|
II. Cầu nguyện
A. Mục đích:
1. Cầu nguyện là việc làm của Đức Tin có mục đích được gặp Thiên Chúa.
2. Được chiêm ngưỡng vinh quang, lòng thương xót, hồng ân của Thiên Chúa.
3. Được trình dâng lên Chúa những nỗi niềm, tình cảm, tâm linh, hoàn cảnh và nội tâm của mình.
4. Ăn năn tội, cầu nguyện những nhu cầu của mình và của người khác.
5. Được cởi mở tấm lòng, mời Chúa ngự vào lòng để Ngài biến hóa con người tầm thường của mình trở nên đền thờ của Ngài, mặc lại bản tính của Ngài vốn đã bị thiếu hụt do tội lỗi trong mỗi người.
B. Cách thực hiện:
1. Người cầu nguyện phải có đức tin của Chúa như Thánh Kinh dạy. Đức Tin khiến người cầu nguyện ý thức rằng mình đang tương giao, đang thưa chuyện, đang thờ phượng Thiên Chúa, là Đấng tối thượng, công bình, đầy ơn, giàu lòng thương xót, là Cha thiêng liêng của mình.
2. Không giới hạn tuổi tác, trừ trẻ em chưa biết nói, không bắt buộc thân thể phải ở vào một tư thế cố định nào cả. Để thân thể thoải mái như quỳ, đứng, ngồi, hay đang đi, đang nằm, miễn là tâm hồn tự do, lòng khẩn nguyện hướng về Chúa.
3. Khi tâm hồn không cố gắng định tâm, nhưng chỉ hướng về Chúa, thì tự nhiên được sự yên tịnh dễ dàng, dù ngoại cảnh có ồn ào cũng khó bị ảnh hưởng. Nhưng cũng có khi vì nhu cầu khẩn thiết, người cầu nguyện tạm thời bỏ qua ăn uống (kiêng ăn) để cầu nguyện.
4. Cần theo đúng Lời Chúa Giêsu Kitô dạy về sự cầu nguyện trong Mathêu 6,1-18.
C. Những trở ngại:
(Sự cầu nguyện không gặp những trở ngại như ngồi thiền).
1. Không có sự trở ngại nào trên thân thể hay tuổi tác, sức khoẻ, trình độ tri thức khi cầu nguyện, nhưng phải có Đức Tin của Chúa. Ngay khi đau yếu hay tuổi già, sự cầu nguyện đến với Chúa vẫn không gặp trở ngại.
2. Khi một người đã phạm tội mà chưa chịu ăn năn từ bỏ, chưa tiếp nhận ơn tha tội của Chúa thì rất khó cầu nguyện. Đây là sự trở ngại về tâm linh.
3. Tâm hồn cầu nguyện với Chúa rất dễ tập trung, vì trong đức tin lúc nào cũng biết chắc có Chúa hiện diện.
D. Kết quả sự cầu nguyện với Thiên Chúa:
1. Kết quả của sự cầu nguyện hoàn toàn khác với thiền định, vì thiền định là hành động tự mình loại bỏ phiền não của mình, tự xem mình như không có (vô ngã) nên nội tâm dễ rơi vào trạng thái hư ảo, hoặc tự kỷ ám thị. Ngược lại, người cầu nguyện với đức tin của Chúa là người biết chắc mình đang cầu nguyện với Thiên Chúa, ý thức rõ ràng mình đang cầu nguyện với Chúa điều gì. Sau mỗi lần cầu nguyện, tâm hồn người tin Chúa cảm nhận lòng tạ ơn Chúa, an tịnh, tin cậy, bình an, hy vọng. Người cầu nguyện cảm nghiệm được sự nhậm lời của Chúa nên thêm lòng tin quyết và kính sợ Chúa để tôn thờ Ngài cũng như yêu mến người lân cận. Người cầu nguyện nhiều là người có mối tương giao mật thiết với Chúa, nên tâm tính họ khiêm hòa, giản dị, mạnh mẽ và khó phạm tội, nhưng dễ thể hiện tình yêu thương và lòng tha thứ.
2. Người cầu nguyện chân thật với đức tin là người có đời sống tâm linh mạnh khỏe, thoát khỏi những phiền phức trần thế dù đang sống giữa trần thế. Sự cầu nguyện trong Chúa không đem lại địa vị tôn giáo, hay địa vị xã hội, nhưng được một điều cao quý thiêng liêng nhất là được thưa chuyện với Thiên Chúa, mở hết tấm lòng mình cho Ngài. Có thể nói rằng con người chúng ta không thể tỏ ra ngay thật với nhau một cách tuyệt đối, nhưng ngược lại, người cầu nguyện với Chúa là người bày tỏ được sự ngay thật với Ngài một cách sâu xa, trọn vẹn nhất. Đây là một kinh nghiệm nội tâm khi được sống trong Chúa Thánh Thần để tiếp xúc với Đấng tối thượng, đầy ơn, yêu thương, giầu lòng tha thứ.
