. 2Cr 11,5-12; 12,11).
Những thử thách gian khổ luôn đe doạ sự bình an tinh thần và nhẫn nại của thánh nhân, nhưng thánh nhân tìm được sức mạnh của mình nhờ lòng yêu mến Đức Kitô: “Tôi có sức chịu đựng được hết, nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh nhân đặt câu hỏi: “ai sẽ tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? chẳng lẽ là gian nan, ngặt nghèo, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo?” Từ kinh nghiệm cá nhân, thánh nhân xác định: “không, trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta”. Thánh nhân xác tín mạnh mẽ: “tôi tin chắc rằng, cho dù sự chết hay sự sống, thiên sứ hay quản thần, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hoặc bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-38).
Thánh Phaolô đi từ thành phố này sang thành phố khác để loan báo Đức Kitô, đầy kiên nhẫn chịu đựng nhiều nỗi khốn khó và thái độ không thông cảm của dân chúng: “cho đến giờ này, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ, và lang thang phiêu bạt; thì chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng… Cho đến bây giờ, chúng tôi đã nên như rác rưởi của thế gian, nên như đồ phế thải của mọi người”. Phản ứng của thánh nhân trước tất cả những điều này phát xuất trực tiếp từ Tin Mừng: “Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu; bị vu khống, chúng tôi đem lời an ủi” (1Cr 4,11-13). “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Kitô” (1Cr 9,12).
Thánh Phaolô không bao giờ chán nản, tuyệt vọng: “chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu” (2Cr 4,8-10). Vì luôn mang trên mình những dấu tích của Đức Giêsu (xc. Gl 6,17), nên Thánh nhân luôn “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7,4).
Thánh Phaolô hãnh diện về những khốn khó của mình: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài Thập Giá Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta! Nhờ Thập Giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào Thập Giá đối với tôi và tôi đối với thế gian” (Gl 6,14).
Thánh nhân so sánh mọi khốn khó của mình với cuộc rước khải hoàn của người Rôma, trong đó người thắng trận dẫn những tù nhân như là những nô lệ đến chỗ chết. Thánh nhân nhấn mạnh rằng Đức Kitô cũng xử với ông như vậy (xc. 2Cr 2,14).
Thánh nhân nói với người Côrintô rằng ông là người Thiên Chúa đã đặt “ở chỗ chót”, như Người “mang án tử” trong đấu trường của người Rôma (xc. 1Cr 4,9; X. 2Cr 1,9).
Hy vọng rằng việc kể ra những khốn khó mình đã trải qua không làm nản lòng những độc giả, thánh nhân viết: “tôi xin anh em đừng nản chí khi thấy tôi phải gian truân vì anh em”. Thánh nhân cũng cho họ biết lý do để không được chán nản: những gian truân ấy là “vinh quang của anh em” (Ep 3,13), tức là tôi được hưởng lợi vì ơn cứu độ của anh em. Thánh nhân cũng tạ ơn Chúa vì có cơ hội hiến dâng những đau khổ của mình vì ơn cứu độ người khác: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi nhân ái và là Thiên Chúa hằng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết nâng đỡ những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi. Chúng tôi có phải chịu gian nan, thì đó là để anh em được an ủi và được cứu độ. Chúng tôi có được an ủi thì cũng là để anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên trì chịu đựng cùng những nỗi thống khổ mà chính chúng tôi phải chịu. Chúng tôi lấy làm an tâm về anh em, vì biết rằng anh em thông phần thống khổ với chúng tôi thế nào, thì cũng sẽ được thông phần an ủi như vậy” (2Cr 1,3-7).
Thánh nhân cũng muốn kết hợp chính mình với những đau khổ của Đức Kitô nhân danh người khác: “giờ đây tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).
Chính vì sự kiên nhẫn được thực thi qua bao nhiêu thử thách trong suốt thời gian thi hành tác vụ và trong khi chịu đựng muôn vàn khổ đau, Thánh Phaolô thật xứng danh là vị “Tông Đồ Vĩ Đại”, như người ta vẫn gọi, hay có thể gọi Thánh nhân là “Con Người của Đức Kiên Trì Cao Cả”.
[1] Chú tâm thực hành giáo huấn của Đức Giêsu: Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10,8), thánh Phaolô rao giảng Tin Mừng mà không nhận bất cứ đền bù nào, “không hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho”(Xc. 1Cr 9,13-18;2Cr 11,7-15; 2Cr 12,13-14). Mối bận tâm của thánh nhân là lao động bằng chính đôi tay của mình, và không muốn trở thành gánh nặng cho bất cứ ai, kể cả những người được nghe thánh nhân loan báo Tin Mừng (Xc. Cv 20,33-34; 1Cr 4,12; 2Cr 12, 13-14; 1Tx 2,9; 2Tx 3,8).
[2] Xc. 2Cr 11,22. Trong những đoạn khác nhau, Thánh Phaolô bảo vệ chính mình như là một người Do Thái thực thụ bằng cách kể lại quá khứ của mình (Xc. Rm 11,1; Gl 1,13-14; Pl 3,4-6; Cv 22,3-5; 26,4-5). |
|