3. Tóm lại, cầu nguyện là hành động của đức tin. Tâm linh con người được tiếp xúc với Thiên Chúa chí ái bằng năng lực Chúa Thánh Thần. Trong cuộc tiếp xúc nầy, Chúa Thánh Thần tỏ bày tình yêu, nâng đỡ, che chở, khích lệ, lắng nghe để giúp con người nói ra tất cả những gì họ cần nói. Đó là những điều sâu kín nhất mà họ không thể nói với ai được, và cũng không ai có thể hiểu hết nỗi lòng của họ như Thiên Chúa vốn hiểu. Trong cuộc tiếp xúc thiêng liêng nầy, họ thốt lên những lời cảm tạ về sự ban cho, sự nuôi nấng, sự dắt dẫn, sự bảo vệ, sự quan phòng mầu nhiệm mà Thiên Chúa đã dành cho riêng họ. Họ cũng tỏ bày những tội lỗi sâu kín, những vết thương lòng sâu sắc để được Ngài tha thứ và được chữa lành. Dù họ là người gian ác đến mấy, nhưng sau khi đã thật sự cầu nguyện ăn năn với Chúa, vẫn được tha thứ, được tái sanh, được nhận sức sống mới.
Người cầu nguyện là người thật sự hạnh phúc, vì đã được vào thế giới thiêng liêng của Chúa để giao cho Ngài mọi sự, nhờ cậy Ngài mọi sự, tin cậy Ngài mọi sự.
Từ thời Cựu Ước cho đến nay, các thánh đồ, các đấng tiên tri, con dân Chúa đã cầu nguyện và đã được Chúa nhậm lời. Khi Chúa Giêsu Kitô giáng thế làm người, Ngài cũng cầu nguyện với Đức Chúa Cha. Ngài dạy cho các môn đồ cầu nguyện. Trong thời Tân Ước, bất cứ ai đã công khai tuyên xưng đức tin trong Chúa Giêsu Kitô đều có kinh nghiệm cầu nguyện và có nhiều kết quả được Chúa nhậm lời rất kỳ diệu.
Kinh Thánh ghi lại kết quả của những gương cầu nguyện như Môise, Anne, Gióp, Ê-li, Ê-li-sê, Ha-ba-cúc, Giê-rê-mi, Nê-hê-mi, Ê-sai, Đa-ni-ên, Vua Đa-vít, vợ chồng thầy tế lễ Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét, cụ già Si-mê-ôn, thầy phó tế Ê-tiên, tông đồ Phao-lô, Gioan, Sa-chê, người thu thuế ăn năn, người mù, một thầy đội, 120 môn đồ trên phòng cao…
E. Sự cầu nguyện không theo đúng Lời Chúa không kết quả:
1. Người cầu nguyện chỉ tin Thiên Chúa như một vị thần hộ mệnh, thần may mắn, và cũng sẵn sàng tin bất cứ "vị thần" nào khác; hoặc cầu nguyện vì động cơ ích kỷ, chỉ muốn cầu điều tốt cho riêng mình để được hơn người khác (Gc 4,3).
2. Người cầu nguyện chỉ tin có Chúa như cách ma quỷ tin (Gc 2,19), chứ không thật sự có Đức Tin theo lời dạy của Thánh Kinh như sau đây:
· Ngài là Đức Chúa Trời tối thượng; ngoài Ngài, không có đức chúa trời nào khác (Is 44,6; 45,5.6.7.14c.18.19).
· Ngài ban Chúa Giêsu Kitô xuống trần chịu chết trên thập tự giá để đền tội cho nhân loại (Ga 3,14-16).
· Ơn tha tội của Ngài là trọn vẹn đối với tấm lòng ăn năn thống hối (Rm 6,10).
· Ngài tái sinh con người bề trong, ban Chúa Thánh Thần cho người tin Ngài để soi sáng, chữa lành, an ủi, thêm sức, dắt dẫn cuộc sống đắc thắng tội lỗi, yêu mến mọi người, mang kết quả nước trời trên đất (Ga 1,12-13; 2Cr 5,17).
3. Người cầu nguyện không có nhu cầu chính đáng để cầu xin, hoặc chưa hết lòng muốn được trình dâng nỗi niềm sâu kín nhất của mình lên cho Chúa, nhưng chỉ thực hiện một lễ nghi tôn giáo (Mt 15,6; Mc 7,6-8).
4. Người cầu nguyện chỉ nói những lời thuộc lòng với bài bản quen thuộc trước đám đông, nhưng không thật sự tỏ ra riêng tư kín nhiệm với Chúa (Mt 6,7).
5. Người cầu nguyện thiếu tương giao mật thiết với Chúa trong cuộc sống thường nhật, chỉ khi đến "nhà thờ" mới bắt chước làm theo người khác, hay khi có nhu cầu bất chợt mới nghĩ đến cầu nguyện với Chúa. Đó là một biểu hiện không thật sự sống với Đức Tin của Chúa.
6. Người cầu nguyện còn dối lòng, còn một loại tội lỗi kín giấu nào đó chưa được xưng ra, hoặc chưa khao khát từ bỏ; còn một tham vọng ích kỷ, bất chính đang giấu trong lòng, hay là một nỗi oán hận chưa chịu buông tha, một thói quen hay trách móc người khác chưa thật sự được đóng đinh vào thập tự giá với Chúa (Gc 4,2). Thiên Chúa không bao giờ đòi hỏi con người phải thánh khiết tuyệt đối, vì Ngài biết rõ bản chất con người vốn là bất toàn, vì đã nhiễm tội lỗi, nhưng Ngài đòi hỏi con người có tấm lòng chân thành tiếp nhận Đức Tin của Ngài, vì ngoài Đức Chúa Trời, không có một đấng nào cao cả thiêng liêng, hiểu thấu lòng người và xứng đáng để con người thờ phượng như Ngài.
7. Người cầu nguyện ở giữa nơi đông đúc, bị cám dỗ bởi ngoại cảnh một cách vô thức (Mt 6,5); hay dùng lời cầu nguyện để chỉ trích, dạy dỗ người khác hơn là trình dâng cho Chúa một nan đề thật sự. (Lc 18,11).
III. Vài kinh nghiệm và ý kiến riêng của người viết:
Ai chưa từng đặt mình vào sự cầu nguyện một cách quen thuộc cần xem lại chính mình để xưng ra với Chúa những khờ dại, những thiếu sót của mình; rằng lòng con lâu nay ít tìm kiếm Chúa. Tâm trí con chưa hiểu đủ về Ngài cũng như về chính con. Con cảm thấy khó nói hết mọi điều trong đáy lòng mình. Lòng con còn những u uất rối reng chưa được giải phóng, xin Chúa ban Thánh Linh Ngài vào lòng con để con được sự soi sáng, được an tịnh, được dắt dẫn… để lòng con được mở ra cho Ngài. Xin Thánh Linh cho con cảm nhận một cách chắc chắn rằng Ngài đang ở với con ngay bây giờ. Lời Chúa dạy rằng ai đến với Ngài dù khờ khạo cũng không lầm lạc, dù bao nhiêu tội lỗi cũng được Ngài tha thứ; xin Chúa cho con cảm nghiệm dòng Máu Thánh của Chúa Giêsu Kitô chảy vào tâm linh con như dòng suối tha thứ mọi tội lỗi của con, chữa lành những vết thương trong tâm hồn và thân thể con để con được kinh nghiệm tình yêu thiên thượng từ nơi Ngài. Xin Ngài nắm lấy con vì con không đủ sức nắm chặt Ngài, cho con được buông mình vào tay Ngài cách tự do như đứa trẻ để con được chiêm ngưỡng, được thờ phượng Ngài ngay trong cõi lòng bé nhỏ của con đây. Cho con nhớ lại biết bao điều oan khuất, lỗi lầm, cố chấp, thù ghét, bất mãn trong con và con xin Ngài đóng đinh các tội lỗi ấy trên thập tự giá của Con Ngài. Xin Chúa xóa bỏ những thương tổn do người khác gây ra cho con mà lâu nay con chưa tha thứ cho họ được. Bây giờ con xin Chúa thể hiện sự tha thứ của Ngài trong lòng con để con được giải phóng ra khỏi sự cố chấp giận hờn, vì lâu nay con khó tha thứ người khác… (Xin đừng học thuộc lòng các lời gợi ý trên để tránh tệ trạng đọc kinh, nhưng hãy tự xem xét lòng mình cần nói với Chúa điều chi ngay khi mình bắt đầu bước vào sự cầu nguyện).
Mỗi lần cầu nguyện cần thưa với Chúa những nhu cầu cụ thể, không phải nói nhiều, không nói miên man quanh quẩn mơ hồ. Nếu chưa nói ra được thì im lặng, thiết tha khẩn nguyện, tìm kiếm ý muốn của Chúa. Không cần kéo dài hay lặp đi lặp lại ý đã cầu nguyện, nhưng lắng lòng với ý thức rõ rệt; biết mình đang thưa với Chúa điều gì. Khi cầu nguyện xong, chỉ cần nghỉ ngơi hay làm việc với tâm tình tạ ơn, tin cậy và chờ đợi xem kết quả công việc Chúa làm trong đời sống thực tế nội tâm và hoàn cảnh của mình. Nên đọc Kinh Thánh thường xuyên, cần đem Lời Chúa vào lòng để mỗi khi có điều chi suy gẫm thì mình có ngay Lời Chúa để làm nền tảng, làm ngọn đèn cho tâm linh. Luôn luôn ý thức rằng thân thể mình là đền thờ Chúa. Chúa Thánh Thần luôn ngự trong thân thể mình mặc dù có khi mình quên Chúa, nhưng Chúa không bao giờ quên mình. Ngay cả khi mình đang sơ ý hay cố tình làm một điều tội lỗi, một điều buồn lòng Chúa Thánh Thần, mình phải biết rằng không bao giờ mình che giấu Chúa được, cần kịp thời thưa với Chúa để được Ngài giải cứu. Bản chất xác thịt của mình vốn là tội lỗi, vì thế mình cần đến với Chúa để được Chúa chăn dắt chứ không cần tự lên án mình và cũng không sợ mình bị ai lên án. Chúa biết hết những gì sâu kín nhất trong nội tâm chúng ta, dù lắm khi chúng ta không biết hết về chính mình, nhưng Chúa chờ đợi cho đến khi chúng ta thật sự cần Ngài lắng nghe, cần Ngài soi sáng, mở mắt, mở lòng; sau đó Chúa sẽ cho chúng ta nhận biết về mình như Ngài đã biết chúng ta (1Cr 13,9-12). Nếu chúng ta không còn nhớ đến Chúa nữa, Ngài vẫn có nhiều cách để cáo trách, nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta. Chúa là Đấng vui lòng ban thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài (Dt 11,6; Gr 29,13).
Chúa biết rằng nhân loại (nói chung), con dân Ngài (chung và riêng) vốn quen xa lìa Chúa, hay lơ đểnh đối với Chúa, nên Ngài ban thử thách, cáo trách, trui rèn, nhắc nhở, thì chúng ta mới trở lại con đường lành đem lòng tìm kiếm Ngài.
IV. Sự khác nhau bề trong và bề ngoài giữa người cầu nguyện và người thiền định:
Người thiền định sửa soạn từ bên ngoài vào bên trong như ăn chay, giữ giới, tập ngồi, tập đếm hơi thở, tập trung ý tưởng để định tâm. Nhưng càng cố gắng định tâm thì tâm càng dễ bị phân tán; một con muỗi bay qua, một nốt ngứa trên da thịt cũng làm cho người ngồi thiền bực bội. Đó là điều mà người cầu nguyện hoàn toàn không bị ảnh hưởng, vì người cầu nguyện làm công việc của Đức Tin từ bên trong ra bên ngoài. Đức Tin nhìn biết Thiên Chúa là Đấng tối thượng mà mình đang được chuyện trò thân thiết. Dù mình trình bày chưa đầy đủ, Ngài cũng hiểu thấu và hiểu hết những ý tưởng mình chưa kịp nói ra. Cầu nguyện xong, người cầu nguyện lấy Đức Tin chờ đợi Chúa trả lời. Đức Tin và sự tỉnh thức làm cho người cầu nguyện định tâm dễ dàng và tự nhiên, dù bên ngoài có ồn ào đến mấy thì sự cầu nguyện vẫn thực hiện được. Bởi Đức Tin mà con người biết chắc và kinh nghiệm sự hiện hữu của Chúa. Bởi đức tin mà con người được Chúa ban năng lực mầu nhiệm để được thưa chuyện với Ngài, tiếp xúc với Ngài là Đấng thiêng liêng, ban phước, an ủi, khích lệ, soi sáng, dắt dẫn, chữa lành (Dt 4,12).
Sự hiện hữu của Thiên Chúa không lệ thuộc vào đức tin nơi con người, nhưng nếu con người không có đức tin thì không thể đến với Ngài. Đức Tin là một sự biết chắc vững vàng vô điều kiện mà lý trí không thể ngăn trở được. Dù chúng ta có Đức Tin hay không có Đức Tin, thì Thiên Chúa vẫn hiện hữu. Nhưng tấm lòng vô tín không bao giờ muốn nhìn biết Thiên Chúa và không có bản tính thích hợp để thiết lập sự giao thông với Ngài. Trái lại, lòng mê tín không thể tin vào Thiên Chúa nhưng lại tin các hình tượng vô tri, tin am miễu tà thần, hoặc tin vào những sự bói toán, xin xăm rất mê muội.
Người thiền định quán tưởng cái vốn có là không có, cái không có thì phải có. Họ tự lực loại bỏ sự phiền toái trong mình, cho rằng vạn vật là không gì cả, kể cả cái tôi của mình cũng không; nhưng thay vào sự quán tưởng về cái "không" ấy, người tu thiền lại quán tưởng một vị Phật hay một đóa sen trước mặt mình, đồng thời cũng quán tưởng rằng không có gì cao siêu, không có gì thấp hèn, không có Phật, không có giác ngộ, không có địa ngục, không có niết bàn…(chơn không diệu hữu). Sự quán tưởng nầy trái với những quan niệm sống thực tế, do đó thiền giả khó tránh khỏi những mâu thuẫn nội tại đưa đến tình trạng tự dối lòng, bất cần, giả hình, loạn trí, nửa điên nửa khùng, nửa mê nửa tỉnh …mà ngôn ngữ thiền gọi là tẩu hỏa nhập ma. Nếu một người ngồi thiền hời hợt cho vui thì khó bị tẩu hoả nhập ma, nhưng ngồi thiền như thế cũng chẳng khác gì không ngồi thiền. Các vị thiền sư không bị tẩu hoả nhập ma, vì thực tế họ không có thời gian ngồi thiền. Họ là thiền sư chứ không phải thiền giả. Họ nắm vững lý thuyết để dạy thiền sinh, để viết sách, để điều khiển cơ sở, tài chánh; để ban pháp thoại, đi đây đó lãnh đạo công việc thiền môn. Từ xưa và đặc biệt là ngày nay, các thiền sư nổi tiếng còn làm cố vấn cho các vua quan và các chế độ chính trị nữa...
Trái lại, người cầu nguyện tin Chúa là Đấng hằng hữu, biết chắc mình đang hiện hữu trước mặt Ngài. Người cầu nguyện tiếp xúc với Ngài, chiêm ngưỡng, thờ phượng Ngài và được tâm giao với Ngài, mở cả cõi lòng mình cho Ngài. Đây là những giây phút cao quý nhất mà tâm linh con người thật sự bước vào thế giới thiêng liêng với Thiên Chúa. Sự hiện hữu của người cầu nguyện với Đấng hằng hữu vô lượng thật là mầu nhiệm, chân thật và sâu nhiệm.
Phật Giáo cũng có nghi thức cầu nguyện, nhưng giáo lý đạo Phật cho rằng Đức Phật không phải là Đấng ban phước hay giáng họa; người tu hành phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, vì thế, sự cầu nguyện của người Phật Giáo là một nghi lễ được tổ chức thêm như một phương tiện; nghi lễ nầy hoàn toàn không xuất phát từ niềm tin chắc chắn mà chỉ là để đáp ứng nhu cầu tâm lý tín ngưỡng. Tâm trạng người Phật Tử lạy lục trước các ảnh tượng Phật, đồng thời họ cũng nhận biết rằng các ảnh tượng ấy do thợ đục đẽo ra từ đất, đá, xi-măng, đồng, chì, gang, thiếc...và họ mua về. Ngược lại, người cầu nguyện với Chúa hoàn toàn cảm nhận rằng Chúa là Đấng vô hình, Ngài là Thần Linh và người cầu nguyện tương giao với Ngài bằng tâm thần thiêng liêng, được Chúa Thánh Thần vui giúp.
Thông thường, những người có tôn giáo bề ngoài nhưng không có đức tin bề trong thì đành phải mượn hình tượng vô tri, hình thức nghi lễ để tượng trưng, hoặc làm vật trung gian. Trái lại, người có đức tin chắc chắn vào sự hiện diện thiêng liêng của Thiên Chúa như Kinh Thánh soi dẫn, thì không thể chấp nhận bất cứ một dụng cụ vật chất nào bên ngoài để thay thế, hay để đại diện sự thiêng liêng bề trong được! Vì sao? Vì trong lòng người cầu nguyện với đức tin luôn luôn có Chúa Thấnh Thần thêm sức, soi sáng, giục giã người cầu nguyện nói lên điều đáng nói; không phải chỉ nói với Chúa một chiều mà còn tha thiết lắng nghe thánh ý của Ngài nữa. Khi người cầu nguyện không thể nói hết điều cần nói, Chúa Thánh Thần giúp sức than thở thay cho người cầu nguyện như kinh nghiệm cuộc sống đức tin của thánh Phaolô (Rm 8,26-27). Để được Chúa Thánh Thần hiện diện trong một người tin Chúa, họ phải xa lìa các hình tượng. Vì con người mang hình ảnh thiêng liêng của Chúa nên không thể quỳ lạy trước các hình tượng vô tri do mình làm ra (Tv 115,4-8; Is 44,9-20; Gr 10,3-5).
Tóm lại, người tu thiền cố gắng hết sức mình để đạt đến sự đại định, nhưng càng cố gắng họ càng khó thành công. Trong khi đó, tín Kitô hữu đem lòng mình đến chuyện trò với Chúa để tâm hồn được an tịnh, yên nghỉ, hưởng phước; và tâm linh được nếm trải mùi vị thiên đàng, là thiên đàng của Chúa chứ không phải loại bình an tự kỷ ám thị như người ngồi thiền thường gọi là "nhất thiết duy tâm tạo=thay thảy do tâm tạo ra".
V. Lòng tin, niềm tin khác hẳn với Đức Tin.
Lòng tin, niềm tin hoàn toàn khác với Đức Tin. Lòng tin hay niềm tin phát xuất từ con người. Con người thường tin điều gì mình thích, mình muốn, hay mình hình dung được. Lòng tin hay niềm tin con người lệ thuộc vào tình cảm, lý trí, ý muốn, tri thức và cả truyền thống văn hóa, tôn giáo cũng như trình độ giáo dục. Mức độ và đối tượng của lòng tin hay niềm tin cũng thay đổi không ngừng theo tình cảm, lý trí, ý muốn và tri thức. Lòng tin hay niềm tin luôn bị lý trí, tri thức và ý muốn gạn lọc, kiểm soát một cách ý thức và vô thức. Không ai không có lòng tin hay niềm tin, kể cả người vô thần cũng là người có lòng tin hay niềm tin, bởi người vô thần tin rằng "không có thần linh" nào cả.
Nhìn khách quan, tâm con người không vô hạn, lòng tin hay niềm tin trong tâm con người cũng không vô hạn. Lòng tin hay niềm tin chủ quan của con người không ảnh hưởng đến chân lý hay thực tế khách quan; ngược lại, nó bóp méo, vo tròn tô mầu một cách chủ quan đối với chân lý khách quan. Từ ngữ Hán Nho của Phật Giáo gọi lòng tin là tín tâm, niềm tin là tín niệm và đặc biệt là tự tín. Từ ngữ "đức tin" không có trong ngôn ngữ Phật Giáo Việt Nam, nhưng sau nầy một số luận sư Phật học dùng từ ngữ "đức tin" theo nghĩa tương tự như "niềm tin, lòng tin". Hoà Thượng Trí Quang trong tập Đại Thừa Khởi Tín Luận cho rằng "Khởi tín đưa ta lên tột đỉnh của sự tự tín, xác quyết rằng chủ tể của ta chính là ta đây." (3). Phật Giáo không tin có Đấng Tạo Hóa toàn năng, nhưng tin rằng khả năng con người là toàn năng và vô tận, con người có thể đạt thành chánh quả để nhìn biết vạn sự từ trước vô cùng đến sau vô tận. Cụm Hán từ "nhất thiết duy tâm tạo" trong kinh điển nhà Phật tiêu biểu cho niềm tin chủ quan nầy. Đức Thích Ca dạy rằng đừng vội tin những gì do truyền thống, sách vở, giáo lý, hoặc bài giảng của bất cứ ai, dù người đó là bậc đáng kính trọng; nhưng hãy tin những gì mà chính mình thấy đúng, thấy thật, thấy ích lợi cho mình, cho tha nhân, cho hiện tại và tương lai (kinh Kalama). Ai nghiên cứu Phật Giáo một cách khách quan, khi đọc Kinh Kalama cũng dùng lời dạy của kinh nầy để đánh giá lại giáo pháp của Đức Phật có đúng hay không rồi mới tin. Nếu giáo lý của Phật là chân lý tuyệt đối, làm sao khả năng hạn hẹp của con người đánh giá đúng? Phật dạy rằng giáo lý Phật chỉ là phương tiện chứ không phải là chân lý; ai đã thành Phật rồi thì đương nhiên là vứt bỏ phương tiện ấy đi. Khả năng hiểu biết của nhân loại từ xưa đến nay vẫn không tuyệt đối trọn vẹn thì làm sao mà đánh giá đúng mức để đạt đến sự tự tin tuyệt đối và tự cho mình là chúa tể tối cao của mình như Khởi Tín Luận và HAT Trí Quang? Thực tế là con người chịu lệ thuộc rất nhiều vào sự sống khách quan vốn đã được dựng nên; còn tệ hơn nữa là con người không đủ khả năng làm điều lành một cách trọn vẹn như chính mình muốn. (Rm 7,19). Vì thế con người cần Đấng tuyệt đối trọn vẹn với Đức Tin của Ngài.
Khác với Giáo lý Phật Giáo vốn chỉ là phương tiện, Kinh Thánh là chân lý, là sự mặc khải thành văn để chỉ dẫn Đức Tin của Thiên Chúa cho nhân loại, vì Thiên Chúa biết rõ khả năng hiểu biết của loài người còn quá ít so với chân lý tuyệt đối vô biên. Thiên Chúa mặc khải Đức Tin của Ngài qua thiên nhiên, qua Thánh Kinh, Luật Pháp và cuối cùng là sự giáng thế của Đức Kitô. Dù lương tâm và trí tuệ của con người không đủ để hiểu hết, nhưng đủ để tin. Thánh Kinh dạy rằng chỉ có Một Thiên Chúa là Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật, là Đấng toàn năng, toàn tri, toàn tại. (St 1,2; Tv 139,1-18; Is 43,44,45). Chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, là Đức Chúa Giêsu Kitô (1Tm 2,5). Chỉ có một Chúa Thánh Linh ban vào lòng người tin Chúa Giêsu để cáo trách tội lỗi, để soi sáng, để tha thứ, chữa lành, thánh hóa, dắt dẫn, thêm sức, trang bị thuộc linh theo ý muốn tốt lành và trọn vẹn của Một Thiên Chúa Ba Ngôi (1Cr 12,4-11). Lời Chúa xác nhận ý tưởng của Ngài là vô lượng cao siêu mà loài người không thể hiểu thấu được (Is 55,8-9), vì thế Ngài ban Đức Tin để mỗi người có thể nhờ Đức Tin mà giao thông với Ngài một cách thiêng liêng và kín nhiệm. Đức Tin là sự ban cho, là món quà Thiên Chúa tặng riêng cho nhân loại. Nhưng nhân loại có tự do tuyệt đối để tiếp nhận hay khước từ Đức Tin của Chúa. Dĩ nhiên nhân loại cũng đã được Ngài ban cho lý trí, lương tâm để ý thức trách nhiệm về thái độ tự do chọn lựa của mình.
Đức Tin của Chúa được mặc khải trong Thánh Kinh, vì thế bất cứ lòng tin hay niềm tin nào không đúng với Thánh Kinh thì dứt khoát không phải là đức tin của Chúa. Khi tiếp nhận Đức Tin của Chúa, tín hữu tin theo Lời Chúa và sự dắt dẫn của Chúa Thánh Thần ứng hiệp với Lời Chúa; chứ không thể tin theo ý tưởng chủ quan của mình. Kinh Thánh là sự mặc khải thành văn của Thiên Chúa, là ngọn đèn soi đường cho đời sống của người có Đức Tin (Tv 119,9.105).
VI. Sự khác nhau rất nền tảng giữa giáo lý Phật Giáo và Thánh Kinh:
Đức Thích Ca dạy rằng tất cả giáo pháp của Ngài chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng chứ không phải mặt trăng. Nghĩa là tất cả giáo lý Phật Giáo chỉ là phương tiện tu chứng chứ không phải là chân lý. Ai đã đạt đạo rồi thì vứt bỏ nó đi, như người đã qua sông thì phải vứt bỏ thuyền. Pháp môn thiền định được xem là pháp môn tu cao nhất của Phật Giáo. Thiền định được áp dụng nhiều cách khác nhau trong hầu hết các tông phái Phật Giáo. Nhưng tất cả các môn phái thiền đều có một điểm giống nhau, ấy là mỗi người tự thắp đuốc lên mà đi, mỗi người tu chứng cho riêng mình, không tu dùm cho ai khác. Mục tiêu rốt ráo của thiền định là để đạt đến sự giác ngộ vô ngã, tức là người tu thiền không còn thấy mình hiện diện nữa, bởi đó, cũng không còn ai ngoài mình để đối đãi nữa: vô năng vô sở = không chủ thể, không đối tượng.
Trong lịch sử Phật Giáo, từ lý thuyết đến thực tế, chưa có một người nào đạt thành chánh quả như Đức Thích Ca. Bởi thế, chưa ai vứt bỏ được giáo lý Phật Giáo, và không ai có thể hiểu được sự thành Phật của Đức Thích Ca là như thế nào, vì chỉ có bậc tu đã thành Phật rồi mới thông hiểu Phật. Một chúng sanh chưa thành Phật thì không thể có đại trí, đại thần thông vi diệu như Phật để hiểu Phật. Theo giáo lý đạo Phật thì tất cả chúng sanh (người cũng như hết thảy mọi sinh vật trong sáu loài luân hồi như ngạ quỷ, súc sanh) đều có khả năng thành Phật. "Phật là chúng sanh đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành", đó là câu kinh nền tảng để hiểu giáo lý nầy.
Ngược lại, Kinh Thánh dạy rằng Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, là Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật; nhân loại là loài thọ tạo duy nhất được mang hình ảnh của Thiên Chúa và có sự sống thiêng liêng vĩnh cửu. Từ khi nhân loại bị Sa-tan cám dỗ để sa vào tội lỗi (St 1,1-13). Sau khi phạm tội, con người bại hoại (St 6,5.11-12). Con người kiêu ngạo (St 11,3-4). Lòng người gian ác xấu xa hơn mọi vật (Gr 17,9). Con người vốn biển lận, bội nghịch (Gr 3,20). Lòng người ra ngu dại, suy đồi (Tv 14,1;53,1). Tội lỗi trong loài người càng ngày càng gia tăng (Mt 24,12). Nhưng con người là loài thiêng liêng, được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được Ngài ban cho sự khôn ngoan để quản trị tất cả các loài khác (St 2,26-27). Thiên Chúa hứa ban Chúa Cứu Thế xuống trần để cứu chuộc loài người ra khỏi tội lỗi (Is 9,5-6). Khi con người đem lòng ăn năn trở về tin nhận Chúa Cứu Thế Giêsu Kitô thì nhận được ơn tha tội, được trở lại địa vị làm con Thiên Chúa, được tái sinh (Ga 1,12-13), được cứu ra khỏi sự hư mất đời đời (Ga 3,16), được ra khỏi sự đoán phạt (Rm14,1), được nên thánh, được đổi mới và mặc lấy người mới (1Cr 5,17; Ep 4,24), được dùng thân thể mình để làm đền thờ Thiên Chúa (1Cr 3,16; 6,19), được sống với Chúa vĩnh viễn trên thiên đàng sau khi qua đời (Kh 22,1-5).
Sự cầu nguyện không chỉ thực hiện khi người tin Chúa cầu nguyện riêng với Ngài, nhưng còn có thể thực hiện một cách tự nhiên trong cuộc sống qua mọi hoàn cảnh. Khi ăn, ngủ, chuyện trò, đi lại, làm việc, lái xe, ở cơ quan, ở nhà, trong rừng, trên biển cả, lúc thanh bình hay giữa vòng chiến cuộc… người tin Chúa biết rằng Chúa đang ở với mình và mình có thể nói với Chúa bất cứ điều gì mà tâm hồn mình muốn nói. Đây là mối giao thông tuyệt vời trong cuộc sống đức tin của Kitô hữu với Thiên Chúa thiêng liêng. Bất cứ ai có Đức Tin, có lòng yêu kính Chúa, có Lời Chúa, có kinh nghiệm hồng ân cứu rỗi của Chúa đều có thể sống trong sự hiện diện của Ngài ở bất cứ hoàn cảnh nào, ở bất cứ lúc nào trừ khi người ấy biết mình đang cố tình phạm tội. Và dù cố tình hay vô tình phạm tội, người ấy cũng không trốn đi đâu xa mắt Chúa được. Cho nên một tấm lòng yêu kính Chúa được Lời Chúa ghi tạc vào, thì tấm lòng ấy sở đắc mối tương thân với Chúa để tâm hồn được an vui hoan lạc như tình Cha con khắng khít mà thiền định không thể có được.
VII. Chức vụ cầu thay.
Như đã đề cập phần trước, người phật tử có nghi lễ cầu nguyện cho mình và cho người khác, nhưng rất chung chung, không phát xuất từ niềm tin tuyệt đối. Trái lại, người tin Chúa xem sự cầu nguyện là đỉnh cao nhất của đời sống làm con Thiên Chúa. Chẳng những cầu nguyện cho mình mà còn nghĩa vụ thiêng liêng cầu nguyện cho người khác. Đó là chức vụ cầu thay (interceding). Như Môi-se cầu xin Chúa tha tội cho dân Iserael trong đồng vắng. (Xh 5,22-23; 32,30-33). Chúa Giêsu Kitô ngồi bên hữu Thiên Chúa cầu thay cho con dân Ngài đang ở giữa thế gian (Rm 8,34).
Sự cầu thay đòi hỏi người cầu nguyện quên mình và đặt mình vào vị trí, vào cảnh huống của người mà mình đang cầu thay. Ví dụ cầu nguyện cho một người mắc bịnh nan y, cầu nguyện cho một người đang lâm vào hoàn cảnh tội lỗi, lạc lầm, cầu nguyện cho dân tộc, cho đồng bào… đều phải xem những nan đề của họ, vị thế của họ, bịnh tật của họ, đau khổ của họ như là của chính mình. Tâm thần người cầu nguyện mang những nan đề ấy mà trình dâng cho Chúa, chứ không chỉ nói suông bằng lời. Đây là sự cầu nguyện cao nhất. Ví dụ cầu thay cho một người đang sa vào cạm bẫy tội lỗi; người cầu nguyện xem tội lỗi của anh ta đang phạm như là tội lỗi của chính mình và khao khát một tấm lòng ăn năn từ bỏ tội lỗi một cách thiết tha đến nỗi sự ăn năn tha thiết nầy cảm động đến Chúa Thnáh Thần, vì chỉ có Chúa Thánh Thần cảm động thì người phạm tội ấy mới thật sự ăn năn từ bỏ để thoát khỏi vũng lầy tội lỗi. Nếu không có năng lực Chúa Thánh Thần với tâm tình Chúa Giêsu Kitô thì không ai có thể thực hiện sự cầu thay đúng nghĩa được. Vì thế Chúa Giêsu Kitô dạy: "Ngoài ta ra các ngươi không làm chi được" (xem Ga 15,5-11). Còn thánh Phao-lô nói "Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi" (Pl 4,13).
Tôi đang ở Đông Berlin, nơi mà con dân nước Việt đang sa vào nhiều thứ tội lỗi khủng khiếp, nhưng trong cảnh trạng nầy có một số người ăn năn trở về tin nhận Chúa. Sau khi gặp được tình yêu kỳ diệu của Chúa, họ nhớ đến người thân ở quê nhà. Thay vì tiếp tục phạm tội để kiếm tiền gởi về nuôi thân nhân, họ đã cầu nguyện cho thân nhân của họ. Họ xin Chúa cảm động người thân của họ ở quê nhà đặt lòng ưu tiên tìm biết Chúa trước và tìm vật chất sau như Lời Chúa dạy trong Mathêu 6,31-34. Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của họ. Những thân nhân của họ gặp người tin Chúa đến làm chứng và kêu gọi họ tuyên xưng đức tin của Chúa Giêsu Kitô tại quê nhà.
Chức vụ cầu thay là rất quan trọng và rất phước hạnh. Bản thân tôi sau khi rời khỏi quê hương vì sự bắt bớ đức tin. Phải xa người cha trên 80 tuổi mới tiếp nhận Đức Tin của Chúa, tôi chỉ biết cầu nguyện cho ba tôi ở quê nhà. Những ngày cuối cùng của tuổi già, ba tôi yếu và lẫn. Ba tôi đau khổ bởi những đứa con không tin Chúa đã bắt bớ đức tin của chúng tôi. Họ đánh đập và làm nhục tôi trước mặt ba tôi để dằn mặt ông cụ. Họ tách rời ba tôi khỏi sự chăm sóc của tôi để ba tôi bỏ Chúa. Nhưng khi ba tôi bị lẫn, miệng luôn luôn nhắc đến Chúa và hỏi thăm về tôi. Có khi ba tôi vui mừng nghĩ rằng tôi sẽ về thăm ông cụ. Trong sự vui mừng nầy, ba tôi đã trút hơi thở cuối cùng rất bình an. Khi phải rời bỏ quê hương và xa cách cha già, tôi chỉ biết cầu nguyện với Chúa. Ngài đã làm cho ba tôi cảm thấy gần tôi, đứa con cùng có Đức Tin trong Chúa như ông, và khiến ông vui mừng nhắc nhở về tôi cho đến khi nhắm mắt. Tất cả anh chị em ruột thịt của tôi đều phải công nhận rằng hoàn cảnh họ gây ra đã bắt buộc tôi xa ba tôi, nhưng Chúa không để cho ba tôi xa tôi cho đến khi thân thể ông cụ trút hơi thở cuối cùng để linh hồn được về với Chúa. Tôi còn nhiều bằng chứng của kết quả cầu thay, nhưng bài viết nầy đã quá dài!
Nếu không có Thiên Chúa thật, thì chắc chắn người tin Ngài không thể được tái sinh, không thể được đổi mới, và sự cầu nguyện của Kitô hữu chỉ là vô nghĩa. Riêng quyền lực Sa-tan thì chỉ làm hại con người và đem con người vào sự cám dỗ với tội lỗi. Các bậc vĩ nhân như Đức Thích Ca, Khổng tử, Lão Tử, Mohamet, Suzuki, Nhất Hạnh, Thanh Hải Vô Thượng Sư… đều là người thọ tạo, được sanh ra với máu cha thịt mẹ như chúng ta, họ lớn lên, già, bịnh và chết như chúng ta, họ cũng có tội như chúng ta, vì thế họ không phải là "những đấng" siêu nhiên như Thiên Chúa, họ không thể hiểu hết tất cả những mầu nhiệm, huyền vi của vạn vật. Lời Chúa cho nhân loại biết rằng mọi sự bí mật thuộc về Thiên Chúa, nhưng những sự bày tỏ thì Ngài ban cho chúng ta và con cháu chúng ta đời đời, để chúng ta làm theo Lời Ngài đã phán dạy. (Đnl 29,29). Ai thật lòng tiếp nhận Đức Tin của Ngài trong Đức Chúa Giêsu Kitô, thì mới nhận được sự bày tỏ của Chúa Thánh Thần.
Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. Ngài dựng nên con người; dù con người khước từ Ngài, hoặc tự nhận rằng mình đã tu thành Phật, thì con người vốn cũng đã được Thiên Chúa dựng nên trong máu cha thịt mẹ giống như mọi người. Kinh thánh dạy rằng con người chỉ thờ phượng Thiên Chúa là Đấng dựng nên vạn vật và tổ tiên nhân loại. Giữa con người với nhau là bình đẳng, không nhất thiết phải thờ phượng nhau, nhưng trên hết và trước hết là tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công bình của Ngài, nhiên hậu sẽ được Ngài ban thêm cho chúng ta mọi điều khác nữa như lời Chúa Giêsu Kitôt phán được ghi lại trong sách Mathêu 6,33.
Berlin lập thu 2007
Joshua Huệ Nhật Nguyễn
Trích www.nguoitinhuu.com
--------------------------------
(1) Diễn đàn Báo Làng, Sacramento, tháng 11, năm 2001.
(2) Living Buddha, Living Christ – Thích Nhất Hạnh, Paris 1999.
(3) Khởi Tín Luận, trang 9, nxb tp Hồ Chí Minh-1994
(4) Xin xem The Discovery of Genesis – How the Truth of Genesis were found Hidden in the Chinese Language, tác giả C.H Kang và Ethel R. Nelson, nhà xuất bản CONCORDIA / SAINT LOUIS |
|